Các nguyên tắc cần tuân thủ trong quản lý hoạt động đầu tư.
Các nguyên tắc cần tuân thủ trong quản lý hoạt động đầu tư.
Quản lý đầu tư là sự tác động liên tục, có tổ chức , định hướng mục tiêu vào quá trình đầu tư( bao gồm công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư) và các yếu tố đầu tư, bằng một hệ thống đồng bộ các biện pháp kinh tế- xã hội, tổ chức kỹ thuật và các biện pháp khác nhằm đạt được kết quả và hiệu quả đầu tư cao nhất, trong điều kiện cụ thể xác định v
15 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1832 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các nguyên tắc cần tuân thủ trong quản lý hoạt động đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à trên cơ sở vận dụng sáng tạo những qui luật khách quan và qui luật đặc thù của đầu tư.
Quản lý hoạt động đầu tư là công tác phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc quản lý hoạt động đầu tư tuân theo những nguyên tắc quản lý kinh tế nói chung và được vận dụng cụ thể vào quản lý hoạt động đầu tư ở tầm vĩ mô và vi mô.
Thống nhất giữa lãnh đạo chính trị và kinh tế trong quản lý hoạt động đầu tư.
Thống nhất giữa chính trị và kinh tế là một đòi hỏi khách quan vì kinh tế quyết định chính trị và chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, có tác dụng trở lại đối với sự phát triển kinh tế.(Hồ chí Minh đã nhấn mạnh vai trò của việc thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế, nếu không có nền độc lập dân tộc thì sẽ không có tự chủ về kinh tế). Nếu đường lối chính trị đúng đắn , giải quyết hài hòa các loại lợi ích trong xã hội thì sẽ tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế phát triển, đồng thời việc lãnh đạo chính trị cũng sẽ dễ dàng hơn nếu đất nước có một nền kinh tế ổn định, phát triển, dân cư có trình độ phát triển cao, mức sống của dân cư tốt, việc đưa và thực hiện các chính sách cũng dễ thực hiện hơn.
Trên giác độ quản lý vĩ mô hoạt động đầu tư, nguyên tắc thống nhất giữa chính trị và kinh tế thể hiện ở vai trò quản lý của nhà nước, thể hiện trong cơ chế quản lý đầu tư, cơ cấu đầu tư( đặc biệt là cơ cấu thành phần kinh tế và vùng lãnh thổ), chính sách đối với người lao động hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, các chính sách bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thể hiện thông qua việc giải quyết quan hệ tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, giữa phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng và giữa yêu cầu phát huy nội lực và tăng cường hợp tác quốc tế trong đầu tư.
Đối với các cơ sở, nguyên tắc đòi hỏi phải đảm bảo quyền lợi cho người lao động, doanh lợi cho cơ sở , đồng thời phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội.
Trong quản lý hoạt động đầu tư, các chính sách về kinh tế phải phù hợp với các định hướng về chính trị.
Kết hợp tốt giữa kinh tế và xã hội là điều kiện cần và là động lực cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế - xã hội nói chung và thực hiện theo mục tiêu đầu tư nói riêng.
Ở Việt nam, chính trị và kinh tế không thể tách rời nhau vì chính sách của Đảng là cơ sở của mọi biện pháp lãnh đạo kinh tế, hướng dẫn sự phát triển không ngừng của nền kinh tế.
- Đảng vạch ra đường lối chủ trương phát triển kinh tế- xã hội, chỉ rõ con đường , biện pháp, phương tiện để thực hiện được .
- Đảng động viên đông đảo quần chúng nhân dân đoàn kết nhất trí chủ trương.
- Nhà nước biến đường lối chủ trương của Đảng thành kế hoạch & triển khai việc thực hiện kế hoạch, kiểm tra tổng kết việc thực hiện kế hoạch.
Nhà nước quản lý về mặt chính trị cũng đồng thời quản lý nhà nước về mặt kinh tế với các nội dung. Cụ thể trong hoạt động quản lý đầu tư : xây dựng hoàn chỉnh hệ thống luật pháp và những văn bản dưới luật liên quan đến hoạt động đầu tư, ban hành sửa đổi bổ sung luật và các văn bản liên quan. Xây dựng chiến lược qui hoạch kế hoạch đầu tư; trên cơ sở chiến lược qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội của đất nước của ngành địa phương vùng lãnh thổ, xây dựng các qui hoạch kế hoạch đầu tư, trong đó xác định nhu cầu về vốn , nguồn vốn, các giải pháp huy động; ban hành các chính sách chủ trương đầu tư nhằm cải thiện môi trường và thủ tục đầu tư….
Vai trò của Nhà nước và quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư là rất quan trọng, nếu không được đặt đúng chỗ và không sử dụng đúng công cụ mà Nhà nước có trong tay thì Nhà nước sẽ trở thành vật cản của đầu tư phát triển và sẽ không thể có một xã hội mà trong đó mọi tổ chức, cá nhân đều hăng hái bỏ vốn đầu tư cho phát triển. Nhà nước đóng vai trò là người tạo ra và giải quyết sự hài hòa các loại lợi ích để khuyến khích, động viên mọi nguồn lực cho phát triển. Giải quyết một cách hài hòa giữa lợi ích của nhà đầu tư và lợi ích của xã hội bằng công cụ quản lý gián tiếp (thuế và ưu đãi đầu tư)
Tuy nhiên , một thực tế diễn ra trong những năm qua đó là sự can thiệp quá sâu của đội ngũ cán bộ Đảng vào trong quản lý kinh tế, gây ra tình trạng giáo điều, khó khăn cho quản lý kinh tế, quyền lực bị phân tán. Cơ chế hiện tại chưa thực sự đáp ứng đầy đủ yêu cầu về quản lý đầu tư, nhất là chưa phân biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước về đầu tư với quản lý hoạt động đầu tư cụ thể, quản lý vĩ mô với quản lý vi mô trong đầu tư. Việc ban hành các chính sách còn chưa đồng bộ tạo ra sự bất đồng trong việc triển khai thực hiện, các qui hoạch còn chưa sát với tình hình thực tiễn, khiến cho việc thực hiện không đạt yêu cầu đề ra. Văn bản Pháp luật còn nhiều bất cập, tạo ra những kẽ hở gây ra tình trạng lách luật…..Những năm gần đây đã có sự cải cách theo hướng tích cực phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan Đảng và chính quyền. Với mục tiêu: Hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào các quyết định của nhà đầu tư; Tôn trọng tối đa quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp; và Đổi mới chức năng của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh theo hướng khuyến khích, hỗ trợ, hướng dẫn nhà đầu tư, doanh nghiệp là chính. Đồng thời, hệ thống văn bản pháp luật ngày càng được hoàn thiện hơn, bổ sung sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế, quan điểm chiến lược trong từng giai đoạn.
2. Quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ .
Nguyên tắc này là sự kết hợp một cách khách quan từ xu hướng chuyên môn hóa theo ngành và phân bổ sản xuất theo vùng lãnh thổ. Cụ thể là bất cứ hoạt động của cơ sở hay doanh nghiệp nào đều chịu sự quản lý của cơ quan chủ quản & địa phương :
- Địa phương: Quản lý về mặt hành chính và xã hội đối với mọi đối tượng nằm tại địa phương cũng như quản lý nhà nước về kinh tế đối với tất cả các hoạt động đầu tư diễn ra ở địa phương theo mức độ được nhà nước cho phép.
- Bộ, ngành: Chịu trách nhiệm quản lý kĩ thuật của ngành mình.
Việc phối hợp giữa ngành, địa phương có thể dưới 1 trong 3 hình thức sau:
- Tham quản: Một vấn đề nào đó do một chủ thể ngành lãnh thổ có thẩm quyền quyết nhưng họ tham khảo thêm ý kiến của bên kia để quyết định bên mình thêm sáng suốt.
- Hiệp quản: Giống như tham quả nhưng nhà nước bắt buộc ý kiến của bên kia là điều kiện cần phải có để tạo nên tính hợp pháp cho một quyết định quản lý nào đó
- Đồng quản: Khi hai cơ quan theo ngành lãnh thổ cùng liên tịch ra văn bản ra quyết định quản lý.
Để thực hiện nguyên tắc này phải giải quyết hàng loạt vấn đề như xây dựng kế hoạch qui hoạch định hướng, xác định cơ cấu đầu tư hợp lý theo ngành và vùng lãnh thổ, giữa các hoạt động đầu tư của Bộ, ngành địa phương…Việc kết hợp quản lý đầu tư cho phép tiết kiệm hợp lý chi phí vận chuyển , góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư xã hội. Trên cơ sở bảo đảm sự quản lý thống nhất của Trung ương về thể chế, về chiến lược và quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân, cần phân cấp đúng mức và rành mạch trách nhiệm và thẩm quyền hành chính, nhằm tạo điều kiện và thúc đẩy chính quyền địa phương phát huy tính chủ động, khai thác mọi tiềm năng tại chỗ để phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương và đóng góp ngày càng nhiều cho sự phát triển chung của đất nước. Theo tinh thần đó, cần tăng trách nhiệm và thẩm quyền của chính quyền địa phương trong việc quyết định những vấn đề của địa phương, đặc biệt là về quy hoạch phát triển và kế hoạch đầu tư cho khu vực công cộng, về thu chi ngân sách, về tổ chức và nhân sự hành chính địa phương, về xử lý các vụ việc hành chính.
Việc phân định trách nhiệm và thẩm quyền của các cấp chính quyền phải phù hợp với tính chất và yêu cầu của từng ngành và lĩnh vực hoạt động, với chức năng, nhiệm vụ của từng cấp chính quyền trên từng địa bàn; phù hợp với điều kiện và khả năng của các địa phương có quy mô, vị trí khác nhau. Giữa các cấp chính quyền địa phương cũng cần cụ thể hoá việc phân cấp theo hướng việc nào do cấp nào giải quyết sát với thực tế hơn thì giao nhiệm vụ và thẩm quyền cho cấp đó.
Quan hệ phân cấp phải gắn liền với việc tăng cường sự phối hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ, được quy định thành thể chế; đặc biệt cần tăng cường trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát của cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương đối với các cơ quan và tổ chức hoạt động trên địa bàn, kể cả các đơn vị được quản lý theo ngành dọc. Các bộ và cơ quan của Chính phủ phải thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước về ngành, lĩnh vực của minh trong phạm vi cả nước, đồng thời thực hiện trách nhiệm đại diện chủ sở hữu nhà nước trong phạm vi được uỷ quyền đối với các doanh nghiệp nhà nước. Trên cơ sở xác định rõ chức năng và đổi mới sự phân cấp, tiếp tục điều chỉnh hợp lý tổ chức của các bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ và bộ máy chính quyền địa phương.
Hiện nay, trên cơ sở phân định rõ chức năng quản lí, các quy định về phân công, phân cấp và xây dựng nội dung và mức độ thống nhất quản lí ngành cho từng ngành theo đặc điểm ngành; nội dung và mức độ quản lí theo lãnh thổ; nội dung, mức độ kết hợp quản lí theo ngành với quản lí theo lãnh thổ,bộ máy quản lý nhà nước đã có sự phân định chức năng giữa các cơ quan quản lý: Các Bộ chuyên ngành, UBND địa phương, và đã có sự kết hợp trong công tác quản lý nhà nước nói chung cũng như công tác quản lý đầu tư nói riêng. Sự kết hợp và thống nhất hai mặt quản lí chủ yếu được thể hiện : 1) Tổ chức điều hoà, phối hợp các hoạt động của tất cả các đơn vị thuộc các ngành, các thành phần kinh tế, các cấp quản lí, cũng như các tổ chức văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng để phát triển nền kinh tế quốc dân theo một cơ cấu hợp lí nhất, có hiệu quả nhất về ngành cũng như về lãnh thổ.Các dự án đầu tư phải được xem xét ở khía cạnh địa phương cũng như khía cạnh ngành nghề liên quan. 2) Quản lí công việc chung của quốc gia trên phạm vi cả nước, cũng như trên từng đơn vị hành chính - lãnh thổ kết hợp hài hoà lợi ích chung của cả nước, cũng như lợi ích của địa phương. Kế hoạch đầu tư của địa phương phải phù hợp với kế hoạch phát triển chung của đất nước, cũng như các qui hoạch phát triển ngành, vùng.
Tuy vậy, thực trạng cho thấy vẫn còn tình trạng hoạt động không ăn khớp giữa các cơ quan chuyên ngành với chính quyền địa phương, gây khó khăn cho hoạt động đầu tư chủ chủ đầu tư, việc cấp và xin giấy phép trở thành một trở ngại lớn. Nhiều địa phương chỉ vì lợi ích cục bộ mà vi phạm qui hoạch kế hoạch phát triển chung của ngành, của quốc gia.
3. Tập trung dân chủ.
Quản lý hoạt động đầu tư phải vừa đảm bảo nguyên tắc tập trung lại vừa đảm bảo yêu cầu dân chủ. Nguyên tắc tập trung đòi hỏi công tác quản lý đầu tư cần tuân thoe sự lãnh đạo thống nhất từ một trung tâm, đồng thời lại phát huy cao tính chủ động sáng tạo của địa phương, các ngành và của cơ sở. Nguyên tắc này đòi hỏi khi giải quyết bất kỳ một vấn đề gì phát sinh trong quản lý đầu tư, một mặt phải dựa vào ý kiến, nguyện vọng, lực lượng và tinh thần chủ động sáng tạo của các đối tượng quản lý( các cơ sở, bộ phận) mặt khác đòi hỏi phải có một trung tâm quản lý tập trung thống nhất với mức độ phù hợp để không xảy ra tình trạng tự do vô chính phủ và tình trạng vô chủ trong quản lý nhưng cũng đảm bảo không ôm đồm, quan liêu cửa quyền.
Vấn đề đặt ra là phải xác định rõ nội dung, mức độ và hình thức của tập trung và phân cấp quản lý.
Trong nền kinh tế thị trường XHCN nước ta, sự can thiệp của nhà nước nhằm điều chỉnh tính tự phát của thị trường, đảm bảo tính định hướng XHCN. Nhà nước tập trung thống nhất quản lý một số lĩnh vực kinh tế then chốt nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế- xã hội mà Đảng đề ra. Mặt khác quan tâm đến lợi ích người lao động là những động lực quan trọng đảm bảo cho sự thành công của các hoạt động kinh tế xã hội.
Trong hoạt động đầu tư, nguyên tắc tập trung dân chủ được vận dụng ở hầu hết các khâu công việc, từ lập kế hoạch đến thực hiện kế hoạch, ở việc phân cấp quản lý và phân công trách nhiệm, ở cơ cấu bộ máy tổ chức với chế độ một thủ trưởng chịu trách nhiệm và sự lãnh đạo tập thể, ở quá trình ra quyết định đầu tư…Việc phân cấp đầu tư và quản lý dự án sẽ được tiến hành tương đối triệt để. Các cơ quan hành chính nhà nước như các bộ, ngành, UBND các cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đầu tư sẽ không còn đảm nhiệm luôn cả “vai” chủ đầu tư các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA.
4. Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa- xã hội.
Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, khắc phục tình trạng phân hóa giàu nghèo, đầu tư để phát triển kinh tế nhưng không được để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống &trình độ phát triển giữa các vùng- tầng lớp dân cư. Nhà nước thừa nhận sự tồn tại của các hình thức thuê mướn lao động trong hoạt động đầu tư nhưng cố gắng không để biến thành quan hệ quản trị dẫn tới phân hóa xã hội thành hai cực đối lập.
Không chỉ là động lực mà văn hóa còn là định hướng và là kết quả nhân văn của một nền kinh tế lành mạnh. Bởi vì văn hóa là yếu tố căn bản nhất để định nghĩa con người: con người là một sinh vật có văn hóa. Ít người thấy rõ sự tác động đó của văn hóa vào kinh tế. Thí dụ tai nạn giao thông, chủ yếu do thiếu văn hóa, không chấp hành luật lệ giao thông, say sưa, chạy ẩu, giành khách… đã làm giảm 1,5 - 2% GDP mỗi năm ở nước ta. Còn nhiều tệ nạn xã hội làm cho đất nước nghèo đi như xả rác gây ô nhiễm, phá rừng, bệnh AIDS… Chỉ lấy một thí dụ như: dịch cúm gia cầm ở Bạc Liêu, Cà Mau. Xem ti vi mới thấy nếu vịt chết mà chịu khó đốt hay chôn thì chắc lây lan ít, thay vì thế lại vất bừa trên kênh lạch. Chúng ta sẽ mất bao nhiêu tiền để ngăn chặn và dứt trừ nạn dịch? Mỗi năm ngành đường sắt tốn 800 triệu để thay kính vỡ trên toa vì bị ném đá từ dưới đường.
Trong thời gian vừa qua, cùng với sự tăng trưởng nhanh về kinh tế của đất nước, các mặt văn hóa và xã hội cũng có nhiều cải thiện. Nổi bật là thành tựu xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống vật chất và văn hóa cho các tầng lớp nhân dân, phổ cập giáo dục, chăm sóc sức khỏe, chống dịch bệnh. Mức sống của người dân ngày càng cao, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng phong phú.Nhà nước tích cực đầu tư vào các lĩnh vực y tế, giáo dục- đào tạo và dạy nghề, y tế dân số gia đình và trẻ em ,văn hóa thông tin thể dục thể thao, khoa học công nghệ - bưu chính viễn thông, các chính sách xã hội và giải quyết việc làm, các dịch vụ công cộng… Có các chính sách xóa đói giảm nghèo bền vững với các chính sách kinh tế, xã hội khác; chính sách xã hội đối với vùng sâu, vùng xa, giúp người nghèo được thụ hưởng thực sự từ những chính sách đó. Tuy vậy các dự án phát triển kinh tế - xã hội lại chưa được quản lí chặt chẽ: xảy ra tình trạng thất thoát, lãng phí trong khâu thực hiện, giáo điều, chủ quan trong khâu vận hành, kết quả là các lợi ích mục tiêu vẫn chưa đến được tận tay người dân, mà lợi ích lại thất thoát sang một số bộ phận cán bộ quản lý.Các công trình
5. Kết hợp hài hòa các loại lợi ích trong đầu tư.
Có nhiều loại lợi ích như lợi ích kinh tế và xã hội, lợi ích của nhà nước, tập thể, cá nhân , lợi ích trước mắt và lâu dài , lợi ích trực tiếp và gián tiếp…Hoạt động đầu tư chỉ có thể được diễn ra khi có sự kết hợp hài hòa lợi ích của mọi đối tượng bởi vì khi đó mới tạo được động lực cùng chiều cho mọi người dân trong xã hội, mới làm cho nền kinh tế phát triển một cách vững chắc và ổn định. Do vậy kế hoạch đầu tư của nhà nước là bộ phận rất qan trọng của kế hoạch đầu tư chung. Với qui mô vốn lớn, tập trung trong tay thành phần kinh tế nhà nước, nhà nước xây dựng và thực hiện các kế hoạch đầu tư có vị trí chiến lược quan trọng, có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kin tế quốc dân, đảm bảo những cân đối lớn của nền kinh tế , tạo điều kiện thuận lợi để phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế khác và thu hút đầu tư nước ngoài.
Trên giác độ nền kinh tế, sự kết hợp này được thể hiện thông qua các chương trình định hướng phát triển kinh tế- xã hội, chính sách đòn bẩy kinh tế, chính sách với người lao động..
Trong hoạt động đầu tư, nó thể hiện sự kết hợp lợi ích của xã hội mà đại diện là nhà nước với lợi ích cá nhân và tập thể người lao động , giữa lợi ích của chủ đầu tư , nhà thầu, các cơ quan thiết kế , tư vấn, dịch vụ đầu tư và người hưởng lợi. Sự kết hợp này được đảm bảo bằng các chính sách của nhà nước , sự thỏa thuận theo hợp đồng giữa các đối tượng tham gia quá trình đầu tư, sự cạnh tranh của thị trường thông qua đấu thầu theo luật định.
6. Tăng cường pháp chế XHCN trong quản lý hoạt động đầu tư.
Quản lý nhà nước hoạt động đầu tư phải dựa trên cơ sở pháp luật của nhà nước , nguyên tắc này không cho phép các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện quản lý đầu tư một cách chủ quan tùy tiện mà phải dựa vào pháp luật, làm đúng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp.
Nguyên tắc này đòi hỏi 3 điều kiện:
- Xây dựng & hoàn chỉnh hệ thống luật pháp.
- Giáo dục Pháp luật cho người dân.
- Xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động đầu tư.
Đổi mới tổ chức thanh tra phù hợp với chức năng quản lý nhà nước trong điều kiện mới; phát triển mạnh tổ chức thanh tra việc thực hiện thể chế về từng lĩnh vực trong toàn xã hội như tài chính, lao động, giáo dục, vệ sinh – y tế, xây dựng, công vụ, v.v…
Nghiên cứu tăng thẩm quyền cho các cơ quan thanh tra trong việc xử lý hành chính tại chỗ các vi phạm pháp luật; phân định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan thanh tra và toà án hành chính trong việc giải quyết các khiếu kiện đối với các cơ quan và cán bộ, công chức hành chính, tạo điều kiện để các toà án hành chính phát huy đúng chức năng và thẩm quyền.
Đẩy mạnh hoạt động tự thanh tra, kiểm tra trong nội bộ các cơ quan, tổ chức nhà nước; đề cao trách nhiệm thanh tra, kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới, của các cấp chính quyền đối với mọi cơ quan, tổ chức trên địa bàn lãnh thổ.
Hệ thống luật pháp liên quan được áp dụng để quản lý hoạt động đầu tư như : Luật đầu tư(2005), luật Doanh nghiệp, luật Xây dựng, luật Đất đai, luật bảo vệ môi trường, luật Lao động, luật bảo hiểm, luật phá sản…kèm theo một loạt các văn bản dưới luật kèm theo về quản lý hoạt động đầu tư như các qui chế về quản lý tài chính, vật tư, thiết bị, lao động tiền lương, sử dụng đất đai và tài nguyên thiên nhiên khác…Đồng thời thực hiện chức năng giám sát , kiểm tra. Các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra giám sát việc tuân thủ pháp luật của chủ đầu tư, xử lý vi phạm pháp luật , qui định của nhà nước….
7. Mở rộng hợp tác đầu tư với các nước.
Các bên cùng có lợi không xâm phạm độc lập chủ quyền & lãnh thổ của nhau, đa phương hóa, đa dạng hóa.
Sau những năm 1986, cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý của nhà nước, việc hợp tác đầu tư với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị , xã hội, tôn giáo… ngày càng được mở rộng và khuyến khích. Việt Nam đã và đang tham gia nhiều tổ chức, diễn đàn kinh tế lớn: WTO, ASEAN, ASEM, APEC…tạo nhiều thuận lợi cho việc hợp tác đầu tư giữa các nước, thúc đẩy mối quan hệ làm ăn song phương và đa phương. Thông qua các hoạt động xúc tiến đầu tư , các nhà đầu tư nước ngoài có hiểu biết thêm về chính sách đầu tư, môi trường đầu tư… từ đó tăng cơ hội và tính hấp dẫn đầu tư vào Việt nam. Làn sóng đầu tư nước ngoài trong thời gian vừa qua cũng cho thấy được chính sách của nhà nước tạo điều kiện khuyến khích hợp tác đầu tư nước ngoài, đồng thời cũng cho thấy tính hiệu quả của việc mở rộng hợp tác đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển chung của đất nước. Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác. Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu vực và thế giới...” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài, qua 20 năm đã có 82 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, đạt 8684 dự án với tổng vốn đăng ký trên 85 tỷ đô la Mỹ, tổng vốn thực hiện đạt trên 29 tỉ USD,đạt trung bình 9,79 triệu USD/ dự án,vốn thực hiện 3,36 triệu USD/ dự án. Trong đó các nước châu Á chiếm 66% tổng vốn đăng ký; các nước châu Âu chiếm 29% tổng vốn đăng ký; các nước châu Mỹ chiếm 4% vốn đăng ký. Riêng 4 nền kinh tế đứng đầu trong đầu tư vào Việt Nam theo thứ tự: Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Nhật Bản đã chiếm 55% tổng vốn đăng ký. Tuy vậy, môi trường đầu tư của Việt nam vẫn còn nhiều rào cản, gây trở ngại cho các nhà đầu tư. Thủ tục pháp lý còn rườm rà, hệ thống văn bản chính sách chưa đồng bộ..Vì vậy trong thời gian tới cần phải tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh các ngành công nghiệp hỗ trợ; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, quy trình xử lý, thẩm định, cấp phép và quản lý nhà nước sau cấp phép đối với các dự án đầu tư nước ngoài theo hướng quy định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, từng cấp, từng ngành trong rà soát, điều chỉnh quy định về đầu tư nước ngoài, phối hợp xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư, trong xúc tiến đầu tư nước ngoài. Đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài. Đẩy mạnh thực hiện lộ trình giảm các chi phí đầu tư, thu hẹp, tiến tới xoá bỏ chênh lệch về giá dịch vụ đầu vào, thu hẹp sự cách biệt về thuế suất giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Triển khai thực hiện Luật doanh nghiệp: cải tiến công tác cấp phép thành lập doanh nghiệp và cấp đăng kí kinh doanh,thực hiện ưu đãi đầu tư theo hướng đơn giản hóa các thủ tục hành chính ,thực hiện chế độ “một cửa”. Sớm có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào các khu vực, ngành nghề phù hợp với chủ trương và chiến lược đề ra. Đẩy nhanh tiến độ sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và thực hiện cổ phần hóa để ổn định các doanh nghiệp .
8. Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả.
Trong đầu tư, tiết kiệm và hiệu quả thể hiện ở chỗ: với một lượng vốn đầu tư nhất định phải đem lại hiệu quả kinh tế xã hội đã dự kiến với chi phí đầu tư thấp nhất.
Biểu hiện tập trung nhất của nguyên tắc trong quản lý hoạt động đầu tư đối với các cơ sở là đạt được lợi nhuận cao, đối với xã hội là gia tăng sản phẩm quốc nội và giá trị gia tăng, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, giáo dục và gia tăng phúc lợi công cộng.
Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả đặc biệt quan trọng trong quản lý hoạt động đầu tư. Nếu nguyên tắc này được thực hiện triệt để, hiệu quả đầu tư được nâng cao , đồng thời đảm bảo được chất lượng công trình. Trong quản lý, hạn chế tối đa tình trạng dàn trải trong đầu tư, gây lãng phí nguồn lực và ảnh hưởng đến chất lượng dự án.Tuy vậy đó lại cũng chính là thực trạng tồn tại nhiêu năm nay trong hoạt động đầu tư ở Việt nam. Tồn tại cùng cơ chế xin cho, bao cấp dẫn đến tình trạng chia nhỏ vốn cấp cho các dự án, khiến cho các dự án thường không đạt tiến độ theo yêu cầu, kéo dài thời gian thực hiện đầu tư, ảnh hưởng đến giai đoạn vận hành kết quả đầu tư.
Theo Tổng hội Xây dựng Việt Nam, chỉ số ICOR (tỷ lệ % vốn đầu tư bỏ ra để tạo ra một đơn vị % gia tăng GDP) của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Giai đoạn 2001 - 2005, chỉ số này ở Việt Nam là 5, trong khi các nước khác chỉ là 2,4. Giáo sư David Dapice (đại học Harvard) đã từng tính toán, với tốc độ đầu tư cao như Chính phủ đã báo cáo thì tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam phải đạt mức 9 - 10%. Cũng theo vị giáo sư này, nguyên nhân làm cho hiệu quả đầu tư tài chính công của Việt Nam thấp như vậy là do việc quản lý chi tiêu ngân sách có vấn đề."Tỷ lệ thất thoát, lãng phí vốn đầu tư hàng năm của Việt Nam phải lên tới hàng tỷ USD. Tình trạng thất thoát, lãng phí vốn diễn ra hầu như trong tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư. Tỉ lệ thất thoát, lãng phí của những công trình có mức lãng phí, thất thoát thấp cũng tới 10%, cao thì lên tới 30-40%, thậm chí có công trình lên đến 80%. Trên phạm vi cả nước, mỗi năm có không dưới 500 cuộc thanh tra, kiểm tra quy mô khác nhau và kết quả là không có cuộc thanh tra, kiểm tra nào là không tìm ra được những sai phạm. Cụ thể, kết quả kiểm tra năm 2002 của 995 dự án với tổng vốn đầu tư 20.736 tỷ đồng, đã phát hiện sai phạm về tài chính và sử dụng vốn đầu tư là 1.151 tỷ đồng, bằng khoảng 5,5% tổng vốn đầu tư các công trình được kiểm tra. Riêng 17 công trình do Thanh tra Nhà nước thực hiện kiểm tra phát hiện sai phạm tài chính lên tới 13%. Đó là chưa kể đến các lãng phí lớn do chậm triển khai công trình và nhất là do sai sót trong chủ trương đầu tư mà hiện chưa có cách đánh giá thống nhất.
Năm 2003, qua thanh, kiểm tra 14 dự án, công trình cấp Trung ương có tổng vốn đầu tư hơn 8.192 tỷ đồng đã phát hiện sai phạm 1.225 tỷ đồng, chiếm 14% tổng số vốn được thanh tra. Thanh tra các điạ phương kiểm tra 2.138 dự án có tổng vốn đầu tư hơn 6.571 tỷ đồng đã phát hiện sai phạm hơn 217 tỷ đồng, chiếm 4,6% tổng số vốn được thanh kiểm tra. Tỷ lệ thất thoát trung bình của các dự án, công trình cấp Trung ương là 5%, cấp địa phương là 6% và ở các ngành là 7%. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả đầu tư”.Trong 6 tháng đầu năm 2004, thanh tra cũng đã phát hiện sai phạm về kinh tế trị giá 539 tỷ đồng.Năm 2005, lần đầu tiên căn bệnh thất thoát, lãng phí này được "bắt mạch" một cách rõ ràng thông qua việc Tổng hội Xây dựng (HXD) VN công bố 59 địa chỉ công trình có thất thoát trong đầu tư, xây dựng. Tuy đến năm 2006, con số này dù có giảm, song vẫn là con số "nóng" về thất thoát, lãng phí. Theo thống kê này, vẫn còn tới 43 dự án đầu tư xây dựng có thất thoát, lãng phí.
Nguyên nhân của tình trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư : Đầu tư không có qui hoạch , chất lượng đầu tư thấp. Khi xây dựng công trình rồi lại phải phá đi xây dựng lại, gây lãng phí lớn , đồng thời làm mất đi chi phí cơ hội rất lớn cho việc tập trung đầu tư cho các nguồn lực khác. Thứ nữa, đó là tình trạng quản lí chưa đủ tầm của đội ngũ các nhà quản lý, khiến cho việc qui hoạch thiếu đồng bộ, dàn trải, các công trình xây dựng không được sử dụng hiệu quả.Ngoài ra, thất thoát và lãng phí xảy ra trong khâu xác định chủ trương đầu tư, khâu thẩm định và phê duyệt thiết kế kĩ thuật tổng dự toán. Chẳng hạn như công trình Nhà hát Lớn tp. HCM : xây dựng xong năm 1997 nhưng mãi đến năm 2005 vẫn chưa có quyết toán được phê duyệt riêng đến đâu chi đến đấy. Thất thoát trong khâu kế hoạch hóa hoạt động đầu tư, bố trí kế hoạch dàn trải, không tập trung phân tán vốn đầu tư. Thất thoát trong khâu đấu thầu xây dựng, chuẩn bị xây dựng, tổ chức thực hiện, trong cơ chế quản lí giá trong xây dựng, trong khâu thanh quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành.
Thất thoát và lãng phí trong đầu tư trong việc sử dụng nguồn vốn ODA. Các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA bị buông lỏng, hiệu quả sử dụng chưa cao, đầu tư dàn trải, phân tán không hiệu quả, không đúng thời gian quy định.
Khối lượng giải ngân nguồn vốn ODA còn thấp so với kế hoạch, hàng năm chỉ đạt khoảng 80 - 90% mức đề ra. Đến nay mới giải ngân được 13,5 tỷ USD trên tổng số 25 tỷ USD cam kết. Tỷ lệ giải ngân giảm dần qua các năm. Khối lượng giải ngân đạt thấp do nhiều nguyên nhân, trong đó, chủ yếu là các nguyên nhân chủ quan như: chậm giải phóng mặt bằng; Các Bộ, ngành và địa phương bố trí không đủ vốn đối ứng, năng lực của các ban quản lý dự án ODA còn thấp, thủ tục chưa hài hoà trong và ngoài nước...
Việc lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, dự toán công trình bằng nguồn vốn ODA còn nhiều bất cập, gây lãng phí và thất thoát nguồn lực. Phương thức lựa chọn nhà thầu xây lắp, mua sắm và dịch vụ tư vấn thực hiện dự án đầu tư còn bị động, lỏng lẻo. Công tác đền bù giải phóng mặt bằng còn nhiều nổi cộm tạo ra trở ngại hoặc chậm bàn giao mặt bằng cho xây lắp công trình, gây lãng phí thời gian thực hiện và đưa công trình vào hoạt động; năng lực, trình độ cán bộ quản lý và thực hiện dự án còn hạn chế. Điều này được thể hiện rõ nhất trong khâu thẩm định dự án về các khía cạnh kỹ thuật và tài chính. Trong quan niệm của một số cơ quan thụ hưởng ODA (cả ở Trung ương và địa phương) vẫn còn vương vấn suy nghĩ về “ODA thời bao cấp” coi đó là tiền Chính phủ “cho”. Hậu quả của quan niệm sai lệch này là ra sức “tranh thủ” nguồn vốn ODA mà không tính đến hiệu quả kinh tế, tính bền vững sau dự án cũng như khả năng trả nợ. Ở nước ta còn có nơi, có lúc vẫn còn tâm lý coi ODA là “tiền chùa” do Chính phủ vay nước ngoài để bao cấp cho nhu cầu trong nước nên xem nhẹ hiệu quả sử dụng, thiếu trách nhiệm đối với kết quả của dự án, gây lãng phí, thất thoát.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24680.doc