ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ THU HÀ
CÁCH BIỂU HIỆN MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ
TRONG CÂU TIẾNG VIỆT
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
Thái Nguyên - 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ THU HÀ
CÁCH BIỂU HIỆN MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ
TRONG CÂU TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Lí luận ngôn ngữ
Mã số: 60. 22. 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Văn Lộc
Thái Nguyên - 2008
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâ
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1936 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u sắc tới PGS.TS Nguyễn Văn Lộc, người
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình thực hiện luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo trong Viện Ngôn ngữ học, các
thầy cô giáo Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Khoa
Sau đại học Trường ĐHSP Thái Nguyên đã giảng dạy trong khoá học và tạo
điều kiện, giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Hội đồng đã
nhận xét, góp ý để luận văn được hoàn thiện hơn.
Thái Nguyên, tháng 09 năm 2008
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thu Hà
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
N danh từ, ngữ danh từ, đại từ
V vị từ, ngữ vị từ
SP cụm chủ vị
Dấu (+) chỉ ra tính hiện thực của cấu trúc
Dấu (-) chỉ ra tính không hiện thực của cấu trúc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích nghiên cứu 7
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 7
4.1. Đối tượng nghiên cứu 7
4.2. Phạm vi nghiên cứu 7
4.3. Nguồn ngữ liệu 8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 8
6. Cái mới và những đóng góp của luận văn 8
7. Bố cục của luận văn 9
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Quan hệ ngữ nghĩa 11
1.1.1. Định nghĩa 11
1.1.2. Đặc điểm của quan hệ ngữ nghĩa 15
1.1.3. Các dạng phổ biến của quan hệ ngữ nghĩa trong câu 15
1.2. Quan hệ cú pháp 16
1.2.1. Định nghĩa 16
1.2.2. Cách biểu hiện quan hệ cú pháp 17
1.2.3. Cách xác định quan hệ cú pháp trong câu 18
1.3. Sự tƣơng ứng giữa quan hệ ngữ nghĩa - quan hệ cú pháp 22
1.4. Một số khái niệm có liên quan khác 24
1.4.1. Khái niệm quan hệ từ 24
1.4.2. Khái niệm động từ quan hệ 27
1.4.3. Khái niệm kết trị và kết trị của động từ tiếng Việt 27
1.5. Tiểu kết 30
CHƢƠNG 2: CÁC PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN
MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT
2.1. Nhận xét chung
31
2.2. Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng quan hệ từ 32
2.2.1. Thành tố chỉ nguyên nhân 32
2.2.2. Thành tố chỉ kết quả 47
2.3. Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng động từ quan hệ 54
2.3.1. Bản chất của các động từ quan hệ làm, khiến 54
2.3.2. Đặc điểm của các động từ quan hệ làm, khiến trong cấu trúc nhân quả 59
2.4. Tiểu kết 70
CHƢƠNG 3: VẤN ĐỀ PHÂN TÍCH NGỮ PHÁP
KIỂU CÂU CÓ Ý NGHĨA NHÂN QUẢ ĐƢỢC BIỂU HIỆN
BẰNG QUAN HỆ TỪ VÀ ĐỘNG TỪ QUAN HỆ
3.1. Vấn đề phân tích ngữ pháp kiểu câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc
biểu hiện bằng quan hệ từ
71
3.1.1. Các ý kiến khác nhau về cách phân tích kiểu câu này 71
3.1.2. Ý kiến trao đổi về cách phân tích kiểu câu này 79
3.2. Vấn đề phân tích ngữ pháp kiểu câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc
biểu hiện bằng động từ quan hệ
86
3.2.1. Ý kiến của các nhà nghiên cứu về cách phân tích kiểu câu này 86
3.2.2. Ý kiến trao đổi đề xuất 88
3.3. Tiểu kết 90
KẾT LUẬN 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
NGUỒN NGỮ LIỆU TRÍCH DẪN 98
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ là phƣơng tiện giao tiếp và công cụ tƣ duy của con
ngƣời. Nếu tƣ duy có tính chất chung cho nhân loại thì ngôn ngữ lại mang
đậm dấu ấn dân tộc. Việc tìm hiểu cách biểu hiện bằng phƣơng tiện ngôn ngữ
những nội dung tƣ duy nhất định có ý nghĩa không chỉ đối với việc học tập,
nghiên cứu ngôn ngữ mà còn có ý nghĩa đối với việc khám phá đặc điểm tƣ
duy của mỗi dân tộc.
1.2. Một nội dung tƣ duy có thể có nhiều hình thức biểu đạt bằng ngôn
ngữ. Quan hệ nhân quả là một trong những quan hệ rất phổ biến thuộc về tƣ
duy. Nó tồn tại ở tầng nghĩa sâu và đƣợc biểu hiện bằng các phƣơng tiện ngôn
ngữ. Nghiên cứu mối quan hệ này, đặc biệt là cách biểu hiện của nó trong câu
tiếng Việt giúp ta thấy đƣợc nét đặc thù trong cách biểu hiện mối quan hệ
nhân quả trong tiếng Việt và mối tƣơng quan giữa mặt hình thức và mặt nội
dung trong tiếng Việt nói riêng và trong ngôn ngữ nói chung.
1.3. Việc nghiên cứu cách biểu hiện mối quan hệ nguyên nhân kết quả
trong câu tiếng Việt có ý nghĩa cả về mặt lí luận và thực tiễn.
Về lí luận, việc nghiên cứu cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong
câu tiếng Việt góp phần làm rõ những vấn đề quan trọng nhƣ quan hệ ngữ
nghĩa, quan hệ ngữ pháp, nghĩa sâu và nghĩa cú pháp, cách biểu hiện một nội
dung quan hệ ngữ nghĩa bằng các phƣơng tiện ngôn ngữ khác nhau trong một
ngôn ngữ cụ thể.
Về thực tiễn, những kết quả của việc nghiên cứu cách biểu hiện mối
quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt có thể đƣợc sử dụng vào việc biên soạn
giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ cho dạy - học ngữ pháp tiếng Việt, góp
phần nâng cao chất lƣợng dạy học.
1.4. Mặc dù mối quan hệ nguyên nhân kết quả là kiểu quan hệ rất phổ
biến, có vai trò quan trọng và việc nghiên cứu nó cần thiết và có ý nghĩa nhƣ
vậy nhƣng đến nay, việc nghiên cứu cách biểu hiện mối quan hệ này trong
câu tiếng Việt chƣa đƣợc các nhà Việt ngữ học thực sự quan tâm. Có thể nói,
đến nay, vẫn chƣa có công trình nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu về
quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt.
Vì những lí do trên, chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài Cách biểu
hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt.
2. Lịch sử vấn đề
Khi nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, các nhà nghiên cứu nhƣ
Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Tài Cẩn, nhóm tác giả thuộc Ủy ban Khoa học
Xã hội, Đinh Văn Đức, Diệp Quang Ban… ít nhiều có quan tâm đến mối
quan hệ này. Nhƣng phần lớn trong số họ mới dành một mục trong các
chuyên luận ngữ pháp để nói về quan hệ nguyên nhân kết quả, và thƣờng chỉ
đề cập đến một cách khái quát.
2.1. Trong cuốn Ngữ pháp tiếngViệt hiện đại, Hữu Quỳnh đã tiến hành
miêu tả và phân loại các động từ biểu thị mối quan hệ nhân quả, xếp động từ
nhân quả vào nhóm động từ gây khiến. Theo định nghĩa của ông, “động từ
gây khiến giống nhƣ động từ ngoại hƣớng, hoạt động của nó chi phối hoặc
hƣớng vào đối tƣợng nhƣng với ý nghĩa khuyên bảo, cho phép hay ngăn cản
hành động của đối tƣợng”. Động từ gây khiến thƣờng đòi hỏi hai thành tố
phụ: một là danh từ, một là động từ và có khi hai thành tố phụ tạo nên cụm
chủ - vị. Các động từ gây khiến trong danh sách của Hữu Quỳnh, gồm có: để
(cho), khiến (cho), làm (cho), bắt, bắt buộc, cản trở, cho phép, cưỡng bức,
cưỡng ép, dắt, dẫn, dìu dắt, đề nghị, đòi hỏi, cấm, giúp đỡ… [26, 70].
Hữu Quỳnh cũng tiến hành phân loại quan hệ từ mà ông gọi là từ nối.
Từ nối đƣợc ông định nghĩa nhƣ sau: “Từ nối là những từ chỉ các quan hệ ngữ
pháp chuyên dùng để nối các thành phần câu hay các thành tố trong cụm từ”.
Theo đó, những từ nối đƣợc ông phân chia thành hai nhóm: từ nối chính phụ
và từ nối liên hợp. Những từ vì, do, bởi, tại, nhờ đƣợc xếp vào nhóm từ nối
chính phụ, bởi “chúng biểu thị ý nghĩa nguyên nhân dùng trong cụm từ chính
phụ”.[26, 88 - 92]
Ví dụ:
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình.(Nguyễn Du)
Vì chàng thiếp phải đi chăng về mò. (Ca dao)
Nhƣ vậy, Hữu Quỳnh mới chỉ dừng lại ở việc miêu tả và phân loại sơ
bộ các động từ biểu thị quan hệ nhân quả và các quan hệ từ nhân quả mà chƣa
có điều kiện miêu tả kĩ hơn theo các nhóm. Việc tác giả xếp làm, khiến vào
cùng nhóm với bắt, mời, cấm là sự nhầm lẫn.
2.2. Các tác giả thuộc Uỷ ban khoa học xã hội trong cuốn Ngữ pháp
tiếng Việt đã phân loại, miêu tả một cách cụ thể cấu tạo của câu ghép, trong
đó, câu ghép đƣợc chia thành câu ghép song song và câu ghép qua lại.
Theo các tác giả, “đặc điểm quan trọng của nòng cốt - nòng cốt đơn hay
nòng cốt ghép - là khả năng độc lập về ngữ pháp, tức là khả năng làm thành
câu - câu đơn hay câu ghép. Khi đứng độc lập làm thành phần câu, nòng cốt
đơn có vai trò biểu thị một quá trình tƣ duy và thông báo hoàn chỉnh”. [46, 217]
Ví dụ:
Con chăm học. Mẹ rất vui lòng.
Để làm thành một câu ghép, các tác giả đã sử dụng phƣơng tiện dẫn nối
là cặp quan hệ từ vì… nên biểu thị mối quan hệ nhân quả để chuyển câu đơn
thành câu ghép qua lại.
Ví dụ:
Vì con chăm học nên mẹ rất vui lòng.
Không những thế, nhóm tác giả này đã đƣa ra phƣơng án sử dụng nòng
cốt làm thành phần trong cấu tạo của câu đơn hoặc thành phần động ngữ
chứa động từ ngoại động có nghĩa gây khiến:
Ví dụ:
Con chăm học làm cho mẹ rất vui lòng.
Anh thành công khiến em rất vui lòng.
Trong trƣờng hợp này, nòng cốt câu đơn cũng có giá trị tƣơng đƣơng
với danh ngữ và cũng có những cách diễn đạt nhƣ:
Việc anh thành công khiến em rất vui mừng.
Anh thành công, điều đó khiến em rất vui mừng.
Trong công trình này, các quan hệ từ đƣợc các tác giả gọi là kết từ. Kết
từ đƣợc chia thành những tiểu loại chính sau đây: a) “Kết từ chính phụ” tức là
kết từ biểu thị quan hệ chính phụ. Đó là những kết từ nhƣ: do, của, để, bởi,
bởi vì, tại, tại vì, mà, từ, đối với… b) “Kết từ liên hợp” tức là kết từ biểu thị
quan hệ liên hợp. Đó là những từ nhƣ: và, với, hay, hoặc, cùng, những, song,
thì… và những từ có thể dùng thành cặp như: nếu… thì, tuy… nhưng, vì… cho
nên, không những… mà còn, càng… càng, vừa… vừa” [45, 91].
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng các tác giả chƣa phân loại, phân tích, miêu tả
động từ biểu thị quan hệ nhân quả và quan hệ từ nhân quả một cách cụ thể,
mà mới chỉ đề cập đến một cách khái quát.
2.3. Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt. Câu, Hoàng Trọng Phiến đã đề
cập đến các khía cạnh biểu hiện của động từ nhân quả và quan hệ từ nhân quả.
Đồng thời, ông đã tiến hành phân loại quan hệ từ khá cụ thể thành các nhóm.
Tác giả đã xếp những câu có chứa động từ khiến vào nhóm câu trung
gian giữa câu đơn và câu ghép, ông gọi đó là sự phức tạp hoá câu đơn, hay
còn gọi là kiểu câu móc xích. Kiểu câu này có mô hình tƣơng ứng nhƣ sau:
D1Đ1D2Đ2.
Ví dụ:
Công việc này khiến chúng tôi lo lắng.
Toàn bộ câu là một chuỗi các yếu tố móc xích nhau và chia thành hai
bậc: khiến - chúng tôi và chúng tôi - lo lắng. [24, 189]
Theo Hoàng Trọng Phiến, kết cấu móc xích có thể có giới từ cho, để
cho… tuy nhiên, yếu tố giới từ không có vai trò quyết định đối với kết cấu
móc xích.
Ví dụ:
Công việc này khiến cho tôi lo lắng.
Việc ra đi của nó khiến cho tôi lƣu luyến.
Các loại câu nhân quả đƣợc tác giả chia thành 19 nhóm tƣơng ứng.
Tuy tác giả đã chia các loại câu nhân quả thành các nhóm nhƣng lại
chƣa có điều kiện miêu tả kỹ các cấu trúc nhân quả.
2.4. Tác giả Lê Biên trong cuốn Từ loại tiếng Việt hiện đại, coi “động
từ gây khiến là những động từ chỉ vận động có tác động gây khiến, chi phối
hoạt động của đối tƣợng” [2, 79].
Theo ông, động từ gây khiến đòi hỏi phải có hai bổ ngữ: bổ ngữ thứ
nhất (A1) là đối tƣợng chịu tác động của động từ gây khiến, thƣờng là danh từ
và có thể là đại từ xƣng hô; bổ ngữ thứ hai (A2) là bổ ngữ nội dung do hành
động của chủ thể (động từ gây khiến) chi phối, tác động gây ra ở đối tƣợng, vì
vậy, bổ ngữ chỉ nội dung thƣờng là động từ, tính từ (hoặc một ngữ động từ,
ngữ tính từ…).
Sơ đồ cấu trúc của động từ gây khiến là:
A - V - A1 - A2
Ví dụ:
Con học giỏi khiến cho cha mẹ vui lòng.
Trời mƣa làm cho cây cối xanh tƣơi.
Hai bổ ngữ (A1, A2) đều bị chi phối của động từ gây khiến nhƣng
chúng vẫn có quan hệ với nhau. Nếu tách A1 - A2 ra thì đó là một kết cấu chủ -
vị có nội dung thông báo, miêu tả hoàn chỉnh, ví dụ: cha mẹ vui lòng, cây cối
xanh tươi. Nhƣ vậy, theo quan điểm của Lê Biên, 2 bổ ngữ của động từ gây
khiến nếu tách riêng ra có thể tạo thành một cụm chủ vị.
Những động từ gây khiến theo Lê Biên gồm: sai, bảo, đề nghị, yêu cầu,
cho, cho phép, khuyên, cấm, ngăn cản, khiến (cho), làm (cho), làm…
2.5. Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, Diệp Quang Ban đã chia động từ
tiếng Việt thành hai lớp: lớp động từ độc lập và lớp động từ không độc lập.
Lớp động từ độc lập là “những động từ biểu thị ý nghĩa quá trình (hành
động hoặc trạng thái). Ý nghĩa quá trình có thể nhận thức đƣợc tƣơng đối rõ,
ngay cả trong trƣờng hợp động từ không có từ khác đi kèm để bổ nghĩa” [1, 96].
Lớp động từ độc lập đƣợc phân chia thành một số nhóm nhỏ, dựa theo
“khả năng kết hợp đƣợc của động từ với một số nhóm phụ từ nhất định và khả
năng chi phối của động từ đối với những thực từ hay kết hợp từ đi kèm cho
tính chuyên môn” [1, 96]. Động từ quan hệ đƣợc tác giả xếp vào nhóm thứ
hai, tức là nhóm động từ có thực từ đi kèm biểu thị đối tƣợng sai khiến và nội
dung sai khiến. Những động từ này có tên gọi chung là động từ khiên động
thuộc lớp động từ ngoại động.
Những động từ khiên động gồm có: nhờ, bảo, cử, bắt, khiến, yêu cầu…
Ví dụ:
Công an huyện yêu cầu bộ phận hình sự của công an tỉnh trợ giúp xác
minh. (Cao Duy Thảo)
Một hôm hợp tác xã họp cử Keng đánh một chiếc xe bò lên huyện chở
phốt phát về. (Nguyễn Kiên)
2.6. Nguyễn Kim Thản trong cuốn Động từ trong tiếng Việt, xếp làm,
khiến vào nhóm “động từ gây khiến”. Theo ông, “động từ gây khiến biểu thị
hoạt động thúc đẩy, cho phép, giúp đỡ hay cản trở sự thực hiện của những
hoạt động khác” [28]. Đặc điểm ngữ pháp của động từ gây khiến đƣợc ông
xếp vào bốn cấu trúc chính và hai cấu trúc đƣợc cải biến dƣới dạng thức rút gọn.
Những động từ gây khiến theo Nguyễn Kim Thản gồm: bảo, bắt buộc,
buộc, bắt, cản trở, cho phép, cổ vũ, cưỡng bức, cưỡng ép, dạy, dắt, dẫn dắt,
dìu dắt, đề nghị, đòi hỏi, cấm giục, gọi, giúp đỡ, hướng dẫn, hô hào, kêu gọi,
khuyên nài, ép, sai, thuyết phục, yêu cầu…
Tóm lại, qua các công trình hiện có, các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc
phân loại kho từ vựng nói chung và phân loại động từ, quan hệ từ nói riêng
thành các loại, nhóm, tiểu nhóm. Mối quan hệ nhân quả cũng đƣợc các tác giả
đề cập đến qua việc phân tích nhóm từ (ngữ) với thành tố phụ chỉ nguyên
nhân và câu ghép nhân quả. Song tính chất của mối quan hệ nhân quả và cách
biểu hiện của nó là lĩnh vực nghiên cứu mới chỉ đƣợc đề cập khái quát.
Điều đáng chú ý là phần lớn các tác giả có đề cập đến các động từ quan
hệ làm, khiến đều nhầm lẫn các động từ này với động từ cầu khiến (bắt, bảo,
cấm, mời, khuyên…)
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ bản chất của mối quan hệ
nhân quả với tư cách là một kiểu quan hệ ngữ nghĩa, phân biệt nó với quan hệ
cú pháp; trên cơ sở đó, tìm hiểu phương thức biểu hiện mối quan hệ nhân quả
trong câu tiếng Việt, qua đó, giúp người dạy, người học ngữ pháp tiếng Việt
nắm vững, sử dụng tốt quan hệ từ nhân quả và động từ quan hệ biểu thị mối
quan hệ nhân quả trong giảng dạy và học tập ngữ pháp tiếng Việt.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là cách biểu hiện mối quan hệ nhân
quả trong câu tiếng Việt hiện đại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung vào 2 phƣơng thức biểu hiện quan hệ nhân quả:
- Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng phƣơng tiện ngữ pháp
(bằng quan hệ từ)
- Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng phƣơng tiện từ vựng - ngữ
pháp (bằng động từ quan hệ)
4.3. Nguồn ngữ liệu
Chúng tôi có khoảng 2000 phiếu tƣ liệu ghi các câu có ý nghĩa nhân
quả đƣợc biểu hiện bằng quan hệ từ và động từ quan hệ rút ra từ sách giáo
khoa ngữ văn phổ thông, từ báo chí và các tác phẩm văn học bằng tiếng Việt
(hầu hết là các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu chủ đạo đƣợc chúng tôi sử dụng trong luận
văn là phương pháp miêu tả.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phƣơng pháp, thủ pháp nghiên cứu
sau đây:
Phương pháp thống kê, phân loại đƣợc chúng tôi áp dụng để thu thập,
xử lí các câu có sử dụng quan hệ từ và động từ quan hệ biểu thị quan hệ nhân quả.
Phương pháp đối chiếu, so sánh đƣợc chúng tôi sử dụng để làm nổi
bật những nét tƣơng đồng và khác biệt của các quan hệ, các hiện tƣợng ngữ
nghĩa và ngữ pháp liên quan đến cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả.
Luận văn cũng sử dụng các thủ pháp thử nghiệm nhƣ bổ sung, lƣợc
bỏ, thay thế, cải biến và mô hình hóa để hạn chế sự cảm tính, chủ quan trong
miêu tả các hiện tƣợng ngữ nghĩa, ngữ pháp và để hỗ trợ làm tăng hiệu quả
của các phƣơng pháp trên.
6. Cái mới và những đóng góp của luận văn
Với luận văn này, có thể nói lần đầu tiên, cách biểu hiện mối quan hệ
nhân quả trong câu tiếng Việt đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống và mang
tính chuyên sâu. Qua việc nghiên cứu đề tài này, luận văn có những đóng góp
chính sau đây:
- Tổng kết (có nhận xét, đánh giá) một cách tƣơng đối có hệ thống ý
kiến của các nhà nghiên cứu về cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng
quan hệ từ và động từ quan hệ.
- Phân tích, miêu tả làm rõ phƣơng thức biểu hiện mối quan hệ nhân
quả trong câu tiếng Việt bằng quan hệ từ, đặc điểm, tính chất của mối quan hệ
cú pháp giữa bộ phận chỉ nguyên nhân và bộ phận chỉ kết quả trong câu có ý
nghĩa nhân quả đƣợc biểu hiện bằng quan hệ từ.
- Phân tích, miêu tả, làm rõ phƣơng thức biểu hiện quan hệ nhân quả
bằng động từ quan hệ, làm rõ đặc tính ý nghĩa và ngữ pháp (thuộc tính kết trị)
của các động từ quan hệ làm, khiến và tính chất ngữ pháp của kiểu câu có các
động từ này làm vị ngữ.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chƣơng này trình bày những vấn đề lý luận cơ bản làm cơ sở cho việc
nghiên cứu đề tài. Đó là những vấn đề khái quát về quan hệ ngữ nghĩa, quan
hệ cú pháp và một số khái niệm khác có liên quan đến việc nghiên cứu đề tài.
Chương 2: Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt
Chƣơng này phân tích, miêu tả cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả
bằng phƣơng tiện ngữ pháp (bằng quan hệ từ nhân quả) và bằng phƣơng tiện
từ vựng - ngữ pháp (bằng các động từ quan hệ làm, khiến).
Chương 3: Vấn đề phân tích ngữ pháp kiểu câu có ý nghĩa nhân quả
được biểu hiện bằng quan hệ từ và động từ quan hệ
Chƣơng này đề cập đến các nguyên tắc và các thủ pháp xác định thành
phần câu, khả năng chuyển đổi câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc biểu hiện bằng
quan hệ từ thành câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc biểu hiện bằng động từ quan
hệ (làm, khiến) và ngƣợc lại; đồng thời phân tích, định loại về mặt cấu trúc
cho câu nhân quả tiếng Việt.
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Quan hệ ngữ nghĩa
1.1.1. Định nghĩa
Trong cuốn Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Wallace L. Chafe coi
cấu trúc ngữ nghĩa là cấu trúc được tạo xung quanh động từ trung tâm kèm
với các danh từ có quan hệ với nó theo một số hướng. Nhƣ vậy, cấu trúc ngữ
nghĩa chính là quan hệ danh - động. [47, 19]
Trong cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, nhóm tác giả
cho rằng: “Quan hệ ngữ nghĩa là mối liên hệ (tƣơng quan) từ vựng - ngữ cú
giữa các bộ phận của phát ngôn”. [48, 239]
Tác giả Trần Ngọc Thêm cho rằng quan hệ ngữ nghĩa có 2 loại:
“Quan hệ ngữ nghĩa bậc một, mang tính khái quát cao đƣợc nhiều khoa
học (ngôn ngữ học, triết học, toán học, logic học) quan tâm, nhƣ: quan hệ thứ
tự, quan hệ bao hàm, quan hệ tƣơng tự, quan hệ đồng nhất, quan hệ mâu
thuẫn” [44, 314].
“Quan hệ ngữ nghĩa bậc hai, làm nhiệm vụ cụ thể hoá cho các quan hệ
bậc một. Chẳng hạn, quan hệ thứ tự đƣợc cụ thể hoá thành các quan hệ: định
vị thời gian, trình tự diễn đạt, nhân quả v.v… Quan hệ bao hàm đƣợc cụ thể
hoá thành các quan hệ: giống loài, chung riêng, sở hữu, đặc trƣng…” [44, 314].
Dƣơng Hữu Biên lại coi “quan hệ ngữ nghĩa - chức năng là một trong
hai dạng quan hệ cơ bản giữa một vị từ và các đối tố của nó”. Theo đó, tác giả
cũng xác định “quan hệ ngữ nghĩa - chức năng là quan trọng bởi nó chiếm giữ
đƣợc cấu trúc cơ bản và nền tảng về các biến cố, sự kiện; đồng thời, nó có
một sự phong phú và đa dạng về tên gọi trong nhiều lí thuyết khác nhau nhƣ
vai nghĩa, vai cách, vai ngữ nghĩa cách, quan hệ chủ đề…”
Theo tác giả, “các quan hệ chủ đề miêu tả chức năng ngữ nghĩa học của
một đối tố với việc quan tâm đến vị từ trong một câu.
Ví dụ:
(1) Mne nravitsja eta kniga. (Tôi thích cuốn sách này)
Ta thấy chủ thể (kẻ thể nghiệm) là ở trạng thái tặng cách (cách ba):
Mne; còn đối thể (vật được thể nghiệm) là ở hình thái chủ cách hay danh cách
(cách một): eta kniga. Do vậy, về mặt logic sự tình thì (1) có thể đƣợc miêu tả
nhƣ (2):
(2) (Cuốn sách này [NOM] làm tôi [DAT] thích)
Nhƣ vậy, về cơ bản, các quan hệ chủ đề hoạt động với tƣ cách là một
bề mặt chung giữa ngữ nghĩa học từ vựng và cú pháp học. Nói cách khác, các
quan hệ chủ đề là những quan hệ hai mang: Một mặt, chúng là những quan hệ
có tính ngữ nghĩa về bản chất và có quan hệ đến sự biểu hiện ngữ nghĩa từ
vựng của động từ, bởi lẽ chúng là một cách hành chức về ý nghĩa của động từ.
Trong khi đó, ở mặt khác, chúng lại có những ngụ ý đối với ngữ pháp. Các
quan hệ chủ đề này đã xác lập đƣợc một cách xác đáng vị trí đối với cơ sở
ngữ nghĩa của mình, nhƣng chúng cũng có thể là nhạy cảm đối với các yêu
cầu của ngữ pháp”. [3]
Chúng tôi tiếp thu và vận dụng ý kiến của các nhà nghiên cứu và để có
những hiểu biết cụ thể hơn về quan hệ ngữ nghĩa, chúng tôi dựa vào lí thuyết
về ba bình diện của câu.
Nhƣ đã biết, trong hệ thống các đơn vị ngữ pháp, câu là kiểu đơn vị có
đặc tính rất phức tạp. Theo quan niệm đƣợc thừa nhận rộng rãi hiện nay, câu
là một thực thể hỗn hợp đƣợc hình thành nên không phải bởi một mà bởi ba
bình diện: bình diện tâm lý, bình diện cú pháp và bình diện logic [19, 103].
Tán thành về cơ bản quan niệm về ba bình diện của câu đƣợc nhắc đến trên
đây nhƣng có sự điều chỉnh về tên gọi cho quen thuộc và dễ hiểu hơn, chúng
tôi phân biệt câu ở bình diện giao tiếp (tâm lý), bình diện cú pháp và bình
diện nghĩa sâu (logic).
Ở bình diện giao tiếp, câu là một đơn vị thông báo (một thông điệp)
đƣợc dùng trong những tình huống nói năng cụ thể. Phân tích câu về mặt giao
tiếp chính là xác định đề ngữ - điểm xuất phát của thông báo và thuyết ngữ -
phần còn lại của câu có chức năng thuyết minh về đề ngữ.
Về mặt cú pháp, câu là đơn vị đƣợc tạo thành từ sự kết hợp giữa các từ
theo những quan hệ cú pháp nhất định. Phân tích câu về mặt cú pháp là xác
định các thành phần cú pháp của câu nhƣ chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng
ngữ…; các quan hệ ngữ pháp nhƣ quan hệ chính phụ, quan hệ đẳng lập, quan
hệ chủ vị; các kiểu câu phân theo cấu trúc cú pháp cơ bản nhƣ câu đơn, câu
ghép, hoặc các kiểu câu phân theo đặc trƣng hình thức và chức năng thực hiện
hành vi ngôn ngữ nhƣ câu nghi vấn, câu cầu khiến… [30, 39].
Về mặt nghĩa sâu, câu là một cấu trúc gồm các thành tố ngữ nghĩa nằm
trong mối quan hệ nhất định phản ánh trực tiếp sự kiện, hiện tƣợng trong hiện
thực khách quan. Phân tích câu về mặt nghĩa sâu là xác định hạt nhân ngữ
nghĩa của câu (biểu thị các sự tình) và các tham tố ngữ nghĩa của bậc nghĩa
sâu (biểu thị các thực thể tham gia vào các sự tình).
Theo Nguyễn Văn Lộc, trong việc phân tích mặt ý nghĩa của các thành
phần câu (nghĩa của các thực từ trong câu), vấn đề khó khăn, phức tạp nhất là
xác định bản chất và ranh giới các ý nghĩa cụ thể. Đến nay, bản chất của các
nghĩa cú pháp kiểu nhƣ chủ thể, đối thể, công cụ, nguyên nhân… chƣa đƣợc
hiểu thống nhất và chƣa đƣợc xác định rõ ràng. Trong các công trình ngữ
pháp, các kiểu nghĩa trên đƣợc đồng nhất với phạm trù nghĩa sâu đƣợc xác
định trên cơ sở cấu trúc sâu theo cách hiểu của Ch.Fillmore. Theo quan niệm
này thì những cấu trúc kiểu nhƣ: (1) Malchik bezyt (Cậu bé đang chạy) và (2)
Beg malchika (Sự chạy của cậu bé) sẽ nằm trong một lƣợc đồ ngữ nghĩa
chung, trong đó từ “machik” luôn có ý nghĩa chủ thể hoạt động. Nhƣng nếu
chỉ dựa vào nghĩa sâu để xác định, phân tích các thành phần câu thì sẽ có mâu
thuẫn nảy sinh: Hoá ra thành tố chỉ chủ thể hoạt động không chỉ đƣợc xác
định trong mối quan hệ với động từ (ở cấu trúc (1) mà còn đƣợc xác định
trong mối quan hệ với danh từ ở cấu trúc (2)). Việc xác định, phân tích mặt
nội dung của các thành phần câu chỉ dựa vào nghĩa sâu cũng sẽ gặp một số
khó khăn không thể khắc phục đƣợc. Chính S.D.Kasnelson đã chỉ ra điều này
khi nhận xét về ngữ pháp cách của Ch. Fillmore. S.D.Kasnelson cho rằng
trong những câu nhƣ (1) Dzon otkryl dver kljuchom (Giôn mở cửa bằng chìa
khoá) và (2) Kljuch otkryl dver (Chiếc chìa khoá mở cửa), theo ngữ pháp cách
của Ch. Fillmore thì Kljuchom và kljuch (chìa khoá) đều ở cách công cụ (cách
I). Nhƣng theo ý kiến của S.D. Kasnelson thì cách phân tích nhƣ vậy sẽ mâu
thuẫn với chính điều mà Ch. Fillmore đã khẳng định và cố gắng chứng minh,
đó là: Mỗi động từ xét về mặt kết trị, đều đƣợc đặc trƣng bởi một lƣợc đồ kết
trị nhất định, chẳng hạn, lƣợc đồ kết trị của động từ otkryl (mở) là: ngƣời hành
động - đối thể tác động - công cụ. Để khắc phục mâu thuẫn này, theo
S.D.Kasnelson thì phải cho rằng chỉ trong câu (1), Kljuchom mới có ý nghĩa
công cụ thuần tuý, còn trong câu (2), kljuch có ý nghĩa hỗn hợp: chủ thể và
công cụ. [18, 111]. Cũng với quan niệm tƣơng tự, N.V.Solnesva cho rằng
trong câu Xe này chở hàng, từ xe chỉ chủ thể hoạt động mặc dù theo lý thuyết
cách của Ch. Fillmore thì xe là công cụ [43, 31]. Nghĩa chủ thể của từ xe trong
câu trên cũng nhƣ nghĩa chủ thể của từ kljuch trong câu (2) chính là nghĩa cú
pháp. Nhƣ vậy, khi xác định, phân tích mặt nội dung của các thành phần câu,
việc dựa vào nghĩa sâu là cần thiết nhƣng không đầy đủ và không cho phép
xác định bản chất của thành phần câu với tƣ cách là phạm trù cú pháp.
Nghĩa cú pháp và nghĩa sâu mặc dù có mối quan hệ mật thiết với nhau
nhƣng vẫn là hai kiểu nghĩa khác nhau về bản chất và chúng không phải luôn
luôn tƣơng ứng với nhau. Sự khác nhau giữa chúng là ở chỗ nghĩa cú pháp
của một từ chỉ đƣợc xác định trong mối quan hệ với nghĩa ngữ pháp của các
từ khác và luôn có hình thức ngữ pháp riêng để biểu thị, còn nghĩa sâu đƣợc
xác định trong mối quan hệ giữa các từ vựng của từ và không có hình thức
ngữ pháp riêng để biểu thị. [35]
Từ những ý kiến luận giải về nghĩa sâu trên đây, chúng tôi rút ra quan
niệm của mình về cấu trúc ngữ nghĩa và quan hệ ngữ nghĩa nhƣ sau: Cấu trúc
ngữ nghĩa của câu (cấu trúc chìm, cấu trúc sâu) đƣợc phân biệt với cấu trúc cú
pháp (cấu trúc nổi) ở chỗ: cấu trúc ngữ nghĩa của câu là cấu trúc biểu thị mối
quan hệ ngữ nghĩa (quan hệ nghĩa sâu theo cách hiểu trên) giữa các từ, tổ hợp
từ trong câu. Vậy, quan hệ ngữ nghĩa là mối quan hệ về mặt nghĩa sâu giữa
các từ, tổ hợp từ trong câu phản ánh trực tiếp quan hệ giữa các sự vật, hiện
tƣợng trong hiện thực khách quan.
1.1.2. Đặc điểm của quan hệ ngữ nghĩa
- Quan hệ ngữ nghĩa phản ánh trực tiếp mối quan hệ giữa các sự vật, sự
kiện, hiện tƣợng trong thực tế khách quan. Nó khác với quan hệ cú pháp chỉ
trực tiếp phản ánh mối quan hệ giữa các từ.
- Khác với quan hệ cú pháp luôn có hình thức cú pháp riêng để biểu thị,
quan hệ ngữ nghĩa không bắt buộc phải có hình thức cú pháp riêng để biểu
thị. Chẳng hạn, quan hệ ngữ nghĩa nhân quả trong câu tiếng Việt có thể biểu
hiện dƣới các hình thức cú pháp là các cấu trúc có động từ quan hệ hoặc các
cấu trúc có quan hệ từ nhân quả kiểu nhƣ:
Sự ra đi của anh khiến mẹ lo lắng. (bằng động từ quan hệ “khiến”)
Vì sự ra đi của anh nên mẹ lo lắng. (bằng quan hệ từ “vì…nên”)
1.1.3. Các dạng phổ biến của quan hệ ngữ nghĩa trong câu
- Quan hệ chủ thể - hành động: Nam đọc. Mẹ về. Nó chạy…
- Quan hệ hoạt động - đối tƣợng: đọc sách. đập đá…
- Quan hệ hoạt động - công cụ: ăn bằng đũa. liên lạc bằng điện thoại…
- Quan hệ sở hữu: tiền của tôi. sách của Nam…
- Quan hệ nguyên nhân - kết quả: chết vì bệnh. sống nhờ bạn…
1.2. Quan hệ cú pháp
1.2.1. Định nghĩa
Quan hệ cú pháp đƣợc hiểu là mối quan hệ giữa các thực từ trong câu
đƣợc xác định dựa vào vai trò, chức năng của các từ đối với nhau. “Cú pháp
bắt đầu ở nơi diễn ra sự kết hợp giữa các từ” [41, 28]. Theo cách hiểu này thì
quan hệ giữa một thực từ và một hƣ từ (ví dụ: đang đi, rất đẹp, bằng điện
thoại…) không phải là quan hệ cú pháp thực sự. Kiểu quan hệ này đƣợc gọi là
quan hệ cận cú pháp(kvazisintaksicheskaja svjaz).
Để có cơ sở xác định tính chất của mối quan hệ cú pháp, trƣớc hết, cần
xác định sự có mặt của mối quan hệ cú pháp giữa các từ. Hai từ (thực từ)
đƣợc coi là có quan hệ cú pháp với nhau nếu giữa chúng có thể xác định mối
quan hệ nhất định về mặt nội dung (ý nghĩa) và mối quan hệ về hình thức.
Mối quan hệ hình thức giữa hai từ đƣợc xác định qua thủ pháp thay thế bằng
từ nghi vấn (thủ pháp đặt câu hỏi): Hai từ đƣợc coi là có quan hệ hình thức
với nhau nếu chúng lập thành tổ hợp trong đó ít nhất có một từ có khả năng
thay thế bằng từ nghi vấn. Chẳng hạn, trong câu: Lan học toán rất giỏi, bằng
thủ pháp đặt câu hỏi kết hợp với thủ pháp phân tích ngữ nghĩa, ta có thể xác
định đƣợc các cặp thực từ có quan hệ cú pháp với nhau là: Lan học, học toán,
học rất giỏi. Trong mỗi cặp này, các thực từ đều có quan hệ với nhau cả về
nội dung (ý nghĩa) lần hình thức (Ai học? Học gì? Học thế nào?). Các từ toán
và giỏi mặc dù đứng gần nhau nhƣng không có quan hệ cú pháp với nhau
(không thể xác định mối quan hệ ý nghĩa và hình thức giữa chúng). Tổ hợp
gồm các từ có quan hệ cú pháp với nhau có thể gọi là cấu trúc cú pháp còn
các thực từ tham gia cấu trúc cú pháp có thể gọi là thành tố cú pháp.
Nhƣ vậy, để xác định quan hệ cú pháp cần dựa vào “khả năng dùng độc
lập của một tổ hợp từ nhất định hoặc khả năng dùng tổ hợp đó với tƣ cách là
biến thể rút gọn của cấu trúc lớn hơn”. [41, 58]
1.2.2. Cách biểu hiện quan hệ cú pháp
Trong tiếng Việt, hình thức cú pháp đƣợc dùng để biểu hiện mối quan
hệ cú pháp là:
- Trật từ từ
Trong tiếng Việt, trật tự từ là phƣơng thức quan trọng nhất. Điều này
thể hiện ở chỗ mỗi kiểu cấu trúc cú pháp tiếng Việt thƣờng đƣợc đặc trƣng
bởi một kiểu trật tự từ nhất định. Chẳng hạn, theo qui tắc, cấu trúc chủ vị
trong tiếng Việt có trật tự C - V (chủ - vị) còn cấu trúc chính phụ có trật tự C -
P (chính - phụ). Sự thay đổi trật tự trên đây sẽ phá vỡ hoặc làm thay đổi bản
chất cấu trúc (so sánh: tôi hỏi và hỏi tôi, xây nhà và nhà xây). Mô hình câu
đơn của tiếng Việt ở dạng điển hình là C - V vốn có tính cố định cao. Trong
khi đó, đối với các ngôn ngữ biến hình trật tự lại tƣơng đối tự do.
- Quan hệ từ (từ nối, kết từ)
Về ngữ pháp, sự có mặt hay vắng mặt của hƣ từ có thể làm thay đổi bản
chất cú pháp của câu. ._.Chẳng hạn, trong câu Trước nguy cơ Tổ quốc bị xâm
lược đã buộc nhân dân ta phải cầm vũ khí chiến đấu sự có mặt của trước đã
làm cho câu sai ngữ pháp.
Về ngữ nghĩa, hƣ từ có tác dụng phân biệt hay làm rõ mối quan hệ ngữ
nghĩa giữa các thực từ. So sánh: gà mẹ khác với gà của mẹ.
- Ngữ điệu
Vai trò quan trọng của ngữ điệu trong cú pháp tiếng Việt thể hiện ở tác
dụng của nó trong việc phân biệt các kiểu cấu trúc cú pháp. Chẳng hạn, nhờ
ngữ điệu (trên văn bản đƣợc biểu hiện bằng dấu câu) mà ta phân biệt đƣợc
cấu trúc chính phụ với cấu trúc đẳng lập trong trƣờng hợp nhƣ: anh tôi (chính
phụ); anh, tôi (đẳng lập). Ngữ điệu cũng giúp cho việc phân biệt cấu trúc
chính phụ với cấu trúc chủ vị. Chẳng hạn, trong Cậu học sinh đang xem ti vi
là em tôi thì “cậu học sinh đang xem ti vi” là cấu trúc chính phụ với yếu tố
phụ “đang xem ti vi” đƣợc phát âm nhẹ hơn và liền với trung tâm “cậu học
sinh”; còn trong Lúc ấy, cậu học sinh vẫn đang xem ti vi thì cậu học sinh vẫn
đang xem ti vi là cụm chủ vị với vị ngữ đang xem ti vi đƣợc phát âm nhấn
mạnh hơn và tách biệt rõ rệt khỏi chủ ngữ.
1.2.3. Cách xác định quan hệ cú pháp trong câu
Tính chất của mối quan hệ cú pháp giữa các từ (các thành tố cú pháp)
trong cấu trúc cú pháp đƣợc xác định dựa vào vai trò cú pháp của chúng. Vai
trò của mỗi thành tố trong cấu trúc đƣợc xác định dựa vào mối quan hệ nội bộ
của cấu trúc (vai trò bên trong hay vai trò “đối nội”) và mối quan hệ với các
yếu tố bên ngoài (hay vai trò “đối ngoại”).
Theo Nguyễn Văn Lộc, việc xác định tính chất của mối quan hệ cú
pháp trong cấu trúc có thể đƣợc thực hiện qua các bƣớc sau:
Bước 1: Xác định vai trò trong cấu trúc của mỗi thành tố.
Vai trò trong cấu trúc của mỗi thành tố đƣợc thể hiện ở hai khía cạnh:
vai trò của các thành tố đối với nhau và vai trò của mỗi thành tố đối với toàn
cấu trúc nói chung.
Vai trò của các thành tố đối với nhau đƣợc đánh giá theo hai mặt: mặt
nội dung và mặt hình thức. Về nội dung, trong hai thành tố của cấu trúc, thành
tố nào có tác dụng bổ sung ý nghĩa cho thành tố kia sẽ là thành tố có vai trò
phụ, thành tố đƣợc bổ sung sẽ là thành tố có vai trò chính. Về hình thức, trong
hai thành tố của cấu trúc, thành tố nào có khả năng thay thế bằng từ nghi vấn
sẽ là thành tố có vai trò phụ, thành tố không có khả năng thay thế bằng từ
nghi vấn sẽ là thành tố chính. Sau khi đã xem xét riêng mặt nội dung và hình
thức, cần xem xét kết hợp cả hai mặt để xác định thành tố chính của cấu trúc
xét trong quan hệ đối với nhau: Thành tố giữ vai trò chính cả về nội dung lẫn
hình thức sẽ đƣợc coi là thành tố chính.
Vai trò của mỗi yếu tố đối với toàn cấu trúc thể hiện ở khả năng chi
phối ý nghĩa và tổ chức hình thức của cấu trúc: Trong hai thành tố của cấu
trúc, thành tố nào quy định bản chất ý nghĩa (ý nghĩa chung, tính đa dạng về
nghĩa) của cấu trúc, tổ chức hình thức của cấu trúc (tính đa dạng về tổ chức,
khả năng cải biến của cấu trúc nhƣ cải biến danh hoá, cải biến bị động, cải
biến vị trí…) sẽ đƣợc coi là thành tố có vai trò quan trọng hơn.
Bước 2: Xác định vai trò của các thành tố trong mối quan hệ với các
yếu tố ngoài cấu trúc (vai trò “đối ngoại”).
Trong hai thành tố của cấu trúc, thành tố nào có khả năng đại diện cho
cấu trúc trong mối quan hệ cú pháp với các thành tố bên ngoài sẽ đƣợc coi là
thành tố có vai trò chính xét về mặt quan hệ bên ngoài.
Bước 3: Xác định vai trò của các yếu tố trong cấu trúc dựa đồng thời
vào vai trò bên trong lẫn vai trò bên ngoài.
Trong hai thành tố của cấu trúc, thành tố nào có vai trò chính cả trong
mối quan hệ bên trong lẫn quan hệ bên ngoài sẽ đƣợc coi là thành tố chính
của cấu trúc.
Theo nguyên tắc trên đây, có thể xác định trong tiếng Việt hai kiểu
quan hệ cú pháp cơ bản và hai kiểu cấu trúc cú pháp tƣơng ứng:
+ Quan hệ đẳng lập: sách và báo. ăn và ngủ…
Trong những cấu trúc kiểu này, mỗi thành tố về hình thức đều có khả
năng thay thế bằng từ nghi vấn (Sách và gì? Gì và báo?), còn về nội dung,
không thành tố nào bổ sung ý nghĩa cho thành tố nào. Trong quan hệ với các
yếu tố ngoài cấu trúc, mỗi thành tố đều có khả năng đại diện cho cả cấu trúc.
Nhƣ vậy, các thành tố trong kiểu cấu trúc này có vai trò ngang nhau. Kiểu
quan hệ trong các cấu trúc này có thể gọi là quan hệ đẳng lập hay quan hệ
bình đẳng.
+ Quan hệ chính phụ (quan hệ phụ thuộc một chiều): bàn gỗ. đọc sách.
giỏi văn…
Trong những cấu trúc kiểu này, các thành tố đứng sau (gỗ, sách) là các
thành tố phụ vì về nội dung, chúng đều bổ sung ý nghĩa cho các từ đứng trƣớc
(gỗ bổ sung cho nhà ý nghĩa về chất liệu, sách bổ sung cho đọc ý nghĩa đối
thể); về hình thức, chúng đều có khả năng thay thế bằng từ nghi vấn (ví dụ:
Nhà gì? Đọc gì?). Các thành tố này cũng không có khả năng chi phối bản chất
ý nghĩa và tổ chức hình thức của cấu trúc.
Trong mối quan hệ với các yếu tố bên ngoài, các thành tố này hoàn
toàn không có khả năng đại diện cho cả cấu trúc. Các thành tố đứng trƣớc có
đặc điểm hoàn toàn trái ngƣợc với các thành tố vừa nhận xét là các thành tố
chính của cấu trúc. Kiểu quan hệ trong các cấu trúc này có thể gọi là quan hệ
phụ thuộc một chiều hay quan hệ chính phụ.
Ngoài hai kiểu quan hệ cú pháp cơ bản trên đây (quan hệ đẳng lập và
quan hệ chính phụ) còn một kiểu quan hệ có đặc tính không hoàn toàn rõ
ràng. Thuộc về kiểu này là:
1) Quan hệ chủ vị: Ví dụ: Mẹ về. Nó ngủ. Nó bận…
Cấu trúc kiểu này lâu nay vẫn đƣợc gọi là cấu trúc chủ vị (cụm chủ vị,
cụm từ tƣờng thuật, mệnh đề). Hầu hết các tác giả nghiên cứu về ngữ pháp
tiếng Việt coi quan hệ chủ vị là quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa hai thành tố
tạo nên cấu trúc nòng cốt của câu. Tuy nhiên, các tác giả theo quan niệm này
có cách nhìn nhận khác nhau về vai trò của chủ ngữ, vị ngữ. Có tác giả coi
chủ ngữ là thành tố có vai trò quan trọng hơn [31]; một số lại coi vị ngữ là
thành tố có vai trò quan trọng hơn. Số còn lại cho chủ ngữ, vị ngữ là hai thành
tố có vai trò ngang nhau.
Khác với các tác giả quan niệm quan hệ chủ vị là quan hệ phụ thuộc lẫn
nhau, V.S.Panfilov cho rằng về bản chất, quan hệ chủ vị cũng chỉ là một dạng
của quan hệ chính phụ trong đó vị ngữ là thành tố chính [41, 77-78]
2) Quan hệ đối ứng: Quan hệ đối ứng lại tồn tại trong một số kiểu câu
ghép nhƣ:
Câu ghép nhân quả: Vì trời mưa nên đường trơn. v.v…
Câu ghép điều kiện - kết quả: Nếu tự vẽ mình sặc sỡ thì ta càng xám xịt. v.v…
Câu ghép nhƣợng bộ: Tuy ngủ ít nhưng ông tỉnh táo lắm. v.v…
Đối với các cấu trúc kiểu này, cũng có hai cách phân tích: a) coi đây là
cấu trúc chính phụ, trong đó, thành tố đứng sau (thành tố chỉ kết quả) là thành
tố chính [15]; b) coi đây là cấu trúc trong đó các thành tố có quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau [24].
Xem xét bản chất của các cấu trúc kiểu đối ứng vừa dẫn ra theo nguyên
tắc xác định trên đây, ta thấy quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc kiểu
này quả là có nét nhất định của tính chất phụ thuộc lẫn nhau. Nét phụ thuộc
lẫn nhau của các thành tố trong kiểu cấu trúc này thể hiện rõ ở mối quan hệ
nội bộ cấu trúc. Về hình thức, mỗi thành tố trong cấu trúc đều có khả năng
thay thế bằng từ nghi vấn (Ví dụ: Ai về? Ai ngủ? Vì sao đường trơn? Vì trời
mưa nên thế nào?). Về nội dung, mỗi thành tố trong cấu trúc đều có tác dụng
nêu đặc điểm ý nghĩa cho thành tố kia (ở cấu trúc chủ vị, chủ ngữ bổ sung cho
vị ngữ ý nghĩa chủ thể hoạt động hay kẻ mang đặc điểm của sự vật do danh từ
hay đại từ làm chủ ngữ biểu thị, còn vị ngữ nêu hoạt động hay đặc điểm của
sự vật do chủ ngữ biểu thị). Tuy nhiên, nếu xem xét những cấu trúc trên đây
theo mối quan hệ ngoài cấu trúc thì có thể nhận thấy ở kiểu cấu trúc này lại có
tính chất chính phụ khá rõ trong đó vai trò chính thuộc về thành tố thứ hai (vị
ngữ trong cấu trúc chủ vị và thành tố chỉ kết quả trong quan hệ đối ứng) vì chỉ
các thành tố này mới có khả năng đại diện cho cả cấu trúc trong mối quan hệ
với bên ngoài.
Xem xét kết hợp cả quan hệ bên trong và quan hệ bên ngoài cấu trúc, ta
thấy việc xếp cấu trúc chủ vị và cấu trúc đối ứng kiểu trên đây vào cấu trúc
chính phụ hay cấu trúc phụ thuộc qua lại đều có cơ sở nhất định và việc lựa
chọn giải pháp nào ở đây phần nào mang tính quy ƣớc và xuất phát từ mục
đích nghiên cứu. Trong luận văn này, chúng tôi chọn giải pháp thứ nhất, tức
là coi kiểu cấu trúc chủ vị và cấu trúc đối ứng kiểu trên đây là cấu trúc chính
phụ vì vai trò chính nghiêng về thành tố đứng sau (vị ngữ và thành tố chỉ kết
quả).
1.3. Sự tƣơng ứng giữa quan hệ ngữ nghĩa - quan hệ cú pháp
Quan hệ ngữ nghĩa và quan hệ cú pháp có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau nhƣng vẫn là hai kiểu quan hệ khác nhau về bản chất và chúng không
phải luôn tƣơng ứng với nhau.
Sự khác nhau giữa quan hệ cú pháp và quan hệ ngữ nghĩa là ở chỗ quan
hệ cú pháp chỉ đƣợc xác định trong mối quan hệ giữa các ý nghĩa ngữ pháp
của từ và luôn có hình thức ngữ pháp riêng để biểu thị, còn quan hệ ngữ nghĩa
đƣợc xác định trong mối quan hệ giữa các nghĩa từ vựng của từ và không có
hình thức ngữ pháp riêng để biểu thị. So sánh các cấu trúc sau đây:
Ví dụ:
(1) Đứa trẻ ra đời.
(2) Sự ra đời của đứa trẻ.
Trong cấu trúc (1) “ra đời” là động từ - thực từ nên về ý nghĩa ngữ
pháp và ý nghĩa từ vựng đều chỉ hoạt động và “đứa trẻ” xét trong quan hệ với
“ra đời” vừa chỉ chủ thể cú pháp vừa chỉ chủ thể nghĩa sâu. Nhƣ vậy, ở cấu
trúc này, nghĩa cú pháp và nghĩa sâu có sự tƣơng ứng với nhau. Trong cấu
trúc (2), theo thừa nhận chung, “ra đời” đã chuyển loại thành danh từ (dấu
hiệu của sự chuyển loại này là khả năng kết hợp của “ra đời” với “sự” - yếu tố
chuyên đi kèm với danh từ). Do đó, trong cấu trúc (2) “đứa trẻ” xét trong
quan hệ với “sự ra đời” có ý nghĩa cú pháp kẻ sở thuộc nhƣng về nghĩa sâu
vẫn chỉ chủ thể hoạt động. Nhƣ vậy, trong cấu trúc (2) nghĩa cú pháp và nghĩa
sâu không tƣơng ứng với nhau. Tuy nhiên, “ra đời” trong cấu trúc (2), khi
chuyển loại thành danh từ, chỉ có ý nghĩa ngữ pháp sự vật tính, còn “về mặt từ
vựng thì nó vẫn chỉ hoạt động, tức là vẫn giữ lại đặc tính từ vựng của mình”.
[10].
Hai cấu trúc trên đây có sự giống nhau về nghĩa sâu nhƣng không giống
nhau về nghĩa cú pháp. Sự khác nhau về nghĩa cú pháp giữa hai cấu trúc này
tƣơng ứng với sự khác nhau về hình thức ngữ pháp giữa chúng: Trong cấu
trúc (1), “đứa trẻ” đứng trƣớc động từ - thực từ và không đƣợc dẫn nối bởi
quan hệ từ; còn trong cấu trúc (2), “đứa trẻ” đứng sau danh từ và đƣợc dẫn
nối bởi quan hệ từ “của” có chức năng biểu thị ý nghĩa kẻ sở thuộc.
Trái với trƣờng hợp trên đây là trƣờng hợp từ không có nghĩa sâu chủ
thể nhƣng lại có nghĩa cú pháp chủ thể. Đây là trƣờng hợp của những cấu trúc
có hạt nhân là các động từ ngữ pháp kiểu nhƣ làm, khiến, bị, được…
Ví dụ:
(3) Sự săn sóc rất chu đáo của ông làm cho tôi lại phải lịm đi. (Vũ
Trọng Phụng. Giông tố)
(4) Tôi hốt hoảng vấp ngã khiến ông phải đƣa tay đỡ vội lấy tôi.
(Nguyễn Huy Thiệp. Những tiếng lòng)
Khi phân tích những cấu trúc kiểu nhƣ trên đây, có tác giả xác nhận các
nhóm danh từ đứng trƣớc các động từ làm, khiến có ý nghĩa nguyên nhân và
gọi chúng là “chủ ngữ nguyên nhân” [35]. Nghĩa nguyên nhân ở đây cần đƣợc
hiểu là nghĩa sâu. Còn về nghĩa cú pháp thì vì các từ làm, khiến vẫn còn là
động từ chứ chƣa trở thành hƣ từ, nên xét trong quan hệ với làm, khiến, các
nhóm danh từ đứng trƣớc vẫn có ý nghĩa cú pháp chủ thể.
Tóm lại, khi xem xét sự tƣơng ứng giữa quan hệ ngữ nghĩa và quan hệ
cú pháp, ta thấy có hai trƣờng hợp:
- Quan hệ ngữ nghĩa có sự tƣơng ứng với quan hệ cú pháp. Đây là
trƣờng hợp của những cấu trúc xuất phát (cấu trúc chƣa đƣợc cải biến):
Ví dụ:
(3) Tôi đánh nó.
“Tôi” - chủ thể trùng với chủ ngữ.
“Nó” - đối thể trùng với bổ ngữ.
- Quan hệ ngữ nghĩa không có sự tƣơng ứng với quan hệ cú pháp. Đối
với trƣờng hợp này, cần phân biệt hai dạng thức cụ thể:
+ Dạng thức trong đó từ ngữ có ý nghĩa cú pháp chủ thể không có
nghĩa sâu chủ thể mà về nghĩa sâu có thể chỉ:
Đối thể: Ví dụ: Nó bị tôi đánh.
Nguyên nhân: Ví dụ: Sự vắng mặt của mẹ khiến tôi lo ngại.
+ Dạng thức trong đó các từ có ý nghĩa sâu chủ thể không có ý nghĩa cú
pháp chủ thể mà về nghĩa cú pháp có thể chỉ:
Kẻ sở thuộc: Ví dụ: Những suy nghĩ của anh ấy.
Nguyên nhân: Ví dụ:
“Con bò rừng này bị hạ sát bởi một tay thợ săn thiện xạ”.
Trong ví dụ trên đây, chủ thể nghĩa sâu của hoạt động hạ sát là một tay
thợ săn thiện xạ. Nhƣ vậy, nhóm danh từ sau bởi có nghĩa sâu chủ thể hoạt
động mà về nghĩa cú pháp lại chỉ nguyên nhân. Nhƣ chúng ta đã biết, bởi là
phƣơng tiện cú pháp chỉ nguyên nhân. Chúng ta có thể chuyển câu này sang
chủ động nhƣ sau: Con bò rừng này đã bị một tay thợ săn thiện xạ hạ sát.
1.4. Một số khái niệm có liên quan khác
Ngoài các khái niệm nói trên, còn cần xác định thêm một số khái niệm
khác.
1.4.1. Khái niệm quan hệ từ
1.4.1.1. Định nghĩa
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học, Nguyễn Nhƣ Ý (chủ biên)
cho rằng: “Hƣ từ cú pháp không đƣợc dùng để diễn đạt các ý nghĩa ngữ pháp
của thực từ này hay khác mà là công cụ diễn đạt các quan hệ logic, các quan
hệ trong cách thức của ngƣời bản ngữ; còn gọi là từ nối” [48, 240].
Cùng với quan niệm đó, trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Đinh
Văn Đức cho rằng: “Các hƣ từ cú pháp không đƣợc dùng để diễn đạt ý nghĩa
ngữ pháp của thực từ này hay khác mà dùng để diễn đạt mối quan hệ giữa
thực từ với thực từ trong các phát ngôn - nghĩa là diễn đạt mối quan hệ giữa
các khái niệm trong tƣ duy của ngƣời bản ngữ. Hƣ từ cú pháp theo đó, cũng là
công cụ diễn đạt các quan hệ logic, các quan hệ trong cách thức phản ánh của
ngƣời bản ngữ. Các hƣ từ cú pháp không làm trung tâm và cũng không làm
thành tố phụ đoản ngữ. Chúng là một thứ phƣơng tiện liên kết “xúc tác” thành
tố phụ với trung tâm, các đoản ngữ, các mệnh đề với nhau trong cấu trúc phát
ngôn. Ngữ pháp truyền thống gọi các hƣ từ cú pháp là liên từ và giới từ.
Trong tiếng Việt còn có những thuật ngữ khác để gọi chúng, chẳng hạn là các
từ nối hoặc quan hệ từ. Thuộc về quan hệ từ tiếng Việt xƣa nay ngƣời ta
thƣờng nhắc tới các từ: bằng, của, cho, để, vì, tại, bởi, do, thì, là, mà, tuy, dù,
dầu, dẫu…” [11, 207].
Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, Diệp Quang Ban gọi quan hệ từ là kết
từ. Theo quan điểm của Diệp Quang Ban, “về ý nghĩa khái quát, kết từ biểu
thị ý nghĩa về quan hệ giữa các khái niệm và đối tƣợng đƣợc phản ánh. Kết từ
là dấu hiện biểu thị các quan hệ cú pháp giữa các thực từ (và hƣ từ) một cách
tƣờng minh. Về khá năng kết hợp và chức năng cú pháp, kết từ đƣợc dùng nối
kết các từ, các kết hợp từ, các câu và đoạn văn có quan hệ cú pháp” [1, 132].
Nói chung, cách hiểu đƣợc thừa nhận rộng rãi về quan hệ từ là: quan hệ
từ là phƣơng tiện tổ hợp cú pháp (phƣơng tiện cú pháp) dùng để dẫn nối các
từ (thực từ), cụm từ. Chúng biểu thị quan hệ cú pháp - ngữ nghĩa giữa các từ
(thực từ), cụm từ (kiểu quan hệ nhân quả, công cụ, mục đích…). Việc quan hệ
từ có biểu thị quan hệ cú pháp hay không là việc còn phải bàn thêm.
Chẳng hạn, các quan hệ từ và, hay, hoặc…dẫn nối các thành tố có quan
hệ đẳng lập (ví dụ: anh hoặc tôi: quan hệ lựa chọn, nó và tôi: quan hệ liệt kê);
còn các quan hệ từ bằng, với, vì, của… dẫn nối thành tố có quan hệ chính phụ
(ví dụ: liên lạc bằng điện thoại…). Về khả năng kết hợp, quan hệ từ gắn với
thành tố đƣợc dẫn nối. Chúng ta có thể nói và tôi, và anh, bằng đũa, của tôi
mà không thể nói anh và, tôi và, ăn bằng, sách của. Chúng ta cũng có thể
dùng hình thức đặt câu hỏi để xác định vị trí của quan hệ từ nhƣ sau: liên lạc
bằng gì? Nó và ai? để tạo thành tổ hợp.
Trong ngôn ngữ có thể gặp phổ biến những trƣờng hợp tuy cùng chỉ ra
một quan hệ cú pháp nhƣng các quan hệ từ khác nhau biểu thị quan hệ ngữ
nghĩa khác nhau.
Ví dụ:
Các quan hệ từ ở, bằng, để cùng dẫn nối các thành tố phụ nhƣng lại chỉ
ra các quan hệ ngữ nghĩa khác nhau:
- “Ăn ở hiệu” chỉ quan hệ về vị trí.
- “Ăn bằng đũa” chỉ quan hệ về công cụ.
- “Ăn để sống” chỉ quan hệ về mục đích.
1.4.1.2. Phân loại
Có hai cách phân loại quan hệ từ:
Theo tính chất của mối quan hệ cú pháp, quan hệ từ thƣờng đƣợc chia
thành:
- Quan hệ từ phụ thuộc (của, bằng, vì, ở, cho, với…)
- Quan hệ từ đẳng lập (và, hay, hoặc…)
Theo đặc điểm của các thành tố đƣợc dẫn nối, quan hệ từ thƣờng đƣợc
chia thành:
- Giới từ (dẫn nối danh từ, ngữ danh từ, đại từ)
- Liên từ (dẫn nối các thành tố có quan hệ đẳng lập và cụm chủ vị)
Trong quá trình tiến hành đề tài này, chúng tôi theo cách phân chia thứ
nhất.
1.4.2. Khái niệm động từ quan hệ
Trong tiếng Việt có một nhóm từ đặc biệt vừa có đặc tính của thực từ
lại vừa có nét của hƣ từ. Thuộc nhóm từ này là những kiểu từ nhƣ: là, trở nên,
trở thành, làm, khiến, có thể, bị, được… Chúng tôi gọi những từ thuộc nhóm
này là những động từ quan hệ.
Về bản chất của nhóm từ này, trong những công trình nghiên cứu về
ngữ pháp tiếng Việt, ý kiến của các tác giả rất khác nhau. Một số tác giả cho
đó là động từ đích thực, một số khác cho là động từ phụ trợ, số còn lại cho
phần lớn những từ trên là hƣ từ. Cách hiểu khác nhau về bản chất của động từ
quan hệ dẫn đến những cách phân tích khác nhau những câu có vị ngữ là
những động từ này. Điều này gây khó khăn cho việc dạy học câu tiếng Việt
nói riêng và ngữ pháp tiếng Việt nói chung.
Sở dĩ có những ý kiến khác nhau về động từ quan hệ trên đây là vì đây
là nhóm từ có đặc tính từ loại rất phức tạp.
Về ngữ nghĩa, chúng vừa biểu thị hoạt động (hiểu theo nghĩa ngữ pháp)
vừa biểu thị mối quan hệ giữa các thực từ trong cấu trúc, nói cách khác, chúng
có chức năng quan hệ.
Về ngữ pháp, chúng vừa có khả năng giữ vai trò trung tâm tổ chức câu
vừa có thể dùng làm phƣơng tiện cải biến câu.
Trong giới hạn của đề tài này, chúng tôi chỉ nghiên cứu các động từ
làm, khiến thuộc nhóm động từ hoạt động - quan hệ nguyên nhân.
1.4.3. Khái niệm kết trị và kết trị của động từ tiếng Việt
Thuật ngữ kết trị (còn đƣợc gọi là hoá trị, ngữ trị) vốn đƣợc dùng đầu
tiên trong hoá học để đánh dấu khả năng của các nguyên tử làm hình thành
các mối liên kết hoá học. [48, 121]
Thuật ngữ này đƣợc dùng trong ngôn ngữ học vào những năm 40 của
thế kỉ XX để “đánh dấu khả năng kết hợp của từng kí hiệu ngôn ngữ có thể có
với các kí hiệu khác để tạo thành giá trị chung nhiều hơn hoặc ít hơn giá trị
của các yếu tố đó cộng lại”. [48, 121]
“Kết trị là khả năng của một yếu tố ngôn ngữ (hoặc nhóm các yếu tố)
kết hợp với yếu tố ngôn ngữ (hoặc nhóm các yếu tố) khác cùng cấp độ; đồng
thời khả năng này đƣợc qui định bằng những đặc điểm hình thức - ngữ nghĩa
bên trong của yếu tố (hoặc nhóm yếu tố) đang xét”. [21, 141]
Nguyễn Văn Lộc trong cuốn “Kết trị của động từ trong tiếng Việt” đã
định nghĩa một cách cụ thể về kết trị của động từ nhƣ sau: “Kết trị của động
từ là khả năng của động từ tạo ra xung quanh mình các vị trí mở cần hoặc có
thể làm đầy bởi những thành tố cú pháp (những thực từ) mang ý nghĩa bổ
sung nhất định. Nói cách khác, kết trị của động từ là thuộc tính của động từ
kết hợp vào mình những thành tố cú pháp bắt buộc hay tự do. Thuộc tính kết
hợp này hàm chứa trong ý nghĩa của bản thân động từ. Nó chính là sự phản
ánh những đòi hỏi hoặc khả năng của động từ đƣợc cụ thể hoá về mặt nào
đó”. [35, 34].
Kết trị của động từ theo cách hiểu trên đây sẽ đƣợc phân biệt với:
a. Khả năng kết hợp từ vựng của từ
Nói đến khả năng kết hợp từ vựng của từ là nói đến khả năng kết hợp
của từ với tƣ cách là cá thể hoặc đại diện của nhóm chủ đề. Khả năng kết hợp
từ vựng bị quy định bởi ý nghĩa từ vựng riêng của từ. Còn nói đến kết trị của
từ là nói đến khả năng kết hợp của từ với tƣ cách là đại diện của từ hoặc tiểu
loại nhất định đƣợc đặc trƣng bởi ý nghĩa từ vựng - ngữ pháp hoặc ý nghĩa
ngữ pháp chung nhất định.
b. Khả năng kết hợp của thực từ với các hư từ
Sự kết hợp của thực từ với các hƣ từ (ví dụ: đã, sẽ, đang…) tạo thành
một tổ hợp đặc biệt dùng trong vai trò tƣơng đƣơng với một thực từ. Trong
những tổ hợp nhƣ vậy, hƣ từ chỉ là những yếu tố bổ sung ý nghĩa thuần ngữ
pháp cho thực từ và hiện thực hoá thuộc tính kết trị của thực từ, chúng không
phải là thành tố cú pháp thực sự.
c. Khả năng kết hợp cú pháp bắt buộc của từ
Kết trị của từ theo cách hiểu trên đây không chỉ là khả năng kết hợp của
từ với các thành tố cú pháp bắt buộc mà còn là khả năng kết hợp của từ với
các thành tố cú pháp tự do.
Kết trị của từ đƣợc xác định theo số lƣợng và đặc tính các vị trí mở bao
quanh nó, còn bản thân số lƣợng và đặc tính của các vị trí mở lại đƣợc xác
định dựa vào số lƣợng và đặc tính của các thành tố cú pháp làm đầy các vị trí
mở này. Nhƣ vậy, xác định và phân tích kết trị của từ thực chất là xác định và
phân tích các thành tố cú pháp làm đầy các vị trí mở bên từ.
Với tƣ cách là thành tố cú pháp, các kết tố của từ mang kết trị đƣợc đặc
trƣng bởi cả hai mặt: mặt nội dung và mặt hình thức, vì vậy, khi xác định
chúng, phải chú ý cả hai mặt này. Về nội dung, mỗi kết tố phải có mối quan
hệ ngữ nghĩa nhất định với từ mang kết trị. Về hình thức, nó phải có khả năng
thay thế bằng từ nghi vấn, tức là có thể dựa vào từ mang kết trị để đặt câu hỏi
về nó. Chẳng hạn, trong cấu trúc “ăn cơm bằng đũa”, ta có thể xác định đƣợc
động từ “ăn” có hai kết tố là “cơm” và “đũa” vì về nội dung hai từ này đều có
tác dụng bổ sung ý nghĩa cho động từ ăn (cơm bổ sung ý nghĩa đối thể, đũa
bổ sung ý nghĩa công cụ). còn về hình thức hai từ này đều có khả năng thay
thế bằng từ nghi vấn (Ăn gì? Ăn bằng gì?)
Kết trị của động từ đƣợc chia thành kết trị bắt buộc và kết trị tự do.
Theo Nguyễn Văn Lộc, “việc phân biệt kết trị bắt buộc và kết trị tự do của
động từ đƣợc dựa vào đặc tính khác nhau của mối quan hệ giữa động từ với
hai kiểu kết tố: kết tố bắt buộc và kết tố tự do. Kết trị bắt buộc là khả năng
của động từ tạo ra xung quanh mình các vị trí mở cần làm đầy bởi các kết tố
bắt buộc; còn kết trị tự do là khả năng của động từ tạo ra xung quanh mình
các vị trí mở có thể làm đầy bởi các kết tố tự do” [35, 52]
Trong quá trình tiến hành đề tài này, khi vận dụng lý thuyết kết trị để
miêu tả các động từ quan hệ, chúng tôi chủ trƣơng đặc biệt chú ý đến kết trị
bắt buộc của động từ. Bởi vì kết trị bắt buộc luôn gắn liền với ý nghĩa từ vựng
- ngữ pháp của động từ. Khi tiến hành xem xét, phân tích kết trị bắt buộc, ta
sẽ phát hiện đƣợc những thuộc tính cú pháp bản chất nhất của động từ.
1.5. Tiểu kết
Trên cơ sở lí thuyết đƣợc chúng tôi tiếp thu và vận dụng quan niệm của
các nhà nghiên cứu ngữ pháp, chúng tôi đƣa ra quan niệm của mình về quan
hệ ngữ nghĩa, phân biệt nó với quan hệ cú pháp, xác định sự tƣơng ứng giữa
quan hệ ngữ nghĩa và quan hệ cú pháp; đồng thời chúng tôi cũng đƣa thêm
một số khái niệm có liên quan đến đề tài, trong đó chúng tôi vận dụng lý
thuyết về “Kết trị của động từ tiếng Việt” của Nguyễn Văn Lộc để tiến hành
khảo sát cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt bằng động
từ quan hệ.
CHƢƠNG 2
CÁC PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ
TRONG CÂU TIẾNG VIỆT
2.1. Nhận xét chung
Mối quan hệ nguyên nhân kết quả (mối quan hệ nhân quả) tồn tại phổ
biến trong hiện thực khách quan và trong ngôn ngữ.
Từ xa xƣa, trong dân gian, nhân dân lao động đã truyền tụng nhau
những câu tục ngữ, thành ngữ: “Ở hiền gặp lành”, “Gieo gió gặt bão”, “Nhân
nào quả ấy”,… để chỉ rõ nguyên nhân kết quả hay hậu quả của một hành
động, việc làm nào đó của sự vật, hiện tƣợng, của con ngƣời trong cuộc sống.
Chẳng hạn, họ cho rằng nếu con ngƣời ăn ở có phúc, không hại ai thì sẽ đƣợc
mọi ngƣời yêu quý, kính trọng và gặp điều may mắn… Đó là một thực tế vẫn
còn giá trị cho đến bây giờ.
Hay trong đạo Phật, các tăng ni, phật tử thƣờng có triết lý “luân hồi
nghiệp báo”, cho rằng: con ngƣời sống ở kiếp này xấu hay tốt là kết quả có
nguyên nhân từ kiếp trƣớc.
Ngày nay, ta cũng thƣờng nghe những câu cửa miệng của mọi ngƣời về
quan hệ nhân quả nhƣ: “Quá mù ra mưa”, “Vì nắng lắm nên mưa nhiều”, “Vì
mưa nhiều nên lụt lội”, “Do phóng nhanh vượt ẩu nên bị tai nạn”,…
Qua những ví dụ trên đây, có thể thấy rằng bất cứ sự kiện, hiện tƣợng
nào cũng có nguyên nhân của nó. Quan hệ nhân quả trong thực tế đƣợc phản
ánh trong mọi ngôn ngữ. Nhƣng trong mỗi ngôn ngữ, mối quan hệ này lại
đƣợc biểu hiện theo những cách khác nhau.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có hai phƣơng thức
biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt, đó là:
- Phƣơng thức biểu hiện quan hệ nhân quả bằng phƣơng tiện ngữ pháp:
bằng các cặp quan hệ từ nhân quả: “vì… nên”, “do… nên”, “bởi… nên”…
Ví dụ:
Tại chị thiệt thà nên chị không muốn hiểu. (Hồ Biểu Chánh. Bỏ chồng)
Ngày xƣa, vì lối đi chƣa đƣợc tiện lợi và nhanh chóng, cho nên nhà vua
lập ra hai trƣờng thi, trƣờng Hà Nội và trƣờng Nam Định để học trò dễ sự thi
cử. (Nguyễn Công Hoan. Sóng vũ môn)
Bởi thầy u tôi mắc nợ nên tôi mới phải chịu khổ thế này. (Thạch Lam.
Đứa con)
Nhờ bà dày công dạy dỗ tập rèn, nên chừng con Quyên đƣợc mƣời sáu
mƣời bảy tuổi thì công ngôn dung hạnh mọi bề đều vẹn vẻ. (Hồ Biểu Chánh.
Cha con nghĩa nặng)
- Phƣơng thức biểu hiện quan hệ nhân quả bằng phƣơng tiện từ vựng -
ngữ pháp: bằng các động từ quan hệ làm, khiến
Ví dụ:
Chính tôi đã làm cho bà mẹ anh trở thành mù loà. (Nguyễn Minh Châu.
Bức tranh)
Lòng tự cao, tự đại thái quá khiến chàng tƣởng rằng, yên trí rằng mình
không yêu. (Khái Hƣng, Nhất Linh. Đời mưa gió)
Mặt trời buổi chiều rọi thẳng ánh nắng vào những tốp máy bay địch,
làm cho chúng nó loé sáng trên nền trời, nhìn rõ từ rất xa. (Nguyễn Đình Thi.
Vào lửa)
Chị bịt đầu bằng chiếc khăn vải kẻ ô vuông buông một vạt dài ra phía
sau khiến những nét thiếu hoà hợp trên mặt càng trở nên thô, càng đỏng đảnh.
(Nguyễn Khải. Mùa lạc)
Dƣới đây, chúng ta sẽ lần lƣợt xem xét cách biểu hiện mối quan hệ
nhân quả bằng các phƣơng tiện nêu trên.
2.2. Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng quan hệ từ
2.2.1. Thành tố nguyên nhân
2.2.1.1. Quan hệ từ chỉ nguyên nhân
Theo tống kê của chúng tôi, các quan hệ từ chỉ nguyên nhân gồm: vì,
do, bởi, bởi vì, tại, tại vì, nhờ. Chúng tôi nhận thấy, quan hệ từ chỉ nguyên
nhân thƣờng có cấu tạo đơn (có 989 trƣờng hợp chiếm 98,9% tổng số tƣ liệu
về quan hệ từ đƣợc khảo sát).
Đây đƣợc coi là những quan hệ từ chính phụ. Quan hệ từ chính phụ
“dùng để dẫn nối thành tố phụ vào thành tố chính (nối kết từ phụ với từ chính,
thành phần phụ với thành phần chính của câu)”. [1, 133]
Ví dụ:
Anh ta trông dữ tợn vì hai con mắt trắng dã trên màu da mun, song bản
tính thực hiền lành chất phác. (Nguyễn Công Hoan. Samandji I.)
Bởi rất yêu và phục chồng, Liên dễ mau đến cái lúc nhìn đời bằng con
mắt của chồng. (Nam Cao. Sống mòn)
Ngƣời đời sung sƣớng hay khổ sở cũng là do số mệnh không ai cƣỡng
nổi mệnh trời. (Vũ Trọng Phụng. Duyên không đi lại)
Do lƣợng ngƣời và phƣơng tiện giao thông qua lại khá đông, nhất là
phƣơng tiện có trọng tải lớn nên cầu xuống cấp, hƣ hỏng nhanh. (Báo Nhân
dân. Ngày 20/10/2007)
Mấy hôm nay, nhờ trời, dân Việt Nam ta không phải phàn nàn rằng
nƣớc ta kém nực. (Nguyễn Công Hoan. Phành phạch)
Đêm hôm đó, nhờ anh can đảm, quân cƣớp bị giải lên huyện. (Nguyễn
Công Hoan. Ngậm cười.)
Nó nghèo, nó khổ, nó đổ là tại số. (Vũ Trọng Phụng. Chống nạng lên
đường.)
Tại chị em nhà cậu tặng tôi mấy cái chén ngọc liệu nên tôi mới nghĩ
đến việc lấy bầu nậm. (Nguyễn Tuân. Ngôi mả cũ)
Dựa vào ý nghĩa, chúng tôi chia các quan hệ từ chỉ nguyên nhân thành
ba nhóm sau:
- Quan hệ từ chỉ nguyên nhân có lợi: nhờ
- Quan hệ từ chỉ nguyên nhân có hại: tại, tại vì
- Quan hệ từ chỉ nguyên nhân có sắc thái ý nghĩa trung hoà: Vì, do, bởi, bởi vì.
Theo khảo sát của chúng tôi, trong 1000 trƣờng hợp có sử dụng quan
hệ từ chỉ nguyên nhân, có 136 trƣờng hợp chỉ nguyên nhân có lợi, chiếm
13,6%; 130 trƣờng hợp chỉ nguyên nhân có hại chiếm 13% và 734 trƣờng hợp
chỉ nguyên nhân có sắc thái trung hoà. Nhƣ vậy, quan hệ từ chỉ nguyên nhân
có sắc thái trung hoà là những quan hệ từ đƣợc sử dụng nhiều nhất. Tuy
nhiên, cách phân loại trên đây chỉ mang tính tƣơng đối do sự đối lập giữa các
quan hệ từ không hoàn toàn rõ ràng.
Dƣới đây, chúng tôi sẽ lần lƣợt miêu tả các nhóm quan hệ từ này.
2.2.1.1.1.Quan hệ từ chỉ nguyên nhân có lợi: nhờ
Nhƣ chúng ta đã biết, quan hệ từ nhờ có nguồn gốc từ động từ nhờ với
ý nghĩa “đề nghị ngƣời nào làm việc gì”, sau, do bị hƣ hóa nên nó trở thành
hƣ từ, dùng để “biểu thị điều sắp nói ra là nguyên nhân dẫn đến kết quả tốt
đẹp, khả quan đƣợc nói đến” [23, 724].
Chẳng hạn trong câu “Nhờ sức che chở của chiếc nón rách, chị chỉ
bƣớc rảo một thôi thì tới cổng nhà Nghị Quế. (Ngô Tất Tố. Tắt đèn), cụm từ
sức che chở của chiếc nón rách đứng sau nhờ nêu điều có lợi giúp chị Dậu
đến đích đƣợc nhanh hơn.
Dƣới đây là một số ví dụ về cách dùng của nhờ:
Nhờ trời phật run rủi, anh ấy còn đƣợc gặp vợ con, nên em hỏi đúng
ngay anh đại uý là bạn chiến đấu cùng một tiểu đội với nhà em. (Ma Văn
Kháng. Thanh minh trời trong sáng)
Mãi lúc chàng lại nghĩ đến Tuyết, và nhờ sự liên tƣởng, cái tên Tuyết
ấy mới giúp chàng tìm ra đƣợc tên Thu. (Khái Hƣng, Nhất Linh. Đời mưa gió)
Đêm hôm ấy, nhờ ngoài Hiệp Mỹ phối hợp, du kích bãi sao mở một
trận địa cuối cùng dài hai cây số từ bãi dài ra khỏi Voi Miễu giết thêm hai
mƣơi tên. (Anh Đức. Một chuyện chép ở bệnh viện)
Nhờ cái tài nịnh hót của nó, Tú Anh nhất định đem gả em gái chonó
đấy. (Vũ Trọng Phụng. Giông tố)
Và chỉ nhờ cái đá xoàng ấy mà tiếng tăm tôi vang rộn, ít nhất là trong
cái xóm này. (Tô Hoài. Dế Mèn phiêu lưu ký)
Ngoài cách dùng riêng nhƣ trên, nhờ còn dùng trong tổ hợp với là về
phía trƣớc và có về phía sau.
Ví dụ:
Vũ dũng nhƣ hắn mà làm đƣợc lí trƣởng là nhờ có cụ. (Nam Cao. Chí Phèo)
Nó chẳng._. nhóm câu này.
Thực ra, chỉ cần lƣợc quan hệ từ vì thì câu nguyên nhân sẽ có đặc điểm hình
thức nhƣ câu kết quả. (So sánh: Vì trời lạnh nên chúng tôi phải đóng kín cửa.
→ Trời lạnh nên chúng tôi phải đóng kín cửa).
3.1.2. Ý kiến trao đổi về cách phân tích cú pháp kiểu câu này
Để có cơ sở nêu ý kiến đề xuất về cách phân tích kiểu câu này, chúng
tôi tiếp thu và vận dụng ý kiến của Nguyễn Văn Lộc về nguyên tắc xác định
thành phần câu. Cụ thể, chúng tôi vận dụng nguyên tắc và thủ pháp xác định
thành phần câu trong tiếng Việt sau đây:
3.1.2.1. Nguyên tắc:
- Chỉ các thực từ mới đƣợc coi là các thành phần cú pháp của câu. Hƣ
từ không có khả năng tham gia vào các quan hệ cú pháp với tƣ cách là thành
tố cú pháp và không đƣợc coi là thành phần câu. Chúng chỉ là các yếu tố giúp
cho thực từ hiện thực hoá một khả năng kết hợp hoặc vai trò cú pháp nhất
định. Trong câu, mỗi thực từ chỉ giữ một chức năng cú pháp.
- Thành phần câu với tƣ cách là phạm trù cú pháp cần đƣợc xác định
trong mối quan hệ cú pháp với các thành phần câu khác. Điều này có nghĩa là
mỗi thành phần câu nhất định phải đƣợc xác định từ hai mặt: ý nghĩa và hình
thức xét trong mối quan hệ với thành phần câu khác hoặc với nòng cốt câu.
3.1.2.2. Thủ pháp xác định thành phần câu
Khi xác định, phân tích các thành phần câu, để tránh sự chủ quan, cảm
tính, đồng thời để phát hiện đầy đủ đặc điểm các thành phần câu; cần dựa vào
những thủ pháp hình thức nhất định. Các thủ pháp hình thức thích hợp với
việc phân tích các thành phần câu tiếng Việt là: lƣợc bỏ, bổ sung, thay thế, cải
biến.
Lược bỏ là bớt một yếu tố nào đó trong câu hoặc trong cấu trúc nhất
định nhằm mục đích xác định vai trò hay mức độ cần thiết của yếu tố đó đối
với việc tổ chức câu hoặc cấu trúc.
Ví dụ:
- Lan xem ti vi ở trong phòng.
- Lan xem ti vi.
- Lan xem.
- Xem tivi.
Thủ pháp lƣợc bỏ cho phép xác định các thành phần bắt buộc và tự do
của câu hay cấu trúc nhất định.
Bổ sung là thêm một yếu tố nào đó vào câu hoặc cấu trúc nhất định với
mục đích xác định đặc tính của yếu tố nào đó hoặc đặc tính của cấu trúc nói
chung. Chẳng hạn, với câu: “Hắn nhận ngay, bởi đang nhọc và khát cho cháy
họng. (Nam Cao), việc có thể bổ sung vào trƣớc phó từ chỉ thời thể đang yếu
tố chỉ chủ thể (ví dụ: Hắn nhận ngay, bởi hắn đang nhọc và khát cho cháy
họng) cho thấy trƣớc phó từ chỉ thời thể đang vẫn còn vị trí mở chƣa đƣợc
làm đầy, nghĩa là có thể cho rằng sau bởi là một cụm chủ vị.
Thay thế là thay một yếu tố trong câu hay cấu trúc nhất định bằng một
yếu tố khác nhằm phát hiện đặc điểm của yếu tố nào đó trong câu hay cấu trúc
đƣợc xem xét. Thay thế bao gồm cả thay thế bằng từ không nghi vấn lẫn thay
thế bằng từ nghi vấn (ví dụ: Lan xem ti vi - Nó xem ti vi - Ai xem ti vi? Lan
xem gì?). Thủ pháp thay thế bằng từ nghi vấn đƣợc dùng để xác định mối
quan hệ và sự phụ thuộc về hình thức giữa các thành phần câu hoặc giữa các
thành tố của cấu trúc nói chung.
Cải biến là “sự biến đổi một cấu trúc bất kỳ thành một cấu trúc khác
đƣợc thực hiện theo một nguyên tắc chung nhất định với điều kiện mối quan
hệ ngữ nghĩa giữa các thực từ tham gia vào sự biến đổi này về cơ bản, vẫn
đƣợc giữ lại” [43, tr 245]. Để đảm bảo diều kiện trên đây, khi thực hiện sự cải
biến, về nguyên tắc, không đƣợc thêm các thực từ đích thực nào vào cấu trúc
đƣợc cải biến.
Theo ý kiến của Nguyễn Văn Lộc, chúng tôi nhận thấy, trong tiếng
Việt có hai kiểu cải biến sau đây:
a. Kiểu cải biến có tính chất thuần ngữ pháp:
Điều kiện của kiểu cải biến này là không đƣợc thêm bất kỳ một thực từ
nào vào cấu trúc đƣợc cải biến và kết quả của kiểu cải biến này là không làm
thay đổi đặc tính cú pháp của cấu trúc và ý nghĩa cú pháp của các thực từ.
Thuộc về kiểu này là những cải biến vị trí nhƣ:
Cháy nhà → Nhà cháy.
Vé hết → Hết vé.
b. Kiểu cải biến từ vựng - ngữ pháp:
Kiểu cải biến này cho phép thêm vào cấu trúc đƣợc cải biến một bán
thực từ, tức là những từ đã bị ngữ hoá nhƣng chƣa trở thành hƣ từ thực sự (ví
dụ: bị, được, làm, khiến, sự, cuộc, nỗi niềm, cái…). Thuộc kiểu cải biến này là
cải biến danh hoá (ví dụ: Anh ấy ra đi - Sự ra đi của anh ấy), cải biến bị động
(ví dụ: Tôi đánh nó - Nó bị tôi đánh), cải biến nguyên nhân (Mẹ lo lắng vì sự
ra đi của anh ấy - Sự ra đi của anh ấy khiến mẹ lo lắng)
Các thủ pháp xác định thành phần câu nêu trên đây đƣợc áp dụng rộng
rãi trong ngôn ngữ học và rất thích hợp, có hiệu quả trong việc nghiên cứu
ngữ pháp đặc biệt là nghiên cứu câu tiếng Việt.
Vận dụng các nguyên tắc và thủ pháp xác định thành phần câu nêu
trên, dƣới đây, chúng ta sẽ xem xét câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc biểu hiện
bằng quan hệ từ ở hai mặt: a) đặc tính của mối quan hệ cú pháp giữa bộ phận
chỉ nguyên nhân và bộ phận chỉ kết quả; b) tính chất đơn, phức (ghép) của
kiểu câu này.
Nhƣ đã nói ở trên, câu có ý nghĩa nhân quả thuộc kiểu cấu trúc đối
ứng. Về bản chất, cấu trúc đối ứng cũng nhƣ cấu trúc chủ vị là kiểu cấu trúc
có đặc tính không hoàn toàn rõ ràng. Nếu xét mối quan hệ nội bộ giữa các
thành tố trong cấu trúc thì có thể thấy tính chất phụ thuộc qua lại giữa các
thành tố khá rõ (xem trang 21). Nhƣng nếu xét cấu trúc trong mối quan hệ với
các yếu tố bên ngoài thì vai trò chính lại thuộc về thành tố thứ hai.
Nhƣ chúng ta đã biết, khi xem xét vai trò của các yếu tố trong cấu trúc
nhất định, tiêu chuẩn khả năng phát sinh mối quan hệ cú pháp với các yếu tố
ngoài cấu trúc thƣờng đƣợc coi là tiêu chuẩn quan trọng. Xét về mặt này, vị
ngữ tỏ ra có ƣu thế hơn so với chủ ngữ. Điều này có thể thấy rõ qua khả năng
lƣợc bỏ các thành tố. Cụ thể:
- Khi hai cụm chủ vị quan hệ với nhau, chỉ chủ ngữ ở một trong hai
cụm (hoặc ở cả hai cụm) có thể lƣợc bỏ, tức là chỉ vị ngữ mới có khả năng đại
diện cho cụm chủ vị quan hệ với cụm kia.
So sánh:
1a. Nếu trời mƣa thì chúng ta nghỉ.→
1b. Nếu mƣa thì chúng ta nghỉ. (+)
1c. Nếu mƣa thì nghỉ. (+)
1d. Nếu trời mƣa thì chúng ta. (-)
1e. Nếu trời thì chúng ta. (-)
- Khi cụm chủ vị quan hệ với một từ ngữ ngoài cụm, cũng chỉ vị ngữ có
khả năng đại diện cho cụm quan hệ với từ ngữ bên ngoài (từ bị lƣợc trong
cụm chỉ có thể là chủ ngữ):
So sánh:
2a. Nó bảo rằng nó bận. →
2b. Nó bảo (rằng) bận. (+)
2c. Nó bảo (rằng) nó. (-)
3a. Ngƣời anh cần gặp đã đến. →
3b. Ngƣời cần gặp đã đến. (-)
3c. Ngƣời anh đã đến. (-)
Nhƣ vậy, theo cách luận giải trên đây thì về bản chất, quan hệ cú pháp
giữa bộ phận chỉ nguyên nhân và bộ phận chỉ kết quả trong những câu nhân
quả thƣờng đƣợc gọi là câu đơn có trạng ngữ chỉ nguyên nhân (ví dụ: Vì nó
mà tôi khổ; Tại anh, tôi đến muộn) và trong những câu nhân quả thƣờng
đƣợc gọi là câu ghép nhân quả (ví dụ: Vì nó lười nên tôi khổ; Vì trời mưa nên
đường trơn) là nhƣ nhau (đều có quan hệ chính phụ, trong đó bộ phận phụ là
bộ phận chỉ nguyên nhân).
Tuy nhiên, cần thấy rằng xét về mức độ phụ thuộc thì sự phụ thuộc của
bộ phận chỉ nguyên nhân và bộ phận chỉ kết quả ở hai dạng câu này có sự
khác nhau nhất định. Việc khảo sát, so sánh về nội dung (ý nghĩa, quan hệ) và
mặt hình thức ngữ pháp của hai dạng câu này cho thấy ở những câu thƣờng
đƣợc gọi là câu đơn có trạng ngữ chỉ nguyên nhân, sự phụ thuộc của trạng
ngữ vào bộ phận nòng cốt câu là sự phụ thuộc gần nhƣ hoàn toàn mang tính
một chiều (quan hệ chính phụ đích thực); còn ở những câu đƣợc gọi là câu
ghép nhân quả thì nhƣ vừa nhận xét ở trên, có cả tính chất phụ thuộc qua lại.
Nếu cho rằng quan hệ từ vì là dấu hiệu chỉ ra sự phụ thuộc thì dấu hiệu này
gần nhƣ thƣờng trực ở trạng ngữ nguyên nhân trong khi có thể vắng mặt ở vế
chỉ nguyên nhân của những câu đƣợc gọi là câu ghép nhân quả:
So sánh:
1a. Vì nó mà tôi khổ. →
1b. Tôi khổ vì nó. (+)
1c. Tôi vì nó mà khổ. (+)
1d. Nó mà tôi khổ. (-)
2a. Vì nó lƣời nên tôi khổ. →
2b. Tôi khổ vì nó lƣời. (+)
2c. Nó lƣời nên tôi khổ. (+)
Nhƣ các ví dụ trên cho thấy, khả năng lƣợc bỏ vì chỉ có thể có trong
trƣờng hợp sau vì là cụm C - V (ở 2c). Chính khả năng lƣợc bỏ vì ở 2c đã làm
giảm tính phụ thuộc (ít ra là về hình thức) của cụm chủ vị chỉ nguyên nhân
vào cụm chủ vị chỉ kết quả đứng sau nó.
Ở trên, chúng ta vừa xem xét tính chất của mối quan hệ giữa các bộ
phận chỉ nguyên nhân, kết quả trong câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc biểu hiện
bằng quan hệ từ. Vấn đề còn lại là việc xác định kiểu loại của câu nhân quả
xét theo quan điểm phân loại câu theo cấu tạo ngữ pháp. (Chúng là câu đơn
hay câu ghép?). Hai dạng câu mà chúng ta xem xét là:
(1) Nhờ sự giúp đỡ của bạn bè, tôi đã tiến bộ nhiều.
(2) Nhờ bạn bè giúp đỡ, tôi đã tiến bộ nhiều.
Nhƣ đã thấy ở trên, theo Cao Xuân Hạo thì cả hai dạng câu nhân quả
đang đƣợc xem xét đều là câu đơn. Cơ sở của cách phân loại này là sự giống
nhau về tính chất của mối quan hệ giữa bộ phận chỉ nguyên nhân và bộ phận
chỉ kết quả ở hai dạng câu đang xem xét (đều là quan hệ chính phụ).
Theo Hoàng Trọng Phiến thì những câu có dạng nhƣ ở (1) là câu đơn
có trạng ngữ chỉ nguyên nhân, còn những câu có dạng nhƣ ở (2) là câu ghép
qua lại. Cách phân loại này rõ ràng là dựa vào số lƣợng cụm chủ vị.
Theo chúng tôi, tiêu chí phân loại khác nhau thì kết quả đƣơng nhiên,
sẽ khác nhau. Hoàng Trọng Phiến dựa vào số lƣợng cụm chủ vị, còn Cao
Xuân Hạo lại dựa vào cụm chủ vị làm nòng cốt, nên kết quả phân loại của hai
tác giả khác nhau. Rõ ràng việc lựa chọn cách phân loại ở đây tuỳ thuộc vào
mục đích nghiên cứu của công trình. Phù hợp với quan niệm coi cấu trúc chủ
vị cũng chỉ là một dạng của cấu trúc chính phụ, chúng tôi sẽ chọn cách phân
tích coi cả hai dạng trên đều là câu đơn. Cơ sở và lợi ích của cách phân tích
này là:
+ Chú ý đến mặt chức năng hơn là cấu trúc (chức năng của 2 bộ phận
chỉ nguyên nhân là nhƣ nhau, đều bổ sung cho bộ phận chỉ kết quả).
+ Khắc phục đƣợc những khó khăn, rắc rối, mâu thuẫn trong việc phân
loại câu. Theo cách phân tích này, những câu sau sẽ đều đƣợc coi là câu đơn,
bất chấp sự khác nhau về tổ chức của bộ phận đứng sau vì:
a. Nó nghỉ ốm.
b. Nó nghỉ vì ốm.
c. Nó nghỉ vì nó ốm.
d. Nó nghỉ vì con nó ốm.
Trong những câu trên đây, tất cả các từ ngữ đứng sau vì đều thể hiện
kết trị nguyên nhân của động từ - vị ngữ nghỉ dù bên nó có hay không có chủ
ngữ đi kèm và đều đó có quan hệ phụ thuộc (là yếu tố phụ) của động từ nghỉ.
Sự xuất hiện của chủ ngữ bên động từ ốm chỉ có tác dụng làm rõ nghĩa cho
động từ này không làm thay đổi bản chất ý nghĩa và chức năng cú pháp của
động từ ốm xét trong quan hệ với động từ - vị ngữ nghỉ.
Theo cách phân tích trên thì những câu nhân quả dƣới đây đều là câu
đơn bất kể sau quan hệ từ nguyên nhân là từ, ngữ hay cụm chủ vị:
Một hôm, do một sự tình cờ, y biết đƣợc tên Tƣ. (Nam Cao. Sống mòn)
Tại hai chén rƣợu vừa uống mà cảm thấy rét hơn lúc bắt đầu uống.
(Nguyễn Khải. Một chiều mùa đông)
Nhờ ánh đèn vặn to, Bính nhận rõ từng nét mặt Năm. (Nguyên Hồng.
Bỉ vỏ)
Vì đèn sáng nên trông rõ lắm. (Nguyễn Công Hoan. Báo hiếu: trả
nghĩa cha)
Tại chị thiệt thà nên chị không muốn hiểu. (Hồ Biểu Chánh. Bỏ chồng)
Bởi thầy u tôi mắc nợ nên tôi mới phải chịu khổ thế này. (Thạch Lam.
Đứa con)
3.2. Vấn đề phân tích ngữ pháp kiểu câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc
biểu hiện bằng động từ quan hệ
3.2.1. Ý kiến của các nhà nghiên cứu về cách phân tích kiểu câu này
Khi phân tích đặc điểm ngữ pháp của các động từ ngữ pháp làm, khiến
Nguyễn Kim Thản đã xếp các động từ này vào cùng nhóm động từ cầu khiến
(bắt, buộc, mời, cấm…) và cùng với cách xếp loại đó, tác giả đã đồng nhất
đặc điểm ngữ pháp của làm, khiến, với đặc điểm ngữ pháp của động từ cầu
khiến mà ông gọi chung là động từ gây khiến, theo đó, mô hình cú pháp cơ
bản của chúng là N1 - V1 - N2 - V2 . Theo Nguyễn Kim Thản, “những động từ
gây khiến thƣờng đòi hỏi có hai bổ ngữ, bổ ngữ thứ nhất bao giờ cũng là một
danh từ biểu thị đối tƣợng mà hoạt động do động từ gây khiến chuyển tới; nói
một cách khác, N2 biểu thị đối tƣợng chịu sự thúc đẩy, giúp đỡ hay cản trở
hoặc đƣợc sự giúp đỡ của N1. Bổ ngữ thứ hai bao giờ cũng do một động từ
biểu thị, động từ V2 biểu thị hoạt động của N2 và là kết quả của sự thúc đẩy,
giúp đỡ, cản trở hay cho phép của N1. Tuy có quan hệ về mặt ý nghĩa nhƣ vậy
nhƣng về mặt ngữ pháp, V2 lại không có quan hệ tƣờng thuật (quan hệ chủ vị)
với N2. Ở trong câu, V2 không phải là vị ngữ vì nó không có thể đƣợc các
hình thức hoá nhƣ một vị ngữ thông thƣờng, ví dụ, không thể đƣợc sự phụ
thêm của những hƣ từ chỉ thể - thời. Trong dạng thức cải biến (4) ở mục 2.3.1,
ta thấy V2 có thể đảo lên đầu câu, hệt nhƣ N2 ở dạng thức (3). Mặt khác, ta có
thể để V2 tồn tại bên cạnh V1 mà không cần N2 nhƣ dạng thức (5) đã chỉ rõ.”
[28, 147 - 148]
Cùng với Nguyễn Kim Thản, Lê Biên [2, 79] cũng coi làm, khiến thuộc
tiểu loại động từ gây khiến đòi hỏi hai bổ ngữ.
Cách phân tích trên đây của Nguyễn Kim Thản không phải hoàn toàn
không có cơ sở. Tuy nhiên, cách phân tích đó chƣa phản ánh sự khác nhau
giữa làm, khiến với động từ cầu khiến.
Theo chúng tôi, ý kiến của Nguyễn Kim Thản chỉ thực sự phù hợp với
các động từ cầu khiến, còn đối với các động từ quan hệ làm, khiến, những
điểm sau đây chƣa đƣợc tác giả chú ý:
- Về mô hình cú pháp, làm, khiến không chỉ có dạng thức N1 - V1 - N2
- V2 mà còn có các dạng thức khác mà động từ cầu khiến không có. Đó là các
dạng thức mà chủ ngữ đƣợc biểu hiện bằng động từ (V - V1 - N2 - V2; ví dụ:
Chiều trẻ làm chúng sinh hư) hoặc cụm chủ vị (SP - V1 - N2 - V2; ví dụ: Anh
cười khiến nó ngượng). Đó còn là dạng thức mà giữa V1(vị ngữ) và N2 - V2
(bổ ngữ) có quan hệ từ cho (N1 - V1 cho N2 - V2; V - V1 cho N2 - V2; SP - V1
cho N2 - V2). Nguyễn Kim Thản hoàn toàn không chú ý đến quan hệ từ cho vì
vậy, sự phân tích của ông không đầy đủ. Vấn đề đặt ra là cho không dẫn nối
cụm chủ vị làm bổ ngữ thì dẫn nối thành tố nào? (N2 hay V2?)
- Về khả năng đƣợc dạng thức hoá, động từ đứng sau làm, khiến không
phải hoàn toàn không có khả năng “đƣợc sự phụ thêm của những hƣ từ chỉ thể
- thời” nhƣ Nguyễn Kim Thản đã nêu ở trên. (Ví dụ: Quy mô của cuộc can
thiệp và hậu quả ngoài ý muốn của nó đủ khiến cho cuộc can thiệp này đang
lấn át mục tiêu chính trị và nhân đạo ban đầu).
- Về khả năng lƣợc bỏ, trong cấu trúc với vị ngữ là các động từ quan hệ
làm, khiến, N2 nói chung, hầu nhƣ không thể lƣợc bỏ nhƣ Nguyễn Kim Thản
đã nhận xét.
Ví dụ:
a. Tối hôm ấy, ông Dự không đi chơi nhƣ mọi tối khiến cho tôi nghĩ
ngợi. (Nguyễn Công Hoan. Thằng Quýt I)
→ Tối hôm ấy, ông Dự không đi chơi nhƣ mọi tối khiến cho nghĩ ngợi. (-)
b. Gió thổi mạnh làm Sơn thấy lạnh và cay mắt. (Thạch Lam. Gió lạnh
đầu mùa)
→ Gió thổi mạnh làm thấy lạnh và cay mắt. (-)
Nhƣ vậy, việc tác giả đã xếp các động từ quan hệ làm, khiến vào cùng
loại với các động từ cầu khiến là không hợp lí.
3.2.2. Ý kiến trao đổi đề xuất
Theo chúng tôi, để xác định đặc điểm cấu tạo của bổ ngữ trong những
câu nhân quả có vị ngữ là các động từ quan hệ làm, khiến, cần xuất phát từ
bản chất ngữ pháp của các động từ giữ vai trò vị ngữ.
Có thể thấy rằng những lí do mà Nguyễn Kim Thản đƣa ra để khẳng
định N2, V2 là hai bổ ngữ của V1 (chứ không phải là hai thành tố có quan hệ
chủ vị làm bổ ngữ của V1) là chƣa đầy đủ và thuyết phục vì:
- Đúng là vị ngữ thƣờng đƣợc hình thức hoá (có khả năng kết hợp vào
mình các yếu tố chỉ thời thể), tuy nhiên, đó là các vị ngữ điển hình. Trong một
số truờng hợp vị ngữ (không điển hình) có thể không đƣợc hình thức hoá.
(xem các ví dụ ở bên dƣới)
- Việc V2 có thể đảo lên trƣớc N2 (chỉ trong một số trƣờng hợp) cũng
không phải là lí do phủ nhận hoàn toàn mối quan hệ chủ vị giữa chúng vì trên
thực tế, vị ngữ có thể đứng trƣớc chủ ngữ:
So sánh:
Nhà cháy → Cháy nhà.
Đừng để nhà cháy. → Đừng để cháy nhà.
- Khả năng lƣợc bỏ N2 cũng không phải là chứng cứ phủ nhận tƣ cách
chủ ngữ của nó xét trong mối quan hệ với V2 vì một cụm chủ vị làm bổ ngữ
hay trạng ngữ vẫn cho phép chủ ngữ của nó lƣợc bỏ.
So sánh:
1a. Nó bảo nó bận không đến đƣợc. →
1b. Nó bảo bận không đến đƣợc.
2a. Hắn sung sƣớng vì hắn đã ghĩ ra điều ấy.→
2b. Hắn sung sƣớng vì nghĩ ra điều ấy.
Theo chúng tôi, coi bổ ngữ của các động từ làm, khiến là cụm chủ vị là
có cơ sở. Ngoài những lí do đã phân tích trên đây, còn hai lí do nữa để lựa
chọn cách phân tích này:
(1) N2 không có khả năng cùng với V1 tạo thành tổ hợp có khả năng
dùng độc lập hoặc dùng với tƣ cách là biến thể rút gọn của cấu trúc lớn hơn,
nghĩa là giữa chúng không thực sự có quan hệ cú pháp.
(2) Quan hệ từ cho không dẫn nối riêng N2 hay V2 mà dẫn nối cả tổ hợp
gồm hai thành tố này.
Trở ngại duy nhất của cách phân tích này là ở chỗ vị từ giữ vai trò vị
ngữ của cụm chủ vị làm bổ ngữ chỉ có khả năng kết hợp hạn chế với các phó
từ chỉ thời thể. Điều này cho thấy cụm chủ vị làm bổ ngữ sau làm, khiến
không phải là cụm chủ vị bình thƣờng. Mối quan hệ giữa chủ ngữ và vị ngữ ở
cụm chủ vị này (đặc biệt trong trƣờng hợp quan hệ từ cho vắng mặt) không
đƣợc hiện thực hoá đầy đủ (nghĩa là bị yếu đi) do mỗi thành tố của cụm chủ vị
ít nhiều bị chi phối bởi động từ - vị ngữ. Sự yếu đi đó gợi sự liên tƣởng đến sự
yếu đi của mối quan hệ chủ vị trong các cụm chủ vị làm bổ ngữ và định ngữ
trong những trƣờng hợp sau đây:
- Trƣờng hợp cụm chủ vị làm bổ ngữ bên các động từ ngữ pháp chỉ
quan hệ bị động (bị, được):
Ví dụ: Chị Tƣ Hậu đƣợc tỉnh và huyện khen.
- Trƣờng hợp cụm chủ vị làm bổ ngữ bên các động từ - thực từ chỉ sự
thụ cảm (nghe, thấy, xem…):
Ví dụ: Chúng tôi nghe thầy giáo giảng bài.
- Trƣờng hợp cụm chủ vị làm định ngữ cho danh từ ngữ pháp việc:
Ví dụ: Việc anh về muộn khiến mẹ lo lắng.
Trong những trƣờng hợp trên đây, trƣớc các động từ khen, giảng, về
hầu nhƣ không thể xuất hiện các phó từ chỉ thời thể.
Tóm lại, do đặc tính không biến hình của từ tiếng Việt nên ranh giới
giữa các quan hệ cú pháp không rõ ràng và có sự chuyển dần, nghĩa là giữa
các kiểu quan hệ cú pháp cũng có những trƣờng hợp trung gian chuyển tiếp
mà quan hệ giữa chủ ngữ và vị ngữ trong những trƣờng hợp đƣợc dẫn trên
đây là những trƣờng hợp cụ thể.
3.3. Tiểu kết
Về cách phân tích kiểu câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc biểu hiện bằng
quan hệ từ, phù hợp với quan niệm coi cấu trúc chủ vị cũng chỉ là một dạng
của cấu trúc chính phụ, chúng tôi chọn cách phân tích coi cả hai dạng sau đây
đều là câu đơn:
(1) Nhờ sự giúp đỡ của bạn bè, tôi đã tiến bộ nhiều.
(2) Nhờ bạn bè giúp đỡ, tôi đã tiến bộ nhiều.
Cơ sở và lợi ích của cách phân tích này là:
+ Chú ý đến mặt chức năng hơn là cấu trúc (chức năng của 2 bộ phận
chỉ nguyên nhân là nhƣ nhau, đều bổ sung cho bộ phận chỉ kết quả).
+ Khắc phục đƣợc những khó khăn, rắc rối, mâu thuẫn trong việc phân
loại câu.
Về cách phân tích kiểu câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc biểu hiện bằng
động từ quan hệ, theo chúng tôi, để xác định đặc điểm cấu tạo của bổ ngữ
trong những câu nhân quả có vị ngữ là các động từ quan hệ làm, khiến, cần
xuất phát từ bản chất ngữ pháp của các động từ giữ vai trò vị ngữ.
KẾT LUẬN
Trên đây, sau khi đã xác định bản chất của mối quan hệ ngữ nghĩa xét
trong mối tƣơng quan với quan hệ cú pháp và bản chất của mối quan hệ nhân
quả, chúng tôi đã tiến hành phân loại và miêu tả hai cách biểu hiện mối quan
hệ nhân quả trong câu tiếng Việt bằng phƣơng tiện cú pháp (quan hệ từ) và
bằng phƣơng tiện từ vựng - ngữ pháp (động từ quan hệ).
Từ những điều trình bày trên đây, chúng tôi thấy có thể rút ra các kết
luận sau:
1. Quan hệ nhân quả với tƣ cách là một kiểu quan hệ ngữ nghĩa, là kiểu
quan hệ có tính phổ quát tồn tại trong tất cả các ngôn ngữ nhƣng trong các
ngôn ngữ khác nhau cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả có sự khác nhau.
Trong tiếng Việt, mối quan hệ nhân quả đƣợc biểu hiện bằng hai phƣơng
thức: bằng quan hệ từ và bằng động từ quan hệ.
2. Quan hệ từ biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong tiếng Việt bao gồm
hai nhóm: quan hệ từ chỉ nguyên nhân và quan hệ từ chỉ kết quả trong đó,
quan hệ từ chỉ nguyên nhân có số lƣợng lớn hơn, tần số xuất hiện cao hơn và
khả năng lƣợc bỏ hạn chế hơn quan hệ từ chỉ kết quả. Trong câu có ý nghĩa
nhân quả đƣợc biểu hiện bằng quan hệ từ, quan hệ giữa bộ phận chỉ nguyên
nhân và bộ phận chỉ kết quả về bản chất, là quan hệ chính phụ trong đó vai trò
chính thuộc về bộ phận chỉ kết quả..
3. Động từ quan hệ biểu thị mối quan hệ nhân quả trong tiếng Việt là
những động từ đã bị “ngữ pháp hoá” ở mức độ nhất định, có đặc tính trung
gian giữa quan hệ từ và thực từ. Hai động từ quan hệ biểu thị quan hệ ngữ
nghĩa nhân quả tiêu biểu trong tiếng Việt là làm, khiến.
Đặc tính trung gian của làm, khiến thể hiện ở chỗ về nghĩa, làm, khiến
vừa chỉ hoạt động (trừu tƣợng, khái quát) vừa chỉ mối quan hệ nhân quả giữa
chủ ngữ và bổ ngữ; về kết trị, làm, khiến đòi hỏi chủ ngữ có nghĩa sâu chỉ
nguyên nhân đƣợc biểu hiện bằng vị từ (ngữ vị từ), cụm chủ vị hoặc bằng
danh từ (ngữ danh từ) mà về nghĩa từ vựng có gắn với hoạt động hay đặc
điểm, tính chất; đồng thời đòi hỏi bổ ngữ là cụm chủ vị (chỉ kết quả) trong đó
mối quan hệ giữa chủ ngữ và bổ ngữ đƣợc hiện thực hóa không đầy đủ.
4. Việc nghiên cứu các phƣơng thức khác nhau biểu hiện mối quan hệ
nhân quả cho phép khẳng định rằng: trong tiếng Việt cũng nhƣ trong các ngôn
ngữ khác, một nội dung ngữ nghĩa có thể đƣợc biểu hiện bằng những hình
thức ngữ pháp khác nhau. Điều này cho thấy ngữ nghĩa và ngữ pháp mặc dù
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhƣng không phải là hai phạm trù đồng
nhất.
5. Việc nghiên cứu cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng các
phƣơng tiện khác tiện khác nhau nói riêng và việc nghiên cứu cách biểu hiện
một quan hệ ngữ nghĩa bằng những hình thức ngữ pháp khác nhau nói chung
là rất cần thiết đối với việc học tập và giảng dạy ngữ pháp tiếng Việt. Tuy
nhiên, đây cũng là vấn đề hết sức phức tạp mà những kết quả đạt đƣợc của
luận văn này mới chỉ có tính chất sơ bộ. Chúng tôi hi vọng rằng vấn đề này sẽ
đƣợc nghiên cứu sâu hơn trong giai đoạn tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diệp Quang Ban (1996), Ngữ pháp tiếng Việt.NXB Giáo dục.
2. Lê Biên (1996), Từ loại tiếng Việt hiện đại. Trƣờng Đại học Sƣ phạm,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Dƣơng Hữu Biên (1998), Quan hệ nghĩa học - chức năng: một phạm
trù cần yếu cho việc phân tích nghĩa của câu. Ngôn ngữ, số 5.
4. Nguyễn Tài Cẩn (1999), Ngữ pháp tiếng Việt. NXB ĐH và THCN.
Hà Nội.
5. Nguyễn Tài Cẩn, Stankevich.N.N (1975), Ngữ pháp tiếng Việt. L.
6. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (2002), Đại cương ngôn ngữ học (tập
1, tập 2). NXB Giáo dục.
7. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2000), Cơ sở
ngôn ngữ học và tiếng Việt. NXB Giáo dục.
8. Nguyễn Đức Dân (1996), Logic và tiếng Việt, NXB Giáo dục.
9. Nguyễn Đức Dân (1990), Logic và hàm ý trong câu trỏ quan hệ nhân
quả. Ngôn ngữ, số 1.
10. Đinh Văn Đức (1978), Về một cách hiểu ý nghĩa từ loại. Ngôn ngữ, số 2.
11. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt. Từ loại, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
12. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết
(2002), Dẫn luận ngôn ngữ học. NXB Giáo dục.
13. Cao Thị Hảo (1998), Phân loại động từ theo kết trị, Luận văn
TNĐH. ĐHSP TN.
14. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng.NXB
KHXH.
15. Cao Xuân Hạo (2003), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt quyển 1, Câu
trong tiếng Việt, NXB Giáo dục.
16. Cao Xuân Hạo (2005), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt quyển 2, Ngữ
đoạn và từ loại, NXB Giáo dục.
17. Phạm Thị Hiền (1998), Động từ ngữ pháp trong tiếng Việt, Luận văn
TNĐH. ĐHPTN.
18. Kasneson. S. D (1988). Nhận xét về lý thuyết cách của Fillmore.
Ch.V.Ja.Số 1.
19. Halliday. M.A.K. (2004), Dẫn luận ngữ pháp chức năng. NXB
ĐHQGHN (Bản dịch của Hoàng văn Vân)
20. Nguyễn Văn Hiệp (2003), Cấu trúc câu tiếng Việt nhìn từ góc độ
ngữ nghĩa. Ngôn ngữ, số 2.
21. Kasevich. V.B. (1998), Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại
cương. NXB Giáo dục. (Trần Ngọc Thêm, chủ biên và hiệu đính)
22. Lƣơng Thị Hồng Nhung (1998), Vai trò của các thủ pháp hình thức
trong việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, Luận văn TNĐH. ĐHSPTN.
23. Hoàng Phê (2004), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng và Trung tâm
Từ điển học.
24. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt. Câu, NXB Đại học
và THCN.
25. John Lyons (2006), Ngữ nghĩa học dẫn luận, NXB Giáo dục (bản
dịch của Nguyễn Văn Hiệp).
26. Nguyễn Hữu Quỳnh (1980), Ngữ pháp tiếng Việt hiện đại, NXB
Giáo dục.
27. Nguyễn Kim Thản (1963), Nghiên cứu về Ngữ pháp tiếng Việt Tập 1,
2, NXB Khoa học Xã hội.
28. Nguyễn Kim Thản (1995), Động từ trong tiếng Việt, NXB Khoa học
Xã hội.
29. Lý Toàn Thắng (2000), Về cấu trúc ngữ nghĩa của câu. Ngôn ngữ, số 5.
30. Nguyễn Thị Thìn (2003), Câu tiếng Việt và nội dung dạy - học câu ở
trường phổ thông, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
31. Nguyễn Minh Thuyết (1982), Chủ ngữ trong tiếng Việt, Tóm tắt luận
văn Phó tiến sĩ. Leningrad.
32. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (1998), Thành phần câu
trong tiếng Việt, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.
33. Nguyễn Thị Hạnh Phƣơng (1999), Các đơn vị ngữ pháp có đặc tính
trung gian trong tiếng Việt, Luận văn TNĐH. ĐHSP Thái Nguyên
34. Nguyễn Văn Lộc (1995), Kết trị của động từ tiếng Việt, NXB Giáo dục.
35. Nguyễn Văn Lộc (2003), Thử nêu một định nghĩa chủ ngữ trong
tiếng Việt. Ngôn ngữ, số 3.
36. Nguyễn Văn Lộc (2004), Động từ ngữ pháp trong tiếng Việt, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ. ĐHSPTN.
37. Nguyễn Văn Lộc (2005), Cần chú ý hiện tượng đồng hình khi dạy cú
pháp tiếng Việt. Tạp chí Giáo dục, số 3.
38. Nguyễn Văn Lộc (2008), Tìm hiểu những nhân tố chi phối hiện
tượng tỉnh lược thành phần câu tiếng Việt. Ngôn ngữ, số 4.
39. Nguyễn Văn Lộc (2008), Nghiên cứu một số biện pháp nâng cao
năng lực thực hành về từ và ngữ pháp tiếng Việt cho sinh viên năm thứ nhất ở
trường Đại học Sư phạm và Cao đẳng sư phạm miền núi, Đề tài nghiên cứu
khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Bộ. ĐHSPTN.
40. Panfilov.V.S. (1993), Cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt. Xanh Pêtébua.
41. Raspopov.I.R. (1981), Một vài nhận xét về cái gọi là cấu trúc ngữ
nghĩa của câu. V. Ja. Số 4.
42. Sonlseva. N. V. (1992), Sự chi phối của tác thể với động từ. Ngôn
ngữ. Số 1.
43. S.E.Jakhontov. (1971), Nguyên tắc của việc xác định các thành phần câu
trong tiếng Hán(trong tập: Các ngôn ngữ Trung Quốc và Đông Nam Á, 11)
44. Trần Ngọc Thêm (1999), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, NXB
Giáo dục.
45. Uỷ ban Khoa học xã hội (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB KHXH.
46. Văn Tân (1997), Từ diển tiếng Việt, H.
47. Wallace L. Chafe (1998), ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ (Bản
dịch của Nguyễn Văn Lai), NXB Giáo dục.
48. Nguyễn Nhƣ Ý, Hà Quang Năng, Đỗ Việt Hùng, Đặng Ngọc Lệ
(2003), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo dục.
NGUỒN NGỮ LIỆU TRÍCH DẪN
49. Báo Nhân dân
50. Báo An ninh thế giới
51. Anh Đức (2006), Hòn đất. Nxb Văn học.
52. Anh Đức (2007), Một chuyện chép ở bệnh viện - Văn chương một
thời để nhớ. Nxb Văn học.
53. Hồ Anh Thái (2004), Cõi người rung chuông tận thế. Nxb Đà Nẵng
54. Bộ giáo dục và đào tạo, (2005). Văn học lớp 11, tập 1. Nxb Giáo dục.
55. Hồ Biểu Chánh (2005), Bỏ chồng. Nxb Phụ nữ.
56. Hồ Biểu Chánh (2005), Bỏ vợ. Nxb phụ nữ.
57. Hồ Biểu Chánh (2005), Cay đắng mùi đời. Nxb Văn hoá Sài gòn.
58. Hồ Biểu Chánh (2005), Cha con nghĩa nặng. Nxb Văn hoá Sài Gòn.
59. Hồ Biểu Chánh (2005), Đoá hoa tàn. Nxb Phụ nữ.
60. Hồ Biểu Chánh (2005), Khóc thầm. Nxb phụ nữ.
61. Hồ Biểu Chánh (2003), Nhân tình ấm lạnh. Nxb Hội nhà văn.
62. Hồ Biểu Chánh (2005), Thầy thông ngôn. Nxb văn hoá sài gòn.
63. Hoàng Phê (2004), Từ điển tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng.
64. Khái Hƣng, Nhất Linh (2001), Đời mưa gió. Nxb Văn nghệ TPHCM
65. Khái Hƣng, Nhất Linh (2006), Gánh hàng hoa. Nxb Đồng Nai.
66. Khái Hƣng, Nhất Linh (2007), Nửa chừng xuân. Nxb Văn hoá Sài Gòn.
67. Lữ Huy Nguyên (2000), Tuyển tập Nguyễn Tuân. Nxb Văn học.
68. Ma Văn Kháng (2003), Chó Bi đời lưu lạc - Côi cút giữa cảnh đời -
Cỏ tơ. Nxb Công an Nhân dân.
69. Ma Văn Kháng (2003), Mùa lá rụng trong vườn - Đám cưới không
có giấy giá thú. Nxb Hội nhà văn.
70. Ma Văn Kháng (2003), Truyện ngắn chọn lọc. Nxb Hội nhà văn.
71. Nam Cao (2003), Những tác phảm tiêu biểu trước 1945. NXb Giáo dục.
72. Nam Cao (2001), Sống mòn - Tác phẩm và dư luận. Nxb Văn học.
73. Ngô Tất Tố (2005), Tắt đèn. Nxb Văn học.
74. Ngô Tự Lập (2008), Mộng du và những chuyện khác. Nxb văn học.
75. Nguyễn Công Hoan (2004), Truyện ngắn chọn lọc. Nxb Văn học.
76. Nguyễn Đình Thi (2001), Truyện. Nxb văn học.
77. Nguyên Hồng (2005), Bỉ vỏ - Những ngày thơ ấu. Nxb Văn học.
78. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tiểu long nữ. Nxb Công an nhân dân
79. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tuyển tập truyện ngắn. Nxb Văn hoá Sài Gòn.
80. Nguyễn Khải (2006), Truyện ngắn - Văn chương một thời để nhớ.
Nxb Văn học.
81. Nguyễn Ngọc Tƣ (2005), Cánh đồng bất tận. Nxb Trẻ.
82. Nguyễn Ngọc Tƣ (2004), Tập truyến ngắn Giao thừa. Nxb Trẻ.
83. Nguyễn Nhật Ánh (2005), Bàn có năm chỗ ngồi. Nxb Trẻ.
84. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Những chàng trai xấu tính. Nxb trẻ.
85. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Nữ sinh. Nxb trẻ.
86. Nguyễn Quang Sáng (2004), Chiếc lược ngà. Nxb Trẻ.
87. Nguyễn Quang Sáng (2005), Nó và tôi - Quán rượu người câm. Nxb
Hội nhà văn.
88. Nguyễn Thị Thu Huệ (2004), 37 truyện ngắn. Nxb Hội nhà văn.
89. Nguyễn Tuân (2004), Truyện ngắn. Nxb Văn học.
90. Thạch Lam (2004), Tuyển tập truyện ngắn. Nxb Văn học.
91. Tô Hoài (2006), Ba người khác. Nxb Đà Nẵng.
92. Tô Hoài (2003), Dế mèn phiêu lưu ký. Nxb Văn học.
93. Tô Hoài (2004), Tạp văn, truyện ngắn. Nxb Hội nhà văn.
94. Tôn Thảo Miên (tuyển chọn) (2004), Tuyển tập truyện ngắn Vũ
Trọng Phụng. Nxb Văn học.
95. Văn Tân (chủ biên) (1997), Từ điển tiếng Việt. H.
96. Vũ Trọng Phụng.(2003), Giông tố. Nxb văn học.
97. Vũ Trọng Phụng (2002), Số đỏ. Nxb Văn học.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9040.pdf