Các tổ chức tài chính

Một nền kinh tế lành mạnh và ổn định không thể thiếu được những kênh dẫn vốn từ những người có tiền nhưng muốn chi tiêu ít tới những người ít tiền nhưng muốn chi tiêu nhiều. Trong nền kinh tế thị trường người ta quan tâm nhiều tới thị trường tài chính trung gian hơn là thị trường tài chính vì nó tạo ra nguồn tài chính cho các doanh nghiệp nhiều hơn. Các tổ chức tài chính trung gian là các tổ chức tài chính thực hiện chức năng dẫn vốn từ người có vốn tới người cần vốn. Tuy nhiên không như dạng t

doc15 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2028 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các tổ chức tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài chính trực tiếp người cần vốn và người có vốn trao đổi trực tiếp với nhau ở thị trường tài chính, các trung gian tài chính thực hiện sự dẫn vốn thông qua một cầu nối nghĩa là người người cần vốn muốn có được vốn phải thông qua người thứ ba, đó chính là các tổ chức tài gián tiếp hay các tổ chức tài chính trung gian. Các tổ chức tài chính trung gian có thể là các ngân hàng, các công ty chứng khoán, các hiệp hội cho vay, các liên hiệp tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính. I - NGÂN HÀNG Để xem xét một ngân hàng hoạt động như thế nào trước hết chúng ta cần xem xét bảng quyết toán của ngân hàng đó. Nó là bảng kê các tài sản nợ và có của ngân hàng Tổng tài sản có = tổng tài sản nợ + vốn Mặt khác bản quyết toán của một ngân hàng còn liệt kê các nguồn vốn của ngân hàng (tài sản nợ) và sử dụng vốn (tài sản có). Các ngân hàng thu nhận vốn qua việc đi vay hoặc phát hành các tài sản nợ khác như các tài khoản tiền gửi. Sau đó họ dùng vốn này để có được các tài sản có ví dụ như các chứng khoán hoặc các khoản tiền cho vay. Thu nhập của các ngân hàng từ tài sản chứng khoán và các khoản tiền cho vay bù đắp lại chi phí cho các tài sản nợ do nó phát hành mà thu được một lợi nhuận như ý muốn. Tài sản nợ Các tài khoản có thể phát séc là những tài khoản ở một ngân hàng, người chủ sở hữu có quyền được phát séc cho những người thuộc bên thứ 3. Nó bao gồm tất cả các tài khoản sau: tài khoản séc không có lãi, các tài khoản NOW có lãi, các tài khoản supper NOW và các tài khoản tiền gửi ở thị trường tiền tệ. Tiền gửi phi giao dịch: là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng. Chúng có đặc tính chung là được hưởng tiền lãi và chủ của chúng không được quyền phát séc. Mức lãi suất của chúng thường cao hơn tiền gửi tài khoản séc vì những người gửi tiền đó không được hưởng nhiều dịch vụ như đối với tài khoản séc. Tiền gửi phi giao dịch gồm 2 loại chính: tài khoản gửi tiết kiệm và tiền gửi kì hạn. Vốn của ngân hàng Nó được tạo ra bằng cách bán cổ phẩn mới hoặc từ các món lợi tức được giữ lại. Tài sản có Tiền dự trữ: tất cả các ngân hàng đều phải giữ lại một phần trong số vốn mà họ huy động được để gửi vào ngân hàng Trung ương. Tiền dự trữ bao gồm tiền dự trữ bắt buộc và tiền dự trữ thanh toán. Theo luật định ngân hàng Trung ương đòi hỏi cứ một đồng huy động vốn, các ngân hàng phải gửi vào ngân hàng trung ương một tỉ lệ nào đó, tỉ lệ này được gọi là tỉ lệ dự trữ bắt buộc, tiền dự trữ thanh toán là tiền dự trữ vượt quá. - Tiền mặt trong quá trình thu. - Tiền gửi ở các ngân hàng khác. - Các chứng khoán đây là tài khoản có mang lại thu nhập mang lại thu nhập quan trong cho các ngân hàng. - Tiền cho vay: các ngân hàng thu lợi chủ yếu từ việc cho vay. - Những tài sản khác là các vốn hiện vật như cơ sở vât chất kỹ thuật. Ở việt nam hiện nay căn cứ vào tính chât và mục tiêu hoạt động,các loại hình ngân hàng gồm - Ngân hàng thương mại - Ngân hàng đầu tư và phát triển - Ngân hàng chính sách - Ngân hàng hợp tác, quĩ tín dụng và các loại hình ngân hàng khác Cho đến nay, ngành ngân hàng nước ta đã trải qua 55 năm (6.5.1951-6.5.2006) xây dựng và phát triển, với nhiều chặng đường gay go và phức tạp nhưng vẫn ổn định và phát triển tốt. Đặc biệt là chặng đường từ năm 1986 cho đến nay, chặng đường đổi mới căn bản và toàn diện của hệ thống ngân hàng VN. Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện theo tinh thần của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm1986), Chủ tịch HĐBT (nay là Thủ tướng chính phủ) ký quyết định số 218/CT ngày 3.7.1987 cho làm thử việc chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN (làm thử đầu tiên tại TP.HCM từ tháng 7.1987, Hà Nội, Gia Lai...), sau đó tổng kết và Chủ tịch HĐBT đã ban hành Nghị định 53/HĐBT ngày 26.3.1988 đổi mới mô hình tổ chức bộ máy ngân hàng VN, với sự ra đời của hệ thống ngân hàng chuyên doanh. Đến năm 1990, cơ chế đổi mới ngân hàng được hoàn thiện thông qua việc công bố hai Pháp lệnh ngân hàng vào ngày 24.5.1990 (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước VN và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính) đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống NHVN từ “một cấp” sang “hai cấp”. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng, là ngân hàng duy nhất được phát hành, là ngân hàng của các ngân hàng, là ngân hàng của Nhà nước…, còn hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng do các tổ chức tín dụng thực hiện. Các tổ chức tín dụng bao gồm: ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính. Tháng 12.1997 trước yêu cầu cao của thực tiễn hai Pháp lệnh ngân hàng đã được Quốc hội nâng lên thành hai luật về ngân hàng (có hiệu lực từ ngày 1.10.1998) và sau đó Luật NHNN và Luật các TCTD được sửa đổi và bổ sung vào năm 2003, 2004.  Như vậy, hệ thống ngân hàng thương mại VN đã chính thức đánh dấu sự ra đời và phát triển khoảng trên 15 năm (từ 1990 đến nay). Trải qua chặng đường trên, hệ thống NHTM VN đã không ngừng phát triển về quy mô (vốn điều lệ không ngừng gia tăng, mạng lưới chi nhánh…), chất lượng hoạt động và hiệu quả trong kinh doanh.   Mạng lưới ngân hàng thương mại VN đến cuối năm 2005 đã có những buớc phát triển mạnh phủ khắp quận huyện và hình thành cả trong các trường học. Hệ thống NHTM ở nước ta bao gồm: 5 NHTM nhà nước (Ngân hàng ngoại thương VN, Ngân hàng đầu tư và phát triển VN, Ngân hàng công thương VN, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long), 36 NHTM cổ phần đô thị và nông thôn, 29 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 04 ngân hàng liên doanh. Trong đó Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn VN có mạng lưới rộng nhất với hơn 100 chi nhánh cấp 1 và 2000 chi nhánh cấp 2-4 phủ khắp huyện và cả hệ thống ngân hàng lưu động.  Vốn điều lệ của các NHTM VN không ngừng gia tăng, NHTMNN sau nhiều lần bổ sung vốn đã nâng tổng vốn chủ sở hữu của 05 NHTMNN lên trên 20.000 tỷ đồng tăng gấp 3 lần so với thời điểm cuối năm 2000. Vốn điều lệ của NHTMCP được gia tăng đáng kể từ lợi nhuận giữ lại, sáp nhập, các quỹ bổ sung vốn điều lệ, phát hành thêm cổ phiếu… từ đó giúp tổng vốn điều lệ NHTMCP đến cuối năm 2005 tăng gấp 5 lần so với năm 2000, nhiều NHTMCP có vốn điều lệ trên 500 tỷ đồng-1000 tỷ đồng.  Hệ thống NHTM VN đã có những đóng góp quan trọng cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong nhiều năm qua. Với nhiều hình thức huy động vốn tương đối đa dạng, NHTM VN đã huy động vốn hàng trăm tỷ đồng (năm 2005 tăng gấp 30 lần so với năm 1990-trên 600.000 tỷ đồng, tại TP.HCM các NHTM huy động đến cuối năm 2005 là 184.600 tỷ đồng gấp 2,8 lần so với năm 2001) từ các nguồn vốn trong xã hội, tăng dư nợ cho vay với mọi thành phần kinh tế (dư nợ năm 2005 tăng 40 lần so với năm 1990, tại TP.HCM dư nợ cho vay cuối năm 2005 của các NHTM 170.200 tỷ đồng gấp 3 lần so với năm 2001), tăng đầu tư vào những chương trình trọng điểm quốc gia, qua đó góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao (GDP tăng bình quân 7.5% trong 5 năm 2001-2005), góp phần tạo công ăn việc làm cho xã hội (trong 5 năm 2001-2005 cả nước tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động), góp phần xóa đói giảm nghèo (tỷ lệ hộ nghèo còn 7%) và làm giàu hợp pháp. Nhiều dịch vụ tiện ích (chi lương, thu chi hộ, thanh toán chuyển khoản, chuyển tiền tự động, dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ thẻ…) và nhiều sản phẩm mới xuất hiện đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư và sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế…  Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam (VBSP) là một cơ quan tài chính của Chính phủ, có nhiệm vụ triển khai các chương trình cung cấp tài chính cho người nghèo và doanh nghiệp nhỏ. VBSP được thành lập tháng 10 năm 2002 và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 1, 2003.  VBSP có 64 chi nhánh và 592 văn phòng giao dịch tại các tỉnh thành.  Tính đến 31 tháng 12, 2005, tổng số vốn cho vay chưa được thu hồi của VBSP là 18.4 nghìn tỷ đồng (1,152 triệu đô la Mỹ). Tuy các ngân hàng là tổ chức tài chính mà chúng ta thường giao dịch nhất, nhưng không phải tất cả các tổ chức tài chính đều chỉ là các ngân hàng. Giả sử bạn mua bảo hiểm của một công ty bảo hiểm, vay một món trả dần của một công ty tài chính để mua một xe hơi mới, hoặc mua một số cổ phiếu qua sự giúp đỡ của một người môi giới. Trong mỗi vụ giao dịch này bạn đang giao tiếp với một tổ chức tài chính phi ngân hàng. Trong nền kinh tế của chúng ta, các tổ chức tài chính phi ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc khơi các nguồn vốn từ những người cho vay - từ người tiết kiệm tới người vay - những người chi tiêu y như một ngân hàng. Hơn thế, quá trình đổi mới tài chính (ở Mỹ) đã tăng tính quan trọng của các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Qua đổi mới, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cạnh tranh trực tiếp hơn với các ngân hàng qua các dịch vụ tương tự như hoạt động ngân hàng. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng chủ yếu hoạt động như thế nào và họ được điều hành ra sao? II- CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH PHI NGÂN HÀNG CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM Các nguyên tắc quản lý bảo hiểm Các công ty bảo hiểm, tương tự như các ngân hàng, thực hiện kinh doanh trung gian tài chính chuyển tài sản từ một dạng này thành một dạng khác cho công chúng. Các công ty bảo hiểm sử dụng phí bảo hiểm thu được nhờ bán các hợp đồng bảo hiểm để đầu tư vào các tài sản có, ví dụ như các trái phiếu, các cổ phiếu, các món vay thế chấp hoặc các món vay khác...; rồi từ những tài sản có này được dùng thanh toán cho những yêu cầu đòi bồi thường theo các hợp đồng đã bán. Thực tế, các công ty bảo hiểm chuyển các tài sản có, ví dụ như các trái phiếu, cổ phiếu và các món cho vay thành các hợp đồng bảo hiểm, việc đó tạo ra nhiều dịch vụ (ví dụ, dàn xếp khiếu nại đòi bồi thường, các chương trình tiết kiệm, các đại lý bảo hiểm tin cậy). Nếu quá trình sản xuất chuyển đổi tài sản của một công ty bảo hiểm cung cấp có hiệu quả cho khách hàng của mình những dịch vụ bảo hiểm xứng đáng với giá hạ và nếu nó thu được lợi tức cao trong các vụ đầu tư của mình thì nó sẽ tạo ra lợi nhuận; còn nếu không thì nó sẽ chịu tổn thất. Trong trường hợp một hợp đồng bảo hiểm, rủi ro đạo đức xảy ra khi có bảo hiểm sẽ khuyến khích bên được bảo hiểm mang lấy rủi ro, việc này làm tăng khả năng của một vụ thanh toán bảo hiểm. Chọn lựa đối nghịch xảy ra khi những người dễ nhận được nhất các tiền bảo hiểm lớn là những người muốn mua bảo hiểm nhất. Ví dụ, một người đang bị một chứng bệnh khó qua khỏi sẽ muốn mua hợp đồng bảo hiểm y tế sinh mạng lớn nhất có thể có; vì thế công ty bảo hiểm này bị đặt trước những tổn thất tiềm ẩn to lớn. Cả lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức đều có thể đưa đến các tổn thất lớn cho các công ty bảo hiểm bởi vì chúng tạo ra những khoản thanh toán cao cho các khiếu nại đòi bảo hiểm. Do đó việc làm tối thiểu hóa lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức để giảm các khoản thanh toán này là một mục tiêu cực kỳ quan trọng đối với các công ty bảo hiểm và mục tiêu này giải thích một loạt các phương thức thực hành bảo hiểm sau đây: Sàng lọc. Để giảm bớt sự lựa chọn đối nghịch, các công ty bảo hiểm cố gắng sàng lọc những người mang bảo hiểm rủi ro tốt khỏi những người mang bảo hiểm rủi ro tồi. Do vậy các phương thức tập hợp thông tin có hiệu quả là một nguyên tắc quan trọng trong quản lý bảo hiểm. Phí bảo hiểm rủi ro. Đối với công ty bảo hiểm, việc thu phí bảo hiểm trên cơ sở mức độ rủi ro của một người được bảo hiểm (được gọi là các phí bảo hiểm rủi ro) là một nguyên tắc quản lý bảo hiểm đúng đắn. Những điều khoản hạn chế. Những điều khoản hạn chế trong các hợp đồng là một công cụ quản lý để giảm bớt rủi ro đạo đức. Các điều khoản như vậy làm những người giữ hợp đồng nản lòng không thực hiện những hoạt động rủi ro làm cho một khiếu nại bồi thường bảo hiểm khó có thể xảy ra. Một điều khoản hạn chế người giữ hợp đồng hưởng lợi vì hành vi cư xử khiến cho một khiếu nại đòi bồi thường dễ có thể xảy ra. Việc phòng ngừa gian lận. Các công ty bảo hiểm cũng đối mặt với rủi ro đạo đức bởi vì một nhân viên bảo hiểm có ý muốn nói dối công ty và tìm cách có một khiếu nại đòi bồi thường cho dù khiếu nại này không có căn cứ. Ví dụ, một người đã không tuân theo các điều khoản hạn chế của một hợp đồng bảo hiểm có thể vẫn muốn tìm kiếm một khiếu nại. Tệ hơn, một người có thể đưa ra những khiếu này mà thực tế đã không xảy ra. Như vậy, một  nguyên tắc quản lý quan trọng cho những công ty bảo hiểm là thực hiện những cuộc điều tra ngăn ngừa gian lận, để chỉ những người khiếu nại có căn cứ mới nhận được bồi thường. Hủy bỏ bảo hiểm. Sẵn sàng hủy bỏ các hợp đồng là một công cụ quản lý bảo hiểm khác. Các công ty bảo hiểm có thể kiềm chế rủi ro đạo đức nếu họ đe dọa hủy bỏ một hợp đồng khi người nào đó đang bảo hiểm có những hoạt động mà dễ khiếu nại đòi bồi thường. Nếu công ty bảo hiểm ôtô của bạn cho thấy lái xe nào bị quá nhiều phiếu quá tốc độ họ sẽ hủy bỏ quyền bảo hộ của anh ta điều đó sẽ làm bạn bỏ ý muốn chạy quá tốc độ. Khoản khấu trừ. Khoản khấu trừ là một khoản tiền cố định được khấu trừ từ tổn thất của người được bảo hiểm khi được thanh toán. Các khoản khấu trừ là một công cụ quản lý phụ cấp cho các công ty bảo hiểm giảm rủi ro đạo đức. Khoản khấu từ là phần bạn gánh chịu một tổn thất cùng với công ty bảo hiểm khi khiếu nại đòi bồi thường được thực hiện. Bởi vì bạn cũng bị tổn thất khi gặp một tai nạn, nên bạn sẽ lái xe cẩn thận hơn. Như thế một khoản khấu trừ khiến cho người được bảo hiểm hành động phù hợp hơn vớ những gì có lợi cho công ty mà người đó mua bảo hiểm; tức là, rủi ro đạo đức đã được giảm xuống. Do rủi ro đạo đức đã được giảm, nên chi phí bảo hiểm của công ty đã hạ thấp hơn cả so với mức phải bồi thường là nhờ tác dụng của khoản khấu trừ. Đồng bảo hiểm. Khi một người được bảo hiểm cùng gánh chịu một tỉ lệ tổn thất với công ty bảo hiểm, sự dàn xếp như thế được gọi là đồng bảo hiểm. Ví dụ, một số chương trình bảo hiểm y tế đảm nhận 80% hóa đơn thanh toán y tế và người được bảo hiểm thanh toán 20% sau khi số tiền khấu trừ nào đó được thỏa mãn. Đồng bảo hiểm có tác dụng giảm rủi ro đạo đức hoàn toàn giống như các thức mà một khoản khấu trừ tác động. Do người được bảo hiểm phải gánh chịu một tổn thất cùng với công ty bảo hiểm, người đó giảm bớt ý muốn thực hiện những hoạt động như là việc đi chữa bệnh một cách không cần thiết- việc có liên quan đến các khiếu nại muốn đòi bồi thường nhiều tiền hơn. Như thế, đồng bảo hiểm là một công cụ quản lý khác rất hữu ích cho các công ty bảo hiểm. Những giới hạn của số tiền bảo hiểm. Một nguyên tắc quan trọng khác của việc quản lý bảo hiểm là phải có những giới hạn đối với số tiền của bảo hiểm được cung cấp, mặc dù một khách hàng sẵn lòng thanh toán để có thêm tiền bồi thường. Tiền bồi thường bảo hiểm càng lớn thì người được bảo hiểm càng dễ tham gia hơn trong các hoạt động rủi ro, khiến cho việc thanh toán bảo hiểm dễ có thể xảy ra và do đó rủi ro đạo đức lớn hơn. Các công ty bảo hiểm phải luôn luôn đảm bảo rằng tiền bồi thường bảo hiểm của hộ không cao đến mức để rủi ro đạo đức dẫn đến các tổn thất lớn. Toàn bộ các nguyên tắc quản lý bảo hiểm này - việc giới hạn số tiền bảo hiểm, đồng bảo hiểm, khoản khấu trừ, việc hủy bỏ bảo hiểm, ngăn ngừa gian lận, và các điều khoản hạn chế - giúp các công ty bảo hiểm giảm bớt chọn lựa đối nghịch cũng như rủi ro đạo đức. Như chúng ta đã thấy, các công cụ quản lý này làm cho những người được bảo hiểm khó kiếm lợi bằng cách thực hiện những hoạt động làm tăng số tiền bồi thường. Với những lợi nhuận nhỏ hơn có thể có được, những người mang rủi ro bảo hiểm tồi (tức là những người dễ có thể thực hiện những hoạt động mạo hiểm), thấy có ít lợi trong bảo hiểm do đó ít có thể tìm đến bảo hiểm. Ví dụ, một người có bệnh sắp chết ít có thể mua bảo hiểm sinh mạng nếu số tiền bồi thường theo hợp đồng đó là nhỏ. Trái lại, người đó sẽ ráo riết hoạt động để có một hợp đồng bảo hiểm nếu số tiền nói trên là lớn. Những công cụ quản lý bảo hiểm làm giảm rủi ro đạo đức và do đó cũng làm giảm chọn lựa đối nghịch nhờ thế giúp tăng được tính sinh lợi của các công ty bảo hiểm. Để công việc quản lý có hiệu quả, đòi hỏi một số biện pháp thực hành: tập hợp thông tin và sàng lọc những người có xu thế mua bảo hiểm các phiếu bảo hiểm dựa trên cơ sở rủi ro, các điều khoản hạn chế việc ngăn ngừa gian lận, hủy bỏ bảo hiểm, các khoản khấu trừ, đồng bảo hiểm, và những mức giới hạn đối với sô tiền bảo hiểm. Tất cả những phương thức thực hành này dùng để giảm rủi ro đạo đức và chọn lựa đối nghịch Bảo hiểm là một lĩnh vực rất quan trọng đối với các quốc gia nói chung và với Việt Nam nói riêng. Không chỉ là một biện pháp di chuyển rủi ro, bảo hiểm ngày nay đã trở thành một trong những kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Thực tế hoạt động kinh doanh bảo hiểm thời gian qua đã cho thấy sự lớn mạnh không ngừng của ngành bảo hiểm và nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai. Tuy nhiên, thị trường bảo hiểm Việt Nam đang được đa dạng hóa với tốc độ cao, sức ép mở cửa thị trường và thách thức hội nhập ngày càng lớn. Ngành bảo hiểm Việt Nam sẽ phải làm gì để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đáp ứng yêu cầu của tiến trình hội nhập? Kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh rủi ro, chia sẻ tổn thất với khách hàng, sản phẩm bảo hiểm là những dịch vụ mang tính đặc thù, riêng có, trừu tượng nhưng lại rất cụ thể, và thực tế hơn tất cả những sản phẩm khác trên thị trường một khi những điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm được thực thi kịp thời, hiệu quả. Đối với khách hàng, đóng phí bảo hiểm là để mua lấy sự yên tâm trong công việc, chia sẻ lo ngại về những mầm mống rủi ro có thể xảy ra trong cuộc sống. Đối với cộng đồng, bảo hiểm góp phần to lớn trong việc điều hòa cán cân thu nhập, điều tiết lợi ích và ổn định xã hội…. Thị trường bảo hiểm ở nước ta trong những năm gần đây đã rất sôi động, đa dạng. Số lượng công ty hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày càng tăng; các loại hình sở hữu đa dạng ở cả bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ, thuộc cả ba lĩnh vực bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự; tính cạnh tranh của các công ty đã và đang từng bước thoả mãn tốt hơn nhu cầu của các khách hàng. Trên thị trường bảo hiểm đã xuất hiện nhiều sản phẩm mới và khá độc đáo trên cơ sở kết hợp giữa các yếu tố tiết kiệm - đầu tư bảo vệ, được công luận đánh giá cao như sản phẩm bảo hiểm tai nạn cá nhân cho người sử dụng thẻ ATM, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm của người chăn nuôi và sản xuất thức ăn gia cầm, bảo hiểm bệnh hiểm nghèo… Tốc độ tăng doanh thu phí của bảo hiểm Việt Nam ở mức khá cao so với thế giới và khu vực. Một số công ty bảo hiểm tuy mới đi vào hoạt động nhưng cũng đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao như Bảo Minh, Prudential, PJICO… Vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm tăng lên và theo đó khả năng giữ lại phí bảo hiểm trong nước cũng được nâng lên tương ứng. Qui định của nhà nước về tái bảo hiểm bắt buộc qua VINARE đã giúp mức phí giữ lại của toàn thị trường tăng đều qua các năm. Tổng mức phí giữ lại chiếm khoảng 70% tổng phí bảo hiểm gốc, giảm được một lượng không nhỏ phí bảo hiểm chảy ra nước ngoài. Theo đánh giá của HHBHVN, hiện nay doanh thu phí bảo hiểm của thị trường mới đạt mức trên 2% GDP trong khi các nước phát triển trong khu vực thường đạt mức 8-10% GDP (bình quân thế giới khoảng 8%) do đó, tiềm năng phát triển của các DN bảo hiểm vẫn còn rất lớn. Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã có đủ khả năng phục vụ các ngành kinh tế, các tầng lớp nhân dân với việc tham gia vào nhiều hợp đồng có mức trách nhiệm lớn tới hàng tỷ USD như bảo hiểm trong các lĩnh vực hàng không; dầu khí; Nhà máy xi măng Chinfon, Nhà máy điện Phú Mỹ, các toà nhà, khách sạn lớn cùng với hàng nghìn nhà xưởng, văn phòng… Hoạt động đầu tư của các công ty đang tạo ra một nguồn vốn lớn cho xã hội. Các công ty bảo hiểm Việt Nam đang tích cực hợp tác, giúp đỡ nhau cùng có lợi. Các công ty bảo hiểm đã có được bản đồng thoả thuận về khai thác bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt. Đặc biệt, sự ra đời của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đại diện cho các doanh nghiệp cũng thể hiện những bước tiến tích cực của bảo hiểm ViệtNam. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng, thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Năng lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm còn khá nhiều hạn chế. Việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN bảo hiểm đang ở tình trạnh báo động. Do cạnh tranh gay gắt, các DN bảo hiểm đã hạ phí bảo hiểm, tăng phần trợ cấp cho các đại lý, làm giảm hiệu quả kinh doanh. Công tác giải quyết bồi thường chưa được thực hiện tốt, chưa đảm bảo tối đa quyền lợi của khách hàng khi gặp thiệt hại. Các sản phẩm bảo hiểm tuy đã đa dạng hơn trước, nhưng vẫn còn hạn chế, chưa phát triển trong nhiều lĩnh vực quan trọng như thiên tai, nông nghiệp, tín dụng và rủi ro tài chính, hoạt động hành nghề y dược, luật sư, dịch vụ kế toán, kiểm toán… Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt chưa thực sự được đẩy mạnh trong khi hàng năm, ở nước ta, tai nạn do cháy nổ vẫn gia tăng với tốc độ cao một cách đáng báo động. Bên cạnh yếu tố chủ quan từ các công ty, có thể thấy sự thiếu hoàn thiện của hệ thống văn bản pháp luật và công tác quản lý Nhà nước cũng đang ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển lành mạnh của ngành bảo hiểm. Việc mở cửa thị trường sẽ vừa tạo ra cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và bản thân các công ty bảo hiểm trong nước nói riêng. Bắt đầu từ ngày 1/1/2008, theo cam kết WTO, thị trường bảo hiểm của Việt Nam sẽ thực sự mở cửa hoàn toàn, với việc cho phép công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được cung cấp dịch vụ bảo hiểm bắt buộc. Lúc đó, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh lớn hơn, khi sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường bảo hiểm Việt Nam nhiều hơn, sâu hơn và rộng hơn. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực từ rất nhiều phía: các cơ quan Nhà nước, các công ty bảo hiểm trên thị trường, cũng như những cá nhân, tổ chức khác có lên quan. Các công ty tài chính Các công ty tài chính thu hút vốn bằng cách phát hành thương phiếu cổ phiếu, trái khoán và dùng tiền thu được để cho vay đặc biệt thích hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Quá trình trung gian tài chính cua các công ty tài chính có thể được mô tả bằng cách họ vay những món tiền lớn nhưng lại thường cho vay những món tiền nhỏ. Một đặc điểm then chốt của công ty tài chính là ở chỗ họ gần như không bị điều hành. Có 3 dạng công ty tài chính: - Các công ty tài chính bán hàng: thực hiện các món cho vay cho những người tiêu dùng để mua các món hàng từ một nhà bán lẻ hoặc một nhà sản xuât riêng. - Các công ty tài chính người tiêu dùng thực hiện các món cho vay cho người tiêu dùng để mua những món hàng riêng - Các công ty tài chính kinh doanh: cung cấp các dạng tín dụng đặc biệt cho các doanh nghiệp bằng cách mua những khoản tiền sẽ thu có triết khấu. CÁC CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH Các công ty cho thuê tài chính cung cấp tín dụng trung, dài hạn thông qua thông qua các hợp đồng thuê tài sản với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng được mua lại với giá ưu đãi hoặc được tiếp tục thuê tài sản đó theo điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê. Công ty cho thuê tài chính II - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (viết tắt là ALC II), là doanh nghiệp Nhà nước đơn vị thành viên hạch toán độc lập của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt nam, ngân hàng lớn nhất Việt Nam về vốn và mạng lưới chi nhánh trong toàn quốc. Do vậy Công ty cho thuê tài chính II luôn có nguồn lực tài chính vững chắc v khả năng tiếp cận, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng. Với chức năng chủ yếu là cho thuê tài chính, ALC II đã và đang hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp thuộc mọi ngành và thành phần kinh tế đầu tư trang bị, đổi mới máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác. Bằng việc nhập khẩu trực tiếp, với đội ngũ nhân viên am hiểu xuất, nhập khẩu và thanh toán quốc tế qua ngân hàng, chắc chắn ALC II sẽ đáp ứng được yêu cầu của những dự án đầu tư thiết bị nhập khẩu phức tạp của Quý khách, giúp cho Quý khách tiết kiệm được thời gian, tiền bạc. Với mối quan hệ và nguồn thông tin phong phú đã được thiết lập với gần 200 nhà cung ứng hàng hóa có uy tín trên thế giới, ALC II sẵn sàng tư vấn miễn phí với Quý khách về các loại máy móc thiết bị, những nhà cung cấp có uy tín trong và ngoài nước. ALC II sẵn sàng thực hiện việc bảo lãnh trong những trường hợp có liên quan đến lĩnh vực cho thuê tài chính. ALC II đang đáp ứng nhu cầu hiện đại hóa máy móc, thiết bị của trên 650 doanh nghiệp trong và ngoài nước với trên 1200 dự án thuê trị giá trên 1200 tỷ đồng. Dịch vụ mà ALC II cung cấp đã và đang được các nhà doanh nghiệp quan tâm, đánh giá cao và ủng hộ. CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN Các công ty chứng khoán là một tổ chức ở thị trường chứng khoán, thực hiện trung gian tài chính thông qua các nghiệp vụ chủ yếu sau: Môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng Mua bán chứng khoán bằng nguồn vốn của mình để hưởng chênh lêch giá Trung gian phát hành và bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các đơn vị phát hành Tư vấn đầu tư và quản lý đầu tư Ở Việt Nam các công ty chứng khoán còn khá non trẻ, chúng ta đã đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động từ năm 2002. Có một số công ty chứng khoán như công ty chứng khoán cổ phần dầu khí Việt Nam, công ty chứng khoán Tân Việt, công ty chứng khoán ngân hàng Công Thương…. Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC) là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tiền thân là Công ty Tài chính Dầu khí, thành lập ngày 19/6/2000 với phương châm hoạt động “Vì sự phát triển vững mạnh của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam”. Trải qua chặng đường xây dựng và phát triển, đến nay, PVFC đã trở thành một định chế tài chính mạnh của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam và là một trong những tổ chức tín dụng có tốc độ phát triển nhanh, thương hiệu Tài chính Dầu khí Việt Nam được khẳng định trên thị trường tài chính trong nước và bước đầu vươn ra thế giới. Với chức năng chủ yếu là thu xếp nguồn vốn cho Tập đoàn, vận hành sinh lời và hiệu quả nhất mọi nguồn tài chính của ngành Dầu khí, tạo lập công cụ tài chính hỗ trợ chính sách nhân viên củaTập đoàn, nhiều sản phẩm mang tính sáng tạo của PVFC đã lần lượt ra đời, trở thành những sản phẩm đặc trưng, góp phần tạo nên nét riêng của PVFC trên thị trường như: đồng tài trợ, uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, tư vấn và môi giới đầu tư, tư vấn cổ phần hóa doanh nghiệp. Bên cạnh đó, PVFC là một nhà tư vấn tài chính và chuyển đổi cấu trúc tài chính, đưa các doanh nghiệp ngành Dầu khí gắn với hoạt động của thị trường vốn. Sự phát triển nhanh, mạnh của PVFC ngày càng thể hiện vai trò là một định chế vững mạnh của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam. Ngày 18/03/2008, PVFC chính thức chuyển thành Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam. Đây là bước chuyển mình từ Công ty 100% vốn Nhà nước lên Tổng Công ty cổ phần. Điều này đã thay đổi căn bản cơ chế hoạt động và quản lý doanh nghiệp. Điều kiện thuận lợi, nền tảng phát triển để PVFC đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, đặt mục tiêu đến năm 2010 trở thành Tập đoàn Tài chính. Trên lộ trình đi lên Tập đoàn, PVFC sẽ mở rộng mạng lưới cả trong nước và quốc tế, đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh, củng cố bộ máy vững mạnh, đội ngũ cán bộ năng động và chuyên nghiệp, hoàn thiện quy chế quản lý giữa Tổng công ty và các đơn vị thành viên, tập trung phát triển các sản phẩm trọn gói cho khách hàng về tín dụng, đầu tư và các dịch vụ tài chính. Hai sản phẩm mũi nhọn mà PVFC chú trọng sau cổ phần hoá là đầu tư tàichính và tư vấn tài chính. Bên cạnh đó, các dịch vụ nền tảng của PVFC như thu xếp vốn, quản lý vốn và tài sản, nghiệp vụ thẩm định, bao thanh toán, các sảnphẩm dịch vụ cá nhân và dịch vụ tài chính... sẽ tiếp tục được duy trì và cải tiến để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn. Xu thế hội nhập và toàn cầu hoá sẽ mang đến cho mọi doanh nghiệp Việt Nam nói chung, PVFC nói riêng nhiều cơ hội và thách thức, nhưng với niềm tin, khát vọng chinh phục và hướng đi đúng đắn, PVFC sẽ trở thành “Tập đoàn Tài chính hùng mạnh, có thương hiệu trong khu vực và quốc tế”. Đây là khát vọng đồng thời cũng là niềm hãnh diện của toàn thể các thành viên trong “Ngôi nhà chung PVFC”. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22303.doc
Tài liệu liên quan