LờI Mở ĐầU
Dân tộc Việt Nam sớm hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước. Với truyền thống đoàn kết, ý chí kiên cường bất khuất, Dân tộc Việt Nam đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử dựng nước và giữ nước, đã chiến thắng bao kẻ thù xâm lược lớn mạnh.
Từ đầu thế kỉ XIX, trong quá trình đi xâm lấn, mở rộng thuộc địa, tư bản phương Tây đã để ý tới nước ta. Năm 1958, đế quốc Pháp nổ súng xâm lược nước ta,Triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước Pa-Tơ -Nốt, hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc phá
25 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1959 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Cách mạng tháng 8/1945 thắng lợi, dân tộc Việt Nam bước vào 1 kỷ nguyên mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p.Từ đó chúng ta là thuộc địa của chúng, cũng kể từ đó nhân dân ta chịu đựng bao đau khổ, lầm than dưới sự bóc lột tận cùng của thực dân Pháp đã làm hằn sâu trong tiềm thức mỗi người Việt Nam ý chí kiên cường.
Bằng sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã có đội Tiên phong, bộ tham mưu cầm ngọn cờ lãnh đạo đã dẫn dắt nhân dân Viêt Nam tiến hành cuộc cách mạng Tháng Tám.
Cách mạng tháng Tám là một sự kiện lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam, nó đã phá tan hai tầng xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp kéo dài hơn 80 năm và của phát xít Nhật đồng thời nó còn lật đổ chế độ Phong kiến tồn tại ngót ngàn năm trên đất nước ta.
Khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đưa nước ta từ một dân tộc nô lệ, bị áp bức bóc lột trở thành một đất nước dành độc lập, có chủ quyền. Từ một nước không có tên trong bản đồ thế giới nay có thể tự hào với thế giới về đất nước mình.
Cuộc cách mạng Tháng Tám mở ra cho dân tộc Việt Nam một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Để hiểu sâu sắc về cuộc cách mạng tháng Tám 1945, và sự lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam, em xin chọn đề tài “Cách Mạng Tháng Tám 1945 Thắng Lợi, Dân Tộc Việt Nam Bước Vào Một kỷ Nguyên Mới” .
Chương I
Quá trình chUẩN bị và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng tháng tám 1945
I > ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng tháng tám 1945:
- Từ khi trở thành thuộc địa của thực dân pháp, Việt Nam từ một xã hội phong kiến độc lập đã trở thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, kể từ đó nhân dân ta bị đàn áp và bóc lột đến tận xương tuỷ, làm cho đất nước Việt Nam mất hết độc lập chủ quyền, nhân dân Việt Nam mất hết tự do dân chủ, xã hội Việt Nam bị kìm hãm không thể phát trển được. Từ đó đòi hỏi phải xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc thực dân gắn liền với việc xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến. Bởi vậy thắng lợi của cuộc cách mạng tháng tám 1945 thành công đã để lại ý nghĩa lịch sử to lớn đó là :
Cách mạng tháng tám thắng lơị đã phát huy và làm rạng rỡ truyền thống lịch sử kiên cường bất khuất bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta
cách mạng tháng Tám 1945 là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo trong đó nổi bật lên tính chất giải phóng dân tộc .
Đó là một cuộc cách mạng điển hình về tinh thần chủ động sáng tạo, biết tranh thủ thời cơ chung, tự mình đứng lên giải phóng cho mình, không đợi chờ ỷ lại vào người khác .
Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam: Chấm dứt hơn 80 năm thống trị cuả thực dân Pháp và lật nhào chế độ phong kiến tồn tại hơn một ngàn năm trên đất nước ta, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam á, đưa dân tộc ta bước vào một kỉ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi đẫ phát huy và làm rạng rỡ thêm truyền thống kiên cường bất khuất, anh dũng sáng tạo và đoàn kết nhất chí của dân tộc Việt Nam . Từ đây nước ta lại có độc lập chủ quyền, dân ta thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than ,được làm chủ vận mệnh của mình. Từ đây nhân dân ta có quỳên trong tay, có thêm điều kiện cơ bản để tiếp tục đưa cách mạng tiến lên . Giành nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám 1945 còn có ý nghĩa lịch sử to lớn. Đó là thắng lợi của chủ nghĩa Mác -Lê Nin trong một nước thuộc địa nửa phong kiến. Lần đầu tiên chọc thủng một mảng quan trọng của chủ nghĩa đế quốc ở khâu yếu nhất, mở đầu thời kì sụp đổ và tan rã không cách gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
II. Quá trình chuẩn bị cho cuộc cách mạng tháng tám năm 1945:
.cao trào cách mạng 1930 –1931 và xô viết nghệ tĩnh:
Cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng nổ không phải là hiện tượng tự nhiên, mà là kết quả tất yếu của những điều kiện khách quan và chủ quan trong đời sống xã hội của nước ta.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã chấm dứt thời kỳ ổn định của chủ nghĩa tư bản, gây nhiều khó khăn cho chủ nghĩa tư bản, vì vậy chúng chút gánh nặng cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở các quốc gia và các thuộc địa, tình hình nói trên là nguyên nhân chính và trực tiếp của phong trào đấu tranh cách mạng sôi nổi trên thế giới.
Việt Nam là thuộc địa của Pháp, khủng hoảng kinh tế thế giới và ở chính nước Pháp đã ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Nước pháp bị khủng hoảng kinh tế muộn hơn các nước tư bản khác trên thế giới nhưng lại bị sụp đổ nhanh chóng và ngiêm trọng, bởi vậy chúng đã trút tất cả gánh nặng lên giai cấp cồng nhân và nhân dân lao động Pháp và các nước thuộc địa trong đó có Việt Nam. Bọn thống trị Pháp ra sứ bóc lột nhân dân ta làm cho đời sống nhân dân bị đe doạ, điều kiện sống vô cùng khổ cực từ đó đã thúc đẩy nhân dân ta, vùng dậy đấu tranh chống đế quốc và phong kiến.
Việc Đảng ra đời là nhân tố quyết định và là nguyên nhân trực tiếp nổ ra cao trào cách mạng 1930-1931, Dưới sự lãnh đạo của đảng, tháng 4-1930 nhiều cuộc bãi công của công nhân đã nổ ra, phong trào đấu tranh của nông dân cũng lan rộng ở nhiều tỉnh, Phong trào thật sự lớn mạnh bắt đầu từ ngày1-5, từ nhiều thành phố đến nông thôn trên cả nước đã xuất hiện nhiều truyền đơn, treo cờ đảng, mít tinh, biểu tình, bãi công. Đặc biệt ở Nghệ An và Hà Tĩnh, lực lượng cách mạng ở nhiều huyện xã đã tự đứng ra quản lý lấy đời sống của mình, đó là một kiểu chính quyền cách mạng của nhân dân theo hình thức Xô Viết.
Cao trào cách mạng 1930-1931 đã khẳng định đường lối cách mạng của Đảng ta đề ra là đúng đắn, nó đã được quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ.
Nó khẳng định trong thức tế quyền lãnh đạo và năng lực của cách mạng, của giai cấp công nhân mà đại biểu là Đảng ta.
Cao trào cách mạng 1930-1931 và phong trào Xô Viết-Nghệ Tĩnh nổ ra là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng Việt Nam để tiến hành giành chính quyền trong cả nước. Cao trào đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm bước đầu về cách mạng. Đó là bài học về kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, về việc kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân.
2. Cao trào dân chủ đông dương 1936-1939:
2.1> hoàn cảnh kịch sử :
Trên thế giới, chủ nghĩa phát xít – một nền chuyên chính độc tài nhất, tàn bạo nhất, hiếu chiến và sô vanh nhất của bọn tư bản tài chính phản động đã ra đời ở một số nước và có nguy cơ nổ ra chiến tranh phát xít trên phạm vi thế giới .
Trước tình hình đó, “Quốc tế cộng sản họp lần thứ IV ”(tháng 7-1935) chống lại nguy cơ phát xít trên thế giới. Quốc tế cộng sản đã phân tích tình hình thế giới và đi đến kết luận :
Kẻ thù nguy hiểm trước mắt lúc này là bọn phát xít, nhiệm vụ chủ yếu lúc này là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh, giành dân chủ và hoà bình
Khi đó ở Việt Nam, bọn cầm quyền tay chân của bọn phát xít Pháp ra sức khủng bố, đàn áp, bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ, tình hình đó làm cho nhân dân bao gồm nhiều giai cấp và tầng lớp tuy có quyền lợi khác nhau nhưng đều căm thù sâu sắc bọn thực dân, tư bản độc quyền Pháp và đều có nguyện vọng chung trước mắt về những quyền lợi dân sinh, dân chủ. Cũng trong giai đoạn này phong trào cách mạng đã được phục hồi sau thời kỳ khủng bố tàn bạo của kẻ thù. Các cơ sở đảng và cơ sở quần chúng đã dược khôi phục, phát triển và đẩy mạnh hoạt động.
2.2> Sự lãnh đạo của đảng:
Tháng 7 năm 1936, Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng đã họp ở Thượng Hải (Trung Quốc) do đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì. Hội nghị nhận định: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền (chống đế quốc, chống phong kiến để dành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho nông dân ) không hề thay đổi, nhưng chưa phải là nhiệm vụ trực tiếp trong lúc này. Yêu cầu cấp thiết trước mắt của quần chúng nhân dân lúc này là tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Do đó, Đảng phải lãnh đạo thành lập mặt trận Dân chủ rộng rãi, bao gồm các giai cấp, các tôn giáo, các đảng phái. Các đoàn thể chính trị … tập trung chống kẻ thù cụ thể, trực tiếp trước mắt là chủ nghĩa phát xít và bọn phản động thuộc địa để bảo vệ hoà bình, đòi thực hiện tự do, dân chủ, cải thiện đời sống cho nhân dân.
2.3> Hình thức và phương thức đấu tranh :
Phải triệt để lợi dụng những khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp để tuyên truyền, tổ chức quần chúng đồng thời củng cố và phát triển các tổ chức bí mật của đảng. Kết hợp với những hoạt động công khai hợp pháp với hoạt động không hợp pháp, làm cho Đảng liên hệ chặt chẽ với đông đảo quần chúng và tổ chức họ ra đấu tranh để dành chính quyền dân chủ. Như vậy, những vấn đề Đảng nêu ra là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tiễn lúc đó, nhờ đó mà phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển sôi nổi, rộng khắp và trở thành cao trào cách mạng.
2.4 > ý nghĩa lịch sử và thành quả của phong trào :
Cao trào dân chủ 1936-1939, có thể coi như cuộc tổng diến tập lần thứ hai của cách mạng Việt Nam, chuẩn bị cho thắng lợi của cách mạng tháng tám 1945 bởi vì:
Cao trào dân chủ 1936-1939, nói lên sức sống mãnh liệt của Đảng và của nhân dân ta, sau thời kỳ thoái trào, sau đợt khủng bố tàn bạo của kẻ thù đã nhanh chóng khôi phục được lực lượng và phát triển được phong trào trên quy mô lớn .
Cao trào dân chủ 1936-1939, do Đảng lãnh đạo đã đem lại cho nhân dân ta những thắng lợi cụ thể nhất định, đã buộc giai cấp thống trị phải thực hiện ít nhiều quyền tự do, dân chủ và cải thiện đời sống cho nhân dân. Đây là điều hiếm có trong các thuộc địa đế quốc. Qua thắng lợi đó đã làm cho nhân dân ta tin tưởng và đoàn kết dưới ngọn cờ lãnh đạo của đảng. Nếu cao trào1930-1931, chủ yếu là phong trào của quần chúng công nông, thì cao trào dân chủ 1936-1939, là cao trào cách mạng của đông đảo các lớp quần chúng tham gia, trong đó công nông là cơ sở, với nhiều hình thức hoạt động, đấu tranh phong phú .
3 - Cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945:
3.1> Hoàn cảnh lịch sử :
Ngày 1-9-1939 chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra, đế quốc Pháp là một nước tham chiến nên Việt Nam là thuộc địa của Pháp cũng bị đẩy vào vòng khói lửa. Để phục vụ chiến tranh, đế quốc Pháp đã thi hành chính sách thời chiến, tăng cường áp bức bóc lột, thủ tiêu các quyền dân sinh, dân chủ. Bắt thanh niên đi lính làm bia đỡ đạn cho chúng. Tất cả các giai cấp, mọi từng lớp trong xã hội Việt Nam đều bị ảnh hưởng tai hại của chính sách kinh tế, chính trị, quân sự nói trên. Họ vô cùng căm phẫn và kiên quyết đấu tranh để bảo vệ quyền sống của mình.
3.2> Sự lãnh đạo của đảng
Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, trung ương Đảng đã kịp thời chỉ đạo cho các tổ chức Đảng và quần chúng nhanh chóng rút vào
hoạt động bí mật, chuyển hướng hoạt động vê nông thôn, tránh sự đàn áp khủng bố của kẻ thù.
Trước tình đó trung ương Đảng đã họp hội nghị lần thứ VI (tháng 11 năm 1939) đã điều chỉnh chiến lược cách mạng với nội dung:
Đặt nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc lên hàng đầu .
Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thu hút tất cả các dân tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo và các cá nhân yêu nước ở Đông Dương nhằm đánh đổ đế quốc và tay sai, dành độc lập hoàn toàn cho các dân tộc ở Đông Dương.
Tháng 11 năm 1940, Hội nghị trung ương Đảng lần thứ VII đã họp ở
Bình Bảng (Từ Sơn,Bắc Ninh), khẳng định chủ trương của Đảng lần thứ VI là đúng, cũng trong hội nghị này đã cử đồng chí Trường Trinh làm bí thư trung ương Đảng lâm thời.
Tháng 2 năm 1941 lãnh tụ Nguyễn ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam .
Tháng 5 năm 1941, Hội nghị trung ương Đảng lần thứ VIII đã họp tại
Pắc Pó (Cao Bằng ). Do lãnh tụ Nguyễn ái Quốc trực tiếp chủ trì. Trong hội nghị này đã cụ thể hóa và hoàn thiện thêm một bước đường lối giải phóng dân tộc của cách mạng Việt Nam :
Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trên khuôn khổ mỗi nước Đông Dương:
Chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất đất nước. ở Việt Nam thành lập tổ chức Việt Nam Độc lập đồng minh, gọi tắt là mặt trận Việt Minh bao gồm các đoàn thể cứu quốc trên cả nước:
Nhấn mạnh công tác chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân và dự kiến một số đường lối chính sách khi Tổng khởi nghĩa dành thắng lợi .
Tháng 8-1942, lãnh tụ Nghuyễn ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh với danh nghĩa là đại diện của Việt Minh lên đường đi Trung Quốc để liên hệ tham gia đồng minh quốc tế chống phát xít và vận động những người yêu nước ở nước ngoài tham gia cách mạng. Năm 1943, bản “Đề Cương Văn Hoá Việt Nam ” của Đảng được công bố có tác dụng lớn trong việc lôi cuốn các tầng lớp tri thức, văn nghệ sĩ tham gia vào phong trào cách mạng của toàn cầu.
Được sự giúp đỡ của Đảng Cộng Sản Đông Dương, tháng 6-1944, Đảng Dân Chủ Việt Nam – một chính đảng cách mạng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản tri thức yêu nước, tiến bộ đã ra đời. Đảng Dân Chủ Việt Nam ra đời và tham gia vào mặt trận Vịêt Minh làm cho mặt trận dân tộc thống nhất ngày càng sâu rộng .
Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân được thành lập tại Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng do đồng chí Võ Nguyên Giáp lãnh đạo. Đội du kích Bắc Sơn đã phát triển thành Cứu Quốc Quân do Chu Văn Tấn chỉ huy.
Như vậy, ngoài lực lượng chính trị rộng lớn là mặt trận Việt Minh lực lượng vũ trang cách mạng và căn cứ địa cách mạng cũng không ngừng phát triển mạnh mẽ. Cả nước đâu đâu cũng có sự chuẩn bị cho phong trào đấu tranh .Qua các cao trào của các cuộc cách mạng tiền thân mà Đảng ta đã có nhiều kinh nghiệm cũng như sự chuẩn bị lực lượng, có đường lối đúng đắn từng bước củng cố lực lượng chuẩn bị cho cuộc cách mạng tháng Tám dành thắng lợi.
Chương II
đảng lãnh đạo thắng lợi cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 năm 1945 và bài học kinh nghiệm
I > Đảng phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, dự kiến thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền.
Từ đầu năm 1945, cuộc chiến tranh thế giới bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô đã quét sạch quân phát xít Đức ra khỏi lãnh thổ của mình, giải phóng nhiều nước ở Đông Âu và đang tiến nhanh về phía Béc- Lin. ở Tây Âu, Anh, Mỹ đã mở mặt trận thứ hai vào nước Pháp và tiến về phía Tây Đức. ở Thái Bình Dương, Nhật bị Anh-Mỹ đuổi ra khỏi miến Điện và Phi Líp Pin. Nhật lo sợ quân đồng minh sẽ đổ bộ lên Đông Dương, cắt quân Nhật trên lục địa Viễn Đông thành hai khúc, trong khi đó quân Pháp ở Đông Dương hoạt động ráo riết chuẩn bị đánh Nhật, khôi phục quyền thống trị ở đây. Trước tình hình đó buộc quân Nhật phải tiến hành đảo chính lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương, đề phòng quân Pháp đánh sau lưng.
Đêm 9-3-1945, Nhật đã đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương và trừ mối hậu hoạ bị quân Pháp đánh sau lưng khi quân Đồng Minh đổ bộ vào Đông Dương .
Giữa lúc tiếng súng Nhật đảo chính Pháp đang nổ ra, Ban Thườngvụ Trung ương Đảng đã họp tại Bình Bảng (Từ Sơn, bắc Ninh), đánh giá tình hình và ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị vạch rõ :
Cuộc đảo chính Nhật –Pháp làm cho các điều kiện khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi.
Kẻ thù chính, cụ thể trước mắt của nhân dân Đông Dương lúc này là phát xít Nhật.
Nhanh chóng phát động cao trào phát động chống Nhật, cứu nước với các hình thức đấu tranh chính trị, vũ trang, kinh tế, văn hoá, tuyên truyền.Thực hiện khởi nghĩa từng phần, giành chính quền từng bộ phận, chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới tổng khởi nghĩa .
Dự kiến các thời cơ có thể nổi dậy Tổng khởi nghĩa dành chính quyền đó là khi quân Đồng Minh đổ bộ và đứng vững trên đất Đông Dương ..,hoặc khi Nhật đẩu hàng Đồng Minh như Pháp đầu hàng Đức năm 1940,.. cũng có thể là cách mạng nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập..Tuy nhiên không được ỷ lại vào khách quan mà phải tăng cường nỗ lực chủ quan, dựa vào sức mình là chính.
Do bọn phát xít Nhật thẳng tay vơ vét bóc lột, đã gây ra một nạn đói khủng khiếp đã cướp đi gần hai triệu mạng người của đồng bào ta. Xuất phát từ lợi ích của quần chúng. Đảng đã kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho Thóc để cứu đói ”. Khẩu hiệu đó đã lôi kéo hàng triệu quần chúng, nhất là nông dân đứng lên chống Nhật, giành lấy chính quyền về tay nông dân.
II > Đảng lãnh đạo toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quỳên, đưa cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 đến thắng lợi :
Từ giữa tháng3-1945, cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng trở thành cao trào. Trong cao trào đó nổi lên những nét lớn sau:
Chiến tranh du kích lan rộng ra toàn quốc .
Khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương, nhiều căn cứ địa rộng lớn ra đời, khu giải phóng được thành lập.
Phá kho thóc của giặc Nhật, giải quyết nạn đói, đồng thời hình thành phong trào cách mạng quần chúng rộng lớn.
Phát động chiến tranh du kích, khởi nghĩa từng phần giành chính quyền bộ phận, mở rộng căn cứa địa cách mạng, thành lập chính quyền địa phương là nét điển hình và sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo và tổ chức lực lượng tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở nước thuộc địa nửa phong kiến như nước ta.
Đến giữa tháng 8-1945, cách mạng đã có ưu thế lực lượng rộng rãi ở cả nông thôn và đô thị, bao gồm cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Khắp nơi, quần chúng nô nức tự vũ trang và hừng hực khí thế bước sang ngưỡng cửa tổng khởi nghĩa .
Chính phủ Nhật đã đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng Minh vô điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương bị tê liệt hoàn toàn, chính phủ tay sai Trần Trọng Kim hoang mang cực độ .
Trước tình hình đó. Hội nghị toàn quốc của Đảng cộng sản Đông Dương và Hồ Chủ Tịch đã họp ở Tân Trào từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 đã khẳng định thời cơ tốt đã đến cho ta giành chính quyền độc lập đã tới. Đảng chủ trương nhanh chóng phát động toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa, quyết tâm giành lấy chính quyền từ tay phát xít Nhật. Trước khi quân đồng minh vào Đông Dương. Sau đó, đứng trên tư cách chủ nhân của một nước đã được giải phóng, có chủ quyền quốc gia độc lập ra đón quân Đồng Minh vào tước vũ khí quân đội Nhật, Hội nghị cũng ra quyết định một loạt chủ trương , biện pháp, kế hoạch tiến hành Tổng khởi nghĩa và các việc phải làm sau khi Tổng khởi nghĩa giành được thắng lợi.
Để làm cho chủ trương, đường lối chủ trương của Đảng trở thành ý chí, nguyện vọng và biến thành cách mạng của đông đảo quần chúng nhân dân, Đảng đã triệu tập Đại hội Quốc Dân tại Tân Trào (Tuyên Quang ) như một Đại Hội Diên Hồng của dân tộc ta trong thời đại mới .
Đại hội quốc dân họp từ ngày 16 đến ngày17 thang 8 năm 1945, bao gồm đại biểu các dân tộc, các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo, các từng lớp nhân dân già trẻ, trai gái …Đại hội đã nhất chí với chủ trương và kế hoạch Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng Sản Đông Dương . Đại hội nêu cao quyết tâm động viên toàn nhân dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chínhh quyền về tay nhân dân. Đại hội đã cử ra uỷ ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm chủ tịch để lãnh đạo Tổng khởi nghĩa và dự kiến Uỷ ban Dân tộc giải phóng sẽ chuyển thành Chính Phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khởi nghĩa dành thắng lợi .
Tin phát xít Nhật đầu hàng lan chuyền nhanh chóng khắp nước. Mệnh lệnh khởi nghĩa của Uỷ Ban Dân Tộc giải phóng và lời kêu gọi cả nước đứng lên tổng khởi nghĩa của Chủ Tịch Hồ Chí Minh vang khắp đất nước Các địa phương : Tuyên Quang (14-8), Hà Nội (19-8), Huế(23-8), Sài Gòn(25-8) khởi nghĩa thắng lợi đã có tác dụng rất lớn thúc đẩy các tỉnh xung quanh vùng lên khởi nghĩa. Ngày 28-8-1945 Hà Tiên là tỉnh cuối cùng khởi nghĩa thắng lợi .
Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng , Hồ Chí Minh và Uỷ ban Dân Tộc giải phóng, chỉ trong vòng 15 ngày, từ ngày 14 đến 28 tháng 8 năm 1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã thắng lợi hoàn toàn trên cả nước. Chính quyền từ trung ương đến các địa phương đã thuộc về tay nhân dân .
Ngày 30-8-1945 tại Quảng Trường Ba Đình lịch sử, Hồ Chí Minh đã đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập, long trọng tuyên bố với nhân dân trong cả nước và các quốc gia trên thế giới biết rằng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã ra đời, có chủ quyền độc lập như các quốc gia dân tộc khác.
III > Bài học kinh nghiệm của cách mạng tháng tám 1945
Cuộc cách mạng tháng 8-1945, diễn ra và dành thắng lợi rực rỡ đã chứng tỏ sự lãnh đạo tài tình của tận dụng thời cơ của Đảng, Hồ Chí Minh trong cuộc cách mạng này. Cuộc cách mang tháng Tám đi qua đã để lại bài học kinh nghiệm như:
đó là sự kết hợp khéo léo nhiệm vụ chống đế quốc phong kiến, lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, phân hoá chúng, tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chủ yêú.
Phát động lực lượng quần chúng đông đảo, xây dựng khối liên minh công nông vững chắc, làm cơ sở cho Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi.
Kiên quyết đi theo con đường cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác-Lê-Nin. Ra sức xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, khéo kết hợp các hình thức và khẩu hiệu đấu tranh, kết hợp phong trào thành thị với phong trào nông thôn , đi từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa toàn quốc .
Tích cực chuẩn bị lực lượng, dự đoán đúng thời cơ, không bị động chờ thời cơ và chớp đúng thời cơ, dũng cảm kiên quyết phát động toàn dân khởi nghĩa .
Xây dựng một Đảng tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân trong đièu kịên hoạt động bí mật, đảm bảo cho Đảng có được đường lối đúng đắn và thông suốt trong toàn Đảng có tổ chức trong sạch, chặt chẽ, luôn luôn đoàn kết nhất chí, liên hệ mật thiết với quần chúng .
Phân hoá cao độ và triệt để lợi dụng những mâu thuẫn trong nội bộ của kẻ thù, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù chủ yếu trước mắt .
Xây dựng một chính Đảng tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, Có hành động sáng tạo, đủ sức lãnh đạo toàn dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền..
Những bài học trên đâyđược Đảng ta chú trọng tổng kết và phát triển sau cách mạng tháng tám, nhất là trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam.
ChươngIII
đảng và nhân dân ta vận dụng bài học kinh nghiệm. nét độc đáo và bài học thực tiễn của cuộc cách mạng tháng tháng tám 1945.
I > Đảng và nhân dân ta vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm của cuộc cách mạng tháng 8-1945, cho các giai đoạn cách mạng sau này.
1 > Kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược (1946-1954).
Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi đã mở ra một bước ngoặt to lớn cho cách mạng Việt Nam. Tuy vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã bị bọn đế quốc và các thế lực phản động bao vây, chống phá quyết liệt. Như quân Tưởng, Anh với danh nghĩa đồng minh kéo vào nước ta, cạnh đó còn có quân Nhật, bọn phản cách mạng người Việt Nam từ nước ngoài kéo vào và từ trong nươc ngóc đầu dậy cấu kết với các thế lực xâm lược chống phá cách mạng .
Trong khi đó nền kinh tế đang vô cùng khó khăn nay càng khó khăn bội phần. Đất nước bị bao vây bốn phía. Chính quyền cách mạng ở tình trạng” ngàn cân treo sơi tóc “.
Để giữ được chính quyền và củng cố chính quyền Trung Ương Đảng đã xác định “ tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc này là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”. Đảng đưa ra nhiều biện pháp về :
Chính trị
Kinh tế tài chính
Văn hoá giáo dục
Quân sự
Ngoại giao.
Để từng bước củng cố cho cách mạng, chuẩn bị và hội tủ điều kiện cho cách mạng sau này. Cạnh đó Đảng và nhân dân ta luôn kiên trì đấu tranh chính trị hoà bình song Pháp khiêu khích quyết cướp nước ta lần nữa, nên cuối cùng Hội Nghị Ban chấp hành Trung Ương Đảng quyết định phát động toàn quốc kháng chiến, chúng ta kiên quyết đấu tranh bằng bạo lực cách mạng :
“Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ !” Trước mệnh lệnh tiến công của cách mạng giục giã và soi đường chỉ lối, mọi người Việt nam đã đứng dậy cứu nước.Song song với hoàn cảnh chiến tranh mở rộng, chính phủ vẫn chủ trương động viên toàn dân tăng gia sản xuất, góp phần nâng cao tiềm lực kinh tế kháng chiến.
Công tác vận động đồng bào miền núi, đồng bào tôn giáo, bà con người Hoa dân trong vùng địch tạm chiếm đóng…được coi trọng, kết hợp với các tổ chức cứu quốc của Việt kiều.
Phong trào Bình Dân Học Vụ được duy trì và phát triển song song với việc xoá bỏ nền văn hoá nô dịch ngu dân của bọn thực dân Pháp. Năm 1948 thông qua bản báo cáo: ”Chủ nghĩa Mac và vấn đề văn hóa ở Việt Nam ” để phổ biến Chủ nghĩa Mác trong nhân dân, đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện lâu dài và tự lực cánh sinh
Đặt quan hệ ngoại giao với các nước xã hội chủ nghĩa để nâng cao uy tín của mình, kết hợp chặt chẽ với lực lượng kháng chiến của nhân dân Lào và Cam Pu Chia, bao vây Pháp ở nhiều nơi.
Cuối cùng sau 9 năm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp dã dành nhiều thắng lợi. Đập tan ách thông trị của chủ nghĩa thực dân cũ ở Đông Dương, giải phóng Miền Bắc nước ta, đưa nước ta chuyển sang một giai đoạn mới , qua đó nó cũng khẳng định chân lý của thời đại là :
Một dân tộc dù nhỏ nhưng nếu biết đoàn kết xung quanh Đảng cộng sản và kiên quyết chiến đấu thì nhất định thắng lợi mọi kẻ thù.
Từng bước tạo được lòng tin trong nhân dân, mở rộng vai trò lãnh đạo của đảng trong việc lãnh đạo cuộc kháng chiến sau này.
2 > Giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc(1954-1975)
2.1 > Đường lối chiến lược của cuộc cách mạng và hiệp định GIƠ -NE -VƠ.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Bỉên Phủ, Hiệp định Giơ- Ne- Vơ được kí kết (1954), đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền :”Miền bắc đã được giải phóng, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cơ bản đã hoàn thành: Miền Nam vẫn còn bị đế quốc Mỹ và tay sai thống trị .
Xuất phát từ tình hình nước ta và bối cảnh lịch sử quốc tế ngay sau cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, Đảng đã có nhiều hội nghị quan trọng để nghiên cứu và từng bước xây dựng đường lối chủ trương, nhằm đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục vững bước tiến lên .
Tháng 9 năm 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III. Đã xác định đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam lúc này là:
Miền bắc, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Miền Bắc
căn cứ địa cách mạng của cả nước .
- Miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân giải phóng Miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân tộc dân chủ trong cả nước.
2.2 > Đảng lãnh đạo cuộc cách mạng ở miền Nam Việt Nam
Từ tháng 7 năm 1954, đế quốc Mỹ đã giúp bọn tay sai Ngô Đình Diệm xây dựng một chính quyền và quân đội tay sai mạnh mẽ, tiến hành cuộc trưng cầu dân ý, giả hiệu nhằm hất cẳng Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam. Tiếp đó, chúng ra sức phá hoại việc thi hành Hiệp định Giơ- Ne -Vơ, tàn sát những người yêu nước đã tham gia chống Pháp, tàn sát lực lượng cách mạng, hòng bình định Miền Nam Việt Nam, đặt chủ nghĩa thực dân mới lên đất Miền Nam
Trước âm mưu thủ đoạn thâm độc và tàn bạo của kẻ thù, khả năng thực hiện độc lập thống nhất đất nước bằng con đường hoà bình không còn nữa. Tháng 1 năm1959, Ban chấp hành Trung Ương Đảng họp hội nghị lần thứ XV (khoá II), chủ trương lãnh đạo nhân dân sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng ..Hội nghị cũng nêu lên một loạt biện pháp để xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và tổ chức cuộc đấu tranh xây dựng cách mạng có thể phải lâu dài ở Miền Nam. Hội nghị trung ương có ý nghĩa lịch sử to lớn, làm dấy lên phong trào ”Đồng khởi”, ở Miền Nam, mở ra bước phát triển mới, chuyển cách mạng Miền Nam sang một thời kì phát triển mới.
Sau thắng lợi của cao trào “Đồng Khởi”, miền Nam đã có vùng giải phóng rộng lớn. Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam và quân giải phóng miền Nam ra đời, Đảng công khai hoạt động với tên là Đảng Nhân Dân Cách Mạng Miền Nam Việt Nam. Nhiều đơn vị nguỵ quân đã bị tiêu diệt, nhiều chính quyền tay sai bị đánh đổ, trên 80% “ấp chiến lược”, bị phá tan. Nhân dân nhiều vùng dành được quyền làm chủ.
Trước sự phá sản của “Chiến lược chiến tranh đặc biệt ” của Mỹ ở Miền Nam Việt Nam , để cứu chế độ Sài Gòn đang đứng bên bờ vực thẳm , Giôn Sơn sau khi lên làm tổng thống, thay Kennơđi (bị ám sát ) đã bị động, liều lĩnh thực hiện “chiến tranh cục bộ ”: Đem lính Mỹ trực tiếp nhảy vào tham chiến ở miền Nam và đưa máy bay, tầu chiến ra gây chiến tranh phá hoại ở Miền Bắc.
Song song với việc đánh chiếm miền Nam, Mỹ cũng đưa máy bay ra miền bắc đánh phá. Trước thách thức nghiêm trọng –cả hai miền đều phải đương đầu trực tiếp với đế quốc Mỹ xâm lược. Trung Ương Đảng đã họp lần thứ 11và 12 để quyết định đường lối chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta .
Ngày 17-7-1966, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi, động viên nhân dân ta kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Sau này, trung ương Đảng còn họp nhiều Hội nghị quan trọng khác để phát triển và cụ thể hoá đường lối , chủ trương và phương pháp, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta giành thắng lợi từng bước vững trắc.
Từ 1969, ở Mỹ Nich-Xơn lên làm tổng thống, chủ trương xâm lược Việt Nam bằng chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh. Giữa lúc nhân dân ta đang đẩy mạnh cuộc kháng chiên chống Mỹ cứu nước thì ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời , hưởng thọ 79 tuổi .Tổn thất này vô cùng to lớn đối với dân tộc Việt Nam . Đảng ta mất đi một lãnh tụ vĩ đại, phong trào giải phóng dân tộc và cả loài người mất đi một chiến sĩ lỗi lạc.
Vĩnh biệt chúng ta, Người để lại một di sản vô cùng quý báu đó là tư tưởng Hồ Chí Minh cùng một tấm gương sáng ngời về phẩm chất đạo đức và bản lĩnh cách mạng cho muôn đời con cháu noi theo.
Trước mất mát to lớn đó, Toàn đảng toàn dân, toàn quân ta đã thề : nguyện nêu cao quyết tâm thực hiện tốt bản Di chúc của Người để lại, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công .
Tháng 1-1971, nhân dân miền Nam đã đập tan cuộc hành quân lớn mạnh của địch ra đường 9-Nam lào.
Tiếp đó, mùa xuân 1972 ta tiến công mạnh ở Quảng Trị, Tây Nguyên và đông Nam Bộ tiêu diệt nhiều quân nguỵ. Trước tình hình đó Mỹ đưa máy bay chiến đấu vào miền Nam, Đưa tàu chiến cùng máy bay ra miền Bắc với cường độ mạnh hơn rất nhiều .
Cùng với thắng lợi vủa nhân dân miền Nam, quân dân miền Bắc cũng giành thắng lợi, đập tan cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ trên miền Bắc, đặc biệt đập tan cuộc phản kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ trong 12 ngày đêm (Từ 18đến._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0012.doc