Các tập đoàn xuyên quốc gia và vai trò của chúng trong thư¬ơng mại quốc tế và vấn đề đối với Việt Nam

Tài liệu Các tập đoàn xuyên quốc gia và vai trò của chúng trong thư¬ơng mại quốc tế và vấn đề đối với Việt Nam: MỤC LỤC Lời nói đầu Chơng 1: Giới thiệu chung về công ty xuyên quốc gia 1.1. Khái niệm công ty xuyên quốc gia 1.2. Nguồn gốc và sự phát triển của công ty xuyên quốc gia 1.2.1. Nguồn gốc của công ty xuyên quốc gia 1.2.2. Sự phát triển của công ty xuyên quốc gia 1.3. Bản chất và đặc trưng của các công ty xuyên quốc gia 1.3.1. Bản chất của công ty xuyên quốc gia 1.3.2. Đặc trưng của công ty xuyên quốc gia 1.4. Tổ chức và thể chế quản lý của công ty xuyên quốc gia 1.4.1. Tổ chức hoạt... Ebook Các tập đoàn xuyên quốc gia và vai trò của chúng trong thư¬ơng mại quốc tế và vấn đề đối với Việt Nam

doc102 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các tập đoàn xuyên quốc gia và vai trò của chúng trong thư¬ơng mại quốc tế và vấn đề đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động 1.4.2. Thể chế quản lý Chơng2.Vai trò của công ty xuyên quốc gia trong thương mại quốc tế 2.1. Thực trạng của các công ty xuyên quốc gia 2.2. Các công ty xuyên quốc gia với việc thúc đẩy thương mại quốc tế 2.2.1. Thương mại nội bộ giữa các chi nhánh trong công ty xuyên quốc gia 2.2.2. Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các nước 2.3. Các công ty xuyên quốc gia tác động thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế 2.3.1. Sự thay đổi trong cơ cấu hàng hoá 2.3.2. Sự thay đổi trong cơ cấu đối tác 2.4. Các công ty xuyên quốc gia chi phối giá cả trong thương mại quốc tế Chương 3 Một số vấn đề cho Việt Nam đợc rút ra từ việc nghiên cứu vai trò của công ty xuyên quốc gia trong thơng mại quốc tế. 3.1. Tác động của các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế quốc dân Việt Nam 3.1.1. Tác động tích cực 3.1.2. Tác động tiêu cực 3.2. Thuận lợi và khó khăn hiện nay của Việt Nam trong việc thu hút các công ty xuyên quốc gia 3.2.1. Thuận lợi 3.2.2. Khó khăn 3.3. Một số gợi ý cho Việt Nam Kết luận Phụ lục Tài liệu tham khảo LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính tất yếu của đề tài: Trong những năm gần đây, quá trình toàn cầu hoá đã thúc đẩy sự phát triển và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia, đồng thời dẫn đến những thay đổi sâu sắc trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế thế giới. Tính quốc tế hoá cao của nền kinh tế thế giới được tăng cường trong vai trò ngày càng lớn của các công ty xuyên quốc gia. Nói đúng hơn, trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế, các công ty xuyên quốc gia đóng vai trò then chốt. Trong thế giới toàn cầu hoá kinh tế, công ty xuyên quốc gia là động lực quan trọng cho sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá trên toàn thế giới nói chung và cho từng quốc gia nói riêng. Đối với nền kinh tế quốc gia, chúng góp phần nâng cao trình độ, phát triển kỹ thuật, làm biến đổi cơ cấu kinh tế ngành thông qua chuyển giao và nâng cao trình độ công nghệ, mở rộng thị trường, nâng cao trình độ quản lý góp phần tăng trưởng cho các nền kinh tế. Các công ty xuyên quốc gia cũng có tác động tích cực đến các hoạt động thương mại, đầu tư trực tiếp, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cũng như phát triển các nguồn lực khác. Có thể nói rằng, hiện nay các công ty xuyên quốc gia là đế chế kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế quốc tế, là đầu nối các nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế quốc tế. Việt Nam là nước có nền kinh tế đi sau, trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ thì việc tham gia vào hệ thống các công ty xuyên quốc gia là con đường ngắn nhất để hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Do đó, việc nghiên cứu về công ty xuyên quốc gia có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.Theo đó ,đề tài “Các tập đoàn xuyên quốc gia và vai trò của chúng trong thương mại quốc tế và vấn đề đối với Việt Nam” 2.Mục đích: Việt Nam đang tham gia vào tổ chức thương mại WTO vì vậy nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một bài toán khó nan giải cho các nhà kinh tế .Với đề tài “Các tập đoàn xuyên quốc gia và vai trò của chúng trong thương mại quốc tế”, khoá luận tập trung chủ yếu vào các vấn đề, đó là làm rõ lý luận về công ty xuyên quốc gia, thực tế hoạt động và đánh giá vai trò của chúng trong thương mại quốc tế. Trên cơ sở đó, khoá luận rút ra một số vấn đề cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế. 3.Đối tượng và phạm vi: 3.1.Đối tượng nghiên cứu: Các công ty ở nước ngoài đã thành công trong việc xây dựng và phát triển công ty thành các tập đoàn kinh tế hùng mạnh trên thế giới. 3.2 phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các công ty ở các nước phát triển và các nước có điều kiện tương đồng với Việt Nam trong khoảng thời gian năm 1990 đến năm 2003 4: phương pháp nghiên cứu: suy luận biện chứng,phân tích và so sánh,thống kê 5: Kết cấu đề tài Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, khóa luận gồm 3 chương : Chơng 1: Giới thiệu chung về công ty xuyên quốc gia Chơng 2: Vai trò của công ty xuyên quốc gia trong thương mại quốc tế Chơng 3: Một số vấn đề cho Việt Nam được rút ra từ việc nghiên cứu vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong thương mại quốc tế. CHƯƠNG1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA 1.1 khái niệm về công ty xuyên quốc gia: Sự phát triển liên tục của công ty xuyên quốc gia về quy mô, cơ cấu tổ chức, phương thức sở hữu từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay đã làm nảy sinh rất nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về công ty xuyên quốc gia. Mặc dù đều thừa nhận rằng các công ty xuyên quốc gia phải là những công ty độc quyền lớn, hoạt động trên phạm vi quốc tế và có thể gọi là công ty đa quốc gia hay công ty xuyên quốc gia tuỳ theo tiến trình phát triển nhận thức chung về loại hình công ty này. Tuy nhiên trên thế giới vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về công ty xuyên quốc gia. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng trên thị trường quốc tế đã và đang tồn tại nhiều loại công ty khác nhau. Cụ thể là: - Công ty xuyên quốc gia (Transnational Corporation) là công ty tư bản độc quyền mà tư bản sở hữu (vốn) của một nước (cũng có nghĩa là mang quốc tịch của một nước nhất định), thực hiện kinh doanh ở nước ngoài bằng hình thức thiết lập các công ty, các xí nghiệp phụ thuộc vào nó. Ví dụ, công ty Sony là một tập đoàn tư bản Nhật Bản. Trong quá trình kinh doanh, nó từng bước thực hiện việc xây dựng các chi nhánh ở các nước Đông, Đông Nam Á và một số nước khác thì đó là một công ty xuyên quốc gia. - Công ty đa quốc gia (Multinational Corporation) cũng là công ty tư bản độc quyền thực hiện thiết lập các chi nhánh ở nước ngoài để tiến hành các hoạt động kinh doanh quốc tế, nhng khác với công ty xuyên quốc gia ở chỗ tư bản thuộc sở hữu của công ty mẹ là của hai hoặc nhiều nước. Ví dụ: công ty mẹ “Royal Ducth/Shell Group” và công ty mẹ “Unilever” có vốn sở hữu của các chủ tư bản Anh và Hà Lan (tài sản tương ứng là 111,543 tỷ USD và 46,922 tỷ USD), công ty mẹ “Fortis” thuộc sở hữu của Bỉ và Hà Lan (tài sản 177 tỷ USD) là những công ty mẹ đã thiết lập hàng trăm chi nhánh ở nhiều nước trên thế giới. Vì sở hữu của công ty thuộc chủ tư bản của hai nước, do đó người ta gọi chúng là công ty thuộc dạng công ty đa quốc gia, hay còn gọi là công ty liên quốc gia, công ty siêu quốc gia. Như vậy, quan niệm này có sự phân định rõ hai loại hình công ty hoạt động trên phạm vi quốc tế. Đó là công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia. Sự phân định này chủ yếu căn cứ vào vốn của công ty thuộc sở hữu của chủ tư bản một nước hay nhiều nước và từ đó liên quan đến tập đoàn lãnh đạo quản lý công ty. Nếu là công ty xuyên quốc gia thì tập đoàn lãnh đạo quản lý công ty thuộc về các nhà tư bản của một nước. Còn nếu là công ty đa quốc gia thì hội đồng quản trị lãnh đạo công ty gồm các nhà tư bản có cổ phần ở nhiều nước khác nhau. Sự phân định về những tiêu chuẩn này chủ yếu vẫn căn cứ vào công ty mẹ chứ không căn cứ vào công ty hoặc xí nghiệp chi nhánh. Ví dụ: Exxon là công ty mẹ mà vốn của nó thuộc về các nhà tư bản có quốc tịch Mỹ (tổng tài sản trên 80 tỷ USD). Công ty Exxon đã thực hiện việc mở rộng thị trờng quốc tế, thiết lập nhiều chi nhánh ở các nước khác nhau mà chúng ta gọi nó là công ty xuyên quốc gia. Khi công ty thiết lập chi nhánh ở nớc ngoài, thực hiện liên doanh với các doanh nghiệp nớc chủ nhà, trong hội đồng quản trị của xí nghiệp chi nhánh có các nhà quản lý người địa phương, thậm chí thuê các nhà quản lý của một nước thứ ba, nguồn vốn có thể thuộc quyền sở hữu của hai, ba nước vẫn không làm thay đổi tính chất công ty xuyên quốc gia của công ty mẹ. Ngời ta không gọi nó là công ty đa quốc gia vì theo cơ chế tổ chức, các công ty chi nhánh tuy có sự độc lập tương đối nhưng vẫn phụ thuộc vào công ty mẹ và chịu sự chi phối của công ty mẹ ở mức độ khác nhau. Sự phân định như trên về công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia có tính hợp lý nhất định, đã coi trọng tiêu chuẩn tư bản sở hữu vì đây là tiêu chuẩn có ý nghĩa quyết định đến mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của một công ty. Có một vấn đề cần chú ý ở đây là trong số 500 công ty lớn nhất thế giới hiện nay chỉ có 3 công ty là thuộc sở hữu của các nhà tư bản ở hai nước. Số còn lại, 497 công ty (99,4% tổng số công ty) thuộc sở hữu của tư bản chỉ của một nước. Không có công ty nào thuộc sở hữu của ba nước trở lên. Điều đó có nghĩa là tính chất “đa quốc gia” của các công ty mẹ là rất thấp. Mặt khác, dùng thuật ngữ “đa quốc gia” chỉ mới phản ánh tính bề ngoài nhiều hơn, vả lại dễ gây cho ngời ta hiểu lầm về sự bình đẳng giữa các quốc gia trong một công ty, mà trên thực tế sự bình đẳng này lại phải dựa trên sức mạnh kinh tế với tiền đề là số tư bản sở hữu. Đó là điều chưa hợp lý trong sự phân định này. Loại ý kiến thứ hai cho rằng chỉ có một loại công ty hoạt động trên thị trờng quốc tế. Đó là công ty quốc tế (International Corporation) hoặc còn gọi là công ty toàn cầu (Global Corporation), trong đó bao gồm cả các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia và siêu quốc gia. Các tác giả này không quan tâm đến nguồn gốc tư bản sở hữu cũng như quốc tịch của công ty, đồng thời cũng không phân biệt bản chất quan hệ sản xuất của quốc gia mà công ty đó xuất thân. Họ chỉ quan tâm về mặt hoạt động sản xuất, kinh doanh quốc tế. Quan niệm như trên đơn giản dễ hiểu, mang tính phổ thông, phù hợp với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế hiện nay. Nhưng quan niệm này có nhược điểm mới chỉ căn cứ vào hiện tượng bên ngoài, chưa đi sâu vào bản chất của sự vật, đồng thời bỏ qua tính lịch sử trong sự phát triển. Loại ý kiến thứ ba cũng gần giống loại ý kiến thứ hai. Các tác giả thuộc trường phái này (chủ yếu là các chuyên gia của Liên Hợp Quốc) cho rằng mặc dù trên thế giới đã tồn tại nhiều loại công ty hoạt động không chỉ trong phạm vi biên giới quốc gia mà trên phạm vi quốc tế. Song trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế như hiện nay thì xu hướng xuyên quốc gia hóa trong sản xuất kinh doanh là một xu hớng phổ biến. Hiện tượng công ty của một quốc gia trong những điều kiện nhất định vượt biên giới quốc gia thực hiện thiết lập các mạng lới sản xuất, kinh doanh ở các nước khác dưới hình thức 100% vốn của mình, hoặc liên minh tư bản nhiều nước đã trở thành một hiện tượng đặc trưng của kinh doanh quốc tế và là nét phổ biến đối với tất cả các loại nước. Vì vậy, các tác giả này đã gọi chung tất cả các công ty hoạt động trên phạm vi quốc tế hiện nay, dù của các nước tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa, là công ty xuyên quốc gia. Theo các tác giả này, các công ty xuyên quốc gia là những công ty của một quốc gia thực hiện sự bành trướng quốc tế bằng cách thiết lập hệ thống chi nhánh ở nớc ngoài để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh quốc tế. Quan niệm như vậy về cơ bản là đúng vì đã phản ánh được hiện thực của sự phát triển sản xuất kinh doanh quốc tế hiện nay; mặt khác cũng phản ánh được tính lịch sử phát triển của công ty xuyên quốc gia (từ công ty quốc gia chuyển thành xuyên quốc gia). Đồng thời dùng chung một thuật ngữ “xuyên quốc gia” để chỉ tất cả các công ty hoạt động trên phạm vi quốc tế sẽ khắc phục đợc tính phức tạp không cần thiết về khái niệm đã tồn tại nhiều năm. Hiệu quả tối ưu nhằm thu đợc lợi nhuận độc quyền cao. Gần đây nhất, năm 1998, trong Báo cáo đầu t thế giới 1998, các chuyên gia của Liên Hợp Quốc đã nêu định nghĩa về công ty xuyên quốc gia (Transnational Corporation) cụ thể hơn như sau: Các công ty xuyên quốc gia là những công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc vô hạn bao gồm các công ty mẹ và các chi nhánh nớc ngoài của chúng. Các công ty mẹ được định nghĩa như là các công ty mà việc kiểm soát tài sản của các thực thể kinh tế khác ở nớc ngoài thường đợc thực hiện thông qua việc góp vốn tư bản cổ phần của chúng. Mức góp vốn cổ phần với 10% hoặc cao hơn, các loại cổ phiếu thường hoặc cổ phiếu có quyền biểu quyết đối với loại công ty trách nhiệm hữu hạn, hoặc tương đương với công ty trách nhiệm vô hạn thường được xem như là ngưỡng đối với quyền kiểm soát tài sản của các công ty khác. Những định nghĩa trên cho thấy, công ty xuyên quốc gia – công ty mẹ phải là công ty cư trú ở một nước nhất định, với các chủ sở hữu của một quốc gia nhất định đợc gọi là Parent Company. Công ty đó tiến hành đầu tư, hoạt động thương mại ở nước ngoài, có thể là trực tiếp hoặc thông qua hệ thống chi nhánh đợc gọi là Foreign Affiliate. Các chi nhánh – công ty con có thể là công ty 100% vốn của công ty mẹ chuyển đến hoặc có tỷ lệ vốn do công ty mẹ góp vào ít hơn nếu là liên doanh với các đối tác của nước sở tại. Nếu thực hiện liên doanh, khả năng bành trướng, chi phối thị trường của công ty sẽ lớn hơn. Giữa công ty mẹ và công ty con có rất nhiều mối quan hệ, trước tiên là về tài chính, công nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm, nhãn hiệu… Nói chung thì dùng phạm trù công ty xuyên quốc gia để chỉ tất cả các công ty hoạt động trên phạm vi quốc tế là hợp lý vì nó không chỉ nêu được đặc tưrng kinh tế nổi bật của công ty trong thời đại quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, phản ánh đúng tính chất hoạt động của công ty trong thực tế, mà còn thể hiện rõ bản chất cốt lõi của nền sản xuất xã hội. Đó là quyền sở hữu thuộc về ai và ai là người quyết định, chi phối toàn bộ giá trị tư bản đợc sở hữu đó, đợc tập trung tại đó (cũng như số lợi nhuận đợc sinh ra từ nguồn tư bản đó). Chỉ có công ty mẹ có quốc tịch rõ ràng chi phối tổng số tư bản khổng lồ được tập trung trong công ty, còn các công ty con, các cổ đông đông đảo ở khắp nơi trên thế giới chỉ là ngời góp vốn kinh doanh kiếm lời, không có tiếng nói quyết định về phương hướng hoạt động chiến lược của công ty. Tính xuyên suốt của việc chi phối quyền sở hữu công ty thể hiện hợp lý bản chất nội dung phạm trù xuyên quốc gia trong định nghĩa về công ty xuyên quốc gia. Tuy nhiên, để nêu được một khái niệm bao quát cả về nguồn gốc và bản chất của công ty xuyên quốc gia phải xuất phát từ sự vận động lịch sử của hình thái tế bào của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay đợc thể hiện ở công ty xuyên quốc gia. Do đó, công ty xuyên quốc gia được hiểu là một cơ cấu tổ chức kinh doanh quốc tế, dựa trên cơ sở kết hợp giữa quá trình sản xuất quy mô lớn của nhiều thực thể kinh doanh quốc tế, với quá trình phân phối và khai thác thị trường quốc tế đạt hiệu quả cao 1.2. nguồn gốc và sự phát triển của công ty xuyên quốc gia 1.2.1. Nguồn gốc của công ty xuyên quốc gia Sự ra đời của các công ty xuyên quốc gia trên thế giới đi liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Về thực chất, chúng là sự phát triển cao của chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, là sự vận động mở rộng và sâu sắc hơn của các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi các mối quan hệ kinh tế vượt dần ra khỏi phạm vi quốc gia và gia nhập vào guồng máy sản xuất kinh doanh quốc tế ngày càng phát triển. Những hình thức tổ chức sản xuất hiệp tác giản đơn, công trường thủ công đều là những hình thức tổ chức sản xuất đầu tiên của chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa. Công trường thủ công ban đầu do một thợ cả thành đạt, giàu có lập ra bằng cách tập trung tất cả những người thợ thủ công độc lập, phân tán hoạt động trên thị trường mà người thợ cả đó quen biết và đã có quan hệ vào cùng làm việc trên một mặt bằng xác định. Ở đây diễn ra quá trình tổ chức và quản lý sản xuất có tính thống nhất đầu tiên. Về đại thể, những người thợ thủ công được tổ chức, sắp xếp vào dây chuyền sản xuất bằng hai cách. Một là, liên kết theo chiều dọc, tức là những người thợ có cùng một nghề nghiệp được tập hợp lại và được phân công chuyên môn hoá theo từng công đoạn của quá trình sản xuất nhằm tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh và theo đó, quá trình dịch chuyển trực tiếp từ phân công lao động trong nội bộ ngành kinh tế sang phân công trong nội bộ công trường thủ công đã diễn ra. Hai là, liên kết theo chiều ngang, tức là liên kết giữa những người thủ công có nghề nghiệp hoàn toàn khác nhau. Họ đợc tập trung lại trên cùng một mặt bằng sản xuất để lao động theo sự chỉ đạo của chủ nghĩa tư bản, được gọi là hiệp tác giản đơn, sau đó họ được chọn lọc và đợc phân công chuyên môn hoá theo những hoạt động nhất định, dới sự điều khiển, chỉ huy thống nhất của chủ công trường thủ công. Hai phương pháp liên kết trên đều dẫn đến một kết quả giống nhau là thực hiện phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất, ban đầu từ những thực thể thị trường nhỏ bé, đơn lẻ, độc lập, phân tán trong nền kinh tế tự do thị trờng điều tiết chuyển dần thành sự phân công, hiệp tác của một thực thể thị trờng đơn nhất quy mô lớn hơn, tức là trong nội bộ công trường thủ công, có tổ chức chặt chẽ và do một ngời chủ duy nhất quản lý. Việc quản lý quá trình phân công và trao đổi trong nội bộ công trường thủ công được tăng cờng để nâng cao hiệu quả phân công và hiệp tác, tiết kiệm hao phí vật chất và thời gian. Do quy mô sản xuất còn tương đối nhỏ nên nói chung, việc quản lý do ngời sở hữu xí nghiệp gánh vác. Chủ xí nghiệp tự mình hoặc dựa vào đốc công tiến hành điều tiết và kiểm soát quá trình sản xuất. Tính chất và quy mô của loại xí nghiệp như vậy tuy hết sức đơn giản và nguyên thuỷ nhưng nó đã trở thành cơ sở để công trường thủ công thay thế cho cơ chế trao đổi của thị trờng. Do sự thay thế này mà quy tắc có kế hoạch trong phân công nội bộ công trường thủ công đã thay thế cho quy tắc tự phát trong sự phân công lao động xã hội. Hơn nữa, hiệu quả về mặt tổ chức, phân công sản xuất và trao đổi của công trường thủ công được xã hội tự giác sử dụng ngay khi nó mới ra đời và trở thành cơ sở của chế độ công xưởng truyền thống. Chế độ công xưởng là hình thức phôi thai, tế bào của xí nghiệp truyền thống hiện đại và đi cùng với nó, quá trình tích tụ và tập trung sản xuất dưới tác động của quy luật thị trường cũng diễn ra ngay thời kỳ đầu xuất hiện của các hình thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chế độ xí nghiệp là chế độ điển hình sinh ra trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Nó được hoàn thiện bằng các hình thức quá độ phức tạp, đan xen nhau trong quá trình đổi mới về kỹ thuật và tổ chức lao động sản xuất lâu dài, trên cơ sở công trường thủ công. Khởi đầu, xí nghiệp ra đời bằng con đường công trường thủ công nhờ sự kết hợp lao động. Trong đó việc kết hợp lao động là nguyên nhân ban đầu của việc nâng cao hiệu quả lao động. Một khi lao động đã liên kết theo một hình thức nào đó, nó sẽ tạo điều kiện cho việc sáng tạo ra máy móc, đặc biệt là việc sáng tạo ra các máy động lực. Khi các máy công tác và động lực hơi nớc được các bộ phận truyền lực hợp thành hệ thống sản xuất bằng máy móc đợc xác định, chế độ xí nghiệp đã có cơ sở vững chắc về kỹ thuật. Cùng với chế độ tự do cạnh tranh của thị trường phát triển đã điều tiết sự phân công và trao đổi của xã hội, xí nghiệp, nhà máy cũng nhanh chóng trở thành hình thức tổ chức sản xuất điển hình để tổ chức sự phân công lao động xã hội. Đồng thời, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, chế độ xí nghiệp, nhà máy đã mở rộng phạm vi lĩnh vực phân công xã hội từ nội bộ quốc gia sang địa bàn quốc tế. Do vậy, phân công lao động và trao đổi quốc tế về nguyên vật liệu, bán thành phẩm và sản xuất giữa các nước ngày càng phát triển. Như vậy, cạnh tranh tự do không chỉ làm cho quá trình tích tụ và tập trung sản xuất tăng lên, mà còn là nguyên nhân cho sự ra đời của nền sản xuất dựa trên máy móc và theo đó, chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa xuất hiện và ngày càng hoàn thiện. Đến lượt nó, chế độ xí nghiệp ra đời lại thúc đẩy phân công lao động mở rộng từ nội bộ quốc gia sang địa bàn quốc tế, đã làm cho tích tụ và tập trung tư bản, sản xuất tăng lên cao độ và theo đó, các tổ chức độc quyền bắt đầu xuất hiện. Các xí nghiệp độc quyền hiện đại được hình thành bởi sự kết hợp giữa quá trình sản xuất quy mô lớn và quá trình phân phối quy mô quốc tế vào trong một công ty đơn nhất. Nghĩa là trong xí nghiệp bao gồm cả các hoạt động sản xuất công nghiệp lẫn thơng mại, dịch vụ, tài chính… và chúng đợc gọi là xí nghiệp công thương hiện đại. Xí nghiệp công thương hiện đại trưởng thành và phát triển theo sự liên kết theo chiều dọc và chiều ngang. Xí nghiệp liên kết theo chiều dọc thường là những xí nghiệp dùng kỹ thuật sản xuất hàng loạt và cả những xí nghiệp dịch vụ phân phối, tiêu thụ sản phẩm đặc thù theo ngành dọc của mình. Xí nghiệp liên kết theo chiều ngang phần lớn thuộc các ngành khác nhau, trong đó có cả những xí nghiệp quy mô tương đối nhỏ, của gia tộc hoặc cá nhân. Để khống chế sản lượng, nâng cao giá cả, các xí nghiệp này tiến hành hợp nhất hoặc liên kết. Ngời ta nhanh chóng phát hiện ra rằng: để cho xí nghiệp sau khi hợp nhất vẫn có thể phát triển quy mô cần phải tiếp tục liên kết theo chiều dọc cả hướng lên trên và xuống dưới. Do đó sự liên kết theo chiều dọc mới là con đường cơ bản hình thành nên xí nghiệp hiện đại. Sự liên kết này không chỉ đơn thuần là hành vi sách lược cạnh tranh của xí nghiệp mà là một loại hành vi sáng tạo ra cái mới về chế độ hoạt động của xí nghiệp. Xí nghiệp công thương hiện đại có khả năng chuyển một bộ phận phân công xã hội do thị trường tổ chức thành phân công trong nội bộ xí nghiệp để khắc phục sự mất hiệu quả thị trường do dùng kỹ thuật mới, hoặc sản xuất sản phẩm mới gây nên. Xí nghiệp công thương hiện đại đã từng bớc thay thế cho xí nghiệp đơn nhất truyền thống, trở thành hình thức điển hình, thích ứng với sự phát triển kỹ thuật hiện đại và đặc điểm thị trường được quốc tế hoá ngày càng mở rộng. Đến những thập kỷ 50, 60, một loạt xí nghiệp hiện đại khổng lồ, đa chức năng kinh doanh đã khống chế các ngành kinh tế then chốt và trở thành lực lượng chủ yếu chi phối nền kinh tế thế giới. Cùng với sự phát triển của các xí nghiệp công thương hiện đại, chế độ xí nghiệp của Mỹ cũng đã đợc mở rộng sang Tây Âu và Nhật Bản. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong các xí nghiệp của Tây Âu và Nhật Bản cũng xuất hiện cao trào hợp nhất, nhưng do quy mô và cơ cấu thị trường cũng như bối cảnh chính trị, văn hoá và chế độ xã hội không giống nhau nên xí nghiệp công thương trưởng thành chậm chạp làm cho chế độ xí nghiệp chưa diễn ra sự thay đổi về bản chất. Sau chiến tranh, dưới tác động của cách mạng khoa học - kỹ thuật, đặc biệt là sự thách thức của xí nghiệp Mỹ buộc các xí nghiệp của Tây Âu và Nhật Bản phải có những cải biến mạnh mẽ để phát triển. Về quy mô, mức độ phức tạp trong quản lý và phạm vi phân công trong nội bộ xí nghiệp công thương hiện đại thì không có bất cứ loại xí nghiệp nào trước đây có thể so sánh được. Hiện nay, mức tiêu thụ hàng năm của một xí nghiệp công thương hiện đại đã vượt tổng giá trị thu nhập quốc dân của một số nước vừa và nhỏ. Quy mô và năng lực quản lý nội bộ những xí nghiệp này khiến nhiều tổ chức chính phủ của một số nước đang phát triển khó lòng theo kịp. Phạm vi phân công lao động của nó ngày càng mở rộng. Rất nhiều xí nghiệp đã hình thành hệ thống phân công nội bộ xí nghiệp liên kết theo liên kết chiều dọc bao trùm cả sản xuất nguyên liệu, gia công bộ phận rời, sản xuất sản phẩm và tiêu thụ. Ngoài ra, nó còn mở rộng hoạt động sang rất nhiều lĩnh vực sản xuất sản phẩm có liên quan nhau hoặc không liên quan nhau, hình thành một cơ cấu phân công nội bộ theo kiểu liên kết hỗn hợp đa nguyên. Xí nghiệp công thương hiện đại còn đi vào nghiên cứu phát triển kỹ thuật, công nghệ và sản phẩm mới. Sự phát triển của nội bộ xí nghiệp đã cung cấp những vật liệu, đối tượng, không gian mới cho việc mở rộng và đổi mới không ngừng sự phân công nội bộ của xí nghiệp hiện đại. Đồng thời, do sự phát triển của thông tin hiện đại và kỹ thuật vận tải làm cho phạm vi địa lý của sự phân công nội bộ xí nghiệp công thương hiện đại cũng nhanh chóng mở rộng. Các xí nghiệp công thương hiện đại có thể dựa vào đặc điểm kỹ thuật của nó để bố trí được mạng lưới và điểm sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của nó trên một không gian địa lý tương đối lớn. Nó có thể lợi dụng hiệu quả của hội tụ kinh tế, tập trung một số khâu sản xuất lại, hoặc dựa vào sự khác nhau về các điều kiện kỹ thuật như thị trường khu vực không giống nhau, vận tải và ưu thế đặc thù về sự sẵn có các yếu tố tự nhiên… để bố trí tách rời các khâu khác nhau của sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Khi phạm vi địa lý của sự phân công nội bộ xí nghiệp công thương hiện đại vượt quá biên giới quốc gia thì công ty xuyên quốc gia hình thành. Công ty xuyên quốc gia là một cơ cấu kinh doanh quốc tế dựa trên sự kết hợp giữa quá trình sản xuất quy mô lớn của nhiều thực thể kinh doanh quốc tế và quá trình phân phối quy mô quốc tế vào trong cơ cấu công ty nhằm chiếm lĩnh và khai thác thị trường quốc tế đạt hiệu quả tối ưu để thu lợi nhuận độc quyền cao. Công ty xuyên quốc gia được hình thành trực tiếp trên cơ sở xí nghiệp công thương hiện đại. Vì sự ứng dụng kỹ thuật sản xuất hàng loạt đòi hỏi xí nghiệp phải thành lập tổ chức tiêu thụ không chỉ ở trong nước mà cả ở nớc ngoài. Việc thành lập và phát triển tổ chức tiêu thụ lại đòi hỏi xí nghiệp phải lập ra các đơn vị sản xuất nước ngoài. Sự phát triển kỹ thuật vận tải hiện đại khiến xí nghiệp có thể vận chuyển nguyên vật liệu, bộ phận rời và sản phẩm một cách nhanh chóng với số lượng lớn và rẻ. Sự ứng dụng kỹ thuật thông tin hiện đại cho phép công ty có thể quản lý có hiệu quả việc kinh doanh của nó ở khắp nơi trên thế giới. Sự trởng thành và hoàn thiện của chế độ quản lý theo cấp bậc của xí nghiệp công thương hiện đại khiến xí nghiệp có thể tổ chức và điều tiết nhịp nhàng, có hiệu quả sự phân công lao động trong nội bộ của nó trên phạm vi quốc tế. Do đó, các xí nghiệp công thương hiện đại hưng thịnh lên. Chúng đã bắt đầu ngay việc đầu tư ra nớc ngoài để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hoặc sản xuất và tìm mua nguyên liệu. Khi chế độ quản lý theo cấp bậc của xí nghiệp công thương hiện đại chín muồi, phần lớn những xí nghiệp này đã trở thành công ty xuyên quốc gia có tác động mạnh trong nền kinh tế thế giới. Có thể nêu lên một số nhận xét về nguồn gốc và quá trình phát triển của các công ty xuyên quốc gia đi từ tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các công ty, công ty cổ phần, các công ty kinh doanh lớn trong ngành công thương, sau này cả dịch vụ đa ngành, các công ty xuyên quốc gia hiện đại… như sau: - Một là, quá trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra song song với quá trình tích tụ quyền lực kinh tế. Tích tụ và tập trung sản xuất tạo ra những công ty cực lớn bao gồm trong đó rất nhiều công ty. Người ta cũng gọi đó là những tập đoàn, với công ty mẹ đứng đầu và các công ty con, chúng còn đợc gọi là các công ty nhỏ và vừa, chúng phụ thuộc về tài chính, kỹ thuật vào công ty mẹ. Bên cạnh đó còn có rất nhiều công ty nhỏ và vừa độc lập hoạt động phụ thuộc hoặc độc lập với các công ty lớn. Nhìn chung ở các nớc tư bản chủ nghĩa phát triển như Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Italia, Canada, số xí nghiệp nhỏ và vừa chiếm đến 70 – 80% tổng số các xí nghiệp. Sự thâu tóm các xí nghiệp nhỏ và vừa, thậm chí cả các hộ gia đình nằm trong guồng máy sản xuất, thực hiện sự kiểm soát tài chính, kỹ thuật, và nằm trong hệ thống phân công lao động theo kiểu công trường thủ công đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho tư bản sinh lợi. Đồng thời về mặt tổ chức sản xuất, đây cũng là hình thức tỏ rõ tính hiệu quả cao vì giảm được chi phí sản xuất, tận dụng được mọi khả năng, nguyên liệu, phát huy tính năng động sáng tạo… do đó làm tăng quy mô và tỷ suất lợi nhuận. - Hai là, quá trình tích tụ sản xuất cũng dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc quyền. Độc quyền hiện đại mang nhiều dấu ấn của thời đại cách mạng khoa học, kỹ thuật hiện đại. Sự liên kết theo chiều ngang và dọc được đẩy mạnh hơn bao giờ hết dẫn đến quá trình liên kết đa ngành, trong đó lĩnh vực dịch vụ, ngân hàng được các tổ chức độc quyền quan tâm và bành trướng quyền lực. Tình hình đó đã đưa đến sự hình thành của conglomerate với sự tập trung tư bản, tập trung sản xuất kinh doanh hết sức to lớn, hoạt động nghiên cứu và phát triển cũng như chuyển giao công nghệ là thế mạnh của công ty xuyên quốc gia, cùng với mạng lới thị trường rộng khắp thế giới (thông qua các công ty con và các mối quan hệ kinh tế quốc tế) đã khiến cho chúng trở thành những “vương quốc” kinh tế khổng lồ với khả năng phát triển không ngừng. - Ba là, quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệp ngày càng đẩy mạnh đưa đến việc xuất hiện các hình thức công ty liên hợp nông - công nghiệp, nông - thương nghiệp. Ở Mỹ, những năm 80, liên hiệp nông - công nghiệp đã chiếm trên 30% sản lượng nông sản. Ở Nhật Bản, các liên hiệp nông - thương nghiệp kiểm soát 80 - 95% sản lượng ngũ cốc. Quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệp cùng với tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã đa đến hiện tượng cấu tạo hữu cơ tăng lên và giảm ý nghĩa của địa tô tuyệt đối, tạo ra mối liên hệ ngày càng tăng giữa công - nông nghiệp, đẩy mạnh xu hớng giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu lao động cũng như trong tổng sản phẩm quốc dân (hiện nay chỉ còn khoảng 2 - 10%, thậm chí tỷ trọng đó còn thấp hơn ở các nớc tư bản chủ nghĩa phát triển cao). Điều này cho thấy, sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp đã có tác động trở lại, thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Và để cho toàn bộ nền kinh tế có thể phát triển mạnh trong cạnh tranh, nền nông nghiệp cũng phải có khả năng cạnh tranh cao. Nông nghiệp các nước phát triển đã được tập trung cao độ với những hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh hiện đại. Như vậy, có thể thấy rằng quá trình tích tụ tư bản và tập trung sản xuất lâu dài đã dẫn đến sự hình thành các công ty xuyên quốc gia. Bởi đó chính là quá trình tạo ra cơ sở vật chất cho sự bành trướng, giúp cho các tập đoàn tư bản có khả năng thực hiện vợt ra khỏi biên giới quốc gia, thực hiện việc đầu tư vào các nước dưới nhiều hình thức, thoả mãn được mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cao. 1.2.2. Sự phát triển của công ty xuyên quốc gia Từ thập kỷ 60 lại đây, dưới tác động của sự bùng nổ cách mạng khoa học kỹ thuật và khoa học công nghệ, công ty xuyên quốc gia đã phát triển nhanh chóng. Hơn nữa, đầu tư to lớn của công ty xuyên quốc gia vào nghiên cứu và p._.hát triển đòi hỏi phải mở rộng sang những ngành nghề và khu vực lớn hơn. Nhng sự phân công lao động xã hội và chế độ trao đổi hiện có rất khó xác định đợc một chế độ mới. Để tổ chức hệ thống công nghệ mới và điều tiết đợc lợi ích trong trao đổi, phân phối những sản phẩm mới giữa những nhà sản xuất độc lập phải dùng biện pháp của xí nghiệp thay cho biện pháp của thị trường. Từ đó mà buộc các xí nghiệp phải chiếm lĩnh các ngành và khu vực kinh tế mới. Điều này đã dẫn tới sự trưởng thành nhanh chóng của công ty xuyên quốc gia ở các nước phát triển. Cùng với sự trưởng thành của các công ty xuyên quốc gia, sự cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu của chúng khốc liệt hơn. Công ty xuyên quốc gia của các nước bắt đầu điều chỉnh lại hoạt động kinh doanh phân tán của nó, xây dựng hệ thống phân công quốc tế, kết hợp liên kết theo chiều dọc và ngang trong nội bộ công ty. Cơ cấu tổ chức toàn cầu của công ty xuyên quốc gia tương ứng cũng ra đời. Công ty xuyên quốc gia trở thành hình thức hoàn thiện điển hình của chế độ xí nghiệp thích ứng với sự phân công và trao đổi quốc tế hiện đại. Hai thập kỷ gần đây, ở hầu hết các nước tư bản phát triển đã xuất hiện nhiều biện pháp kích thích mạnh mẽ vào quá trình tích luỹ tư bản. Do khó khăn về điều kiện đầu tư,tư bản trong thập kỷ 70 và 80, do việc giảm sút tỷ suất lợi nhuận bình quân dưới tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật đã buộc nhiều công ty lớn phải thu hút các đối thủ của mình để cùng tồn tại. Chính vì vậy, công ty xuyên quốc gia đã trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh quốc tế phổ biến. Chúng như những dây xích neo chặt các nền kinh tế có trình độ phát triển khác nhau lại thành từng khối trong guồng máy phân công lao động quốc tế. Làn sóng hợp nhất và thôn tính lẫn nhau giữa các tập đoàn xuyên quốc gia hiện nay thực tế không vượt ra ngoài khuôn khổ công ty xuyên quốc gia. Nó bị quy định bởi những điều kiện đặc thù của giá trị tư bản tự tăng lên và cuộc khủng hoảng cơ cấu kéo dài ngày càng đe dọa các ngành truyền thống, vốn là những ngành chịu sự chi phối và thống trị của các nhóm công ty khổng lồ, đã đặt chúng trước sự diệt vong tất yếu nên không kịp thời xâm nhập vào các ngành mũi nhọn có hàm lượng công nghệ cao. Mặt khác, sự suy giảm hiệu lực rõ rệt trong các điều khoản của luật chống độc quyền ở một số nước này đã tạo điều kiện cho công ty xuyên quốc gia của nước khác tăng cường cắm nhánh bằng con đường hợp nhất. Ở Mỹ, từ nửa đầu của thập kỷ 80 đã diễn ra hàng loạt những vụ hợp nhất lớn với số vốn hàng tỷ USD. Bắt đầu từ các công ty hoạt động trong ngành công nghiệp, sau đó lấn sang toàn bộ nền kinh tế và cuối cùng tràn ra toàn thế giới. Trong chiến lợc chiếm lĩnh và khai thác thị trường quốc tế của công ty xuyên quốc gia, việc nhanh chóng mở rộng quy mô bằng cắm nhánh trở thành giải pháp hữu hiệu để giải toả áp lực khủng hoảng cơ cấu và xu hướng giảm sút tỷ suất lợi nhuận của các công ty trong nước, đồng thời củng cố vị trí của mình trên thị trường quốc tế. Từ hơn mười năm lại đây, sự kết hợp vốn của nhiều công ty ở các quốc gia khác nhau diễn ra nhanh chóng và sâu rộng. Công ty “Ford” (Mỹ) có một phần vốn của “Toyota Motor” (Nhật Bản), công ty “General Motor” (Mỹ) kết hợp vốn với công ty “Isuzu” và “Suzuki” (Nhật Bản), các công ty của CHLB Đức, Pháp, Nhật Bản cũng bỏ vốn ra mua các xí nghiệp trong ngành hoá chất, luyện kim, ôtô… của Mỹ. Đến cuối năm 1985, 10% các công ty Mỹ thuộc sở hữu tư bản nớc ngoài. Tỷ trọng của nó trong giá trị sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến tăng từ 5,1% (1981) lên 8,5% (1985). Cuối năm 1988, “Cục thẩm toán chung” của Quốc hội Mỹ công bố một bản nghiên cứu cho biết số công ty của Mỹ bị tư bản nước ngoài hợp nhất không ngừng tăng lên: 182 công ty với giá trị 8 tỷ USD (1984) tăng vọt lên 362 công ty với giá trị 42 tỷ USD (1987). Tình hình từ đầu những năm 90 đến nay cho thấy trong làn sóng hợp nhất các công ty lớn diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, các công ty xuyên quốc gia Mỹ đang đi đầu với những cuộc mua bán, sáp nhập lớn nhất. Trong vòng 10 năm, làn sóng của các công ty xuyên quốc gia được đẩy mạnh đã gây ấn tợng sâu sắc trong nền kinh tế thế giới. Nếu như năm 1990, tổng số vụ sáp nhập trên toàn thế giới là 11.300 vụ với tổng giá trị khoảng 500 tỷ USD thì đến năm 1998, tổng số vụ sáp nhập đã lên đến 26.200 vụ với tổng giá trị tài sản 24.000 tỷ USD, tăng gần 50% so với năm 1997. Các cuộc sáp nhập được bắt đầu từ ngành ngân hàng, được phẩm sau lan rộng ra các ngành hoá chất, viễn thông, công nghiệp ôtô, công nghiệp điện tử tin học, công nghiệp dầu khí… Đây là biểu hiện mạnh mẽ của quá trình tập trung sản xuất được nêu ở trên. Song hiện nay, có nhiều nhân tố mới buộc các doanh nghiệp, các công ty xuyên quốc gia tìm kiếm những đối tác thích hợp và thay đổi thực chất các liên minh mong muốn. Những nhân tố này vừa mang tính tình huống vừa mang tính lâu dài của quá trình có tính quy luật của tập trung sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhất là ở nước Mỹ. - Thứ nhất, tìm kiếm lợi nhuận trong điều kiện lạm phát diễn ra yếu. Trong những năm 90, các nền kinh tế công nghiệp phát triển mạnh, đặc biệt là kinh tế Mỹ đã thoát khỏi tình trạng lạm phát ngựa phi, các doanh nghiệp không có khả năng tăng giá và một giải pháp duy nhất để đảm bảo mục tiêu lợi nhuận là làm sao giảm được giá và chiếm lĩnh được thêm thị phần càng rộng càng tốt. - Thứ hai, sự bốc lên mạnh của thị trường chứng khoán trở thành một điểm tựa quan trọng của các doanh nghiệp và giúp chúng có khả năng dùng các cổ phần của mình để thanh toán cho các vụ mua lại đạt quy mô lớn. - Thứ ba, môi trường pháp quy liên quan đến một yếu tố đặc biệt xuất phát từ luật chống Trust. Nhờ luật này, nhiều lĩnh vực mới đã mở cửa cho cạnh tranh và việc tập hợp lại các tập đoàn cũng được khuyến khích trong một số trường hợp. - Thứ t, do điều kiện môi trờng cạnh tranh kinh doanh cực kỳ khốc liệt, không một ai có thể lờng trớc đợc điều gì sẽ xảy ra nên một nhu cầu bức bách nảy sinh là phải thực hiện đợc những thay đổi chiến lợc, chính sách, càng nhanh càng tốt, thậm chí ngay cả khi điều này có nghĩa là lao vào một cuộc chiến tranh thù địch. - Thứ năm, để thích ứng đợc với quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra với cờng độ cao cha từng thấy, các doanh nghiệp cần phải có tầm vóc đủ sức cạnh tranh toàn cầu và phơng sách phù hợp là mua thêm hoặc mua lại bằng con đờng nào đó. 1.3. Bản chất và đặc trưng của công ty xuyên quốc gia 3.1. Bản chất của công ty xuyên quốc gia Về sở hữu, có thể coi các tổ chức độc quyền là cái vỏ vật chất trong đó quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động và tồn tại dưới dạng sở hữu độc quyền. Khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chuyển từ xã hội công nghiệp lên xã hội thông tin, nền sản xuất đòi hỏi những nguồn lực khổng lồ, làm cho khả năng tài chính của một công ty không đáp ứng nổi, cùng với sự gia tăng quá trình huy động vốn thông qua thị trường tài chính đã làm cho số lượng các chủ đồng sở hữu ở khắp các quốc gia (các cổ đông) trong công ty xuyên quốc gia lớn lên. Trong công ty xuyên quốc gia đã diễn ra hai thay đổi lớn về quan hệ sở hữu. Một là, sở hữu độc quyền xuyên quốc gia – hình thức sở hữu hỗn hợp và đã được quốc tế hoá. Đây là một hình thức sở hữu mang tính khách quan tạo nên bởi quá trình tích tụ, tập trung hoá và xã hội hoá sản xuất trên quy mô quốc tế của chủ nghĩa tư bản dưới sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và của các quy luật cạnh tranh, quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Tồn tại dưới hình thức các tổ hợp đa ngành khác nhau như concern và conglomerate, hiện nay có tới trên 70% các xí nghiệp chi nhánh của chúng là các xí nghiệp liên doanh với số lượng các chủ đồng sở hữu từ hai tới bốn nước hoặc nhiều hơn nữa với những tỷ lệ góp vốn khác nhau. Điều này phản ánh tính chất đa dạng, phức tạp và tính chất hỗn hợp của loại hình sở hữu xuyên quốc gia. Hai là, sở hữu hỗn hợp được tạo ra do sự thay đổi về căn bản địa vị, vai trò của người công nhân, trí thức - những người làm việc trực tiếp trong các ngành nghề khác nhau, nhất là những ngành có hàm lượng khoa học và công nghệ cao - là những người quyết định chất lượng của lao động và sản xuất. Loại hình này diễn ra theo hướng tăng đáng kể số người có cổ phần trong công ty nhưng tỷ trọng sở hữu cổ phần trong tổng số vốn kinh doanh không lớn. Như vậy, sự biến đổi của hình thức sở hữu trong công ty xuyên quốc gia là thay đổi rất căn bản đặc trưng cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong chủ nghĩa tư bản hiện đại. Có thể thấy rằng công ty không còn là sở hữu của một người hay một nước nữa mà là sở hữu hỗn hợp quốc tế, có “quốc tịch” của một nước nhất định. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng sở hữu của các nhà tư bản vẫn giữ vị trí trọng yếu, còn sở hữu của người lao động chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ không đáng kể. Chẳng hạn, giá trị cổ phiếu mà khoảng 70 - 80% tổng số công nhân của Mỹ đã mua chỉ chiếm có 1% tổng giá trị cổ phiếu mà thôi. Tuy nhiên đối với từng công ty trong bảng xếp hạng 500 tập đoàn hàng đầu của Fortune, sở hữu của người lao động lên mức không phải quá thấp, từ 4,5 – 35%. Về quản lý, việc tổ chức quản lý sản xuất và các hoạt động kinh tế đã dịch chuyển từ kiểu đại trà, đợc tiêu chuẩn hoá theo loạt lớn sang kiểu sản xuất loại nhỏ và linh hoạt theo đơn đặt hàng, cũng như dịch chuyển từ các tổ chức có quy mô lớn đợc liên kết theo chiều dọc sang phi liên kết kiểu mạng lới, theo chiều ngang giữa các đơn vị kinh tế trong nước và ngoài nước. Điều này dẫn đến sự xuất hiện liên kết công ty xuyên quốc gia kiểu mới, kiểu các vệ tinh xoay quanh một công ty gốc, tạo nên một mạng lới phủ lên thị trờng các nước. Đây là sự chuyển hoá về mặt tổ chức quản lý của mọi hoạt động kinh tế để tăng cường tính linh hoạt và khả năng thích ứng với thị trường đang được đa dạng hoá và biến đổi từng ngày, từng giờ. 1.3.2. Đặc trưng của công ty xuyên quốc gia Trước hết, các công ty xuyên quốc gia về mặt xuất xứ là công ty tư bản độc quyền, là sản phẩm của thời đại tư bản tài chính, cũng có nghĩa chúng chính là sản phẩm của sự liên minh giữa những nhà tư bản có thế lực nhất. Đặc trưng này phân biệt các công ty xuyên quốc gia trong thời đại tư bản tài chính (tức là các công ty xuyên quốc gia hiện đại) với các công ty hoạt động quốc tế ra đời từ thời kỳ tư bản tự do cạnh tranh và ngay cả thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản. Trong thời đại ngày nay, khi quốc tế hoá sản xuất được đẩy mạnh, việc các công ty của những quốc gia đang phát triển (nhất là những công ty của nhóm các nước công nghiệp mới) mở rộng thị trường cạnh tranh quốc tế và với sự giúp đỡ của nhà nước dân tộc thì chúng có thể vươn ra hoạt động trên phạm vi quốc tế, thậm chí thiết lập những chi nhánh ở ngay tại các nước tư bản phát triển là điều hoàn toàn có khả năng hiện thực và đã diễn ra. Chẳng hạn như trường hợp Samsung, Hyundai (Hàn Quốc), Formosa (Đài Loan), Sime Darby (Malaysia). Những công ty này tuy không thuộc sở hữu của các tập đoàn tư bản ở các nước tư bản phát triển nhưng chúng vẫn là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản độc quyền và mang dấu ấn của quá trình phát triển cuả chủ nghĩa tư bản và quốc tế hoá đời sống kinh tế. Hai là, nhìn chung các công ty xuyên quốc gia là những công ty có tầm cỡ quốc tế, có chi nhánh hoặc hệ thống chi nhánh ở nước ngoài với mục đích nâng cao tỷ suất lợi nhuận thông qua việc bành trướng quốc tế. Chúng thực hiện việc phân công lao động và phân chia thị trường thế giới (giữa các công ty tư bản nói riêng và các cường quốc công nghiệp nói chung). Đây là một đặc trưng quan trọng thứ hai. Nhìn chung chỉ có các công ty lớn mới có thể đứng vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế gay gắt, còn các công ty nhỏ dù có hoạt động đợc thì nói chung trước sau rồi cũng bị phụ thuộc vào các công ty lớn dưới hình thức này hay hình thức khác. Song trong điều kiện hiện nay vẫn có những công ty nhỏ, nhưng do biết cách làm ăn, có thể lọt vào những “khe hở” của thị trường thế giới. Đây là trường hợp đặc thù của một số công ty của các quốc gia và lãnh thổ công nghiệp mới Châu Á. Đặc trưng thứ hai này là đặc trưng phân biệt với các công ty độc quyền quốc gia, mà nét nổi bật nhất là việc cắm nhánh ở nước ngoài, có ít nhất một chi nhánh, thiết lập cơ sở thực hiện việc sản xuất tại nước đó (đặc trưng này không có ở các công ty độc quyền quốc gia). Ba là, công ty xuyên quốc gia trước hết nó phải hình thành từ công ty quốc gia, mang quốc tịch của một nước và tư bản sở hữu của công ty mẹ thuộc về các nhà tư bản nước đó. Tư bản đó được xuất khẩu ra nước ngoài để đầu tư thiết lập và mở rộng các cơ sở sản xuất gọi là chi nhánh. Số tư bản đầu tư vào chi nhánh có thể hoàn toàn là của tập đoàn tư bản nước mẹ, nhưng cũng có thể thuộc sở hữu chung giữa các nhà tư bản nước mẹ và các nhà tư bản bản xứ trong trường hợp các công ty chi nhánh được thành lập mang hình thức công ty phối hợp (hoặc công ty hỗn hợp). Dạng công ty hỗn hợp (dưới hình thức góp cổ phần) đang là hình thức được ưa chuộng đối với nhiều nước đang phát triển, đồng thời cũng là hình thức mà các công ty xuyên quốc gia ưa thích. Dù những hình thức chi nhánh ở nước ngoài như thế nào chăng nữa, sở hữu tư bản ở chi nhánh dù có tồn tại dới hình thức này hay hình thức khác thì các chi nhánh đó thực chất cũng là những bộ phận của một tổ hợp, quyền kiểm soát chủ yếu về đầu tư, sản xuất kinh doanh vẫn thuộc về những nhà tư bản nước mẹ. Bốn là, một công ty xuyên quốc gia thường có cơ cấu tổ chức gồm hai bộ phận cơ bản. Đó là công ty mẹ và một hoặc nhiều công ty chi nhánh ở nước ngoài. - Công ty mẹ (Parent Company) hay còn gọi là công ty gốc hoặc công ty chủ đạo. Thuật ngữ công ty gốc để chỉ nguồn gốc của công ty xuyên quốc gia. Công ty này thường có trụ sở đặt ở nước mà công ty đó mang quốc tịch. Nước đó gọi là nước mẹ hay chính quốc. Cũng có trường hợp công ty xuyên quốc gia có hai trung tâm chỉ đạo, song trung tâm chính tập trung mọi quyền lực vẫn là công ty gốc. - Công ty chi nhánh (Subsidiary, Branch…) có thể quan niệm danh từ công ty chi nhánh bao gồm toàn bộ các hãng, xí nghiệp, công ty ở ngoài nước, không phân biệt thứ bậc phụ thuộc đối với công ty gốc. Nước có chi nhánh đóng tại đó gọi là nước chủ nhà. Về lý luận cũng như thực tế đều chứng tỏ rằng với chế độ tham dự thì không chỉ có công ty chi nhánh cấp I mà còn có các công ty chi nhánh cấp II, cấp III… Trong đó mối quan hệ giữa các công ty chi nhánh cấp I, II, III… với công ty mẹ không giống nhau. Do đó có tác giả đã dùng danh từ công ty “con”, “cháu” để chỉ chúng. Song cũng có thể dùng thuật ngữ cấp II, III, IV… để chỉ các công ty chi nhánh theo mức độ phụ thuộc vào công ty mẹ và có thể coi các công ty chi nhánh cấp III, IV… như là các công ty mạng lới. Giữa công ty mẹ với công ty chi nhánh có mối quan hệ phụ thuộc, trong đó công ty mẹ đóng vai trò lãnh đạo, các công ty chi nhánh là những đơn vị hạch toán độc lập nhưng phụ thuộc chủ yếu về tài chính, kỹ thuật vào công ty mẹ và tất cả hợp thành một hệ thống. Hệ thống này là một chỉnh thể nhưng luôn chứa đựng mâu thuẫn. Trong phạm vi hoạt động của chúng có cả những lực hướng tâm và lực ly tâm. Các lực hướng tâm gắn hệ thống các công ty thành một tổ hợp kinh tế quốc tế thống nhất qua nhiều mối dây liên hệ, móc nối và phụ thuộc nhau ở mức độ nhất định. Còn các lực ly tâm đẩy các công ty yếu về mặt kinh tế kinh doanh ra ngoài, làm suy yếu cơ sở và phá vỡ cơ chế hoạt động của công ty. Về mặt quản lý, người ta thấy rằng nét nổi bật là việc kiểm soát của công ty gốc đối với các công ty chi nhánh theo lối riêng, bằng cách sử dụng các đòn bẩy kinh tế, thực hiện việc tập trung hoá có mức độ và kiểm soát chủ yếu theo hệ thống dọc từ trung tâm đến ngoại vi. Theo cách quản lý đó vai trò định hướng chiến lợc về kinh tế, kỹ thuật, cung cấp tài chính, tín dụng của công ty mẹ rất quan trọng, còn các công ty chi nhánh là những đơn vị kinh doanh mang tính độc lập tương đối và trở thành những đơn vị hạch toán độc lập. Do đó buộc chúng phải năng động và có điều kiện để phát huy tính năng động. 1.4. Tổ chức và thể chế quản lý của công ty xuyên quốc gia Sự hoạt động và phát triển của các công ty cho đến các công ty xuyên quốc gia đã làm cho các hình thức tổ chức hoạt động và cơ chế quản lý của chúng ngày càng hoàn thiện và thích hợp với yêu cầu của hệ thống kinh tế thị trường ngày càng đợc quốc tế hoá. 1.4.1. Hình thức tổ chức Trong những năm 90 của thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu của thế kỷ XX, tại các nớc tư bản phát triển, xu hướng độc quyền trên nhiều thị trường ngành tăng lên. Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hoá, các liên minh độc quyền hình thành theo liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành. Nhưng về sau, theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau. Những hình thức độc quyền cơ bản ban đầu là Cartel, Syndicat, Trust. - Cartel là hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà tư bản ký hiệp nghị thoả thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán... Các nhà tư bản tham gia Cartel vẫn độc lập về sản xuất và thương nghiệp. Họ chỉ cam kết làm đúng hiệp nghị, nếu làm sai sẽ bị phạt tiền theo quy định của hiệp nghị. Vì vậy, Cartel là liên minh độc quyền không vững chắc. Trong nhiều trường hợp, những thành viên thấy ở vào vị trí bất lợi đã rút ra khỏi Cartel làm cho Carrtel thường tan vỡ trước kỳ hạn. - Syndicat là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn Cartel. Các xí nghiệp tham gia Syndicat vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất độc lập về lưu thông. Mọi việc mua bán do một ban quản trị chung của Syndicat đảm nhận. Mục đích của Syndicat là thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hoá với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao. - Trust là một hình thức độc quyền cao hơn Cartel và Syndicat, nhằm thống nhất cả việc sản xuất, tiêu thụ, tài vụ đều do một ban quản trị thống nhất quản lý. Các nhà tư bản tham gia Trust trở thành những cổ đông thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần. Trust khi đó được hiểu như là một hình thức tổ chức ngành, mà trong đó một công ty lớn có toàn bộ quá trình sản xuất hoặc một phần lớn sản xuất của một ngành. Dựa vào sức mạnh của mình, các Trust tiến hành trong phạm vi ngành một chính sách thị trường có lợi cho họ và buộc những người sản xuất ở các ngành khác phải tuân theo. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, vai trò quyết định trong tập trung sản xuất và tư bản là liên kết theo chiều ngang và điều này quyết định sự thành lập các Trust. Nhưng tới những năm 20, chúng đã thể hiện tính không hiệu quả về kinh tế của quá trình liên kết thái quá theo chiều ngang. Những Trust mọc lên trên cơ sở này trở nên kém khả năng thích ứng với những thay đổi của thị trường, sự đổi mới nhanh chóng về chủng loại mặt hàng và chất lượng sản phẩm, sự xuất hiện những loại hàng hoá thay thế của làn sóng dồn tụ tư bản liên ngành... Quá trình liên kết theo chiều dọc được đưa lên hàng đầu. Các Trust hoặc là phát triển, hoặc buộc phải cam chịu lép vế trước sự xuất hiện của những công ty lớn có kết cấu khác kiểu trong ngành. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, ảnh hưởng của Cartel và Syndicat ở các nước tư bản Tây Âu và Nhật Bản giảm xuống. Giống như Mỹ, ở những nước này cũng áp dụng các đạo luật, nếu không phải cấm thì cũng là hạn chế về cơ bản phạm vi ảnh hởng của Cartel. Nguyên nhân suy giảm nghiêm trọng của Cartel là do phát sinh mâu thuẫn giữa chúng với những thay đổi nhanh chóng về chủng loại và chất lượng sản phẩm. Trong vài thập niên gần đây, làn sóng sát nhập các công ty xuyên quốc gia diễn ra mạnh mẽ. Tình hình liên kết, hợp nhất các công ty xuyên quốc gia là biểu hiện cụ thể của quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong điều kiện sức sản xuất phát triển nhảy vọt của những năm cuối cùng của thế kỷ XX, đã làm cho hai hình thức cơ bản trong kết cấu công ty xuyên quốc gia là Conglomerate và Concern có sức sống mạnh mẽ hơn và làm xế chiều nhanh chóng các hình thức cổ điển kiểu Cartel, Cyndicat, Trust. Do đó hình thức tồn tại phổ biến của công ty xuyên quốc gia hiện đại là Concern và Conglomerate. * Concern Hình thức tổ chức công ty kiểu Concern là một trong những hình thức phổ biến của các công ty xuyên quốc gia hiện đại. Concern xuất hiện chủ yếu thông qua mối kiên kết ngang giữa ít nhất là hai công ty lớn kinh doanh độc lập, có tư cách pháp nhân trong một ngành sản xuất, hoặc giữa các công ty trong Concern được thiết lập trên cơ sở lợi ích thống nhất, thông qua các quan hệ hợp tác cùng sử dụng bằng phát minh, sáng chế, cùng tham gia nghiên cứu trong những chương trình, đề án khoa học và ứng dụng công nghệ sản xuất, cùng hợp tác sản xuất kinh doanh và sử dụng chung một hệ thống tài chính, tín dụng. Concern không có tư cách pháp nhân, tính pháp lý của Concern thể hiện ở tính pháp nhân độc lập của các công ty thành viên. Tuy vậy, mối quan hệ bền vững của Concern đợc thiết lập trong sự liên kết chặt chẽ giữa các cá nhân lãnh đạo chủ chốt với nhau và với các thành viên của chính phủ dựa trên cơ sở lợi ích kinh tế. Các kênh liên hệ chủ yếu giữa Concern và Nhà nước thường thông qua các hợp đồng kinh tế, các đơn đặt hàng, các khoản tài trợ hai chiều công khai hoặc bí mật cho các thế lực chính trị đương thời để xây dựng môi trường hoạt động ổn định cho tập đoàn. Để điều hành tập đoàn, Concern thường xây dựng một “Holding-Company” và một ngân hàng độc quyền. Đó là một dạng công ty khống chế, không có xí nghiệp sản xuất kinh doanh trực tiếp nhng lại nắm cổ phần khống chế nhờ tính thống nhất giữa quyền chiếm hữu và quyền chi phối trong quan hệ sở hữu tư bản. Hình thức điều hành của Concern được tổ chức theo cơ cấu kiểm soát trực tiếp từ trung tâm đến chi nhánh thông qua hội đồng quản trị gồm những cổ đông có lượng cổ phiếu lớn. Dưới sự chỉ đạo của hội đồng quản trị, hệ thống điều hành trực tiếp của Concern là dạng ma trận vận hành theo nguyên tắc tập trung. Trong thành phần của Concern đã xuất hiện phổ biến các xí nghiệp hoạt động ở tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế như công nghiệp, thương nghiệp, ngân hàng, giao thông vận tải… Mặc dù hoạt động ở các ngành khác nhau và tương đối độc lập nhưng các công ty thành viên luôn có mục tiêu phù hợp với mục tiêu của công ty mẹ. * Conglomerate Conglomerate là hình thức tổ chức quan trọng của công ty xuyên quốc gia hiện đại, là kết quả quá trình liên kết công ty theo chiều dọc, tức là công ty lớn thâm nhập vào công ty xí nghiệp của các ngành sản xuất khác nhau không có sự liên kết ràng buộc hoặc quy định về kỹ thuật sản xuất kinh doanh. Mối liên hệ giữa công ty mẹ và các chi nhánh chủ yếu là tài chính, điều hành thông qua cơ cấu quyền lực và liên kết với các ngân hàng đầu tư, ngân hàng thơng mại, công ty đầu tư, công ty bảo hiểm… Hoạt động bành trướng và thâu tóm của Conglomerate được diễn ra cơ bản trên thị trường chứng khoán. Công ty mẹ lựa chọn các công ty đang hoạt động ở tất cả các ngành kinh tế có tỷ lệ lãi cao và “nuốt dần” bằng cách mua cổ phiếu của chúng. Do đó, cơ cấu ngành kinh doanh trong tập đoàn biến đổi nhanh chóng. Để phù hợp với đặc trưng hoạt động kinh doanh, cơ cấu điều hành của Conglomerate rất gọn nhẹ, linh hoạt và phi tập trung hoá, chủ yếu là kiểm soát hoạt động của chi nhánh thông qua hệ thống tài chính và chỉ đạo hành chính dựa trên sự tăng cường hiệu quả hoạt động kinh doanh. Đó là cơ cấu điều hành, kiểm tra kiểu mạng lới trực tiếp từ trung tâm đến cơ sở tác nghiệp, đồng thời gián tiếp kiểm tra hiệu quả hoạt động kinh doanh của các công ty chi nhánh qua sự dao động giá cổ phiếu của nó trên thị trường chứng khoán. Trong nhiều trường hợp, các chi nhánh lâm vào bế tắc trong kinh doanh không có khả năng khôi phục, công ty mẹ sẵn sàng cắt bỏ bằng cách bán chạy cổ phiếu của chúng ra thị trường để giữ mức lợi nhuận bình quân và hoạt động bình thường của toàn bộ tập đoàn. Khi cần tăng cường sức sản xuất hoặc phải thích ứng kịp thời với sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ khoa học công nghệ, công ty mẹ tập trung nguồn tư bản mua gọn lượng cổ phiếu khống chế hoặc sát nhập với các công ty có hàm lượng công nghệ cao. Chính vì vậy, cơ cấu ngành nghề của Conglomerate luôn biến đổi theo hướng đa dạng, hỗn hợp với cơ cấu quản lý, điều hành phải gọn nhẹ, linh hoạt. 1.4.2. Thể chế quản lý 1.4.2.1. Các mô hình quản lý Với quá trình phát triển mạnh mẽ hiện nay của các công ty xuyên quốc gia, thể chế quản lý chúng cũng có nhiều biến đổi so với thời kỳ trước đây. Những biến đổi đó được diễn ra trước tiên là do có sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và sự thúc đẩy của quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế và công ty xuyên quốc gia bước vào giữa thập kỷ 90 với trạng thái phát triển sôi động và biến đổi sâu sắc – dấu hiệu khởi đầu cho cuộc cách mạng công ty thực sự ở thế kỷ XXI. Dựa trên quy mô, mức độ tập trung hóa các nguồn lực trong một thực thể kinh doanh và sự phân chia quyền lực trong tổ chức chỉ đạo tác nghiệp lấy công ty mẹ làm trung tâm, có thể chia thể chế quản lý công ty xuyên quốc gia thành 3 loại: - Thứ nhất là, loại tập trung cao độ quyền lực quản lý vào công ty mẹ, gọi là thể chế “trung tâm nhất nguyên”, kiểu “Kim tự tháp”. - Thứ hai là, loại phân tán quyền lực quản lý vào các công ty chi nhánh ở nước ngoài, hoặc vào các ngành nghề khác nhau trong các bộ phận cấu thành công ty. Đây là hình thức “đa trung tâm”, kiểu “mạng lưới” của công ty xuyên quốc gia. - Thứ ba là, hình thức thể chế kết hợp giữa quản lý tập quyền và đa quyền kể trên được gọi là thể chế “nhị nguyên”. Cách mạng khoa học – công nghệ đặt ra việc đổi mới phương thức tổ chức quản lý tất yếu đòi hỏi phải có những loại hình cơ cấu tổ chức tương ứng. Những cơ cấu tổ chức quản lý tiêu chuẩn hóa kiểu cổ điển trước đây như: cơ cấu tổ chức quản lý trực tuyến, chức năng, tham mưu – chức năng… tỏ ra không còn hiệu nghiệm nữa. Quản lý theo kiểu “ kim tự tháp” phản ứng chậm chạp đã bắt đầu sụp đổ. Vì dưới chế độ đẳng cấp, việc truyền tin từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên phải qua quá nhiều cửa ải, chẳng những chậm chạp mà còn mất đi tính xác thực của nó. Còn trong xã hội thông tin, sự truyền đạt tin tức cần phải nhanh chóng và chuẩn xác. Điều quan trọng hơn là kỹ thuật thông tin hiện đại khiến cho xã hội hình thành một mạng lới truyền tin hoàn chỉnh, từ đó mối liên hệ giữa các xí nghiệp kiểu truyền thống trở nên bất cập và lỗi thời. Thực tiễn đòi hỏi, phương thức tổ chức quản lý phải thu hẹp khoảng cách giữa trên, dưới và trong nội bộ xí nghiệp theo hướng bình diện hóa kiểu “mạng lới”. 4.2.2. Mô hình quản lý kiểu “mạng lới” Hình thức tổ chức quản lý ngày càng được bổ sung phong phú, phức tạp, thay đổi kịp thời và nhạy bén với mọi biến đổi của thị trường để bảo đảm cho công ty xuyên quốc gia đứng chân vững chắc trong mọi địa bàn và tình huống cạnh tranh luôn biến động. Thể chế quản lý mạng lưới không có trung tâm, mỗi một tầng quản lý trong mạng lới, thậm chí mỗi một người quản lý đều có thể là một trung tâm. Mối liên hệ giữa chúng là mối liên hệ phức hợp giao chéo kiểu rẻ quạt. Mục tiêu quản lý của nó không chỉ có quản lý việc kinh doanh, tiêu thụ, quản lý nhân viên, mà còn cả việc thiết kế hình tượng xí nghiệp, xây dựng nét đặc thù văn hóa của xí nghiệp. Tôn chỉ căn bản của thể chế quản lý kiểu mạng lới là huy động có hiệu quả nhất tài năng và ưu thế của mỗi ngời trong mạng lưới công ty. Trong thể chế quản lý kiểu mạng lưới, tin tức lan truyền như trong hệ thống thần kinh. Hoạt động trong môi trường kinh tế quốc tế đa nguyên, nhu cầu tiêu dùng của thị trường trên từng địa bàn mà công ty hoạt động khác nhau do truyền thống, tập quán, văn hóa khác nhau gây ra. Do đó, công ty xuyên quốc gia phải nắm bắt kịp thời và xử lý chính xác các thông tin đó để có những đối sách về công nghệ và kỹ năng chiếm lĩnh thị trường thích hợp. Trong thể chế quản lý kiểu mạng lưới, bất kỳ một cấp bậc quản lý nào thuộc từng bộ phận công ty hay công ty chi nhánh đều có quyền nhận được kịp thời những tin tức mới và hoàn chỉnh nhất để dùng vào quyết sách của mình. Nhờ đó, nó hoàn toàn có khả năng ứng phó với mọi điều kiện kinh doanh, tiêu thụ quốc tế liên tục biến đổi. Thể chế kiểu mạng lưới còn nhấn mạnh đến sự phát triển và phân chia phần hưởng thụ tin tức đến các bộ phận của mình, làm cho càng nhiều công ty chi nhánh có được số tin tức cùng một lượng như nhau, nên giảm được rất nhiều giá thành phát triển tin tức một cách độc lập của các công ty chi nhánh, đồng thời cũng có lợi cho sự nhịp nhàng và hợp tác trong quyết sách kinh doanh giữa chúng. Các hình thức tồn tại của mô hình thể chế quản lý kiểu “mạng lưới” Mô hình tổ chức, quản lý theo quá trình liên kết ngang Những năm gần đây, dưới sự sắp đặt và chỉ đạo của rất nhiều công ty tư vấn quản lý nổi tiếng, công ty điện thoại điện báo quốc tế (ITT), công ty General Electric (GE) và công ty Chrysler… của Mỹ đang từng bước dứt bỏ mô hình tổ chức quản lý theo chức năng công việc và kiểu liên kết ngành dọc truyền thống được hình thành từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Một loại cơ cấu tổ chức quản lý theo quá trình kiểu liên kết ngang đã được hình thành dần. Cần nhấn mạnh rằng, ý nghĩa của cuộc biến đổi này rất to lớn và là một cuộc cách mạng thực sự trong quản lý của công ty xuyên quốc gia, một liều thuốc tốt cho việc khắc phục “hội chứng người khổng lồ” ngày càng trầm trọng. Cùng với sự phát triển của hình thức quản lý công ty này, những khuyết tật của hình thức quản lý cũ bị loại bỏ nh: sự quan liêu, tin tức không thông suốt, quyết sách chậm chạp, quyền lực quá tập trung và cả sự thiếu hợp tác giữa các bộ phận trong nội bộ công ty xuyên quốc gia. Về tổ chức tác nghiệp, kết cấu tổ chức “kim tự tháp” kiểu ngành dọc là một loại kết cấu hàm chứa rất nhiều tầng cấp, các thông tin làm cơ sở cho quyết định sẽ đi qua nhiều cấp trung gian. Mỗi một viên chức được đặt vào một bộ phận nào đó dựa trên chức năng công việc làm hạt nhân. Loại mô hình này xếp đặt vị trí ._.yên Á và cả tuyến đường từ Đông sang Tây nối liền giữa biển Đông với Lào, Thái Lan, Việt Nam như một cây cầu dài trên bộ nối ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, tạo ra con đường vận tải ngắn nhất từ Tây sang Đông trong tương lai gần. Các nước lớn cũng như các công ty xuyên quốc gia nhìn vào Việt Nam không chỉ là một nơi có nhiều tiềm năng mà còn ở vị thế địa – chính trị, địa – kinh tế của nước ta ở Đông Dưng, trong ASEAN, và phần nào của APEC, ASEM,WTO. Đó là một lợi thế tồn tại tương đối lâu dài và là một vị trí thuận lợi để các công ty xuyên quốc gia triển khai chiến lược đầu tư kinh doanh ở nước ta. Là một nước nông nghiệp nhiệt đới đang phát triển với nguồn nguyên liệu dồi dào thích hợp cho việc đầu tư phát triển các công nghệ chế biến, phù hợp với động cơ tìm kiếm và khai thác nguyên liệu thô của các công ty xuyên quốc gia. Nhiều tài nguyên thiên nhiên của ta như dầu khí, kim loại quý hiếm, rừng... chưa có điều kiện khai thác có hiệu quả. Việc sản xuất các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới như gạo, cà phê, chè, đường, cao su, hoa quả... của nước ta vẫn còn đang ở trình độ thấp. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu mới ở dạng thô. Do vậy, các công ty xuyên quốc gia kinh doanh sản xuất nông nghiệp vẫn còn điều kiện đầu tư vào để phát triển sản xuất, chế biến và đóng gói để xuất sang các nước phát triển, thông qua đó thu lợi nhuận cao. Việt Nam là một nước đi sau đang tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá, rất cần vốn, kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý nên có nhiều chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư có lợi cho các công ty xuyên quốc gia. Việt Nam cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm và hàng hoá mà các công ty xuyên quốc gia quan tâm tìm kiếm và khai thác. Những lợi thế của Việt Nam sẽ là điều kiện để các công ty xuyên quốc gia đầu tư khai thác, mở rộng thị trường, tìm kiếm lợi nhuận cao. Vấn đề là chúng ta phải biết lựa chọn các nhà đầu tư thực sự có tiềm lực, muốn làm ăn lâu dài, đồng thời phải có chính sách mềm dẻo, khôn khéo để vừa thu hút được các công ty xuyên quốc gia, vừa đảm bảo khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên, các lợi thế của mình theo nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền và cùng có lợi. Bên cạnh đó Việt Nam đã tạo mọi ưu đãi cho các công ty nước ngoài đầu tư vào nước ngoài.Việt Nam đã tạo một chính sách thông thoáng cho nhà đầu tư nước ngoài về luật pháp cũng như minh bạch thông tin.Bên cạnh đó công tác đào tạo nguồn nhân lực cũng được nâng cao cả về chất và lượng,các tỉnh thành cũng có nhiều chích sách để thu hút đầu tư như : Thuế thu nhập doanh nghiệp,mặt bằng……. 3.2.2. Khó khăn *Kinh tế thị trường nước ta chưa hoàn thiện Thị trường đầu tư mà chủ yếu quan trọng là các công ty xuyên quốc gia vốn là sản phẩm của nền kinh tế thị trường hiện đại. Để đầu tư và hoạt động đầu tư của các công ty này được thuận lợi thì phải có môi trường đầu tư đồng dạng, có thị trường phát triển tương ứng, đảm bảo cho các yếu tố, các khâu của quá trình tái sản xuất có đủ điều kiện để hoạt động bình thường. Một vấn đề quan trọng nữa là sự ổn định và đồng bộ của thị trường. Bởi vì trong nền kinh tế thị trường, nếu luôn diễn ra những chấn động, đặc biệt là sự chấn động về tỷ giá, giá cả hàng hoá, tỷ lệ lạm phát cao, tốc độ tăng trưởng thấp... thì đó chính là biểu hiện của sự rối loạn thị trường kinh doanh và đe doạ đến lợi ích của đa số các nhà đầu tư. Và như vậy, khó có thể làm yên lòng họ. Do đó, muốn thu hút đầu tư có hiệu quả, các nước chủ nhà không thể không quan tâm đến cơ chế thị trường và thiết lập thị trường đồng bộ. Trong 20 năm qua, nước ta đã thành công trong việc chuyển từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc, đảm bảo tăng trưởng kinh tế và cải thiện một bước đời sống của nhân dân. Nhng kinh tế thị trường ở nước ta đang còn ở trình độ sơ khai, thể hiện ở các mặt: - Năng suất lao động thấp, xã hội kém phát triển. Số lượng lao động trong nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ lệ cao. Ngành nghề dịch vụ nông thôn kém phát triển, cơ cấu kinh tế chậm đổi mới. Nông nghiệp vẫn chiếm 70% cơ cấu kinh tế nông thôn, trồng trọt chiếm khoảng 80% giá trị sản lượng nông nghiệp, chăn nuôi mới chỉ chiếm 20%. Công nghiệp chế biến nông sản còn rất nhỏ yếu. Vùng núi, vùng sâu còn mang nặng tính chất của nền kinh tế tự nhiên. Các ngành công nghiệp dịch vụ tuy có bước phát triển nhưng còn nhiều yếu kém, sản xuất chưa ổn định, hiệu quả không cao. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm và còn lạc hậu, chưa phát huy được thế mạnh và những lợi thế so sánh trong từng ngành, từng vùng, làm cho chất lượng và hiệu quả hoạt động của nền kinh tế thấp, sức cạnh tranh kém. - Thị trường trong nước chưa hoàn chỉnh và chưa phát triển. Thị trường hàng hoá, dịch vụ còn hạn hẹp có nhiều biểu hiện tiêu cực, sức mua chưa cao. Thị trường sức lao động mới manh nha, cung về sức lao động lành nghề nhỏ hơn cầu trong khi cung về sức lao động giản đơn lại vượt mức cầu quá xa, nhiều người trong độ tuổi lao động không tìm được việc làm. Tình trạng vừa thừa, vừa thiếu lao động đã làm cho thị trường sức lao động mới manh nha đã có những biểu hiện thiếu lành mạnh. Thị trường tiền tệ, thị trường vốn có tiến bộ nhưng còn nhiều hiện tượng không bình thường. Tỷ lệ sử dụng tiền mặt còn quá lớn, các dịch vụ ngân hàng chưa đa dạng. Hoạt động của các ngân hàng thương mại còn yếu cả về mặt huy động vốn và cho vay. Chất lượng tín dụng chưa cao, nợ quá hạn và nợ khó đòi còn nhiều. Tình trạng nhiều doanh nghiệp thiếu vốn mà không vay được vốn, trong khi ngân hàng thương mại ứ đọng vốn hàng nghìn tỷ đồng. Sự phát triển thiếu đồng bộ của thị trường là cản trở, khó khăn cho hoạt động của các công ty xuyên quốc gia. Cơ chế thị trường được hình thành nhưng chưa phát huy đầy đủ tác dụng của nó. Tình trạng nhập lậu tràn lan, trốn thuế, lậu thuế và các hiện tượng gian lận thương mại làm cho hàng sản xuất trong nước ứ thừa, khó tiêu thụ là những tiêu cực của cơ chế thị trường chưa được khắc phục. * Cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý còn nhiều bất cập Cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế thích hợp với phân công lao động quốc tế, phù hợp với các quy tắc, quy định và thông lệ chung cũng là điều kiện để tăng sức hấp dẫn đối với các công ty xuyên quốc gia. Nhng đối với nước ta, cả về cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế và bộ máy quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước còn chuyển biến chậm, chưa thực sự tạo được những thuận lợi để thu hút đối với các công ty xuyên quốc gia. Cơ cấu kinh tế nước ta còn nhiều hạn chế, chưa phát huy được những thế mạnh và những lợi thế so sánh của từng ngành, từng vùng, làm cho chất lượng và hiệu quả hoạt động của nền kinh tế thấp, sức cạnh tranh kém, nhất là chưa thích hợp với trình độ phân công lao động quốc tế hiện nay. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước của ta chưa được phát huy một cách có hiệu quả. Một mặt, cơ chế thị trường chưa phát huy được đầy đủ tính tự điều tiết của nó. Mặt khác, hệ thống quản lý của Nhà nước đã bộc lộ rõ sự đuối tầm, năng lực quản lý không tương xứng. Sự bất cập này thể hiện ở sự ổn định kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, các vấn đề về tài chính tiền tệ, ngân hàng chưa lành mạnh. Hệ thống thể chế thị trường vừa mới mở ra, nhưng chưa phát huy đầy đủ tác dụng; chính sách chưa đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ, nhất quán, còn chồng chéo và thường mới ở mức độ là các giải pháp tình thế, không có tính ổn định lâu dài; một số quốc nạn như tham nhũng, buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế... đã được Đảng và Nhà nước quyết tâm chống và bài trừ nhưng chưa giảm; hiệu quả huy động, sử dụng nguồn lực thấp, còn thất thoát, lãng phí nhiều. Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư nớc ngoài còn thiếu đồng bộ. Một số văn bản dưới luật ban hành chậm, thậm chí “thắt lại” gây khó khăn cho thực hiện. Việc vận dụng luật pháp, chính sách còn có hiện tượng tuỳ tiện “trên thoáng, dưới chặt”. Ngoài ra, tính ổn định của luật pháp, chính sách chưa cao, chưa tạo ra sự an tâm của các nhà đầu tư. Việc quản lý của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài vừa có hiện tượng buông lỏng, vừa can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp. Sự yếu kém này đã gây nên những lo ngại với nhà đầu tư là các công ty xuyên quốc gia. Tổ chức bộ máy còn yếu kém, thủ tục còn phiền hà, năng lực của đội ngũ cán bộ công chức còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu của chức danh được đảm nhiệm đã dẫn đến hiệu quả pháp lý thấp. Nhất là đối với cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài, tuy đã được phân cấp rõ ràng nhng vẫn có sự trùng lặp về chức năng. Việc thực hiện xét duyệt triển khai dự án còn chậm, quản lý các hoạt động đầu t nớc ngoài cha chặt chẽ. Những yếu kém trên dẫn đến tình trạng môi trường đầu tư chưa được lành mạnh, chưa có sức hấp dẫn cao đối với các công ty xuyên quốc gia. Điều đó đặt ra vấn đề hết sức cấp bách là cần phải tiếp tục từ đổi mới cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện cơ chế và bộ máy quản lý, điều chỉnh thể chế, luật pháp phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tương thích với những quy tắc, thông lệ quốc tế. Có như vậy mới đủ sức thu hút, hấp dẫn các công ty xuyên quốc gia vào đầu tư kinh doanh ở Việt Nam. * Kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật còn yếu kém Hạ tầng vật chất kỹ thuật của nớc ta những năm qua đã đợc chú ý đầu tư phát triển nhng cho đến nay vẫn còn khoảng cách khá xa so với các nước trong khu vực. Ngoài một số tiến bộ đạt được, đặc biệt trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, nhìn chung kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật còn yếu kém. Đó cũng là những trở ngại lớn trong việc thu hút các công ty xuyên quốc gia. 3.3. Một số gợi ý đối với Việt Nam Từ khi Việt Nam thực hiện đổi mới nền kinh tế, với chính sách mở cửa nền kinh tế đã thu hút đợc các công ty xuyên quốc gia đến Việt Nam. Hiện nay các công ty xuyên quốc gia có mặt tại Việt Nam đang hoạt động trên nhiều lĩnh vực nh chế tạo thiết bị viễn thông, công nghệ máy tính, khai thác dầu khí, sản xuất ô tô và xe gắn máy, nớc giải khát, xây dựng cơ sở hạ tầng, chế tạo điện tử dân dụng, thơng mại và dịch vụ... hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam đã có đóng góp đáng kể trong việc định hớng phát triển và chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo lập thị trờng và đẩy mạnh xuất khẩu. Thông qua hoạt động của các công ty xuyên quốc gia mà các nhà sản xuất và kinh doanh Việt Nam có điều kiện tiếp cận thị trờng bên ngoài, trực tiếp học hỏi, tiếp xúc với những công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý và những phơng thức kinh doanh tiên tiến, tăng khả năng cạnh tranh của những sản phẩm sản xuất trong nớc với thị trờng khu vực và thế giới. Điều này đã giúp Việt Nam củng cố vị trí trên trờng quốc tế. Chính vì vậy, chúng ta cần phải chủ động thu hút các công ty xuyên quốc gia đến hoạt động tại Việt Nam nhằm tranh thủ khai thác tối đa những lợi ích mà chúng mang lại để phát triển kinh tế. Để làm đợc điều đó, chúng ta cần giải quyết một số vấn đề có thể nói là rất bức xúc hiện nay. Cụ thể: * Về phía doanh nghiệp Các doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của mình nhằm hội đủ điều kiện trở thành các đối tác của các công ty xuyên quốc gia. Vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp hiện nay là cần phải thẳng thắn nhìn nhận lại những yếu kém của chính mình và nỗ lực khắc phục theo một định hướng chiến lược lâu dài. Trớc tiên là cần chủ động đầu tư nâng cao trình độ công nghệ lên ngang tầm khu vực và thế giới. Nhằm nâng cao trình độ công nghệ của doanh nghiệp, đảm bảo tiếp thu tốt các công nghệ từ bên ngoài và phát huy khả năng sáng tạo trong nội bộ doanh nghiệp, cần thành lập các bộ phận phát triển công nghệ như các viện công nghệ, các bộ phận nghiên cứu và triển khai công nghệ, các viện nghiên cứu thị trường... đủ khả năng nghiên cứu và đổi mới sản phẩm, công nghệ, tăng khả năng thích ứng của doanh nghiệp với sự biến động trên thị trường thế giới. Bên cạnh việc mua sắm máy móc và công nghệ mới, đẩy mạnh các hoạt động đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ lao động, doanh nghiệp cần áp dụng các biện pháp khuyến khích tinh thần sáng tạo của nhân viên. Đó chính là yếu tố mang tính quyết định đối với sự phát triển công nghệ của doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần đa dạng hoá lĩnh vực hoạt động. Đa dạng hoá lĩnh vực hoạt động không chỉ là chiến lược chủ quan của các tập đoàn để thu được lợi nhuận tối đa từ việc khai thác khả năng và cơ hội của công ty trên mọi thị trường mà còn là đòi hỏi khách quan của sự cạnh tranh sinh tồn. Các công ty xuyên quốc gia từ các nước phát triển như Mỹ, Châu Âu thường bắt đầu từ lĩnh vực sản xuất rồi mở rộng dần sang các lĩnh vực khác như thương mại, dịch vụ, nghiên cứu và triển khai công nghệ... Ngược lại, các công ty xuyên quốc gia của Nhật Bản và một số nước NIC thường bắt đầu từ các hoạt động thương mại, dịch vụ rồi mở rộng sang các lĩnh vực sản xuất, nghiên cứu ứng dụng... Đây là con đường phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam vì nó phù hợp với khả năng tài chính và công nghệ của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, dù có hoạt động đa ngành thì cũng cần tập trung vào một hoặc một số ngành chủ đạo, trong đó doanh nghiệp có lợi thế so sánh. Đặc biệt là các doanh nghiệp cần nỗ lực mở rộng, tăng cường hoạt động của mình trên thị trường nước ngoài. Để làm được điều này, các doanh nghiệp nên thiết lập các hoạt động ban đầu tại nước ngoài như mở văn phòng đại diện và các đại lý tiêu thụ tại nước ngoài. Đây sẽ là những bước khởi đầu tốt đẹp cho sự mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam ra ngoài biên giới quốc gia. * Về phía Nhà nước Nhà nước cần tích cực mở rộng quan hệ ngoại giao và thơng mại với các nước (hiện nay chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 nước), đồng thời tham gia vào các diễn đàn chung của khu vực và thế giới. Đây là những tiền đề quan trọng để mở đường cho sự thâm nhập của các doanh nghiệp Việt Nam vào các thị trường khu vực và thế giới. Bên cạnh việc mở rộng quan hệ ngoại giao cần đặc biệt chú trọng đến vai trò tiên phong của các cơ quan ngoại giao trong việc mở đường cho các hoạt động kinh tế tại nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Các cuộc gặp gỡ giữa giới doanh nghiệp và các nhà ngoại giao cần được tổ chức liên tục tại cả ba miền đất nước. Nhà nước cũng cần tạo điều kiện phát triển các mối liên kết giữa các công ty xuyên quốc gia và doanh nghiệp trong nước. Cản trở lớn nhất trong việc phát triển các mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước và các công ty xuyên quốc gia là năng lực sản xuất của chính bản thân các doanh nghiệp. Chính vì vậy, Nhà nước cần chủ động thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Cụ thể là: -Đối với doanh nghiệp nhà nước, cần thực hiện triệt để chương trình sắp xếp lại doanh nghiệp trong đó đặc biệt chú trọng công cuộc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sản xuất của doanh nghiệp, lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp, thường xuyên giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhằm tránh tình trạng trì trệ trong hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay. - Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần hỗ trợ các doanh nghiệp này phát triển thành một đội ngũ các nhà cung cấp, các nhà thầu phụ có năng lực, chuyên nghiệp, đạt tiêu chuẩn quốc tế cho các dự án với các đối tác nước ngoài là một chiến lược quan trọng cần được đặc biệt quan tâm. Để tạo thuận lợi cho sự tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam vào hệ thống sản xuất của các công ty xuyên quốc gia, Nhà nước cần tạo nhiều cơ hội cho các công ty xuyên quốc gia và các doanh nghiệp trong nước tiếp cận đợc những nguồn thông tin về nhau, qua đó thúc đẩy việc thiết lập các quan hệ đối tác như: tổ chức các diễn đàn trao đổi thông tin giữa các công ty xuyên quốc gia và các doanh nghiệp trong nước, tổ chức các hội chợ triển lãm có chất lượng với sự tham gia của doanh nghiệp trong và ngoài nước, thiết lập các chương trình cung cấp thông tin về các đối tác trong nước thông qua các tổ chức như Phòng Thơng mại và Công nghiệp, các hiệp hội ngành nghề; thực hiện khảo sát và đánh giá khách quan về thực lực của các doanh nghiệp để xây dựng một danh mục các nhà thầu phụ có chất lương nhằm cung cấp cho các đối tác quan tâm. KẾT LUẬN Qua việc phân tích nguồn gốc hình thành và sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia đã chứng minh được rằng công ty xuyên quốc gia là một hình thái tổ chức sản xuất kinh doanh đáp ứng được những đòi hỏi mới của lực lượng sản xuất đã phát triển đến trình độ xã hội hoá cao trên quy mô toàn cầu. Chính vì thế, chúng có những đặc trưng rất riêng và nổi bật mà không một doanh nghiệp nội địa nào có được như khả năng tổ chức sản xuất quy mô cực lớn, tiềm lực tài chính và công nghệ khổng lồ, mạng lới chi nhánh phân phối rộng khắp trên toàn cầu... Những phân tích về tổ chức, thể chế quản lý và hoạt động của các công ty xuyên quốc gia là căn cứ để lý giải vai trò to lớn của các công ty xuyên quốc gia trong thương mại quốc tế. Các công ty xuyên quốc gia đóng vai trò như một chủ thể quan trọng trong thương mại thế giới. Có thể nói rằng công ty xuyên quốc gia là động lực quan trọng cho sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá trên toàn thế giới nói chung và cho từng quốc gia nói riêng. Với quy mô khổng lồ và mạng lới chi nhánh lớn mạnh tại nhiều thị trường, các công ty xuyên quốc gia thúc đẩy các hoạt động thương mại thế giới phát triển, không chỉ tăng thương mại nội bộ giữa các chi nhánh, các công ty xuyên quốc gia còn thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Chúng góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu của các nước chủ nhà, nâng cao khả năng cung cấp các sản phẩm xuất khẩu phù hợp với thị trường thế giới và mở rộng cầu đối với các sản phẩm xuất khẩu. Ngoài ra, các công ty xuyên quốc gia còn làm thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế cả về cơ cầu hàng hoá lẫn về cơ cấu đối tác, tỷ trọng hàng hoá có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao ngày càng phát triển và giảm dần tỷ trọng hàng sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu. Nhờ các công ty xuyên quốc gia mà các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước mới công nghiệp hoá có thể tăng dần tỷ trọng trao đổi hàng hoá của mình. Do tỷ trọng ngày càng lớn của công ty xuyên quốc gia trong thương mại thế giới nên chúng còn chi phối giá cả hàng hoá trên thị trường quốc tế. Chính vì những vai trò to lớn đó nên các quốc gia luôn dành cho các công ty xuyên quốc gia một vị trí xứng đáng trong mọi chiến lược phát triển kinh tế của mình. Trên cơ sở phân tích những tác động của công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế quốc dân Việt Nam, những thuận lợi và khó khăn hiện nay của nước ta, một số vấn đề đã được rút ra cho Việt Nam trong việc tranh thủ khai thác tối đa những lợi ích mà các công ty xuyên quốc gia mang lại để phát triển kinh tế. Đó là các doanh nghiệp cần chủ động đầu tư nâng cao trình độ công nghệ lên ngang tầm khu vực và thế giới; đa dạng hoá lĩnh vực hoạt động; mở rộng và tăng cường hoạt động của mình trên thị trường nớc ngoài. Đối với Nhà nớc cần mở rộng quan hệ ngoại giao và thương mại với các nước; tạo điều kiện phát triển các mối liên kết giữa các công ty xuyên quốc gia và doanh nghiệp trong nước, giúp các công ty có thể dễ dàng tiếp cận các thông tin về nhau. Phụ lục 1: SỐ LỢNG CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI (theo nớc và khu vực) Năm thống kê Các công ty mẹ Các công ty chi nhánh Các nền kinh tế phát triển 49 048 105 830 Tây Âu 39 715 77 415 EU 34 291 65 460 Áo 2001 935 2 607 Bỉ 1997 988 1 504 Đan Mạch 1998 9 356 2 305 Phần Lan 2001 900 2 030 Pháp 2000 1 922 9 473 Đức 2000 8 522 13 826 Hy Lạp 2001 155 697 Ailen 2001 39 1 225 Italy 1999 1 017 1 843 Hà Lan 1998 1 608 3 132 Bồ Đào Nha 2001 600 3 000 Tây Ban Nha 1998 857 7 465 Thuỵ Điển 2002 4 260 4 656 Anh 2002 3 132 13 828 Các nớc Tây Âu khác 5 424 11 955 Na Uy 1998 900 5 105 Thuỵ Sỹ 1995 4 506 5 774 Bắc Mỹ 4 674 19 437 Canada 1999 1 439 3 725 Mỹ 2000 3 235 15 712 Các nớc phát triển khác 4 659 6 847 Australia 2001 682 2 352 Nhật 2002 3 760 3 359 New Zealand 1998 217 1 106 Các nền kinh tế đang phát triển 13 936 517 611 Châu Phi 1 202 7 049 Nigeria 2002 48 66 Nam Phi 1998 941 2 044 Tunisia 2002 142 2 503 Mỹ La tinh và Caribe 2 022 45 383 Argentina 2002 .. 1 123 Brasil 1998 1 225 8 050 Chile 1998 478 3 173 Colombia 1995 302 2 220 Mexico 2002 .. 25 708 Panama 2002 .. 384 Peru 1997 10 1 183 Châu Á 10 685 464 631 Đông, Nam và Đông Nam Á 9 934 445 272 Trung Quốc 2002 350 368 885 Năm thống kê Các công ty mẹ Các công ty chi nhánh Hồng Kông 2001 948 9 132 Ấn Độ 1995 187 1 416 Indonesia 1995 313 2 241 Hàn Quốc 2002 7 460 12 909 Singapore 2002 .. 14 052 Đài Loan 2001 606 2 841 Thái Lan 1998 .. 2 721 Tây Á 751 11 672 Oman 1995 92 351 Thổ Nhĩ Kỳ 2002 653 6 311 Trung Á .. 7 687 Armenia 1999 .. 1 604 Kazakhstan 1999 .. 1 865 Thái Bình Dơng 27 548 Fiji 2002 2 151 Trung và Đông Âu 850 242 678 Bungary 2000 26 7 153 Estonia 1999 .. 3 066 Ba Lan 2001 58 14 469 Rumani 2002 20 89 911 Nga 1994 .. 7 793 Slovenia 2000 .. 1 617 Thế giới-Tổng số 63 834 866 119 Phụ lục 2 : 100 CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA LỚN NHẤT THẾ GIỚI (Chỉ số tổng hợp) Chỉ số 2003 2002 % thay đổi 2003/2002 Tài sản( tỷ USD ) Nớc ngoài 2.934 3.113 -5,8 Tổng tài sản 5.914 6.184 -4,4 Doanh số(tỷ USD) Nớc ngoài 2.235 2.356 -5,2 Tổng doanh số 4.352 4.748 -8,3 Lao động(ngời) Nớc ngoài 6.890.178 6.791.647 1,5 Tổng lao động 13.383.852 14.197.264 -5,7 Phụ lục 3: 50 CÔNG TY LỚN NHẤT THẾ GIỚI VỀ TÀI SẢN ( Đơn vị : triệu USD ) Tài sản Nớc ngoài Tổng tài sản 1 VODAFONE ANH 187792 207458 2 GENERAL ELECTRIC MỸ 180031 495210 3 BP ANH 111207 141158 4 VIVENDI UNIVERSAL PHÁP 91120 123156 5 DEUTSCHE TELEKOM AG ĐỨC 90657 145802 6 EXXONMOBIL CORPORATION MỸ 89426 143174 7 FORD MOTOR COMPANY MỸ 81169 276543 8 GENERAL MOTOR MỸ 75379 323969 9 ROYAL DUTCH/SHELL GROUP ANH/HÀ LAN 73492 111543 10 TOTALFINAELF PHÁP 70030 78500 11 SUEZ PHÁP 69345 79280 12 TOYOTA MOTOR CORPORATION NHẬT 68400 144793 13 FIAT SPA Ý 48749 89264 14 TELEFONICA SA TAY BAN NHA 48122 77011 15 VOLKSWAGEN GROUP ĐỨC 47480 92520 16 CHEVRON TEXACO CORP. MỸ 44943 77572 17 HUTCHISON WHAMPOA LIMITTED HỒNG KÔNG 40989 55281 18 NEWS CORPORATION ÚC 35650 40007 19 HONDA MOTOR CO LTD NHẬT 35257 52056 20 E.ON ĐỨC 33990 87755 21 NESTLE SA THUỴ SĨ 33065 55821 22 RWE GROUP ĐỨC 32809 81024 23 IBM MỸ 32800 88313 24 ABB THUỴ SĨ 30586 32305 25 UNILEVER ANH/ HÀ LAN 30529 46922 26 ENI GROUP Ý 29935 55584 27 BMW AG ĐỨC 29901 45415 28 PHILIPS ELECTRONICS HÀ LAN 29416 34070 29 CARREFOUR SA PHÁP 29342 41172 30 ELECTRICITE DE FRANCE PHÁP 28141 120124 31 REPSOL YPF SA TÂY BAN NHA 27028 45575 32 SONY CORPORATION NHẬT 26930 61393 33 AVENTIS SA PHÁP 26368 34761 34 WAL -MART STORES MỸ 26324 83451 35 DAIMLERCHRYSLER AG ĐỨC/ MỸ 25795 183765 36 LAFARGE SA PHÁP 24906 26493 37 NISSAN MOTOR CO LTD NHẬT 24382 54113 38 AES CORPORATION MỸ 23902 36736 39 ROCHE GROUP THUỴ SĨ 22794 25289 40 BASF AG ĐỨC 20872 32671 41 DEUTSCHE POST AG ĐỨC 20840 138837 42 BAYER AG ĐỨC 20297 32817 43 GLAXOSMITHKLINE PLC ANH 20295 31758 44 ROYAL AHOLD NV HÀ LAN 19967 28562 45 COMPAGNIE DE SAINT-GLOBAIN SA PHÁP 19961 28478 46 BHP BILLITON GROUP ÚC 19898 29552 47 DIAGEO PLC ANH 19731 26260 48 CONOCO INC MỸ 19383 27904 49 PHILIP MORRIS COMPANIES INC MỸ 19339 84968 50 NATIONAL GRID TRANSCO ANH 19080 24839 Phụ lục 4: 50 CÔNG TY LỚN NHẤT THẾ GIỚI VỀ DOANH SỐ (2003) ( Đơn vị : triệu USD ) Doanh số Nớc ngoài Tổng doanh số 1 EXXONMOBIL CORPORATION MỸ 145814 209417 2 BP ANH 141225 175389 3 TOTALFINAELF PHÁP 74647 94418 4 ROYAL DUTCH/SHELL GROUP ANH/ HÀ LAN 72952 135211 5 TOYOTA MOTOR CORPORATION NHẬT 59880 108808 6 CHEVRON TEXACO CORP. MỸ 57673 104409 7 VOLKSWAGEN GROUP ĐỨC 57426 79376 8 FORD MOTOR COMPANY MỸ 52983 162412 9 IBM MỸ 50651 85866 10 GENERAL MOTOR MỸ 45256 177260 11 DAIMLERCHRYSLER AG ĐỨC/ MỸ 43556 137051 12 ROYAL AHOLD NV HÀ LAN 40150 59701 13 HONDA MOTOR CO LTD NHẬT 40088 55955 14 GENERAL ELECTRIC MỸ 39914 125913 15 SONY CORPORATION NHẬT 38605 57595 16 WAL -MART STORES MỸ 35485 217799 17 NESTLE SA THUỴ SĨ 34704 50717 18 PHILIP MORRIS COMPANIES INC MỸ 33944 89924 19 CARREFOUR SA PHÁP 31513 62294 20 SUEZ PHÁP 29919 37975 21 VIVENDI UNIVERSAL PHÁP 29652 51423 22 NISSAN MOTOR CO LTD NHẬT 29078 47091 23 UNILEVER ANH/ HÀ LAN 28675 46803 24 WPP GROUP PLC ANH 27853 30265 25 PHILIPS ELECTRONICS HÀ LAN 27598 28992 26 NOKIA PHẦN LAN 27557 27963 27 GLAXOSMITHKLINE PLC ANH 27319 29689 28 MATSUSHITA ELECTRIC INDUSTRIAL CO.,LTD. NHẬT 26815 52263 29 HEWLETT -PACKARD MỸ 26393 45226 30 MITSUI & CO LTD NHẬT 25553 96174 31 BMW AG ĐỨC 25304 34482 32 FIAT SPA Ý 24860 52002 33 VODAFONE ANH 24602 32744 34 RWE GROUP ĐỨC 23151 58039 35 E.ON ĐỨC 22744 71419 36 RENAULT SA PHÁP 19825 32589 37 ENI GROUP Ý 19437 43861 38 COMPAGNIE DE SAINT-GLOBAIN SA PHÁP 19091 27245 39 PROCTER & GAMBLE MỸ 19040 40238 40 ABB THUỴ SĨ 18876 19382 41 CONOCO INC MỸ 17530 38737 42 ERICSSON LM THUỴ ĐIỂN 17461 22442 43 ROCHE GROUP THUỴ SĨ 17156 17463 44 BASF AG ĐỨC 17108 29136 45 VOLVO AB THUỴ ĐIỂN 17011 18322 46 NORTEL NETSWORKS CANADA 16571 17511 47 DOW CHEMICAL COMPANY MỸ 16080 27805 48 MOTOROLA INC MỸ 16051 30004 49 MITSUBISHI CORPORATION NHẬT 15821 100553 50 ALCATEL PHÁP 15786 22729 Phụ lục 5: 50 CÔNG TY LỚN NHẤT THẾ GIỚI VỀ LAO ĐỘNG ( Đơn vị : người ) Lao động Nớc ngoài Tổng lao động 1 WAL -MART STORES MỸ 303000 1383000 2 VIVENDI UNIVERSAL PHÁP 256725 381504 3 MCDONALD'S CORPORATION MỸ 251023 395000 4 CARREFOUR SA PHÁP 235894 358501 5 NESTLE SA THUỴ SĨ 223324 229765 6 UNILEVER ANH/ HÀ LAN 204000 279000 7 FORD MOTOR COMPANY MỸ 188919 354431 8 TOYOTA MOTOR CORPORATION NHẬT 186911 246702 9 ROYAL AHOLD NV HÀ LAN 183851 270739 10 ANGLO AMERICAN ANH 175000 204000 11 IBM MỸ 173969 319876 12 PHILIPS ELECTRONICS HÀ LAN 157661 188643 13 VOLKSWAGEN GROUP ĐỨC 157579 324413 14 GENERAL ELECTRIC MỸ 152000 310000 15 ABB THUỴ SĨ 148486 156865 16 GENERAL MOTOR MỸ 148000 365000 17 MATSUSHITA ELECTRIC INDUSTRIAL CO.,LTD. NHẬT 142984 267196 18 COMPAGNIE DE SAINT-GLOBAIN SA PHÁP 130000 173329 19 SUEZ PHÁP 128750 188050 20 FIAT SPA Ý 103565 198764 21 SONY CORPORATION NHẬT 99300 168000 22 TELEFONICA SA TAY BAN NHA 93517 161527 23 BP ANH 90500 110150 24 DANONE GROUPE SA PHÁP 88285 100560 25 THYSSENKRUPP AG ĐỨC 88221 193516 26 DEUTSCHE TELEKOM AG ĐỨC 78722 257058 27 DAIMLERCHRYSLER AG ĐỨC/ MỸ 76441 372470 28 LAFARGE SA PHÁP 73940 82892 29 HITACHI LTD NHẬT 72849 321517 30 ALCOA MỸ 72500 129000 31 TOTALFINAELF PHÁP 69037 122025 32 ALCATEL PHÁP 68191 99314 33 RWE GROUP ĐỨC 65609 155634 34 E.ON ĐỨC 64285 151953 35 EXXONMOBIL CORPORATION MỸ 61148 97900 36 GLAXOSMITHKLINE PLC ANH 60962 107470 37 DIAGEO PLC ANH 59868 62124 38 BRITISH AMERICAN TOBACCO PLC ANH 59358 81425 39 HONDA MOTOR CO LTD NHẬT 59000 120600 40 MOTOROLA INC MỸ 57720 111000 41 VODAFONE ANH 56430 67178 42 ROCHE GROUP THUỴ SĨ 55451 63717 43 PINAULT -PRINTEMPS REDOUTE SA PHÁP 54231 107571 44 PFIZER INC MỸ 54000 90000 45 HUTCHISON WHAMPOA LIMITTED HỒNG KÔNG 53478 77253 46 DEUTSCHE POST AG ĐỨC 52680 276235 47 BAYER AG ĐỨC 52300 116900 48 ROYAL DUTCH/SHELL GROUP ANH/ HÀ LAN 52109 89939 49 JOHNSON & JOHNSON MỸ 50645 101800 50 RENAULT SA PHÁP 48826 140417 TÀI LIỆU THAM KHẢO TS. Nguyễn Văn Dân (Chủ biên) (2001), Những vấn đề của toàn cầu hoá kinh tế, NXB Khoa học – Xã hội. ThS. Nguyễn Văn Lan, Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia và tác động của nó đối với các nước đang phát triển, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 3(77) 2002. PTS. Trần Quang Lâm, Các công ty xuyên quốc gia trong tiến trình phát triển kinh tế ở các quốc gia đang phát triển và nguyên tắc sử dụng chúng trong đổi mới kinh tế Việt Nam, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 4 (42) 1996. Lê Văn Sang, Trần Quang Lâm (1996), Các công ty xuyên quốc gia trớc ngưỡng cửa thế kỷ XXI, NXB khoa học – Xã hội. Trần Quang Lâm, Hoàng Thị Bích Loan, Công ty xuyên quốc gia – kết quả của sự phát triển khách quan từ chế độ xí nghiệp hiện đại trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 215 tháng 4/1996. TS. Hoàng Thị Bích Loan (2002), Công ty xuyên quốc gia của các nền kinh tế công nghiệp mới Châu á, NXB Chính trị Quốc gia. Phùng Xuân Nhạ, giá chuyển giao giữa các chi nhánh của công ty đa quốc gia, Tạp chí Kinh tế & dự báo, số 283 tháng 11/1996. MQ (Theo BIKI), Đánh giá những tập đoàn xuyên quốc gia trên thế giới hiện nay, Tạp chí Ngoại thơng, số 12, 13/2003. Nguyễn Tâm Tình (2001), 100 tập đoàn kinh tế hàng đầu Châu Âu, NXB thế giới. Nguyễn Khắc Thân, Sự hợp nhất các công ty xuyên quốc gia – biểu hiện mới của quá trình nhất thể hoá kinh tế quốc tế. PGS.TS. Nguyễn Thiết Sơn (Chủ biên) (2003), Công ty xuyên quốc gia, khái niệm, bản chất và những biểu hiện mới, NXB Khoa học – Xã hội. UNCTAD (2002), Transnational Corporations and Export Compenti UNCTAD (2003), FDI policies for development : National and tiveness, World Investment Report, The United Nations, New York and Geneva. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12623.doc
Tài liệu liên quan