Lời mở đầu
Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững về mọi mặt của một quốc gia. Để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đòi hỏi rất nhiều yếu tố như con người, tài nguyên, công nghệ - kỹ thuật và vốn. Chính vì vậy, hoạt động đầu tư có vai trò rất quan trọng trong việc tạo nguồn vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, chi tiêu đầu tư của các nhà đầu tư và doanh nghiệp cũng như các chính s
59 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1667 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư và giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ách kích cầu đầu tư của Chính phủ luôn là vấn đề được quan tâm tại mỗi quốc gia ở mọi giai đoạn kinh tế. Đặc biệt, hiện nay, khi nền kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn suy thoái sau cuộc khủng hoảng tài chính, vấn đề kích cầu đầu tư lại càng trở nên quan trọng hơn. Bởi các chính sách kích cầu hợp lý và kịp thời trong giai đoạn này sẽ giúp cho nền kinh tế thoát nhanh khỏi đà suy thoái, phục hồi lại mức sản lượng, tiếp tục mở rộng và phát triển sản xuất, tạo đà cho tăng trưởng trong giai đoạn kế tiếp.
Vì vậy nhóm chúng tôi lựa chọn đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư và giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay” với nội dung bao gồm vấn đề lí thuyết và thực trạng về chi đầu tư và các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư; giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn PGS-TS Từ Quang Phương và TS Phạm Văn Hùng đã hướng dẫn tận tình trong quá trình đọc duyệt để chúng tôi có thể hoàn thiện bài viết này.
Nhóm thực hiện
Mục lục
Chương I : Lý luận chung về chi đầu tư và kích cầu đầu tư …………… . 4
I. Chi đầu tư và các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư………………… 4
1. Khái niệm chi đầu tư................................................................................. 4
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư…………………………………. 4
2.1. Lợi nhuận kì vọng…………………………………………………... 4
2.2. Lãi suất thực tế tiền vay…………………………………………….. 5
2.3. Sản lượng của nền kinh tế…………………………………………... 6
2.4. Đầu tư của Nhà nước………………………………………………... 8
2.5. Chu kỳ kinh doanh………………………………………………….. 8
2.6. Lợi nhuận thực tế………………………………………………….. 10
2.7. Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô khác………………………… 10
II. Kích cầu đầu tư……………………………………………………….. 13
1. Khái niệm kích cầu đầu tư…………………………………………….. 13
2 .Ý nghĩa của việc kích cầu đầu tư……………………………………… 13
3. Các biện pháp kích cầu đầu tư………………………………………… 13
Chương II: Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và kích cầu đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 1991 đến nay………………………… 15
I. Thực trạng chi đầu tư ở Việt Nam....................................................... 15
1. Giai đoạn 1991-2000………………………………………………… 15
2. Giai đoạn 2001- nay………………………………………………….. 16
II. Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư ở Việt Nam…… 17
Lợi nhuận kỳ vọng …………………………………………………… 17
1.1.Chi phí sản xuất- kinh doanh………………………………………. 17
1.2. Nhu cầu hàng hóa của thị trường………………………………….. 18
1.3. Mức độ cạnh tranh trên thị trường hàng hóa………………………. 18
1.4. Rủi ro của môi trường đầu tư……………………………………… 20
1.5. Chính sách thuế……………………………………………………. 21
2. Lãi suất tiền vay……………………………………………………... 22
3. Sản lượng của nền kinh tế……………………………………………... 23
4. Đầu tư của Nhà nước…………………………………………………. 24
5. Chu kỳ kinh doanh……………………………………………………. 27
6. Môi trường đầu tư……………………………………………………... 29
II. Tình hình kích cầu……………………………………………………. 31
1. Kích cầu thông qua lãi suất……………………………………………. 32
2. Kích cầu thông qua Chi đầu tư của Nhà nước………………………… 34
3. Kích cầu thông qua các yếu tố tác động đến môi trường đầu tư……… 35
III. Đánh giá ưu, nhược điểm của các chính sách kích cầu…………… 41
1. Những tồn tại chung của các chính sách kích cầu…………………….. 41
2. Đánh giá hiệu quả của gói kích cầu hỗ trợ lãi suất……………………. 42
Chương III: Kiến nghị giải pháp kích cầu đầu tư ở Việt Nam………….. 44
Nhóm giải pháp cải thiện môi trường đầu tư ………………………... 44
1. Phát triển cơ sở hạ tầng………………………………………………... 44
2. Nguồn nhân lực………………………………………………………... 44
3. Môi trường chính trị, pháp lý, chính sách……………………………... 45
4. Môi trường kinh tế vĩ mô……………………………………………… 55
II. Nhóm giải pháp tăng huy động và sử dụng các nguồn vốn cho
kích cầu đầu tư…………………………………………………………… 47
1. Các biện pháp thu hút và sử dụng vốn FDI……..…………………….. 47
2. Các biện pháp thu hút và sử dụng vốn ODA……..…………………… 50
3. Các biện pháp huy động nguồn vốn khác……………………………... 52
4. Nâng cao hiệu quả chi Ngân sách Nhà nước và chi đầu tư của các
doanh nghiệp nhà nước…………………………………………………... 52
III. Các giải pháp tăng hiệu quả của các gói kích cầu trong giai đoạn
suy thoái kinh tế........................................................................................... 55
Lời kết……………………………………………………………………... 58
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………….. 59
Chương I
Lý luận chung về chi đầu tư và kích cầu đầu tư
I. Chi đầu tư và các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư
1. Khái niệm chi đầu tư
Chi đầu tư là một hình thức tiêu dung đặc biệt của các chủ đầu tư nhằm thu được các khoản tiền lớn hơn trong tương lai.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư
2.1. Lợi nhuận kì vọng
Lợi nhuận kì vọng là khoản lợi nhuận mà chủ đầu tư mong muốn, hy vọng sẽ thu được trong tương lai khi đưa ra quyết định đầu tư. Việc nhận định đúng lợi nhuận kì vọng trong tương lai là điều vô cùng quan trọng. Nhiều công ty đã sụp đổ không phải di lãi suất thực tế cao mà bởi vì họ đã có nhận định sai lầm và quá lạc quan về triển vọng, lợi nhuận kiếm được. Song tâm lý chán nản và không chắc chắn về tương lai đi theo cùng sự suy sụp về hiều quả biên của tư bản tất nhiên sẽ thúc đẩy tình trạng ưa chuộng tiền mặt – làm cho lãi suất tăng lên và có thể làm trầm trọng them sự sa sút về đầu tư.
Theo lý thuyết của Keynes, một trong hai nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư khối doanh nghiệp là lợi nhuận kì vọng (cái mong mốn có được). Nếu lợi nhuận kì vọng cao sẽ thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh nhằm thu về khoản lợi nhuận cao đó, bởi lợi nhuận chính là động lực đầu tư. Lợi nhuận cao sẽ kích thích nhu cầu đầu tư.
Nếu lợi nhuận kì vọng lớn hơn lãi suất tiền vay đầu tư thì nhà đầu tư sẽ mở rộng quy mô tức chi đầu tư tăng vì niềm tin của mọi người vào doanh số bán hang và sản lượng trong tương lai. Với các yếu tố khác dữ nguyên, sản lượng tương lai được kì vọng cao hơn sẽ làm tăng mức lợi nhuận tương lai được kì vọng và do vậy sẽ làm tăng cầu đầu tư vào các trang thiết bị mới (mở rộng quy mô đầu tư, tăng VĐT). Do đó tăng chi tiêu đầu tư hiện tại. Và ngược lại, nếu lợi nhuận kỳ vọng thấp và nhỏ hơn lãi suất tiền vay đầu tư thì nhà đầu tư cắt giảm quy mô đầu tư tức giảm chi đầu tư mà thay vào đó họ gửi tiền vào ngân hàng.
Theo Keynes, hiệu quả biên của vốn phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư của số tiền tăng đầu tư mới. Do đó: Tỷ suất lợi nhuận biên của VĐT giảm dần khi VĐT tăng.
Điều này có thể được giải thích như sau:
- Đứng trên phương diện cầu VĐT: Khi đầu tư tăng làm cho nhu cầu VĐT cũng tăng theo, khiến giá cả của “hang hóa vốn”cũng tăng (tức lãi suất tiền vay đầu tư tăng). Giả sử các khoản chi phí sản xuất khác không đổi thì giá cả của một đơn vị sản phẩm không đổi. Khi lãi suất tiền vay tăng lên thì chi phí tiền vay tăng lên như vậy làm lợi nhuận thu được trên một đơn vị sản phẩm giảm. Như vậy tổng lợi nhuận tạo ra giảm và tỷ suất lợi nhuận biên của VĐT cũng giảm theo.
- Đứng trên phương diện cung VĐT: Kết quả của việc tăng cung VĐT (mở rộng quy mô đầu tư) thể hiện ở kết quả sản phẩm hàng hóa – dịch vụ cung cấp cho thị trường tăng lên; khi cung về hàng hóa – dịch vụ tăng (giả sử các khoản chi phí sản xuất khác không đổi) thì làm cho giá của một đơn vị sản phẩm giảm. Như vậy kéo theo là lợi nhuận thu được trên một đơn vị sản phẩm giảm => Tổng lợi nhuận thu được giảm nên tỷ suất lợi nhuận biên của VĐT cũng giảm.
- Xuất phát từ năng suất lao động: khi gia tăng vốn đầu tư vào sản xuất thì sự gia tăng về kĩ thuật, công nghệ, trang thiết bị, cơ sở vật chất cho mỗi lao động cũng giảm dần, nghĩa là khi lượng vốn còn ít thì mỗi sự gia tăng của 1 đơn vị vốn sẽ làm cho năng suất lao động gia tăng nhiều hơn so với khi lượng vốn nhiều. Năng suất lao động biên giảm dần dẫn đến lợi nhuận biên của vốn cũng giảm dần.
- Hiệu quả biên của vốn giảm dần khi quy mô vốn đầu tư tăng nên các nhà đầu tư chỉ tiếp tục đầu tư cho tới khi hiệu quả biên của vốn còn lớn hơn mữ lãi suất vốn vay trên thị trường vốn. Khi hiệu quả biên của vốn thấp hơn lãi suất vốn vay, nghĩa là lợi nhuận tăng thêm thấp hơn chi phí tăng thêm thì các nhà đầu tư sẽ ngừng việc đưa thêm vốn vào mở rộng sản xuất. Điểm cân bằng là điểm hiệu quả biên của vốn bằng với lãi suất cho vay của ngân hàng.
Tuy nhiên trên thực tế tỷ suất lợi nhuận VĐT và tỷ suất lợi nhuận biên của VĐT rất khó xác định. Chính độ bất định và khó dự đoán của các kết quả đầu tư lại là một động lực làm cho các nhà đầu tư tăng cường đầu tư vào thị trường vốn.
2.2. Lãi suất thực tế tiền vay
Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế, nó trực tiếp ảnh hưởng đến nền kinh tế - xã hội.
Các nhà đầu tư thường vay vốn để đầu tư và lãi suất phản ánh giá của khoản tiền vay mượn đó. Lãi suất tiền vay là chi phí của đầu tư. Vậy các khoản chi tiêu cho đầu tư có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với lãi suất thực tế.
Trong nền kinh tế, đặc biệt là khi có lạm phát, lãi suất danh nghĩa không phản ánh thực chất chi phí vay tiền mà các doanh nghiệp phải dựa vào lãi suất thực tế để ra quyết định
Tuy nhiên, lãi suất tiền vay có tác động ngược chiều với quy mô vốn trong đầu tư. Điều hiển nhiên là lãi suất hay giá của vốn cao thì nhu cầu vay vốn giảm, nguồn vốn đầu tư vào các dự án giảm, quy mô vốn thấp. Và ngược lại, lãi suất thấp sẽ kích thích vay vốn đầu tư, quy mô vốn tăng.
Khu vực nhà nước dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn vay hơn khu vực tư nhân và thường được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Bởi vậy, tác động của lãi suất đến khu vực tư nhân nhạy cảm hơn và mạnh hơn nhiều. Trong quá trình đầu tư, các doanh nghiệp tư nhân rất quan tâm tới biến động lãi suất vay vốn bởi nó là giá của vốn đầu tư, quyết định quy mô vốn đầu tư và ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận thực tế mà họ thu về được.
Lãi suất trên thị trường nội địa cao hơn tương đối so với mức lãi suất quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nguồn vốn trong nước, ngăn chặn nạn đào thoát vốn ra nước ngoài. Tuy nhiên, lãi suất cao làm tăng chi phí lưu trữ vốn lưu động( vd: lưu hàng trong kho) gây ra sức ép khiến doanh nghiệp phải giảm vốn đầu tư dưới dạng vốn lưu động. Vấn đề đặt ra là phải có chính sách điều tiết lãi suất hợp lý để nó vừa kích thích đầu tư, tăng quy mô vốn vừa phản ánh đúng giá trị nguồn vốn cho vay trên thị trường.
Ta cần phân biệt một số loại lãi suất sau:
- Lãi suất danh nghĩa phụ thuộc trước hết vào cung – cầu vốn vay trên thị trường. Cung vốn chính là tổng tiết kiệm quốc dân, được xác định bằng tổng thu nhập quốc dân trừ đi tiêu dùng. Lãi suất được điều chỉnh để tạo ra sự cân bằng trên thị trường vốn. Ngoài ra lãi suất cũng chịu ảnh hưởng của sự điều tiết của ngân hàng nhà nước thông qua chính sách tiền tệ như lãi suất cơ bản, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất chiết khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc.
- Lãi suất thực tế không chỉ phụ thuộc vào lãi suất danh nghĩa mà còn phụ thuộc vào tỉ lệ lạm phát.
Trong đó r là lãi suất thực tế; i là lãi suất danh nghĩa; π là tỷ lệ lạm phát
Chủ đầu tư sẽ chỉ quyết định đầu tư khi tỷ lệ hoàn vốn IRR( của dự án lớn hơn lãi suất thực tế. Do đó khi lãi suất tăng sẽ có ít dự án đầu tư hơn, nhu cầu đầu tư sẽ giảm.
Lãi suất thực tế bao gồm 2 loại: lãi suất thực dự kiến(không thể âm) và lãi suất thực thực hiện (có thể âm).
2.3. Sản lượng của nền kinh tế
Sản lượng của nền kinh tế là yếu tố quan trọng quyết định đến tăng trưởng kinh tế. Quan hệ giữa đầu tư phát triển và tăng trưởng kinh tế là mối quan hệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển. Vốn đầu tư tăng thì về mặt lý thuyết sẽ dẫn đến gia tăng mức sản lượng và tăng trưởng kinh tế cao làm cho khả năng tích lũy tăng và kéo theo nguồn vốn đề đầu tư tăng, chi đầu tư tăng.
Theo Keynes,hàm tổng cầu có dạng: Y = C + I + G + X - M
Trong đó Y là GDP; C là tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình; I là đầu tư; G là chi tiêu dùng của nhà nước; X là xuất khẩu và M là nhập khẩu.
Từ quan hệ trên ta thấy khi đầu tư (I) tăng sẽ trực tiếp làm tăng GDP. Theo Keynes thì khi đầu tư tăng một đơn vị thì sẽ làm cho GDP tăng hơn một đơn vị.Trong thực tế thì mức độ của ảnh hưởng trên còn tuỳ thuộc vào năng lực cung của nền kinh tế.
Khái niệm Số nhân đầu tư: phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng của nền kinh tế và ngược lại. Nó cho biết sản lượng gia tăng bao nhiêu khi đầu tư tăng 1 đơn vị
k = ∆Y/∆I
Trong đó: ∆Y là mức gia tăng sản lượng, ∆I là mức gia tăng đầu tư, k là số nhân đầu tư.
Như vậy, khi gia tăng sản lượng 1 đơn vị kéo theo đầu tư tăng 1/k đơn vị.
Lý thuyết gia tốc đầu tư: để sản xuất ra một đơn vị sản lượng đầu ra cho trước, cần có một lượng VĐT nhất định
x = K/Y
Trong đó: K là vốn đầu tư tại thời kỳ nghiên cứu, Y là sản lượng tại thời kỳ nghiên cứu, x là hệ số gia tốc đầu tư, x không đổi.
Như vậy, chi tiêu đầu tư tăng hay giảm phụ thuộc vào quy mô sản lượng, hay nhu cầu tư liệu sản xuất và lao động.
Lý thuyết này còn cho thấy đầu tư tăng tỷ lệ với sản lượng ít ra là trong trung và dài hạn.
Ta có: Tại thời điểm t: Kt =x . Yt (1)
Tại thời điểm t-1: Kt-1 = x . Yt-1 (2)
Lấy (1) trừ (2) ta có :
Kt –Kt-1 = x.Yt –x.Yt-1 = x.(Yt –Yt-1)
∆K = x.∆Y hay I = x.∆Y
Ta có thể phân biệt được K và I. Trong đó, K là tổng vốn tư bản đầu tư còn I chỉ là đầu tư thuần, là phần gia tăng của vốn tư bản trong 2 thời kỳ:
I= ∆K
Vậy đầu tư phụ thuộc vào mức gia tăng của sản lương đầu ra ∆Y.
Ta có: Tổng đầu tư = Đầu tư thuần + đầu tư thay thế (phần khấu hao)
Cứ có gia tăng đối với nhu cầu thì sẽ có gia tăng đối với đầu tư.
Trong mô hình tần cổ điển về đầu tư cố định và kinh doanh: sản lượng cao hơn làm tăng khối lượng hàng tồn kho mà doanh nghiệp muốn giữ và điều này kích thích đầu tư vào hàng tồn kho.
Mỗi biến động của sản lượng nền kinh tế đều kéo theo sự biến động cùng chiều của quy mô VĐT. Tuy nhiên sự biến động của quy mô VĐT lớn hơn nhiều so với biến động của sản lượng của nền kinh tế.
2.4. Đầu tư của Nhà nước
Ta biết rằng tổng VĐT xã hội = VĐT của Nhà nước + VĐT tư nhân
Khi tổng VĐT xã hội tăng thì kéo theo VĐT của tư nhân tăng. Mặt khác, khi VĐT nhà nước tăng cũng làm VĐT của tư nhân tăng lên và ngược lại.
Tình hình thâm hụt ngân sách dẫn tới việc chính phủ đi vay nợ nhiều hoặc chính phủ phải dùng các chính sách để huy động vốn và tích lũy vốn có thể bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ, đồng thời cắt giảm nguồn VĐT nhà nước. Điều này làm mức lãi suất cơ bản của nền kinh tế tăng, gây áp lực đối với các nhà đầu tư, vì khi đó chi phí vốn tăng lên, hiệu quả đầu tư giảm. Vì vậy các nhà đầu tư có xu hướng cắt giảm quy mô VĐT, chi tiêu đầu tư giảm.
Ngược lại, việc Nhà nước quyết định giành bao nhiêu % ngân sách chi cho đầu tư phát triển cũng ảnh hưởng không nhỏ tới đầu tư. Bởi nó không chỉ trực tiếp tăng đầu tư ở các dự án Nhà nước mà còn gián tiếp làm tăng những nguồn đầu tư khác. Vậy khi VĐT Nhà nước tăng lên làm cho VĐT tư nhân cũng tăng theo. Nhà nước tăng chi tiêu đầu tư gián tiếp làm tăng chi tiêu đầu tư trong tư nhân có thể do yếu tố kỳ vọng vào môi trường đầu tư ổn định và tốt; nhà đầu tư lạc quan nền kinh tế tăng trưởng mạnh và được Nhà nước đầu tư một cách đáng kể.
2.5. Chu kỳ kinh doanh
Chu kì kinh doanh là những dao động của nền kinh tế xung quanh xu thế tăng trưởng dài hạn, bao gồm cả những thời kì tăng trưởng nhanh xen kẽ với những thời kì suy thoái của nền kinh tế. Trước đây, một chu kỳ kinh doanh thường được cho là có bốn pha lần lượt là suy thoái, khủng hoảng, phục hồi và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng hoảng theo nghĩa kinh tế tiêu điều, thất nghiệp tràn lan, các nhà máy đóng cửa hàng loạt, v.v… không xảy ra nữa. Vì vậy, hiện nay, các nhà kinh tế thường tính đến ba pha của một chu kỳ kinh doanh là: suy thoái, phục hồi, hưng thịnh. Ở mỗi thời kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanh sẽ phản ánh các mức chi tiêu đầu tư khác nhau.
Hình 1.1: Chu kỳ kinh doanh
Nguồn:wikipedia
Khi nền kinh tế đang đi lên thì đầu tư tăng
+ Theo lý thuyết tính kinh tế của quy mô, trong những điều kiện nhất định thì việc gia tăng quy mô sản lượng sản xuất ra có thể giúp cho chủ đầu tư tiết kiệm chi phí sản xuất, gia tăng đầu tư.
+ Mặt khác, khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền kinh tế mở rộng, nhu cầu đầu tư của toàn bộ nền kinh tế cũng như của các doanh nghiệp tư nhân gia tăng. Ngược lại, khi chu kì kinh doanh ở vào thời kì đi xuống, qui mô nền kinh tế thu hẹp, nhu cầu đầu tư của nền kinh tế và các doanh nghiệp tư nhân thu hẹp lại.
Khi nền kinh tế đi xuống thì tổng đầu tư giảm, nhưng xét từng nhà đầu tư lại chưa chắc đã giảm
+ Thật vậy, không phải lúc nào sự tăng hay giảm chi tiêu của các doanh nghiệp cũng thuận chiều với xu hướng lên xuống của chu kì kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì mặc dù nền kinh tế suy thoái nhưng các doanh nghiệp vẫn đầu tư phát triển sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ khi sản phẩm cũ đã mất chỗ đứng trên thị trường hoặc đã kết thúc một chu kì sống, hoặc cũng có một số doanh nghiệp đầu tư vào các thị trường ngoài nước trong khi nền kinh tế của quốc gia đang trên đà đi xuống.
Khi phân tích về chu kỳ kinh doanh, chúng ta đặc biệt chú ý đến những biến động về khuynh hướng tiêu dùng, tính ưa chuộng tiền mặt, hiệu quả biên của vốn đầu tư. Có thể nhìn nhận chu kỳ kinh doanh như một hiện tượng sinh ra do biến động có tính chu kỳ về hiệu quả biên của vốn.
Theo mô hình gia tốc số nhân của chu kỳ kinh doanh: mô hình giả thiết rằng các hãng đưa ra dự đoán về sản lượng và lợi nhuận tương lai dựa vào ngoại suy tăng trưởng sản lượng trong quá khứ. Sự tăng trưởng cố định của sản lượng dẫn đến mức đầu tư cố định. Sản lượng tăng tốc sẽ làm tăng mức đầu tư mong muốn.
Mô hình này giải thích chu kỳ kinh doanh bằng mối quan hệ tương đồng giữa cầu tiêu dùng và đầu tư. Điểm cốt lõi của mô hình là coi tỷ lệ tăng trưởng sản lượng tăng tốc là yếu tố làm tăng đầu tư.
2.6. Lợi nhuận thực tế
Theo lý thuyết về quỹ nội bộ của đầu tư, chi tiêu đầu tư còn chịu ảnh hưởng của lợi nhuận thực tế, thể hiện qua phương trình:
I = f (lợi nhuận thực tế)
Lợi nhuân thực tế cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn hơn và mức chi đầu tư sẽ cao hơn. Ta biết rằng nguồn vốn huy động cho đầu tư của doanh nghiệp có thể huy động từ nguồn vốn nội bộ như thu nhập giữ lại, tiền trích khấu hao và nguồn từ bên ngoài như đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu và bán cổ phiếu. trong điều kiện bình thường, nguồn vốn tài trợ chủ yếu cho doanh nghiệp là nguồn vốn nội bộ. Đối với vay nợ thì phải trả nợ ngoài ra còn phải chịu rủi ro tín dụng: tức là khi lãi suất trên thị trường biến động sẽ kéo theo chi phí cũng biến động vì vậy nếu vay nhiều, doanh nghiệp sẽ không có cơ hội tái đầu tư. Mặt khác trường hợp nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, suy thoái thì doanh nghiệp có thể không trả nợ được và rơi vào tình trạng phá sản. Cũng tương tự tăng VĐT vào phát hành cổ phiếu ra công chúng; mặc dù là hình thức huy động vốn hấp dẫn nhưng đồng thời cũng phải chấp nhận chia sẻ lợi ích; các lợi ích phi vật chất (quyền bỏ phiếu, tính minh bạch công khai hơn) và tỷ phần tương đối của những người đã hoạt động trong doanh nghiệp cũng bị giảm.
Vì vậy theo lý thuyết quỹ đầu tư nội bộ này thì các doanh nghiệp thường chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và chính sự gia tăng của lợi nhuận làm cho đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn. Khi lợi nhuận thực tế của doanh nghiệp tăng tức là quỹ nội bộ tăng. Quỹ nội bộ là một yếu tố quan trọng để xác định lượng vốn đầu tư mong muốn, vì vậy quỹ nội bộ tăng dẫn đến chi đầu tư tăng. Quá trình tái đầu tư được mở rộng. Còn chính sách tài khóa mở rộng không có tác dụng làm tăng đầu tư theo lí thuyết này.
2.7. Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô khác
2.7.1. Chính sách và thể chế của nhà nước.
Sự ổn định về chính trị cũng như những đảm bảo về mặt pháp lý lien quan đến quyền sở hữu và tài sản có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến ý định và hành vi của nhà đầu tư. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới 2006 thì mức độ tin tưởng của doanh nghiệp vào tương lai kể cả độ tin cậy trong chính sách của nhà nước sẽ quyết định việc doanh nghiệp có đầu tư hay không và tiếp tục đầu tư như thế nào. Cũng trong báo cáo này, các doanh nghiệp và giới đầu tư tại các nước đang phát triển xếp sự bất định về chính sách là mối lo ngại hàng đầu của họ. Theo đánh giá, việc nâng cao khả năng tiên liệu về chính sách có thể làm tăng khả năng thu hút đầu tư mới lên hơn 30%.
Những quy định ưu đãi đầu tư, quy đinh ưu đãi giữa các ngành, các cấp để giải quyết nhanh các thủ tục hành chính đối với các dự án đầu tư, chính sách ưu đãi đầu tư cho các dự án đổi mới công nghệ, đa dạng hóa các hình thức đầu tư phát triển có ảnh hưởng lớn đến việc các doanh nghiệp có đầu tư phát triển hay không.
Các chính sách thuế tác động tới động cơ tích lũy tư bản theo nhiều cách khác nhau. Đôi khi các nhà hoạch định chính sách thay đổi luật thuế để thay đổi hàm đầu tư và tác động đến tổng cầu. Chúng ta xem xét hai điều khoản quan trọng nhất trong thuế công ty, doanh nghiệp thu thuế thu nhập của doanh nghiệp và quy định về miễn giảm thuế đầu tư.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế đánh vào lợi nhuận của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải chia sẻ với chính phủ một phần lợi nhuận của mình, nhưng đối với họ đầu tư vần hợp lý, vẫn tiếp tục tăng đầu tư khi giá thuê tư bản (lãi suất thực tế của vay vốn tư bản đầu tư) cao hơn chi phí tư bản và sẽ cắt giảm đầu tư khi giá thuê thấp hơn chi phí tư bản. Tuy loại thuế đánh vào lợi nhuận theo cách này không làm thay đổi động cơ đầu tư. Thuế thu nhập doanh nghiệp cản trở đầu tư vì doanh nghiệp phải trích khấu hao dựa trên chi phí lịch sử. Nghĩa là phần trích khấu hao được tính trên cơ sở giá mua tư bản ban đầu. Trong thời kí lạm phát, chi phí thay thế lớn hơn chí phí lịch sử nên thuế thu nhập doanh nghiệp có xu hướng đánh giá thấp chi phí khấu hao và đánh giá quá cao lợi nhuận. Thậm chí vẫn đánh thuế ngay cả khi lợi nhuận kinh tế của doanh nghiệp bằng không, qua đó làm việc chi tiêu vào đầu tư trở nên ít hấp dẫn hơn. Vì vậy thuế thu nhập doanh nghiệp cũng làm cản trờ đầu tư.
Ngược lại, miễn thuế đầu tư là một quy định trong luật thuế nhằm mục tiêu khuyến khích đầu tư. Phần miễn thuế đầu tư làm giảm mức thuế mà doanh nghiệp phải nộp khi chi tiêu cho đầu tư. Do doanh nghiệp thu lại được một phần tiền chi tiêu để mua hàng đầu tư mới nhờ mức thuế thấp hơn, quy định miễn thuế đầu tư làm giảm chi phí đầu tư thực tế của mỗi đơn vị tư bản. Vậy miễn thuế đầu tư làm giảm chi phí đầu tư thực tế và tăng chi tiêu đầu tư.
Ngoài ra việc nhà nước quyết định giành bao nhiêu % ngân sách để chi cho đầu tư phát triển cũng làm ảnh hưởng không nhỏ tới đầu tư. Bởi nó không chỉ trực tiếp tăng đầu tư ở các dự án của nhà nước mà nó còn gián tiếp làm tăng những nguồn đầu tư khác nữa.
2.7.2. Thị trường cung cầu các yếu tố đầu ra, đầu vào
Các yếu tố đầu vào của dự án là yếu tố quan trọng để xác định chi phí cho dự án. Tiềm năng sẵn có về tài nguyên thiên nhiên, lao động, tài chính có thể khai thác để có thể chiếm lĩnh được chố trống trong sản xuất và tiến hành các hoạt động dịch vụ trong nước và thế giới. Những lợi thế so sánh thị trường trong nước cũng như ngoài nước. Sự phong phú hay không của các yếu tố đầu vào và giá cả của nó sẽ quyết định lớn đến chí phí cũng như sản phẩm của dự án. Thị trường các yếu tố đầu ra của dự án thì quan trọng hơn nhiều. nó quyết định xem dự án sản xuất cái gì, khối lượng là bao nhiêu. Bởi vì khi phân tích về thị trường, chúng ta giả định là đã biết chắc chắn về chi phí và cầu thị trường, mỗi hang đều có thể biết trước các hang khác ứng xử như thế nào. Trong thực tế, đời sống kinh doanh chứa đầy sự rủi ro và bất định. Bản chất của kinh doanh là đầu tư hôm nay để tăng sản lượng trong tương lai, thực chất là việc dung vận may làm con tin cho những bấp bênh trong tương lai. Đời sống kinh tế là một vụ kinh doanh đầy rủi ro, mạo hiểm.
2.7.3. Thị trường tài chính
Hoạt đông tài chính tác động đến mọi lĩnh vực của nền kinh tế: kinh tế, xã hội. Mọi phạm vi: vi mô, vĩ mô. Tài chính tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Sự thịnh vượng cũng như suy thoái của thị trường tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến việc huy động vốn của doanh nghiệp.Doanh nghiệp huy động vốn chủ yêu qua kênh ngân hàng, thị trường chứng khoán và thị trường cho thuê tài chính. Việc các thị trường này phát triển làm cho các doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn trong việc huy động vốn và kích thích đầu tư. Hơn nữa, khi thị trường tài chính phát triển có thể làm giảm chi phí sử dụng vốn cho doanh nghiệp.
Nếu có suy thoái ở một trong những “mắt xích” của thị trường tài chính thì do tác động lây lan rất lớn của thị trường này mà ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống tài chính tiền tệ. Từ đó ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế như vậy nó ảnh hưởng tới mọi hành vi đầu tư phát triển.
2.7.4. Rủi ro bất khả kháng
Đây là loại rủi ro không thế loại bỏ. Nó bắt nguồn từ các nhân tố tác động một cách hệ thống tới toàn bộ các doanh nghiệp và các dự án đầu tư chẳng hạn chiến tranh, lạm phát, suy thoái kinh tế và lãi suất cao. Từ đó ảnh hưởng tới các yếu tố đầu vào, đầu ra và môi trường thực hiện dự án.
II. Kích cầu đầu tư
1. Khái niệm kích cầu đầu tư
Kích cầu đầu tư là tổng hợp tất cả các chính sách, các công cụ pháp lý được sử dụng một cách có hệ thống và đồng bộ nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư để đáp ứng như cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội trong một giai đoạn, thời kì nhất định.
2.Ý nghĩa của việc kích cầu đầu tư
Kích cầu đầu tư có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển của một đất nước nhất là đối với những nước đang phát triển. có những biện pháp kích cầu cụ thể và phù hợp sẽ làm tăng lượng vốn đầu tư toàn xã hội, tăng nhu cầu đầu tư xây dựng và cải thiện mức sống của nhân dân. Đầu tư tăng sẽ làm tổng cung tăng, kích thích tiêu dùng. Đầu tư vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế. Vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả sẽ có tác động đến tăng trưởng của nền kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu theo ngành, vùng lãnh thổ và theo thành phần kinh tế. Đầu tư nước ngoài còn thu hút khoa học công nghệ hiện đại, làm thay đổi bộ mặt của toàn bộ nền kinh tế, cải thiện mọi vấn đề của xã hội. Như vậy, kích cầu đầu tư có vai trò rất quan trọng ở mỗi quốc gia, và mang tính chất tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn.
Theo Keynes, nguyên nhân của thất nghiệp là do sự sụt giảm của cầu có hiệu quả, thu hẹp quy mô sản xuất, giảm việc làm và dẫn đến thất nghiệp. Những giải pháp đưa ra là kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng từ đó tăng quy mô sản xuất, tăng việc làm.
3. Các biện pháp kích cầu đầu tư
Để có các biện pháp thu hút vốn đầu tư hiệu quả cần nhận thức sâu sắc và đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư đã trình bày ở phần trên, từ đó đề ra các mục tiêu, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và các biện pháp cụ thể.
- Theo quan điểm của Keynes, để kích cầu đầu tư chính phủ có thể tác động vào nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu đầu tư là lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng gián tiếp song không kém phần quan trọng là thuế, chi phí sản xuất, môi trường đầu tư...
+ Đối với yếu tố lãi suất, ngân hàng trung ương có thể thông qua các chính sách giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu... nhằm giảm lãi suất tiết kiệm và lãi suất tiền vay.
+ Các biện pháp thu hút đầu tư dân doanh trong nước
+ Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước, tăng chi đầu tư phát triển, đầu tư xây dựng cơ bản, từ đó khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư sản xuất.
+ Các biện pháp phát triển thị trường tài chính tạo ra nhiều kênh huy động vốn, chú trọng công tác thẩm định và quản lí, sử dụng vốn nhằm đảm bảo hiệu quả của các dự án đầu tư.
+ Kích thích tiêu dùng, khuyến khích các hoạt động xuất khẩu
+ Ổn định môi trường đầu tư cả về kinh tế, xã hội và chính trị. Về kinh tế, cần chú ý đến vấn đề lạm phát và chế độ tỷ giá. Các chính sách nhằm hỗ trợ các nhà đầu tư, các doanh nghiệp để họ yên tâm bỏ vốn đầu tư.
+ Với chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp, nhà nước có thể tác động đến yếu tố này theo hai hướng. Đó là giảm thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm làm tăng lợi nhuận thực tế, từ đó gia tăng quỹ nội bộ và tăng nguồn đầu tư của doanh nghiệp hoặc là miễn, giảm thuế đối với các khoản lợi nhuận dùng để tái đầu tư của doanh nghiệp.
Mỗi tác động đều có tính hai mặt, có thể là tích cực đối với yếu tố này nhưng lại là tiêu cực với yếu tố kia, và đôi khi bản thân các yếu tố cũng có tác động qua lại lẫn nhau. Vì vậy cần cân nhắc thận trọng khi đưa ra các quyết định can thiệp. Mục tiêu cuối cùng của kích cầu đầu tư là tăng trưởng kinh tế nhưng phải đảm bảo cả về mặt văn hóa, xã hội.
- Theo nhà kinh tế Lawrence Summers, để biện pháp kích cầu có hiệu quả thì việc thực hiện nó phải đảm bảo: đúng lúc, trúng đích và vừa đủ.
+ Đúng lúc tức là phải thực hiện kích cầu ngay khi các doanh nghiệp chưa thu hẹp sản xuất và các hộ gia đình chưa thu hẹp tiêu dùng. Nếu thực hiện sớm quá, kích cầu có thể làm cho nền kinh tế trở nên nóng và tăng áp lực lạm phát. Nhưng nếu thực hiện chậm quá, thì hiệu quả của kích cầu sẽ giảm. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với việc thực hiện kích cầu đúng lúc chính là sự thiếu chính xác trong xác định thời điểm chuyển pha của chu kỳ kinh tế.
+ Trúng đích tức là hướng tới những chủ thể kinh tế nào tiêu dùng nhanh hơn khoản tài chính được hưởng nhờ kích cầu và do đó sớm gây ra tác động lan tỏa tới tổng cầu hơn; đồng thời hướng tới những chủ thể kinh tế nào bị tác động bất lợi hơn cả bởi suy thoái kinh tế, thường thì đó là những chủ thể kinh tế có thu nhập thấp hơn nhằm tạo ra hiệu ứng lan tỏa, kích thích doanh nghiệp mở rộng sản xuất và thuê mướn thêm lao động.
+ Vừa đủ tức là gói kích cầu sẽ hết hiệu lực khi nền kinh tế đã trở nên tốt hơn. Nếu gói kích cầu quá bé thì kích thích sẽ bị hụt hơi và tổng cầu có thể không bị kích thích nữa, khiến cho gói kích cầu trở thành lãng phí. Ngược lại gói kích cầu lớn qua tạo ra tác động kéo dài khiến cho nền kinh tế đã hồi phục mà vẫn trong trạng thái tiếp tục được kích thích thì sẽ dẫn tới kinh tế mở rộng quá mức, lạm phát tăng lên. Điều này càng được chú ý nếu ngân sách nhà nước và dự trữ ngoại hối nhà nước không dư dậ._.t.
Chương II: Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và kích cầu đầu tư ở Việt Nam
giai đoạn 1991 đến nay
I.Thực trạng chi đầu tư ở Việt Nam
Giai đoạn 1991-2000
Từ năm 1990 đi đôi với việc xoá bao cấp trong đầu tư phát triển bằng vốn Ngân sách, chúng ta đã thực hiện đổi mới cơ chế chính sách, huy động nhiều nguồn vốn khác nhau cho việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật kinh tế xã hội của đất nước, bao gồm:
- (1) nguồn vốn Ngân sách Nhà nước.
- (2) nguồn vốn tín dụng Nhà nước.
- (3) vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước.
- (4) nguồn vốn đầu tư của dân cư và tư nhân.
- (5) nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư trong GDP tăng nhanh; năm 1990, vốn đầu tư phát triển chiếm 17,3% GDP, năm 1999 là 26,9% và năm 2000 lên đến 28%.
Tính chung 10 năm 1991-2000 vốn đầu tư toàn bộ nền kinh tế đã được thực hiện khoảng 640 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư xã hội (tương đương khoảng 58 tỷ đô la), tăng bình quân hàng năm là 17,9%, trong đó vốn ngân sách nhà nước tăng 15,3%, vốn tín dụng đầu tư tăng 26,1%, vốn của doanh nghiệp nhà nước tăng 23,3%, vốn đầu tư của dân và tư nhân tăng 9,9%, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài tăng 20,5%.
Ngân sách nhà nước chỉ tập trung cho các dự án công cộng không thu hồi được vốn, hỗ trợ đầu tư cho các vùng còn khó khăn, đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội như giao thông, thuỷ lợi, hạ tầng nông nghiệp, các cơ sở sản xuất giống cây và giống con, hạ tầng lâm nghiệp, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, y tế xã hội, văn hoá, thể dục thể thao ...
Đối vơí các doanh nghiệp nhà nước trực tiếp sản xuất kinh doanh, có điều kiện thu hồi vốn thì khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn tín dụng ưu đãi đầu tư, các doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về mặt tài chính, vay và trả nợ đúng thời hạn, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư. Nguồn vốn đầu tư các doanh nghiệp nhà nước tự huy động thêm từ nguồn khấu hao cơ bản, từ nhà xưởng mặt bằng chưa dùng đến hoặc dùng chưa có hiệu quả, từ các nguồn lợi nhuận sau thuế sẽ được khuyến khích đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Nguồn vốn đầu tư của dân cư được khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế xã hội theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài được khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghệ cao, xây dựng cơ sở hạ tầng, các vùng kinh tế còn nhiều tiềm năng nhưng chưa có điều kiện khai thác... theo Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Bảng 2.1: Cơ cấu vốn đầu tư của nền kinh tế giai đoạn 1991-2000
1991-1995
1996-2000
1991-2000
Tổng số
100
100
100
Vốn ngân sách nhà nước
23,59
21,87
22,5
Vốn tín dụng đầu tư
6,14
15,57
12,1
Vốn của các DNNN
10,89
16,15
14,22
Vốn của dân cư và tư nhân
34,94
22,49
27,07
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
24,44
23,92
24,11
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Đơn vị:%)
2. Giai đoạn 2001- nay
Trong các năm vừa qua, trong bối cảnh hết sức khó khăn cả ở trong và ngoài nước, nhưng nền kinh tế vẫn duy trì được mức tăng trưởng nhanh và bền vững; nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân 4 năm 2001-2004 khoảng 7,2%, riêng năm 2004 tăng 7,7%, cao hơn mức bình quân 5 năm trước (6,9%) là một cố gắng rất lớn. Tăng trưởng kinh tế trong các năm qua có sự đóng góp của nhiều yếu tố, trong đó yếu tố chủ yếu là đầu tư.
Với việc không ngừng hoàn thiện và ban hành nhiều chủ trương, chính sách thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư trong xã hội; nhờ đó nguồn vốn đầu tư xã hội tăng trưởng khá, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn bước đầu được quan tâm hơn. Cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất của các ngành kinh tế tăng đáng kể, góp phần to lớn trong sự nghiệp phát triển của đất nước trong những năm qua.
Bảng 2.2: Tổng vốn đầu tư phân theo ngành kinh tế giai đoạn 2001-nay
Năm
Tổng số
Trong đó
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế Tư nhân
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
2001
170496
101973
38512
30011
2002
200145
114738
50612
34795
2003
239246
126558
74388
38300
2004
290927
139831
109754
41342
2005
343135
161635
130398
51102
2006
404712
185102
154006
65604
2007
521700
208100
184300
129300
Sơ bộ 2008
637300
184400
263000
189900
Nguồn: Tổng cục thống kê (Đơn vị: Tỷ đồng)
Nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng khá, nhất là nguồn vốn trong các tầng lớp dân cư, tạo khả năng hoàn thành tốt kế hoạch đầu tư phát triển đã đề ra, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội hàng năm tăng bình quân xấp xỉ 15%/năm; tỷ lệ huy động vốn đầu tư so với GDP năm sau cao hơn năm trước (năm 2000 đạt 32,9%, năm 2001: 34%, năm 2003: 35,5% và năm 2004: 36,3%).
Trong các năm 2001-2003,riêng vốn nhà nước hàng năm chiếm 52-53% tổng đầu tư xã hội. Đây là nguồn vốn rất quan trọng góp phần định hướng, tạo ra cơ cấu kinh tế và thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Trong các năm tiếp theo, đầu tư từ 2 khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có sự tăng trưởng nhanh hơn và ngày càng chiếm được tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn đầu tư của cả nền kinh tế.
II. Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư ở Việt Nam
1. Lợi nhuận kỳ vọng
Lợi nhuận kỳ vọng là một trong hai yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của các doanh nghiệp. Lợi nhuận chính là động lực đầu tư, nếu lợi nhuận kỳ vọng cao sẽ thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh nhằm thu về khoản lợi nhuân cao đó. Lợi nhuận kỳ vọng lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố: chi phí sản xuất, cung – cầu hàng hóa, rủi ro của môi trường đầu tư, chính sách thuế của chính phủ…
1.1.Chi phí sản xuất- kinh doanh
Chi phí sản xuất – kinh doanh là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lợi nhuận của các doanh nghiệp. Chi phí càng ít thì lợi nhuận càng lớn. Tuy nhiên, chi phí sản xuất ở các quốc gia khác nhau lại không giống nhau. Thực trạng chi phí sản xuất – kinh doanh bao gồm giá nguyên vật liệu và các chi phí gián tiếp khác như sau:
Theo nhận định được Vụ kinh tế công nghiệp, Bộ kế hoạch và Đầu tư đưa ra ngày 26/11/2008 khi đánh giá về tình hình sản xuất kinh doanh của ngành công thương, giá nguyên vật liệu trong nước cao gấp 2 lần so với thế giới. Bắt đầu từ quý 3 năm 2008, thị trường nguyên vật liệu trên thế giới đã có xu hướng hạ nhiệt, giá của nhiều mặt hàng đầu vào chủ yếu cho sản xuất (như phôi thép, xăng, dầu…) đã đảo chiều, giảm mạnh. Tuy nhiên, giá nguyên vật liệu trong nước vẫn ở mức cao và chỉ có xu hướng giảm nhẹ, cầm chừng. Điều này đã khiến không ít doanh nghiệp sản xuất gặp khó khăn, sản xuất bị thu hẹp đặc biệt đối với các tổng công ty xây dựng, nhiều dự án bị đình trệ, không đảm bảo tiến độ thi công
Ví dụ, giá thép xây dựng giảm còn 10 - 11 triệu đồng/tấn, tương ứng khoảng 600 USD/tấn (theo báo giá của Tổng Công ty Thép Việt Nam), trong khi giá phôi thép thế giới tiếp tục duy trì ở mức 300 - 320 USD/tấn. Giá xăng A92 bán lẻ trong nước giảm còn 13.000đ/lít, tương đương khoảng 750 USD/tấn. Còn theo tính toán của Bộ Công Thương, giá nhập khẩu trung bình mặt hàng xăng A92 đã giảm còn 490 USD/tấn, cộng với thuế và các loại phí thì giá bán lẻ tương ứng chỉ khoảng gần 9.000 đ/lít đối với xăng A92.
Vấn đề này được giải thích là do các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên vật liệu đã không dự đoán đúng xu hướng biến động giá cả của thị trường thế giới, vay tiền ngân hàng với mức lãi suất gần 20% vào khoảng giữa năm 2008 để mua nguyên vật liệu khi ở mức giá đỉnh điểm. Để khắc phục vấn đề này, Bộ Công thương, Bộ Tài chính cần phối hợp các doanh nghiệp trong công tác dự báo để hạn chế tối đa thiệt hại cho các doanh nghiệp sản xuất.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam còn phụ thuộc đến 80% vào nguồn nguyên vật liệu từ thế trường thế giới. Vì vậy, các doanh nghiệp phải chịu mức giá khá cao cho các mặt hàng nguyên vật liệu. Tuy nhiên, Chính phủ cũng đã và đang khắc phục dần vấn đề này, mà tiêu biểu là việc Nhà máy lọc dầu Dung Quất được chính thức đưa vào hoạt động, đáp ứng 30% nhu cầu xăng dầu trên thị trường và cung cấp nguồn nguyên vật liệu cho nhiều ngành: hóa chất..
Ngoài ra, các chi phí khác liên quan đến sản xuất ở Việt Nam (như điện, nước, vận tải, thuê văn phòng…) cũng khá đắt đỏ so với mặt bằng trung của các nước trong khu vực, thậm chí là trên thế giới. Theo báo cáo điều tra doanh nghiệp thường niên năm 2008 của Tổ chức JETRO thì chi phí thuê văn phòng ở Hà Nội hiện đang đứng thứ 5 trong khu vực châu Á, sau 2 thành phố Mumbai và New Delhi của Ấn Độ, Hồng Kông và Singapore; chi phí vận chuyển đường biển đến và đi từ Đà Nẵng cao nhất khu vực, gấp rưỡi chi phí bình quân từ các nước Châu Á.
Nghiên cứu của Công ty Cushman & Wakefield công bố ngày 22/9/2008 cho thấy: VN xếp thứ 13 trong số những quốc gia có giá cho thuê văn phòng đắt nhất thế giới. Theo ước tính, giá thuê văn phòng tại các trung tâm thương mại đã tăng 40% trong năm vừa qua lên đến 70-80USD/m2. Tuy nhiên, hiện nay, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, lượng khách thuê văn phòng giảm, cung văn phòng tăng, nên giá cho thuê văn phòng đang có xu hướng giảm mạnh. Hiện nay giá chỉ khoảng 30-40USD/m2. So với 4 nước (Trung Quốc, Thái Lan, Philippine, Ấn Độ), 5 chỉ số giá của Việt Nam cao hơn mức trung bình là: giá cước điện thoại chênh 136%, giá thuê bao điện thoại cố định chênh 91%, giá nước sạch cao hơn 71%, giá điện 25%, giá cước điện thoại di động 14%. Về vấn đề này, Chính phủ cần tăng cường tính cạnh tranh cho các ngành điện lực, cung cấp nước sạch, viễn thông, tránh tình trạng độc quyền, ảnh hưởng đến sản xuất của các ngành khác.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn được đánh giá là có nguồn lao động rẻ. Chúng ta cần khai thác điểm mạnh này, tăng cường thêm trình độ kỹ năng của người lao động nhằm tạo thuận lợi cho thu hút đầu tư trong và ngoài nước.
1.2. Nhu cầu hàng hóa của thị trường
Một trong những bước quan trọng để lập một dự án đầu tư là xác định nhu cầu của thị trường. Dự báo cầu thị trường có tác động quan trọng đến lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp.
Dân số Việt Nam hiện nay là khoảng 86 triệu dân, trong đó,khoảng 60% dân số của Việt Nam ở độ tuổi dưới 30. Theo các chuyên gia nước ngoài, chính yếu tố dân số trẻ mới thu hút sự quan tâm của nhiều nhà bán lẻ nước ngoài vì nhiều người trong số này có cơ hội đi du lịch, công tác nước ngoài nên dễ thay đổi thói quen từ việc mua sắm truyền thống sang các kênh mua sắm hiện đại. Chính lý do dân số trẻ đã giúp Việt Nam vượt qua Trung Quốc, Nga và Ấn Độ để trở thành thị trường bán lẻ được bầu chọn là hấp dẫn nhất trong năm 2008 trong các nền kinh tế mới nổi.Các kênh mua sắm hiện đại chỉ chiếm khoảng 18% của tổng thanh toán thương mại tại Việt Nam, nhưng đã tăng rất nhanh trong các năm qua, khoảng 26% vào năm 2008.
Theo Tổng cục Thống kê, doanh thu của thị trường bán lẻ Việt Nam năm 2008 đạt 58 tỉ USD, tăng 31% so với năm 2007. Còn theo phân tích của bà Vassilieva từ PricewaterhouseCoopers thì doanh số bán lẻ của Việt Nam tăng 18 - 23%/năm trong giai đoạn 2003 - 2007, cao hơn mức tăng 8 - 10% trong các năm trước đó.
Theo Công ty Nghiên cứu thị trường RNCOS, doanh thu của thị trường bán lẻ Việt Nam được dự báo là sẽ tăng khoảng 13,6% trong giai đoạn từ năm 2008 đến 2012.
Mức sống của người dân đang ngày một cải thiện, GDP/người tăng đều đặn trong các năm qua, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2008, GDP/người của Việt Nam là 1024 USD/người. Hơn nữa, theo điều tra, người Việt Nam sử dụng đến 70% thu nhập cho tiêu dùng. Một con số cao so với khoảng con số tương tự là 40% ở các nước phát triển.
Tất cả các yếu tố trên khiến khiến các nhà đầu tư tăng kỳ vọng vào thị trường Việt Nam.
1.3. Mức độ cạnh tranh trên thị trường hàng hóa
Mức độ cạnh tranh trên thị trường quyết định rất lớn đến kỳ vọng của doanh nghiệp vào thị trường. Đối với thị trường của những loại hàng hóa có số lượng người cung càng lớn thì tỷ suất lợi nhuận biên càng giảm.
Hiện nay, Việt Nam đã mở rộng quan hệ buôn bán với 224/255 thị trường các nước, ký 87 Hiệp định thương mại song phương, 48 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư… . Thêm vào đó, theo cam kết WTO, 1/1/2009 Việt Nam sẽ mở cửa hoàn toàn cho các công ty kinh doanh bán lẻ 100%. Chính vì vậy, số lượng các doanh nghiệp cung ứng hàng hóa trên thị trường Việt Nam đang ngày càng tăng và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp này cũng ngày càng cao.
Tuy nhiên, hiện nay, ở Việt Nam, có rất nhiều ngành nghề mới phát triển hoặc số lượng nhà cung cấp còn ít, tính cạnh tranh chưa cao, năng lực của các doanh nghiệp còn thấp như điện, nước, hàng không, xăng dầu, vật liệu xây dựng, phân phối bán lẻ, tư vấn, quan hệ công chúng, tổ chức sự kiện… Đây là một điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài mới tham gia thị trường.
1.4.Rủi ro của môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư đóng vai trò rất quan trọng đối với kỳ vọng về lợi nhuận của các nhà đầu tư.
Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) ngày 18/6/2008, lần đầu tiên công bố Bảng xếp hạng các quốc gia và vùng lãnh thổ có môi trường thuận lợi với thương mại quốc tế năm 2008, được thực hiện trên cơ sở khảo sát đánh giá về các yếu tố có tác động tích cực đến với môi trường thương mại quốc tế như tiếp cận thị trường, quản lý cửa khẩu, cơ sở hạ tầng viễn thông, giao thông vận tải và môi trường kinh doanh, chính sách thuế quan và nhiều yếu tố phụ khác ở 118 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam ở hạng 91 do chỉ số "tiếp cận thị trường" chỉ đạt 112/118, còn chỉ số về hàng rào thuế quan đứng ở vị trí 114/118 (thấp nhất trong các nước ASEAN) tuy có một số chỉ số xếp hạng khả quan như hiệu quả trong dịch vụ bưu điện hạng 33, khả năng tiếp thu công nghệ (43), an ninh vật chất (45), chỉ số về an ninh (46), dịch vụ vận tải (48).
Ngày 8/10/2008, Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã công bố kết quả xếp hạng khả năng cạnh tranh toàn cầu 2008. So với năm 2007, Việt Nam tụt hai bậc từ 68 xuống 70.
Theo bảng xếp hạng Môi trường đầu tư thuận lợi do Forbes công bố tháng 3/2009, Việt Nam xếp hạng 113/127 quốc gia. Trong đó, các tiêu chí nhỏ hơn bao gồm chính sách - xếp thứ 110, lương và giá cả xếp thứ 116, tham nhũng và chính sách thuế cùng đứng thứ 96 thế giới.
Theo Báo cáo Môi trường kinh doanh của Ngân hàng thế giới dựa trên 10 tiêu chí, từ lúc bắt đầu thành lập một doanh nghiệp cho đến khi giải thể doanh nghiệp, năm 2008 Việt Nam tăng 13 bậc xệp hạng 91/178 nhưng năm 2009 chỉ xếp hạng 92/181. Trong 10 tiêu chí đánh giá, Việt Nam chỉ có một tiêu chí được cải thiện, là tiếp cận tín dụng xếp hạng 43.
Theo bảng đánh giá mức độ tham nhũng mới nhất của tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp Việt Nam đứng thứ 121/180, thứ hạng gần như không đổi so với năm 2007
Từ các nghiên cứu trên, có thể thấy môi trường đầu tư ở Việt Nam vẫn còn rất nhiều bất cập: hệ thống chính sách, pháp luật còn thiếu tính đồng bộ, thường xuyên phải sửa đổi gây khó khăn cho nhà đầu tư trong tiên liệu chính sách; thủ tục hành chính còn phức tạp; việc bảo vệ tài sản, quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ nhà đầu tư còn yếu kém; thông tin bất đối xứng, thiếu công khai, minh bạch; bộ máy hành chính còn nhiều tiêu cực. Những vấn đề này cần phải khắc phục để tăng tính kỳ vọng của nhà đầu tư vào thị trường Việt Nam.
1.5.Chính sách thuế
Thuế có tác động trực tiếp đến lợi nhuận của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, chính sách thuế của chính phủ cũng là một yếu tố tác động tới lợi nhuận kỳ vọng. Thuế suất càng thấp thì mức lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp càng cao.
Việt Nam đã thực hiện theo các cam kết WTO, giảm khoảng 35% số dòng thuế với mức thuế giảm bình quân giảm từ 17,4% xuống 13,4% thực hiện dần trong 5-7 năm.
Theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp mới đuợc công bố ngày 23/6/2008, thuế suất chung áp dụng cho các doanh nghiệp là 25% thay cho mức cũ 28%. Các hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí có thuế suất từ 32% đến 50%, tuỳ vào từng dự án. Riêng các khoản thu nhập từ chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, nghiên cứu khoa học, thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh, hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp dành cho những người tàn tật… sẽ được miễn thuế thu nhập.
Chính phủ còn có các ưu đãi về thuế nhằm khuyến khích đầu tư vào các vùng thuộc Danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc lĩnh vực thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư: luật thuế áp dụng mức cao nhất là 10% trong vòng 15 năm, miễn thuế tối đa không quá 4 năm và giảm 50% trong 9 năm tiếp theo đối với các doanh nghiệp mới thành lập, hoạt động trên địa bàn đặc biệt khó khăn. Hằng năm, tất cả các doanh nghiệp được trích 10% thu nhập trước khi tính thuế để lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ.
Theo Luật Thuế VAT mới, mức 0% được áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, vận tải quốc tế và hàng hoá, trừ các hợp đồng chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ ra nước ngoài, dịch vụ bảo hiểm…Thuế suất 5% áp dụng đối với các loại hàng hoá dịch vụ như nước sạch phục vụ sản xuất, sinh hoạt; phân bón quặng để sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn chăn nuôi gia súc gia cầm, thực phẩm tươi sống, thiết bị dụng cụ y tế, máy móc chuyên dung phục vụ cho sản xuất nông nghiệp… Mức 10% được áp dụng cho các loại hàng hoá dịch vụ còn lại.
Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 13/2009/TT-BTC ngày 22/1/2009 hướng dẫn thực hiện giảm 50% mức thuế suất thuế giá trị gia tăng đối với 14 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc nhóm áp dụng thuế suất 10%.
2. Lãi suất tiền vay
Như đã phân tích ở trên, lãi suất là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của các nhà đầu tư. Trong những năm qua, thị trường tiền tệ Việt Nam đã có khá nhiều biến động và vì thế, lãi suất cũng được điều chỉnh liên tục. Khi nhắc đến lãi suất, đầu tiên chúng ta phải xét đến lãi suất cơ bản mà Ngân hàng Trung ương quy định. Trên lý thuyết, lãi suất cơ bản sẽ là định hướng chung cho lãi suất trong nước, theo đó mức lãi suất cao nhất cho phép trong các giao dịch không vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản.
Tháng 8/2000 thay cơ chế điều hành lãi trần lãi suất cho vay bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng tiền Việt Nam, và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ.
Bảng 2.3: Mức lãi suất cơ bản áp dụng ở Việt Nam từ năm 2004 - nay
Loại lãi suất
Giá trị
Ngày áp dụng
Lãi suất cơ bản
7,5%/năm
01.03.2004
Lãi suất cơ bản
7,8%/năm
01.02.2005
Lãi suất cơ bản
8,25%/năm
01.12.2005
Lãi suất cơ bản
8.25%/năm
01.01.2008
Lãi suất cơ bản
8.75%/năm
01.02.2008
Lãi suất cơ bản
8.75%/năm
01.05.2008
Lãi suất cơ bản
12%/năm
19.05.2008
Lãi suất cơ bản
14%/năm
01.07.2008
Lãi suất cơ bản
13%/năm
21/10/2008
Lãi suất cơ bản
12%/năm
05/11/2008
Lãi suất cơ bản
11%/năm
21/11/2008
Lãi suất cơ bản
10%/năm
5/12/2008
Lãi suất cơ bản
8,5%/năm
22/12/2008
Lãi suất cơ bản
7%/năm
01/02/2009
Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Từ bảng trên có thể thấy được sự biến động của lãi suất trong những năm vừa qua là không đều. Chỉ riêng năm 2008 ngân hàng Nhà nước đã 8 lần thay đổi lãi suất cơ bản. Sự thay đổi của lãi suất có thể được giải thích như sau:
Từ giữa năm 2004 đến 1/7/2008, cùng với xu thế tăng lãi suất của các nền kinh tế lớn, đặc biệt là Mỹ và xu thế kiềm chế lạm phát, lãi suất của các ngân hàng trong nước không ngừng tăng cao. Trong năm 2005, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục đổi mới theo hướng chuyển mạnh sang cơ chế điều hành gián tiếp thay cho điều hành trực tiếp như trước. Thực hiện mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt, góp phần kiềm chế lạm phát. Ngân hàng Nhà nước 3 lần quyết định điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu, 2 lần điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tiền gửi của pháp nhân tại Tổ chức Tín dụng, lãi suất tiền gửi của Ngân hàng thương mại và Tổ chức Tín dụng, Kho bạc Nhà nước tại Ngân hàng Nhà nước.
Giữa năm 2008 lãi suất cơ bản tăng mạnh lên 14%, cùng với đó là cuộc chạy đua lãi suất huy động tiền gửi của các ngân hàng thương mại. Đẩy lãi suất huy động và cho vay lên rất cao, lãi suất huy động có thời điểm lên tới trên 19%/năm và lãi suất cho vay lên đến 21%/năm. Sự tăng cao lãi suất như vậy, được coi là tín hiệu tốt để hút tiền từ lưu thông về, cũng chính là để hạn chế tăng trưởng tín dụng nóng tuy nhiên cũng gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Họ không đủ khả năng để vay vốn tín dụng vì lãi suất quá cao, bên cạnh đó nếu có vốn thì họ cũng gửi ngân hàng chứ không đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.
Giải thích cho sự gia tăng trên, ngân hàng Nhà nước cho biết, quyết định tăng lãi suất cơ bản nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về chính sách tiền tệ trong những tháng cuối năm 2008 là tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, nhưng linh hoạt trong điều hành để vừa góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, vừa thúc đẩy đầu tư sản xuất, kinh doanh và theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Tuy nhiên trong những tháng cuối năm 2008, khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ và lan ra toàn cầu. Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng. Ngân hàng Nhà nước cũng đã có nhưng động thái điều chỉnh lại thị trường tín dụng. Theo đó, lãi suất cơ bản liên tục giảm. Đến 1/2/2009 lãi suất cơ bản được điều chỉnh ở mức 7%/năm. Như vậy, trần lãi suất cho vay trên thị trường sẽ chỉ còn 10,5%, đúng bằng một nửa đỉnh cao đạt được giữa năm ngoái. Để giải thích cho sự giảm mạnh lãi suất cơ bản như vậy, ngân hàng Nhà nước cho hay: điều chỉnh giảm lãi suất nêu trên là nhằm triển khai các giải pháp cấp bách của Chính phủ, ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm cho người lao động, trong điều kiện nền kinh tế bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới.
3. Sản lượng của nền kinh tế
Kể từ khi thực hiện cơ chế kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập, Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn lao về kinh tế. Giai đoạn 1991-95 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trung bình 8,2%/năm; 1996-2000: 6,7%; 2001-05: 7,5%; năm 2006: 8,17%; 2007: 8,48%; 2008: 6,23%; dự kiến 2009 là 6,5%. Đây là những tốc độ tăng thuộc loại cao so với các nước trong khu vực và thế giới trong cùng khoảng thời gian. Năm 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thấp hơn so với các năm trước, nhưng trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế-tài chính thì đây lại là mức tăng trưởng cao. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2009, Việt Nam có đủ cơ sở để đạt tốc độ tăng trưởng 6,5% trong bối cảnh tốc độ chung của thế giới là 0,5%. Nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, quy mô GDP của Việt Nam tăng lên nhanh chóng, năm 2005 đã gấp 3 lần năm 1990. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 195 USD năm 1990 lên 729 USD năm 2006, năm 2007 đạt 820 USD. Tăng trưởng kinh tế tác động tích cực đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội. Tỷ lệ dân sống dưới mức 1 USD/ngày và 2 USD/ngày (tính theo PPP) lần lượt giảm từ 50,8% và 87,0% vào năm 1990 xuống còn 10,6% và 53,4% vào năm 2004. WB đã khẳng định tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tăng thêm 1% kéo theo giảm 1,3% số hộ nghèo của Việt nam là rất ấn tượng. Ngoài ra, các vấn đề xã hội khác như giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường cũng đạt được nhiều thành tựu mà các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế như Việt Nam khó có thể đạt được.
Có được tốc độ tăng tưởng kinh tế cao như vậy là nhờ Việt Nam đã huy động được lượng vốn đầu tư khá lớn. Tỷ trọng vốn đầu tư trên GDP liên tục gia tăng, năm 1990 đạt 17,3%, hiện nay khoảng 40-45%. Trong 10 năm 1996-06 tổng vốn đầu tư xã hội tăng trung bình 12,7%/năm, trong đó giai đoạn 1996-2000 tăng 12,4%, giai đoạn 2001-05 tăng 13%. So với các nước trong khu vực và các nước đang phát triển trên thế giới Việt Nam được xếp vào loại nước có tỷ trọng vốn đầu tư trên GDP cao. Đóng góp của vốn vào tăng trưởng GDP tuy giảm trong những năm gần đây nhưng vẫn ở vị trí chủ đạo. Nếu tính theo tỷ lệ, giai đoạn 2003 đến nay nhân tố vốn đóng góp trung bình khoảng 52,73% vào tăng trưởng GDP. Cùng với nhân tố vốn, lao động cũng có những đóng góp không nhỏ vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Với kết cấu dân số trẻ, lực lượng lao động dồi dào (khoảng 45 triệu người trong độ tuổi lao động), hàng năm bổ sung thêm 1,2-1,5 triệu người, lao động đã đóng góp 19,07% vào tăng trưởng của Việt Nam.
4. Đầu tư Nhà nước
Đây là nguồn vốn rất quan trọng góp phần định hướng, tạo ra cơ cấu kinh tế và thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế khác.
Bảng 2.4: Vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước phân theo nguồn vốn
Tổng số
Trong đó
Vốn ngân sách Nhà nước
Vốn vay
Vốn của các doanh nghiệp Nhà nước và nguồn vốn khác
Giá thực tế
Tỷ đồng
1995
30447
13575
6064
10808
1996
42894
19544
8280
15070
1997
53570
23570
12700
17300
1998
65034
26300
18400
20334
1999
76958
31763
24693
20502
2000
89417
39006
27774
22637
2001
101973
45594
28723
27656
2002
114738
50210
34937
29591
2003
126558
56992
38988
30578
2004
139831
69207
35634
34990
2005
161635
87932
35975
37728
2006
185102
100201
37000
47901
Sơ bộ 2007
208100
106200
41000
60900
Nguồn: Tổng cục thống kê (Đơn vị: Tỷ đồng)
4.1. Ngân sách Nhà nước
Cơ cấu đầu tư đã có sự dịch chuyển theo hướng tích cực, tập trung hơn cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời quan tâm đầu tư nhiều hơn cho vùng nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc. Năng lực nhiều ngành kinh tế - xã hội tăng lên đáng kể, nhất là năng lực sản xuất của các ngành công nghiệp, năng lực tưới tiêu thủy lợi, năng lực của ngành giao thông vận tải... (Riêng trong năm 2004 số các dự án hoàn thành đưa vào sử dụng cao hơn so với các năm trước đây. Tổng số công trình, dự án hoàn thành trong năm 2004 khoảng 3.640 dự án, trong đó các Bộ, ngành Trung ương khoảng 980 công trình, dự án; các tỉnh, thành phố khoảng 2.660 dự án.)
Cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng đã có nhiều đổi mới, thực hiện phân cấp, giao quyền và tạo chủ động cho các Bộ, ngành, địa phương trong việc quyết định chủ trương và phê duyệt các dự án đầu tư và bố trí vốn đầu tư cụ thể cho các công trình, dự án, không phân biệt là dự án nhóm A, B, C.
Trong hoạt động đầu tư, cơ quan quản lý Nhà nước không trực tiếp quyết định đầu tư các dự án sản xuất kinh doanh (giao toàn quyền cho doanh nghiệp), chỉ thực hiện cơ chế giám sát, kiểm tra, đánh giá, quản lý đầu tư theo quy hoạch. Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị 29/2003/CT-TTg và tổ chức nhiều hội nghị, nhiều đợt thanh tra, kiểm tra nhằm chấn chỉnh quản lý đầu tư và xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước. Kết quả tình trạng dự án phải điều chỉnh nội dung và tổng mức đầu tư đã giảm mạnh: số dự án phải điều chỉnh giảm từ 27,8% năm 2003 xuống còn 16,9% năm 2004. Tình trạng chậm tiến độ đã được khắc phục một bước, các dự án thực hiện chậm so với tiến độ được duyệt giảm từ 14,7% xuống còn 13,7%.
Chính phủ đã ban hành Nghị định 106/2004/NĐ-CP thay thế Nghị định 43/1999/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, thu hẹp các đối tượng cho vay trực tiếp theo dự án, đảm bảo hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm, có điều kiện và lịch trình để giảm dần hỗ trợ của nhà nước; tăng cường hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư; điều chỉnh và áp dụng một mức lãi suất cho các khoản vay...
4.2. Doanh nghiệp Nhà nước
Những năm qua, các doanh nghiệp nhà nước đã không ngừng đổi mới, nhanh chóng thoát khỏi tình trạng trông chờ, ỷ lại để vươn lên trong kinh tế thị trường. Nhiều doanh nghiệp không còn thua lỗ, nhiều doanh nghiệp và tập đoàn đã trưởng thành nhanh chóng, tạo ra vị thế vững chắc trên thương trường trong nước và quốc tế. Doanh nghiệp nhà nước đã làm ra 40% GDP và đang đóng vai trò quan trọng trong việc giữ vững định hướng của nền kinh tế quốc dân.
Về tình hình đầu tư vốn của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước
- Việc các tập đoàn, tổng công ty nhà nước hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con là hướng đi đúng trong tiến trình đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp; từ đó thúc đẩy hình thành một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có ngành sản xuất , kinh doanh chính.
- Theo báo cáo, năm 2007 các tập đoàn, tổng công ty đầu tư vào các công ty con là trên 57.078 tỉ đồng và các công ty liên kết là trên 34.545 tỉ đồng. Các công ty con, công ty liên kết đảm nhận một phần nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh chế độ quy định.chính mà công ty mẹ giao. Việc đầu tư của công ty mẹ vào các công ty con, công ty liên kết nói trên là phù hợp với quy định của pháp luật và mô hình của công ty mẹ - công ty con và tham gia góp vốn thực hiện các dự án đầu tư theo chế độ qui định.
Trong thời gian qua cũng có một số tập đoàn, tổng công ty đầu vào lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bất động sản với số tiền là 7.370 tỉ đồng, cụ thể như sau:
+ Có 13 tập đoàn, tổng công ty đầu tư vào các quỹ chứng khoán vầ quỹ đầu tư tài chính với tổng giá trị 1.061 tỉ đồng, bằng 0,31% vốn chủ sở hữu và bằng 0,13% tổng giá trị tài sản;
+ Có 19 tập đoàn, tổng công ty góp vốn thành lập ngân hàng thương mại cổ phần với tổng giá trị đầu tư 4.426 tỉ đồng bằng 1,3% vốn chủ sở hữu và bằng 0,55% tổng giá trị tài sản;
+ Có 13 tập đoàn, tổng công ty góp vốn thành lập 15 công ty chứng khoán với tổng giá trị đầu tư 420 tỉ đồng, bằng 0,12 vốn chủ sở hữu và bằng 0,15 tổng giá trị tài sản;
+ Có 18 tập đoàn, tổng công ty góp vốn vào lĩnh vực bất động sản với tổng giá trị đầu tư 1.463 tỉ đồng, bằng 0,43% vốn chủ sở hữu và 0,18% tổng giá trị tài sản.
Về việc này, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo: các DNNN không được sử dụng vốn đầu tư của chủ sở hữu, quỹ đầu tư phát triển và nguồn vốn xây dựng cơ bản để tham gia góp vốn thành lập, mua cổ phần của các quỹ đầu tư chứng khoán (kể cả các quỹ đầu tư mạo hiểm), công ty đầu tư chứng khoán. Việc sử dụng vốn của DNNN để đầu tư tài chính, đầu tư vào thị trường chứng khoán không được làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được nhà nước giao; trước khi đầu tư vào các lĩnh vực tài chính, chứng khoán, ngân hàng phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ và giao cho Bộ Tài chính kiểm tra, giám sát hoạt động này. (Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 09/2009/NĐ-CP với các q._.̉n xuất kinh doanh. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ về sở hữu trí tuệ, tư vấn, mua bán công nghệ, giám định, đánh giá, chuyển giao công nghệ.
+ Thị trường tài chính: giám sát chặt chẽ các trung gian tài chính, hạn chế các khoản nợ xấu; phát triển thị trường chứng khoán, từng bước làm cho thị trường nay trở thành kênh huy động vốn chủ yếu cho đầu tư phát triển, cơ chế thông tin hoàn hảo, minh bạch. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đáp ứng đủ các điều kiện đều có thể niêm yết cổ phiếu và huy động vốn qua thị trường chứng khoán.
- Duy trì tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế trong bối cảnh suy thoái kinh tế thế giới:
+ Tăng cường hỗ trợ cho các ngành sản xuất, đặc biệt chú trọng vào các ngành trọng điểm: lương thực, năng lượng, vật liệu xây dựng…
+ Chính phủ đóng vai trò là người tiêu dùng, chi tiêu có hiệu quả vào đầu tư cơ sở hạ tầng tạo việc làm và thúc đầy các ngành sản xuất khác. Đặc biệt cần thay đổi ưu tiên đầu tư công, thành lập các nhóm giám sát việc đầu tư công, lấu hiệu quả kinh tế làm thước đo cho các hoạt động đầu tư.
+ Chú trọng đến hiệu quả của các dự án, các dự án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc; kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Đặc biệt trong bối cảnh nền tài chính thế giới đang gặp khủng hoảng như hiện nay, việc kiểm soát chặt chẽ các hoạt động tài chính có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Chính phủ cần có các quy định cụ thể cho hoạt động của các trung gian tài chính, hoạt động của thị trường chứng khoán.
+ Tạo môi trường hoạt động bình đẳng cho tất cả các nguồn vốn đầu tư: đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài; đầu tư Nhà nước và đầu tư của khu vực tư nhân. Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và cạnh tranh cho tất cả các thành phần kinh tế, khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào các dự án đầu tư xã hội. Chống độc quyền, nâng cao tính cạnh tranh của các chủ thể trong nền kinh tế.
II.Nhóm giải pháp huy động và sử dụng các nguồn vốn cho kích cầu đầu tư
1. Các biện pháp thu hút và sử dụng vốn FDI
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết sự tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển ở Việt Nam. Trong 3 năm qua, vốn FDI thực hiện đã đạt 23,6 tỷ USD và ngày càng gia tăng tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội: năm 2006 chiếm tỷ lệ 16,2%, năm 2007 lên tới 24,8% và năm 2008, với mức giải ngân tăng 44% so với năm 2007, tỷ lệ này còn cao hơn nữa. Nguồn vốn FDI vào Việt Nam trong những năm qua đã tăng đáng kể, đặc biệt sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO.
Các biện pháp nhằm tăng thu hút nguồn vốn FDI
- Tiếp tục cải cách, đồng bộ hóa hệ thống pháp luật, chính sách, đặc biệt là Luật Đầu tư, Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện các chế tài xử phạt hợp lý đối với các hoạt động sản xuất gây tác động tiêu cực đến môi trường, đời sống xã hội.
- Có những chính sách miễn giảm thuế phù hợp để tăng thêm tính hấp dẫn về lợi nhuận kỳ vọng của nhà đầu tư. Tuy nhiên những chính sách này vẫn phải thỏa mãn đáp ứng nguồn thu cho ngân sách, lại vừa khuyến khích được việc phát triển ở những lĩnh vực, những tỉnh, những khu vực mà điều kiện phát triển còn hạn chế.
- Có chính sách thuế nhập khẩu hợp lý đối với hàng hóa là công nghệ, để khuyến khích nhập khẩu những công nghệ hiện đại, phù hợp với điều kiện sản xuất trong nước và góp phần cải thiện công nghệ của nước nhà.
- Khắc phục sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào, nhất là hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóá.
- Cần có một định hướng chiến lược cho sự phát triển của các ngành kinh tế cũng như định hướng đầu tư FDI vào các ngành, để cho nhà đầu tư xác định được phương hướng phát triển và có những quyết định hợp lý.
- Các địa phương cần dựa vào những ưu thế, thực tế đầu tư nước ngoài của vùng, miền để đưa ra các đề xuất chính sách nhằm tăng cường thu hút đầu tư. Tuy nhiên, chính sách thu hút đầu tư của từng địa phương cần phải có sự thống nhất, kiểm soát của Chính phủ, tránh tình trạng chồng chéo, gây thiệt hại lợi ích quốc gia. Các địa phương, các chủ đầu tư cần tăng cường xúc tiến đầu tư trực tiếp với các đối tác, cùng với việc xây dựng và truyền thông cơ sở dữ liệu tập trung qua mạng điện tử quốc gia để cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin hữu ích về địa phương mình, doanh nghiệp mình, về mục tiêu và yêu cầu đầu tư dự án, về các cơ chế chính sách ưu đãi, về thủ tục đầu tư...
- Mở rộng đầu tư, đa dạng hóa các hình thức đầu tư, các chủ đầu tư để tận dụng thế mạnh của từng loại hình, từng chủ đầu tư.
- Cần bảo đảm thực hiện các nguyên tắc đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc trong thu hút đầu tư nước ngoài, làm sao tạo nên một phản ứng dây chuyền tốt cho các nhà đầu tư trước lôi kéo các nhà đầu tư sau.
- Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư. Phát triển các cơ quan xúc tiến đầu tư ở tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương. Đặc biệt, có thể hợp tác với các Bộ, ngành nhằm tăng thu hút đầu tư; thông qua du lịch để quảng bá hình ảnh đất nước và cơ hội đầu tư trong nước. Các cơ quan xúc tiến cần thường xuyên tổ chức các hội chợ, trung tâm giới thiệu sản phẩm của Việt Nam tại nước ngoài; tăng cường vai trò và nâng cao hiệu quả của các Tham tán Thương mại tại nước ngoài.
Tuy vậy, cũng cần có những hạn chế nhất định đối với các dự án đầu tư nước ngoài. Đặc biệt không chấp nhận đầu tư đối với các dự án liên quan đến chính trị - an ninh quốc gia, dự án gây những ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích cộng đồng; môi trường sinh thái; đến lối sống, văn hóa truyền thống của dân tộc, thuần phong mỹ tục.
Hiện nay, xu hướng đầu tư giữa các nước phát triển với nhau vẫn chiếm tỷ trọng lớn (xấp xỉ 70%) trong khi dòng chảy vốn đầu tư vào các nước đang phát chiển chỉ chiếm khoản 30%. Thực tế cho thấy, dòng chảy vào các nước đang phát triển đã ít về quy mô nhưng cũng có sự chọn lựa rõ ràng. Khoảng 90% chảy vào một số ít quốc gia có môi trường đầu tư hấp dẫn. Đặc biệt, trong điều kiện suy thoái kinh tế như hiện nay, nguồn vốn FDI trên toàn thế giới đang giảm bớt, sự cạnh tranh giữa các quốc gia để có nguồn vốn FDI lại ngày càng gay gắt hơn. Chính vì vậy, Việt Nam cần tiến hành các biện pháp cải tổ một cách mạnh mẽ nhằm tạo một môi trường đầu tư hấp dẫn, cải thiện không chỉ được đánh giá về trạng thái trước – sau của chính Việt Nam, mà còn phải đảm bảo tính hấp dẫn so với các đối thủ cạnh tranh là các nước đang phát triển khác.
Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
- Về thủ tục hành chính: cải cách thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa; rà soát các dự án để có ngay hình thức xử lý phù hợp, hỗ trợ dự án nhanh chóng triển khai sau khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư... Sửa đổi các quy định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh, không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu, tác động xấu đến môi trường, thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất... Nghiên cứu để sớm rút ngắn diện các dự án phải cấp phép đầu tư, chuyển sang hình thức chủ đầu tư đăng ký dự án, nghĩa là chuyển từ cơ chế tiền kiểm sang cơ chế hậu kiểm Về quy hoạch, hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư.
- Tập trung đẩy nhanh giải ngân vốn đầu cho các dự án sắp hoàn thành, mang lại hiệu quả cao. Đồng thời rà soát, cắt giảm khoản vốn đầu tư vào những dự án kém hiệu quả để đầu tư vào những dự án có khả năng sinh lợi cao hoàn thành trong năm 2008-2009. ưu tiên đầu tư vào những ngành kinh doanh chính, mũi nhọn mà có thế mạnh, có lợi thế cạnh tranh.
2. Các biện pháp thu hút và sử dụng vốn ODA
Nguồn vốn ODA đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam, hỗ trợ xóa đói giảm nghèo, đặc biệt các vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa. Nguồn vốn ODA cũng đóng góp một phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Việt Nam và quốc tế (MDGs, VDGs),hỗ trợ cải cách hành chính và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, giúp chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý tiên tiến và trang bị các kiến thức về phát triển thể chế.
Các biện pháp nhằm tăng cương thu hút nguồn vốn này:
- Nâng cao tốc độ giải ngân vốn ODA: Tính hết tháng 10.2008, tổng vốn ODA giải ngân đạt 22, 065 tỷ USD, chiếm 52% tổng vốn ODA cam kết và 62,65% tổng vốn ODA ký kết. Tốc độ giải ngân bình quân đạt khoảng 14-15%/năm, mỗi dự án kéo dài khoảng 6 năm. Giải ngân chậm cũng làm cho lợi thế về ưu đãi của ODA cũng mất dần vì nguồn vốn ODA chỉ được ưu đãi trong một số năm nhất định.
+ Cải cách hành chính và tinh giản quy trình, thủ tục trong việc tiếp nhận và thực hiện nguồn vốn ODA ở các cấp từ trung ương đến địa phương.
+ Thiết lập và vận hành hiệu quả hệ thống theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA cấp quốc gia.
+ Thường xuyên kiểm tra, giám sát đồng thời phối hợp với các sở, ngành liên quan và nhà tài trợ xử lý kịp thời các vướng mắc nảy sinh trong quá trình xây dựng, chuẩn bị và thực hiện các chương trình, dự án ODA.
+ Đào tạo cán bộ quản lý dự án ở tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương.
- Tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới pháp lý, chính sách; xây dựng danh mục các chương trình, dự án quan trọng đầu tư bằng nguồn vốn ODA theo ngành và lĩnh vực. Các chương trình, dự án ưu tiên đầu tư theo định hướng: phát triển nông nghiệp và nông thôn, xóa đói, giảm nghèo; tránh đầu tư dàn trải, không đúng lúc, đúng chỗ. Đầu tư cần phải chú trọng đến hiệu quả kinh tế - xã hội.
- Cần ưu tiên đảm bảo đủ vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA để thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết với các nhà tài trợ.
- Tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi cơ chế quản lý sử dụng vốn ODA, nhất là các vấn đề liên quan đến chính sách thuế, cho vay lại, định mức chi tiêu: tăng cường công tác đánh giá, thẩm định hiệu quả của các chương trình, dự án ODA.
- Nâng cao chất lượng đối thoại giữa Chính phủ và các nhà tài trợ thông qua việc thiết lập các cơ chế, chẳng hạn tăng cường các cuộc họp Tư vấn các nhà tài trợ (CG) và các nhóm quan hệ đối tác theo ngành.
- Hạn chế tối đa các hiệu tượng tham nhũng, tiêu cực trong sử dụng vốn gây mất lòng tin của các nhà tài trợ.
Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
- Chính phủ phối hợp cùng các địa phương giải quyết nhanh chóng các yếu tố làm chậm tiến độ giải ngân của dự án như thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng. Cần có các chính sách, quy định rõ rang, cụ thể về các hình thức đền bù, giải phóng mặt bằng.
- Hoàn thiện công tác kế hoạch hoá và xác định thứ tự ưu tiên phân bổ nguồn vốn ODA. Hoàn thiện kế hoạch hóa vốn ODA là tạo điều kiện để liên tục hóa các bộ phận của kế hoạch đầu tư xây dựng: Kế
hoạch chuẩn bị đầu tư, kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án và kế hoạch thực hiện dự án. Ngoài ra, phải xác định thứ tự ưu tiên phân bổ nguồn vốn theo từng ngành và lĩnh vực cụ thể. Các ngành, các địa phương và các đơn vị sử dụng nguồn vốn ODA cần tính toán chính xác hiệu quả để tránh sử dụng lãng phí các nguồn vốn và xác định đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, chịu trách nhiệm chính trong quá trình sử dụng vốn và phải đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu.
- Chuẩn bị vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA. Tất cả các chương trình, dự án ODA khi chuẩn bị phê duyệt ở các cấp phải chỉ rõ nguồn vốn trong nước và phải được bố trí trong các kế hoạch ở các cấp tương ứng.
- Các dự án phải tập trung phát huy nguồn lực hiện có của địa phương. Các chương trình, dự án ODA phải nghiên cứu để phát huy được những lợi thế sẵn có và phải xuất phát từ thực tế của địa phương để tài trợ hiệu quả hơn, phải tạo điều kiện để người dân của địa phương có thể trực tiếp tham gia và quản lý chương trình, dự án.
- Xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá dự án nhằm khắc phục những yếu kém trong thực hiện dự án và quản lý vốn ODA.
- Tập trung nguồn vốn ODA để giải quyết những bất cập về cơ sở hạ tầng như cầu, đường, điện, nước, viễn thông, bến bãi, tạo điều kiện thông thoáng cho các nhà đầu tư tham gia thực hiện các dự án BOT, BT…
- Cần mở rộng thêm đối tượng của các dự án ODA. Tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tiếp cận nhiều hơn tới nguồn vốn này, không chỉ với tư cách nhà thầu (chủ yếu là xây lắp và mua sắm thiết bị, hàng hóa) như hiện nay.
- Giải quyết triệt để các hiện tượng tham nhũng, gây thất thoát vốn và gây mất lòng tin của các nhà tài trợ. Có các biện pháp xử phạt nghiêm khắc các đối tượng gây thất thoát vốn, làm chậm tiến độ dự án.
- Bồi dưỡng, nâng cao trình độ của cán bộ quản lý dự án từ cấp trung ương đến địa phương.
3. Các biện pháp huy động nguồn vốn khác
- Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước: vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, Quỹ dự trữ Nhà nước của Chính phủ. Để tạo được nguồn vốn này, Chính phủ cần cân đối thu – chi ngân sách Nhà nước, giảm thâm hụt ngân sách, cải cách hành chính nhằm giảm chi thường xuyên, cải cách, hoàn thiện và sử dụng hợp lý các công cụ thuế, tài chính nhằm tạo nguồn thu đồng thời phải có các biện pháp, cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của các doanh nghiệp và cá nhân nhằm hạn chế tối đa việc trốn thuế gây thất thu ngân sách; Chính phủ cũng cần đưa ra các chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các hoạt động gây tác động tiêu cực tới môi trường, văn hóa-xã hội nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách.
- Nguồn vốn từ trái phiếu Chính phủ: Chính phủ có thể tiến hành phát hành trái phiếu trong và ngoài nước nhằm tạo nguồn vốn cho kích cầu. Tuy nhiên, việc phát hành trái phiếu cần được kiểm soát bởi đây là một công cụ nợ.
- Nguồn vốn huy động trong dân cư: Cần hoàn thiện hoạt động của các trung gian tài chính như Ngân hàng Thương mại, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư; sử dụng các chính sách và công cụ tiền tệ nhằm điều chỉnh lãi suất của hoạt động tín dụng; phát triển thị trường chứng khoán nhằm huy động nguồn vốn nhãn rỗi trong dân và tạo thành kênh phân phối vốn có hiệu quả. Chính phủ cần có các chế tài, các quy định cụ thể nhằm giám sát các hoạt động tài chính, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng tài chính thế giới.
- Nguồn vốn đầu tư của các Doanh nghiệp: hỗ trợ các doanh nghiệp nhằm cắt giảm các chi phí sản xuất, có chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp phù hợp nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất.
- Nguồn vốn từ kiều bào ở nước ngoài: Chính phủ cần có các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện, cơ chế thông thoáng cho kiều bào về nước đầu tư.
4. Nâng cao hiệu quả chi Ngân sách Nhà nước và chi đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước
Hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế trong sử dụng vốn đầu tư của khu vực Nhà nước:
- Chất lượng một số dự án quy hoạch chưa cao, chưa có tầm nhìn xa; quy hoạch chưa phù hợp với cơ chế thị trường, chưa theo kịp với quá trình thay đổi của các yếu tố khách quan, các dự báo tác động của các yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm... nên tính định hướng cho các doanh nghiệp còn hạn chế. Tính cục bộ, xu hướng khép kín trong các quy hoạch (cả quy hoạch lãnh thổ và quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch sản phẩm) đã gây nên sự lãng phí các nguồn lực do sự phát triển chồng chéo, dư thừa công suất... hoặc tạo ra độc quyền trong ngành, sử dụng quy hoạch để cản trở các thành phần kinh tế khác tham gia.
Quy hoạch chưa được thường xuyên cập nhật, bổ sung và điều chỉnh kịp thời, do đó một số quy hoạch bị lạc hậu với tình hình thực tiễn, không đáp ứng yêu cầu; không đủ căn cứ để xây dựng kế hoạch.
- Tình trạng đầu tư dàn trải chưa được khắc phục có hiệu quả. Trong những năm qua, mặc dù đã có một số tiến bộ nêu trên, nhưng tình trạng dàn trải trong bố trí kế hoạch đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách của các Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố vẫn chưa được khắc phục triệt để. Tình trạng này được tích tụ từ nhiều năm trước đây, gây lãng phí lớn và dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp.
Một số Bộ, ngành và địa phương vẫn chưa chấp hành đúng quy định về quản lý đầu tư và xây dựng, bố trí vốn cho một số công trình, dự án chưa đủ thủ tục về đầu tư. Chính phủ đã có quy định bố trí vốn cho các dự án nhóm B không được quá 4 năm, nhóm C không được quá 2 năm, nhưng nhiều Bộ, địa phương đã không thực hiện.
- Tình hình thất thoát, lãng phí còn lớn, dẫn đến hiệu quả đầu tư chưa cao đang là vấn đề bức xúc hiện nay. Theo giáo sư David Dapice của Đại học Harvard đưa ra khi đánh giá hiệu quả đầu tư của VN tại Hội thảo 20 năm đổi mới của VN hồi giữa năm nay. Theo ông, với tốc độ đầu tư cao như báo cáo của VN, tỉ lệ tăng trưởng lẽ ra phải đạt mức 9-10%, và với tốc độ tăng trưởng thực tế đạt được, số vốn thất thoát, lãng phí trong đầu tư hằng năm lên đến 1 tỉ USDHiện tại, vì chưa thể kiểm toán, thanh tra đánh giá toàn bộ các dự án đầu tư xây dựng nên chưa thể khẳng định chính xác con số thất thoát mà dư luận lâu nay đề cập. Tuy nhiên, kết quả thanh tra các dự án cho thấy: số sai phạm về tài chính phát hiện chiếm 14-19% tổng số vốn đầu tư được thanh tra, kiểm tra. Trong tổng số vốn được phát hiện có sai phạm nói trên, số vốn kiến nghị thu hồi chiếm 5-6% tổng số vốn được thanh tra.
Qua kết quả thanh tra cho thấy công tác quản lý đầu tư nói chung, đặc biệt các công trình, dự án đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước còn nhiều yếu kém, thiếu sót đã dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, kém hiệu quả. Mặt khác cũng cho thấy khi thanh tra nhà nước tiến hành thanh tra thì số sai phạm phát hiện cao hơn nhiều so với con số do các Bộ, địa phương tự thanh tra. Các sai phạm chủ yếu biểu hiện ở các mặt như: kê khai sai khối lượng; sai đơn giá; tính sai thuế, chi đền bù giải phóng mặt bằng sai chế độ, chi ban quản lý sai chế độ, thiếu thủ tục....
- Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư chưa cao, nhất là vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Cơ cấu đầu tư còn nhiều điểm chưa hợp lý như đầu tư ngân sách cho một số ngành và sản phẩm được bảo hộ; đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn còn thấp... trong khi đó đầu tư vào các công trình thủy lợi chiếm hơn 70% vốn đầu tư của ngành, việc xây dựng các công trình thủy lợi tưới cho các loại cây công nghiệp còn ít, còn coi nhẹ đầu tư thủy lợi cấp nước cho công nghiệp và dân sinh, cho nuôi trồng thủy sản.
Việc giải ngân các dự án chậm, nhất là các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, công trái giáo dục đã làm chậm việc đưa các công trình vào sử dụng.
Các doanh nghiệp Nhà nước mới quan tâm đầu tư "đầu vào" nhằm phát triển năng lực sản xuất, chưa quan tâm đến đầu ra của sản xuất, đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ lưu thông hàng hoá, đầu tư cho công tác bảo quản chế biến sau thu hoạch, đầu tư thông tin thị trường chưa tương xứng.
Một số lĩnh vực như công nghiệp sản xuất vật liệu, công nghiệp chế tạo, công nghiệp công nghệ cao chưa được đầu tư đúng mức, nên nhìn chung mặt bằng công nghệ của ta còn thấp, khả năng cạnh tranh của sản phẩm chưa cao.
- Sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả:
Theo báo cáo của Quỹ Hỗ trợ Phát triển, hiện nay có khoảng 1.500 dự án có nợ quá hạn với tổng số nợ quá hạn là 1.185 tỷ đồng; số lãi treo của các dự án này cũng lên tới 950 tỷ đồng; đặc biệt, là nợ kéo dài của các dự án thuộc Chương trình đánh bắt xa bờ và Chương trình mía đường. Nợ quá hạn và lãi treo của 2 chương trình này chiếm trên 40% nợ quá hạn và lãi treo của toàn hệ thống Quỹ Hỗ trợ Phát triển. Chương trình đánh bắt cá xa bờ đến nay mới thu hồi được 15% vốn vay đến hạn phải trả. (số liệu năm 2005)
Việc mở rộng quá mức các đối tượng được vay ưu đãi của Nghị định 43/CP trước đây cùng với các chính sách bảo hộ, cơ chế phân cấp mạnh, quản lý không chặt chẽ đã dẫn đến tình trạng nợ nần, đầu tư dàn trải, kém hiệu quả của nhiều doanh nghiệp nhà nước.
- Tình hình nợ khối lượng các công trình xây dựng cơ bản hoàn thành do chưa có vốn thanh toán diễn ra ở một số Bộ và nhiều địa phương đang là vấn đề rất bức xúc. Các khoản nợ xây dựng cơ bản vượt quá khả năng cân đối ngân sách nhà nước đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các nhà thầu, dẫn đến việc chiếm dụng vốn lẫn nhau, nợ quá hạn ngân hàng tăng...
Để nâng cao hiệu quả chi đầu tư của Nhà nuớc, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp sau:
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước nhằm tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng điều hành hoạt động kinh doanh của các DN. Hạn chế các rào cản đối với các thành phần kinh tế khác nhau tham gia đầu tư, nâng cao tính minh bạch và công khai trong hoạt động đầu tư. Hạn chế tính khép kín, cục bộ, thiếu tính khách quan, khoa học trong đầu tư hiện nay thể hiện từ khâu quy hoạch cho đến công tác chuẩn bị, thẩm định dự án, ban hành các định mức trong đầu tư, thiết kế kỹ thuật, thi công, giám sát thi công. Cần gắn kết, đồng bộ quy hoạch của từng vùng, từng ngành; giữa các vùng, các ngành và quy hoạch chung của cả nước, tránh sự bất đồng, chồng chéo.
- Về vấn đề thất thoát, lãng phí vốn:
+ Cần thiết lập được môi trường cạnh tranh trong khu vực sản xuất, tiêu dùng có thể là nguyên nhân chính dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong sử dụng vốn đầu tư nhà nước.
+ Cần phải tiếp tục giảm thiểu qui mô khu vực thuộc Nhà nước, chỉ đầu tư vào những lĩnh vực tư nhân không được làm hoặc không muốn làm, còn những lĩnh vực nào tư nhân có thể làm tốt hơn thì cần phải khuyến khích.
+ Cần tiến tới nghiên cứu, ban hành qui định bắt buộc thực hiện chế độ thuê tổ chức tư vấn điều hành dự án để xóa bỏ tình trạng khép kín như hiện nay.
+ Tăng cường giám sát, kiểm tra các hoạt động sử dụng vốn Nhà nước ở tất cả các ngành, các cấp, các địa phuơng.
+ Đặc biệt, cần tăng cường hiệu quả hoạt động đầu tư của các Tổng công ty Nhà nước: cần hạn chế việc đầu tư ngoài ngành khiến nguồn lực bị phân tán ra nhiều lĩnh vực, và doanh nghiệp khó kiểm soát được hoạt động của mình và không tập trung nguồn lực thực hiện ngành nghề chính, khiến nhiều dự án lớn của các tổng công ty phải trả lại cho Chính phủ.
- Hạn chế đầu tư dàn trải và nợ đọng vốn đầu tư: cần rà soát lại danh mục đầu tư. Tiến hành thu hồi giấy phép đầu tư, kinh doanh; giấy phép sử dụng đất đối với các dự án không có khả năng thực hiện; cần có sự lựa chọn tập trung cho đầu tư phát triển, tập trung vào các ngành, các vùng trọng điểm; cần phối hợp giữa các cấp quản lý địa phương, các nhà đầu tư, doanh nghiệp trong việc giải quyết vấn đề giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư.
III. Các giải pháp tăng hiệu quả của các gói kích cầu trong giai đoạn suy thoái kinh tế
Các gói kích cầu đầu tư của Chính phủ đưa ra phải được thực hiện một cách nhanh chóng, kịp thời, nguồn vốn phải đến đúng nơi, đúng lúc.
Để thực hiện được điều đó, chúng ta cần quan tâm đến một vài vấn đề sau:
- Cần ưu tiên hỗ trợ cho lĩnh vực nông nghiêp (theo nghĩa rộng), nâng cao sức mua của nông dân bằng cách giảm giá, trợ giá, bán chịu trả dần... vì đây là đối tượng chịu tác động mạnh nhất của tình trạng lạm phát hồi đầu năm và giảm phát hồi cuối năm; đây cũng là lĩnh vực trực tiếp tác động đến đời sống và an sinh xã hội của cả nước, nếu khu vực này được hỗ trợ tiếp tục phát triển thì cầu tiêu dùng xã hội sẽ tăng lên đáng kể, sự tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến lĩnh vực sản xuất, do sản phẩm nông nghiệp vừa là tư liệu sinh hoạt vừa là tư liệu sản xuất; vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa vừa đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
- Ưu tiên các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì đây là nơi sản xuất với cộng nghệ ở cấp độ trung bình và công nghệ truyền thống là phổ biến nên còn sử dụng nhiều lao động; đây cũng là nơi có thể nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu sản xuất, thích nghi nhanh với trạng thái mới của nền kinh tế trong nước và kinh tế toàn cầu, do đó sự tăng trưởng ở các loại hình doanh nghiệp này trực tiếp tác động đến đông đảo người lao động, bảo đảm công ăn việc làm, sớm thu hẹp quy mô thất nghiệp trong phạm vi xã hội.
- Đầu tư cao vào các dự án sắp hoàn thành, đưa nhanh vào sử dụng mở rộng năng lực sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Đồng thời ưu tiên xây dựng các công trình hạ tầng xã hội như: nhà ở cho người lao động có thu nhập thấp, trạm y tế, trường học, đường sá… vì đây là lĩnh vực vừa tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, vừa đảm bảo đời sống và an sinh xã hội.
- Kích cầu đổi mới công nghệ, mua máy móc thiết bị công nghệ cao giá rẻ của các nước đang bị suy thoái, hỗ trợ liên kết các doanh nghiệp phát triển sản xuất trong nước và đầu tư ra nước ngoài, biến thách thức thành cơ hội phát triển và cải thiện sức cạnh tranh của hàng hoá và vị thế của Việt Nam trên thương trường khu vực và quốc tế.
- Tăng cường tín dụng: khoanh nợ, giãn nợ, trợ cấp, bán chịu trả dần cho các đối tượng, nhất là các hộ nghèo, người thất nghiệp; giảm học phí, viện phí, tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp...; khuyến khích, tạo điều kiện cho các đối tượng trong xã hội có thu nhập cao tiêu dùng sản phẩm nội địa cao cấp với tinh thần “tiêu dùng là yêu nước” nhằm tạo thêm các kênh kích cầu cho nền kinh tế; thay đổi tư duy tiêu dùng, khuyến khích tiêu dùng hàng nội (bao gồm cả sản xuất và sinh hoạt) cùng với giảm nhập siêu hướng tới xuất siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
- Cần thực hiện việc rà soát nghiệm ngặt các dự án đầu tư, lấy yếu tố hiệu quả kinh tế quyết định đến việc cấp vốn từ gói kích cầu.
+ Các gói kích cầu đầu tư cần tập trung vào các ngành sản xuất nhằm tạo đầu ra cho thị trường, đảm bảo được chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và tránh cho hàng ngoại xâm nhập thị trường.
+ Đầu tư vào các hạ tầng cơ sở, năng lượng và thủy lợi, nhằm tạo tiềm lực cho phát triển bền vững và lâu dài.
+ Phải nâng cao tốc độ giải ngân vốn, Chính phủ và các địa phương phối hợp cùng giải quyết nhanh chóng các vấn đề tồn đọng để nguồn vốn từ các gói kích cầu được sử dụng kịp thời. Tất cả các chính sách kinh tế đều có độ trễ, vì vậy nếu không thực hiện nhanh chóng các giải pháp kích cầu, nền kinh tế sẽ không thể thụ hưởng được lợi ích từ chủ trương kích cầu, đà suy giảm kinh tế sẽ không được ngăn chặn kịp thời.
- Cần rà soát lại tất cả các dự án. Đối với các dự án có vướng mắc về thủ tục hành chính, thiếu các nguồn lực để hoàn thành dự án, Chính phủ cần giúp đỡ giải quyết để các dự án được tiến hành nhanh chóng. Đối với các dự án không thể thực hiện tiếp, cần thu hồi, chuyển nhượng, bán lại, tránh thất thoát vốn thêm nữa.
- Cần tiến hành rà soát lại việc sử dụng đất đai: thu hồi nhà đất thuộc sở hữu nhà nước để đấu giá nộp ngân sách nhà nước; thu hồi mặt bằng do các bộ – ngành, đơn vị trung ương đang quản lý, nếu sử dụng không hiệu quả, lãng phí, để trống; trường hợp được chuyển mục đích sử dụng mà vẫn không triển khai dự án thì thu hồi đất để khai thác hiệu quả, tạo thêm nguồn thu ngân sách.
- Chính phủ đứng ra đóng vai trò làm người tiêu dùng, tiêu thụ các mặt hàng như sắt, thép, vật liệu xây dựng… vào xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp.
- Cần tăng cường sức mạnh của các ngân hàng thương mại trong việc huy động nguồn vốn trong dân cư. Bởi nguồn vốn huy động của các ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn. Trong khi, nguồn vốn vay cho sản xuất cần là trung và dài hạn. Điều này làm cho chính sách hỗ trợ lãi suất sẽ giảm ý nghĩa.
- Cần quản lý chặt chẽ việc vay vốn của các doanh nghiệp từ gói kích cầu nhằm hỗ trợ lãi suất của Chính phủ. Hạn chế tối đa việc các doanh nghiệp vay vốn không nhằm đầu tư cho sản xuất như: vay tiền từ gói hỗ trợ lãi suất đem gửi ngân hàng để hưởng khoản chênh lệch lãi suất, vay tiền được hỗ trợ lãi suất để trả các khoản vay nợ chịu mức lãi suất cao từ trước đó….
- Tăng cường giám sát, kiểm tra việc sử dụng nguồn vốn từ gói kích cầu; công khai, minh bạch việc sử dụng vốn.
Lời kết
Qua việc thực hiện đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay”, chúng tôi muốn nâng cao hiểu biết của mình cũng như đưa ra một cái nhìn tổng quát cho những ai quan tâm đến đề tài này. Từ những phân tích lý luận tạo cơ sở để giúp chúng ta hiểu hơn về hoạt động đầu tư. Đồng thời việc nghiên cứu các nhân tố tác động và thực trạng của chi đầu tư và kích cầu đầu tư cùng các hạn chế của chúng giúp chúng ta trong việc đưa ra các giải pháp kích cầu đạt hiệu quả hơn. Qua đó, chúng ta cũng thấy được vai trò và những tác động to lớn của hoạt động đầu tư tới nền kinh tế nói chung và Việt Nam nói riêng. Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà hôi nhập và đã là một thành viên của tổ chức WTO, tăng trưởng phát triển và mở rộng quan hệ quốc tế là mục tiêu hướng tới nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức mới cho Việt nam. Vì vậy việc thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Chúng ta cần có những chính sách phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, do mới tiếp cận với lĩnh vực này và còn hạn chế về mặt kiến thức nên bài viết khó tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để chúng tôi có thể hoàn thiện được đề tài của mình.
Một lần nữa, chúng tôi xin được chân thành cảm ơn PGS-TS Từ Quang Phương và TS Phạm Văn Hùng đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành đề tài của mình.
Nhóm thực hiện
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh tế đầu tư, Đại học Kinh tế Quốc dân.
Giáo trình Lập dự án đầu tư, Đại học Kinh tế quốc dân.
Giáo trình Tài chính tiền tệ, Đại học Kinh tế quốc dân.
Giáo trình Thị trường chứng khoán, Đại học Kinh tế quốc dân.
Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất tiền tệ - John Maynard Keynes, NXB Giáo duc, 1994.
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính – Fredric S. Mishkin.
Bài thảo luận chính sách số 4 – Đại học Harvard.
Báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) và Tập đoàn Tài chính quốc tế ( (IFC) về môi trường kinh doanh năm 2006,2007,2008,2009.
Tạp chí cộng sản
Tin tức kinh doanh và tài chính: www.vneconomy.com.vn
Ngân hàng thế giới: www.worldbank.org.vn
Bộ kế hoạch và đầu tư: www.mpi.org.vn
Bộ công thương: www.moi.gov.vn
Bộ tài chính: www.mof.gov.vn
Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn
Tổng cục thuế: www.gdt.gov.vn
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn
Diễn đàn phát triển Việt Nam: www.vdf.org.vn
Báo Đầu tư: www.vir.com.vn
Cục Đầu tư nước ngoài: www.fia.gov.vn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6284.doc