Chương i : Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận trong doanh nghiệp xây lắp.
I. khái niệm và bản chất của lợi nhuận trong doanh nghiệp xây lắp.
1. Khái niệm :
2. nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận :
3. Các chỉ tiêu phản ánh lợi nhuận
II.Vai trò của lợi nhuận trong doanh nghiệp xây lắp.
III.Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận trong doanh nghiệp xây lắp
1.đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận trong doanh nghiệp xây l
58 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1522 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các nâng cao lợi nhuận tại Công ty công trình giao thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắp
chương ii : Tình hình thực hiện lợi nhuận tại công ty ctgt 208
I. Khái quát chung về hoạt động kinh doanh của công ty CTGT 208.
II.Tình hình thực hiện lợi nhuận tại công ty CTGT 208 .
1.nguồn hình thành và phương pháp xác định lợi nhuận của công ty .
2.phân tích tình hình lợi nhuận của công ty.
3. các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty.
III. Đánh giá chung về tình hình lợi nhuận tại công ty CTGT 208.
1. Một số thành công của công ty.
2. Một số tồn tại của công ty .
Chương III :Một số giải pháp nâng cao lợi nhuận tại công ty CTGT 208
1. phương hướng hoạt động của công ty trong những năm tới .
2. một số biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại công ty CTGT 208 .
kết luận
tài liệu tham khảo
Lời nói đầu
Mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế quốc dân, là nơi tổ chức kết hợp các yếu tố của quá trình sản xuất để tạo của cải vật chất cho xã hội, tạo nguồn tích luỹ chủ yếu thúc đẩy xã hội phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay, trước những đòi hỏi của cơ chế hạch toán kinh doanh, để đáp ứng nhu cầu cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động thì vấn đề nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đã trở thành mục tiêu hàng đầu đối với các doanh nghiệp.
Nói cách khác, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường thì mọi hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lãi, phải mang lại lợi nhuận.Sản xuất kinh doanh được coi là có hiệu quả khi toàn bộ doanh thu thu được đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra trong sản xuất kinh doanh, hoàn thành mọi nghĩa vụ tài chính với nhà nước và có lãi. Có lợi nhuận doanh nghiệp mới có thể đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên trong toàn doanh nghiệp, đảm bảo khả năng thanh toán với nhà nước và các đơn vị kinh tế khác, tạo nguồn tích luỹ quan trọng cho nền kinh tế, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì lợi nhuận đã và đang trở thành mục đích tối cao của sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp có lợi nhuận cao có thể thường xuyên bổ sung vốn cố định cũng như vốn lưu động, mở rộng quy mô sản xuất, chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, chiến thắng các đối thủ cạnh tranh từ đó càng có điều kiện tăng thêm lợi nhuận.
Trong nền kinh tế thị trường, ở nước ta tồn tại rất nhiều các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, do đó sự chi phối của nó đến lợi nhuận cũng khác nhau.
Việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận luôn là vấn đề cấp bách có tầm quan trọng đặc biệt đối với các doanh nghiệp. Với nhận thức đó , trong thời gian thực tập tại công ty công trình giao thông 208, dưới sự hướng dẫn của thầy giáo : Nguyễn Hữu Tư và sự chỉ bảo tận tình của các bác, cô chú, anh chị trong phòng tài chính – kế toán Công ty công trình giao thông 208 cùng với những kiến thức đã tích luỹ được sau bốn năm học tập tại trường,em đã đi sâu nghiên cứu đề tài “ Các giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại công ty công trình giao thông 208 “ trực thuộc Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông 4.
Nội dung của đề tài được trình bày trong 3 chương :
Chương I : Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận trong doanh nghiệp xây lắp
Chương II : Tình hình thực hiện lợi nhuận – Thực trạng của công ty CTGT 208.
Chương III :Một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại công ty CTGT 208
Chương I
Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận trong doanh nghiệp xây lắp
I. Khái niệm và các chỉ tiêu lợi nhuận trong doanh nghiệp xây lắp :
1.Khái niệm
Lợi nhuận là mục tiêu kinh tế được đặt lên hàng đầu. Để cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho nhu cầu thị trường, nhu cầu của xã hội các doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí nhất định cho quá trình sản xuất kinh doanh như chi phí thuê đất đai, lao động, vốn sản xuất kinh doanh… Do đó khi tiêu thụ hàng hoá , doanh nghiệp phải đảm bảo thu nhập bù đắp được chi phí bỏ ra và có lợi nhuận để có thể đầu tư sản xuất trở lại. Nếu không tạo ra được lợi nhuận thì doanh nghiệp cũng không muốn sẵn sàng cung cấp cho nhu cầu xã hội, nhu cầu tiêu dùng của con người những hàng hoá dịch vụ mong muốn.
Lợi nhuận chính là kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng đánh giá kết quả kinh tế của các hoạt động của doanh nghiệp.
Về thực chất, lợi nhuận chính là bộ phận thặng dư vượt qua phần lao động tất yếu do người lao động sáng tạo ra cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất và được đo bằng phần chênh lệch giưã tổng doanh thu và toàn bộ chi phí bỏ ra để có được doanh thu.
2. Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận :
Ngay từ khi có hoạt động sản xuất, trao đổi, mua bán hàng hoá, lợi nhuận trong kinh doanh là đề tài nghiên cứu, tranh luận của nhiều trường phái, nhiều nhà lý luận kinh tế.
Adam.Smith là người đầu tiên trong số các nhà kinh tế học cổ điển đã nghiên cứu khá toàn diện về bản chất, nguồn gốc của lợi nhuận. Ông xuất phát từ quan điểm : Gía trị trao đổi của mọi hàng hoá là do lao động sản xuất ra hàng hoá quyết định, để từ đó đặt nền tảng cho các lý thuyết về kinh tế thị trường. Ông đã bác bỏ quan điểm cho rằng gía trị trao đổi được quyết định bởi tính hữu ích của hàng hoá. Ông khẳng định : Gía trị của một hàng hoá quy định gía trị trao đổi, trong cấu thành của hàng hoá có tiền lương, địa tô và lợi nhuận. Theo A.Smith : Lợi nhuận của nhà tư bản được tạo ra trong quá trình sản xuất là biểu hiện khác của giá trị thặng dư tức là giá trị do người lao động không được trả công tạo ra. Ông đã định nghĩa : “Lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao động “
(khoản khấu trừ thứ nhất là địa tô, tức là tiền cho việc sử dụng ruộng đất ).
Ông cho rằng không chỉ có lao động nông nghiệp mà cả lao động công nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận : Nhà tư bản tiền tệ cho nhà tư bản sản xuất vay vốn, nhận được lợi tức cho vay đó cũng là biểu hiện khác của lợi nhuận đã được tạo ra trong sản xuất chính là các nhà tư bản ( tư bản cho vay và tư bản sản xuất ) sẽ thoả thuận để phân chia giá trị thăng dư được tạo ra từ sản xuất kinh doanh TBCN, tư bản ngân hàng thu được lợi nhuận ngân hàng khi kinh doanh nghiệp vụ ngân hàng…
Tuy còn có những sai lầm trong hệ thống lý luận của mình nhưng A.Smith đã chỉ ra được rằng : Nguồn gốc thực sự cho giá trị thặng dư là do lao động tạo ra còn lợi nhuận, điạ tô, lợi tức chỉ là biến thể , là hình thái biểu hiện khác nhau của giá trị thăng dư mà thôi.
David.Ricardô và những người kế tục đã xây dựng học thuyết kinh tế của mình trên cơ sở những tiền đề và phát kiến của A.Smith.
D.Ricardô cũng hoàn toàn dựa vào lý luận giá trị lao động để phân tích, chỉ rõ nguồn gốc , bản chất của lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh TBCN. D.Ricardô cũng đã khẳng định : Lao động là nguồn gốc của giá trị và gía trị hàng hoá, sản phẩm, lao động cũng được phân thành nguồn thu nhập tiền lương , địa tô, lợi nhuận. Cũng như A.Smith D.Ricardô cho rằng phần giá trị do công nhân làm thuê tạo ra lớn hơn số tiền công mà họ nhận được, tức là trong gía trị mới sáng tạo từ lao động có thăng dư là giá trị do công nhân làm ra không được trả công. Từ đó ông kết luận : “ Lợi nhuận chính là phần gía trị lao động thừa ra ngoài tiền công, lợi nhuận là lao động không được trả công của công nhân “. Phân tích sâu hơn sự vận động của lợi nhuận trong sản xuất TBCN D.Ricardô đã nhận định : Nếu tư bản được đầu tư vào sản xuất những đại lượng bằng nhau, sẽ nhận được những lợi nhuận như nhau và bình quân hoá lợi nhuận là một xu hướng khách quan của sản xuất kinh doanh TBCN. Về quan hệ giữa tiền công và lợi nhuận ông cho rằng : Lợi nhuận phụ thuộc vào mức tăng năng suất của lao động và đối nghịch với tiền công. Khi năng suất lao đông tăng lên thì tiền công của công nhân giảm và lợi nhuận của tư bản tăng lên. Về mặt chính trị xã hội, ông nêu rõ : Lượng hàng hoá mà công nhân có thể mua được từ tiền công của mình chưa quyết định địa vị xã hội của người đó, tự quyết định tình cảnh của giai cấp công nhân phụ thuộc vào mối tương qua giữa tiền lương và lợi nhuận.
Khác biệt với các học thuyết giá trị lao động ở trên là lý luận “ Tính hữu dụng “ của Jan.Batitxây, J.Batitxây cho rằng hoạt động sản xuất tạo ra “ tính hữu dụng “ hay giá trị sử dụng, còn tính hữu dụng lại truyền giá trị cho các vật phẩm. Giá trị trở thành thước đo tính hữu dụng có nghĩa là ông đồng nhất giá trị và giá trị sử dụng.
Ông cho rằng không những lao động tạo ra giá trị mà tư bản cũng tạo ra giá trị. Để thực hiện quá trình sản xuất TBCN có ba yếu tố tham gia : lao động, ruộng đất, tư bản. Mỗi yếu tố đều có “ công phục vụ “ , mà cái gì tạo ra sự phục vụ đều là sản xuất. Đây là tiền đề quan trọngmà J.Batitxây đề ra trong nguyên tắc phân phối thu nhập trong xã hội tư sản :
Công nhân làm thuê nhận được tiền công từ sản phẩm lao động
Chủ ruộng đất nhận được lợi nhuận từ việc nhượng quyền sử dụng cho các tư bản công nghiệp
Chủ tư bản nhận được lợi nhuận từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình
Theo J.Batitxây về bản chất lợi nhuận là phần thưởng thích đáng cho việc đầu tư vào kinh doanh, là một hình thức tiền công đặc biệt mà nhà tư bản tự trả cho mình. Quan điểm này của J.Batitxây rất gần với quan điểm “ mọi lao động đều được trả công sòng phẳng “ của kinh tế tư bản hiện đại.
Kế thừa những nguyên lý đúng đắn, khoa học của những nhà lý luận tiền bối. Các Mác đã nghiên cứu một cách toàn diện, triệt để về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận trong kinh doanh TBCN.Dựa trên lý luận giá trị lao động, C.Mác đã khẳng định : Về nguồn gốc lợi nhuận là do lao động làm thuê tạo ra, về bản chất : Lợi nhuận là hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư, là kết quả lao động không được trả công, do nhà tư bản chiếm lấy, là quan hệ bóc lột và nô dịch lao động trong xã hội TBCN. Khi truy tìm nguồn gốc, bản chất cuả lợi nhuận, C.Mác đã viết “ giá trị thặng dư được quan niệm là quan niệm là con đẻ của tư bản ứng trước, mang hình thái chuyển hoá la lợi nhuận “ và “ giá trị thặng dư (hay lợi nhuận ) là phần giá trị doi ra của giá trị hàng hoá so với chi phí sản xuất cuả nó, nghĩa là phần giá trị dôi ra của tổng số lượng lao động chữa đựng trong hàng hoá so với số lượng lao động được trả công chứa đựng trong hàng hoá “
Để vạch rõ sự hình thành lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh TBCN, C.Mác đã bắt đầu từ chi phí sản xuất TBCN. Để sản xuất ra hàng hoá có giá trị la C + V +m ;trong đó C là giá trị bất biến , là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức nguyên , nhiên vật liệu, máy móc thiết bị. V là tư bản khả biến , là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động và m là giá trị thặng dư, là giá trị do người lao động tạo ra không được trả công, nhà tư bản chỉ phải bỏ ra lượng là C + V. C + V được gọi là chi phí sản xuất TBCN ( ký hiệu là không . Khi đưa hàng hoá ra trao đổi trên thị trường thì theo quy luật giá trị,giá bán nhất trí với giá trị của hàng hoá là C + V + m. Do vậy, nhà tư bản thu được một khoản tiền lớn hơn chi phí mà họ đã bỏ ra. Số chênh lệch này được gọi là lợi nhuận ( ký hiệu là p ). Giá trị hàng hoá có thể viết lại thành k + p. Như vậy, dường như lợi nhuận là do tư bản ứng trước sinh ra nhưng thực chất nó chỉ là một hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư mà thôi. Dưới tác động của quy luật cung cầu, giá bán không phải luôn luôn bằng giá trị mà nó dao động xung quanh giá trị, do vậy mà lợi nhuận không phải lúc nào cũng bằng giá trị thặng dư.
Tư bản hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp thuần tuý mặc dầu không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư nhưng vẫn thu được lợi nhuận. Sỡ dĩ tư bản thương nghiệp vẫn thu được lợi nhuận là vì tư bản công nghiệp nhường cho tư bản thương nghiệp một phần giá trị thặng dư tạo ra trong quá trình sản xuất để tư bản thương nghiệp thực hiện giá trị hàng hoá cho tư bản công nghiệp. Do vậy , nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận thương nghiệp cũng tự phía giá trị thặng dư mà thôi.
Như vậy từ sự phân tích của C.Mác về lợi nhuận của sản xuất kinh doanh theo phương thức TBCN có thể nêu lên một số nhận xét :
C.Mác phân tích cấu thành giá trị của một hàng hoá để tìm ra quy luật hình thành lợi nhuận của toàn bộ quá trình kinh doanh tư bản chủ nghĩa.
Chi phí sản xuất là đại lượng thực tế đã chi phí của các chủ doanh nghiệp, còn giá trị hàng hoá tồn tại dưới dạng khả năng . Việc thực hiện giá trị của hàng hoá là giả định để tạo thành đại lượng so sánh được với chi phí thực, còn trên thực tế nó lại phụ thuộc căn bản vào sự vận động của thị trường hàng hoá, các quy luật cung cầu và sự cạnh tranh của các hàng hoá cùng loại đem ra bán.
Chi phí sản xuất được đem tách ra theo tính chất của chúng khi chuyển hoá giá trị vào sản xuất hàng hoá. Việc phân thành chi phí khả biến và chi phí bất biến chủ yếu nhằm xác định yếu tố nào đóng vai trò sản sinh ra giá trị mới lớn hơn giá trị cũ, tức là giá trị thặng dư được tạo ra từ đâu.
Chi phí sản xuất được nghiên cứu dưới hình thức một quan hệ sản xuất(hay mang bản chất của quan hệ sản xuất ), đó là chi phí tư bản chủ nghĩa. Tính chất TBCN thể hiện ở chỗ : Chi phí sản xuất của chủ doanh nghiệp phải được bù đắp và tạo ra lợi nhuận. Chi phí sản xuất che đậy quan hệ bóc lột và nô dịch lao động. Chi phí mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hoá được đo bằng chi phí về tư bản mà tư bản là một quan hệ xã hội, quan hệ bóc lột lao động làm thuê. Vì vậy chi phí sản xuất TBCN cũng mang bản chất quan hệ xã hội.
Lợi nhuận được xem như là một cực độc lập với tiền lương trong cơ chế phân phối thu nhập TBCN. C.Mác viết : Giả sử sức lao động biểu hiện ra dưới hình thái chuyển hoá là tiền công, nên ở cực đối lập, giá trị thặng dư biểu hiện ra dưới hình thức chuyển hoá là lợi nhuận. Trong doanh nghiệp TBCN, để theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, tiền trả cho việc thuê sức lao động có xu hướng giám sút. C.Mác đã tóm tắt như sau : “tiền công và lợi nhuận là tỷ lệ nghịch với nhau “. Giá trị trao đổi của tư bản tức là lợi nhuận tăng lên theo tỷ lệ mà giá trị trao đổi của lao động tức là tiền công giảm xuống và ngược lại. Lợi nhuận tăng lên theo mức độ mà tiền công giảm xuống và giảm xuống theo mức độ tiền công tăng lên”.Và “ lợi nhuận tăng lên không phải vì tiền công đã giảm xuống nhưng tiền công giảm xuống vì lợi nhuận tăng lên “.
Tóm lại, hầu hết các nhà lý luận khi xây dựng học thuyết kinh tế của mình đều cố gắng vạch rõ bản chất , nguồn gốc của lợi nhuận trong nền kinh tế TBCN.
Kết luận :
- Lợi nhuận là một phạm trù kinh tế của nền kinh tế hàng hoá nói chung, một nền kinh tế mà trong quan hệ sản xuất của nó tồn tại dưới hình thức sỡ hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
- Lợi nhuận của sản xuất kinh doanh là một hình thái biểu hiện của giá trị thăng dư, tức là phần giá trị dôi ra ngoài tiền công, do lao động làm thuê tạo ra. Trong nền sản xuất xã hội có sự đối lập giữa chủ doanh nghiệp và người làm thuê. Lợi nhuận biểu hiện mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế giữa chủ và giới nợ, biểu hiện quan hệ bóc lột và nô dịch lao động.
- Trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế hàng hoá có sự chuyển hoá lợi nhuận và hình thành tỷ suất lợi nhuận cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự thay đổi của cấu tạo hữu cơ TBCN, vịêc tăng đầu tư tư bản cố định vào xản xuất, việc thay thê lao động sống bằng hệ thống máy móc làm cho tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm sút.
- Lợi nhuận của sản xuất kinh doanh có quan hệ chặt chẽ với tiền công trả cho việc thuê lao động, với tư cách là một yếu tố của chi phí sản xuất, tiền công có xu hướng vận động ngược chiều với lợi nhuận doanh nghiệp. Khi năng suất lao động tăng lên, lợi nhuận tăng lên nhưng tiền công lại giảm xuống .
3.Các chỉ tiêu phản ánh lợi nhuận :
Tỷ suất lợi nhuận của vốn :
Đây là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận đạt được với số vốn đã chi ra bao gồm các vốn cố định và vốn lưu động.
Công thức :
Tỷ suất lợi Tổng số lợi nhuận
nhuận của vốn =
Tổng vốn sản xuất kinh doanh
Tổng số vốn sản xuất kinh doanh bao gồm vốn cố định và vốn lưu động đã chi ra ( trong đó vốn cố định là nguyên giá tài sản cố định trừ đi số đã khấu hao và vốn lưu động là vốn dữ trữ sản xuất, vốn thành phẩm dở dang, vốn thành phẩm )
Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận của vốn cho thấy hiệu quả sử dụng một đồng vốn sản xuất tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Để nâng cao chỉ tiêu này đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm vốn trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh.
Tỷ suất lợi nhuận của giá thành :
Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận tiêu thụ so với giá thành toàn bọ của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ tiêu thụ.
Công thức :
Tỷ suất lợi nhuận Tổng số lợi nhuận
của giá thành =
Giá thành toàn bộ sản phẩm
hàng hoá dịch vụ tiêu thụ
Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả của một đồng chi phí sử dụng trong việc tao ra lợi nhuận. Điều này cho phép doanh nghiệp tìm biện pháp hạ giá thành để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu bán hàng :
Là một chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, biểu hiện quan hệ giữa tỷ lệ lợi nhuận tiêu thụ và doanh thu bán hàng.
Công thức :
Tổng số lợi nhuận
Tỷ suất doanh lợi =
Tổng doanh thu tiêu thụ
hàng hoá và dịch vụ
Qua công thức cho thấy hiệu quả của một đồng doanh thu thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận theo vốn chủ sở hữu :
Công thức :
Tỷ suất lợi Tổng số lợi nhuận
nhuận của vốn =
chủ sỡ hữu Tổng vốn chủ sỡ hữu
Tỷ suất lợi nhuận theo lao động :
Là so sánh giữa tổng lợi nhuận với số lượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh hoặc với tổng chi phí về tiền lương ( tiền công ) sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Điều này có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp theo các hợp đồng lao động .
Công thức :
Tỷ suất lợi Tổng số lợi nhuận
nhuận theo lao =
động Tổng lao động sử dụng trong kỳ
II. Vai trò của lợi nhuận trong doanh nghiệp xây lắp :
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, lợi nhuận được coi là mọt trong những đòn bẫy kinh tế quan trọng, nó tác động đến tất cả mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp, việc thực hiện được các chỉ tiêu lợi nhuận là điều quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc. Qua đó ta thấy lợi nhuận đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung và đối với sự tồn tại và phát triển của daonh nghiệp nói riêng. Điều đó thể hiện ở các điểm sau :
- Đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân : Lợi nhuận đạt được phản ánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp đối với ngân sách nhà nước , đây là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước tạo ra nguồn tích luỹ để tái sản xuất mở rộng trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bất kỳ nền sản xuất nào đi chăng nữa cũng cần có sự tích luỹ để mở rộng tái sản xuất, nhà nước động viên 30% - 40% lợi nhuận của doanh nghiệp dưới hình thức thuế lợi tức. Qua đó nhà nước có điều kiện tập trung thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng kích thích sản xuất kinh doanh phát triển, xây dựng các công trình phúc lợi nhằm nâng cao đời sống nhân dân, thành lập các đội sản xuất mới giải quyết vấn đề lao động , giảm số lượng thất nghiệp trong xã hội… tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội. Những vấn đề này chỉ có thể thực hiện được khi doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả với doanh lợi ngày càng cao
- Đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp : Lợi nhuận là nguồn tích luỹ quan trọng để bổ sung vốn cố định và vốn lưu động tạo điều kiện để mở rộng sản xuất kinh doanh, bù đắp những thiệt hại rủi ro trong kinh doanh vì có lợi nhuận mới có thể trích lập các quỹ của doanh nghiệp như quỹ đầu tư phát triển sản xuất, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng tài chính mất việc làm , quỹ khen thưởng, phúc lợi… thì các quỹ trên doanh nghiệp mới có thể đáp ứng được các đòi hỏi của việc mở rộng sản xuất kinh doanh như mua sắm thêm máy móc thiết bị, khuyến khích cải tiến đổi mới quy trình công nghệ và cũng chính từ các quỹ này doanh nghiệp không ngừng nâng cao đời sống cán bộ CNV về mọi mặt góp phần kích thích người lao động gắn bó với doanh nghiệp, tận tâm tận lực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Mặt khác, lợi nhuận nhiều hay ít nói lên khả năng tăng trưởng và đầu tư của doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp làm ăn có lợi nhuận nhiều thì khả năng đầu tư và mở rộng sản xuất sẽ cao còn ngược lại doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì thứ nhất không hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước và cũng không có khả năng đầu tư phát triển… Như vậy vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển của một doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung là rất quan trọng và cần thiết. Song trong suốt thời gian trước đây, lợi nhuận – nguồn tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân còn ở mức rất thấp, nguồn tích luỹ chủ yếu tích luỹ từ các nghành kinh tế hầu như không đáng kể, nguyên nhân của thực trạng này là các xí nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh làm ăn chưa có hiệu quả, mà nguyên nhân dẫn tới làm ăn chưa có hiệu quả xuất phát từ :
+ Thứ nhất : Thời gian trước đây chúng ta thường áp dụng quy luật giá trị, xuất phát theo kế hoạch cứng nhắc chứ không theo nhu cầu của thị trường, có giá cả thì mua như “ chớp “ bán như “ cho không “ dẫn đến nhiều xí nghiệp có “ lãi giả, lỗ thật “ . Tình trạng đó đã làm thủ tiêu các động lực phát triển sản xuất. Đó chính là một hậu quả của cơ chế bao cấp trước đây.
+ Thứ hai : Chúng ta chưa có chính sách kinh tế tài chính đúng đắn phù hợp với khả năng và đặc thù của nền kinh té lúc đó. Các doanh nghiệp nhà nứơc đều sản xuất theo kế hoạch nhà nước giao chỉ tiêu, nếu lỗ thì nhà nước cấp bù còn lãi thì nộp ngân sách nhà nước, phần còn lại để khuyến khích xí nghiệp thì không đáng kể.
Xem xét lại vấn đề này ta thấy rằng với các chính sách kinh tế tài chính “ thu đủ, chi đủ “ trên trong khi chúng ta có hàng trăm tỷ đồng hàng hoá tồn kho không tiêu thụ được nhưng các doanh nghiệp vẫn ra sức phấn đấu để hoàn thành vượt mức kế hoạch dẫn đến ngày càng tăng số hàng tồn kho không còn khả năng thu hồi vốn chứ chưa tính đến việc có lãi hay không.
Như vậy, trong cơ chế bao cấp, lợi nhuận chưa thực sự trở thành vấn đề sống còn quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các doanh nghiệp nhà nước phần lớn còn ỷ lại bao cấp của nhà nước cả về vốn, nguồn hàng, nơi tiêu thụ… làm cho doanh nghiệp không chủ động trong sản xuất kinh doanh dẫn đến kinh doanh kém hiệu quả. Từ khi chuyển sang cơ chế mới đến nay, hầu hết các doanh nghiệp nhạy bén trong cơ chế thị trường làm ăn có lãi, không phải không có những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, nhất là doanh nghiệp nhà nước làm ăn còn kém hiệu quả, lợi nhuận chưa nhiều. Tuy nhiên hiện nay ta vẫn khẳng định doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy hơn lúc nào hết DNNN phải nỗ lực phấn đấu làm ăn ngày càng có hiệu quả hơn nữa để tồn tại và phát triển song song với các loại hình doanh nghiệp khác. Tức là phải có lãi, có lợi nhuận, ngày càng nâng cao lợi nhuận theo thời gian.
Bên cạnh đó, đối với người lao động, lợi nhuận là đòn bẫy kinh tế quan trọng kích thích người lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động.
Để quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành một cách liên tục có hiệu quả ngày càng cao, doanh nghiệp phải quan tâm đến người lao động một cách thoả đáng. Nguồn cơ bản để doanh nghiệp thực hiện sự quan tâm của mình đến người lao động đó là lợi nhuận. Lợi nhuận là nguồn tích lập các quỹ khen thưởng, phúc lợi… từ đó doanh nghiệp từng bước giải quyết nhu cầu vật chất và tinh thần cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp nhằm khuyến khích và kích thích người lao động tạo nên động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển mạnh mẽ. Thực tiễn đã chứng minh rằng việc áp dụng tiền thưởng bằng lợi nhuận đã khuyến khích công nhân hăng say lao động,giảm bớt ngày nghỉ, có trách nhiệm đến chất lượng sản phẩm và phát huy tốt nhất sức sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động…
Như vậy, lợi nhuận có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tăng trưởng của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh hay chậm phụ thuộc vào tích luỹ, mà quy mô tích luỹ lại được quyết định bởi quy mô tăng trưởng. Vì vậy, doanh nghiệp muốn tăng trưởng và phát triển thì phải có nhiều lợi nhuận. Nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đạt lợi nhuận cao sẽ đưa nền kinh tế nước ta ngày càng tăng trưởng và phát triển hơn nữa.
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, để phù hợp với giai đoạn phat triển kinh tế mới, nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách tài chính nhằm từng bước cải thiện môi trường kinh doanh, buộc mọi doanh nghiệp thực hiện nguyên tắc hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường lấy thu bù chi và có lãi. Trên thực tế, khi chuyển đổi nền kinh tế, có nhiều doanh nghiệp quốc doanh đã rất năng động, linh hoạt kịp thời thích nghi với điều kiện kinh doanh mới . Các doanh nghiệp này luôn luôn quan tâm đến việc tìm kiếm lợi nhuận siêu ngạch, lấy lợi nhuận làm mục tiêu phấn đấu. Kết quả là các doanh nghiệp này đã phát triển mạnh, đứng vững trên thị trường cạnh tranh gay gắt. Nhưng bên cạnh đó cũng không ít doanh nghiệp nhà nước còn rất lúng túng trong việc tháo gỡ khó khăn, khó thích nghi với cơ chế thị trường. Hậu quả của phong cách kinh doanh cũ, tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước đã làm cho các doanh nghiệp này làm ăn kém hiệu quả , lợi nhuận thu được ít , thậm chí còn thua lỗ dẫn đến phải ngừng sản xuất kinh doanh, giải thể doanh nghiệp. Điều đó đã dẫn đến nhiều khó khăn cho xã hội : Công nhân bị thất nghiệp, đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn, nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội phức tạp , nguy hiểm…
Như vậy, trong điều kiện hiện nay, đối với doanh nghiệp nhà nước vấn đề lợi nhuận không chỉ là mục tiêu hàng đầu mà còn là điều kiện quyết định sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận trong doanh nghiệp xây lắp
1.Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất công nghiệp nhằm tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế quốc dân. Do vậy nguồn vốn sử dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng thu nhập quốc dân và vốn đầu tư tài trợ từ nước ngoài .
Đối với ngành xây dựng cơ bản, những đặc thù riêng về kinh tế kỹ thuật thể hiện rất rõ ở quá trình tạo ra sản phẩm xây lắp .Đặc thù trong xây dựng cơ bản là :
Sản phẩm xây lắp là những công trình ,vật kiến trúc… có quy mô lớn, kết cấu phức tạp mang tính chất đơn chiếc, thời gian sản xuất kéo dài qua nhiều kỳ kinh doanh. Do vậy, việc tổ chức quản lý nhất thiết phải có dự toán thiết kế thi công. Mỗi một công trình xây dựng cơ bản gắn liền với một vị trí địa lý nhất định, nó thường cố định tại nơi thi công và trở thành nơi sử dụng tài sản cố định sau này.Các điều kiện sản xuất cơ bản như lao động vật tư, thiết bị luôn phải phải di chuyển theo mặt bằng và vị trí thi công. Mặt khác hoạt động xây dựng cơ bản lại tiến hành ngoài trời chịu nhiều ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu, thiên nhiên dễ dẫn đến tình trạng hao hụt, mất mát, lãng phí vật tư làm tăng thiệt hại và dẫn đến tăng tổng chi phí sản xuất.
Phương thức tiêu thụ sản phẩm rất đặc biệt, sản phẩm hoàn thành không nhập kho mà được tiêu thụ ngay theo giá dự toán hoặc gía thoả thuận với chủ đầu tư từ trước. Do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm thể hiện không rõ và thị trường tác động đến sản phẩm xây lắp qua yếu tố gía cả là rất hạn chế .Điều này đòi hỏi những người lập dự toán phải hết sức thận trọng và phải dự tính trứơc được những khoản chi phí sẽ phát sinh trong tương lai, trong đó có chứa yếu tố thị trường.
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất xây lắp có thể là các hạng mục công trình, đơn đặt hàng, giai đoạn công việc hoàn thành. Vì vậy phải tiến hành lập dự toán chi phí và tính giá thành theo từng đối tượng. Về cơ bản việc hạch toán các thành phần kế toán như tài sản cố định, công cụ, chi phí nhân công… trong doanh nghiệp kinh doanh xây dựng cơ bản cũng tương tự như doanh nghiệp công nghiệp.Tuy nhiên, do đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý xây dựng cơ bản mà nội dung của chi phí kinh doanh tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm có một số khác biệt. Cụ thể là : Gía thành lắp đặt không bao gồm giá trị thiết bị do đơn vị chủ đầu tư bàn giao. Gía thành công tác xây dựng và lắp đặt vật kết cấu bao gồm gía trị vật kết cấu và giá trị thiết bị kèm theo như thiết bị vệ sinh, thông gió , thiết bị sưởi ấm, điều hoà nhiệt độ…
2.Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận trong doanh nghiệp xây lắp
Trong nền kinh tế thị trường, nội dung hoạt động sản xuất kinh doanh rất phong phú, đa dạng do vậy có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận thành nhiều tiêu thức khác nhau. Song để đánh giá một cách chính xác nhất các nhà phân tích thường phân tích các nhân tố theo nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan
2.1. Các nhân tố khách quan ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp xây lắp :
- Sự thay đổi về điều kiện địa lý, điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận : Trong nhiều trường hợp do điều kiện khí hậu , thời tiết bất lợi : mưa, lũ lụt, nắng hạn kéo dài... ảnh hưởng lớn đến kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp nhiều khi kế hoạch kinh doanh bị huỷ bỏ. Mặt khác, nếu điều kiện địa lý phức tạp : Đường xá xa xôi, khó đi, quá trình vận chuyển khó khăn thì doanh nghiệp sẽ gặp nhiều rủi ro từ đó lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bị giảm đi và ngược lại.
- Sự thay đổi chế độ, chính sách nhà nước cũng ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp : khi nhà nước ban hành các thông tư, chỉ thị quyết định mới, thay đổi sắc thuế…đều có tác động lớn đến doanh nghiệp. Nhiều khi doanh nghiệp phải thay đổi kế hoạch kinh doanh, phương thức kinh doanh, ngành hàng, nguồn hàng kinh doanh mà việc thay đổi lại không đơn giản và dễ dàng chút nào. Do vậy doanh nghiệp cần phải năng động, nhạy bén, linh hoạt trong kinh doanh, xây dựng kế hoạch, chiến lược kinh doanh thích hợp để thu lợi nhuận.
- Sự thay đổi sở thích, thị hiếu người tiêu dùng dẫn đến thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn do vậy nếu doanh nghiệp không xây dựng kế hoạch, chiến lược kinh doanh, tìm kiếm thị trường tiêu thụ thích hợp thì doanh nghiệp sẽ không thu được lợi nhuận và doanh nghiệp có thể bị._. phá sản.
- Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Do có sự tiến bộ của khoa học kỹ thuât, các dây truyền công nghệ, cơ sở vật chất của doanh nghiệp trở nên lạc hậu, lỗi thời do đó các sản phẩm mà doanh nghiệp cung ứng ra thị trường rất khó được người tiêu dùng chấp nhận. Chính vì vậy doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ, xem xét kỹ lưỡng đầy đủ khi đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật để sao cho phù hợp và tối ưu đối với doanh nghiệp nhất.
2.2. Nhân tố chủ quan :
2.2.1.Tài sản của doanh nghiệp : Đối với mỗi doanh nghiệp, tài sản là yếu tố quan trọng hàng đầu trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản là điều kiện vật chất không thể thiếu, doanh nghiệp không thể có lợi nhuận nếu thiếu tài sản. Vì vậy, việc tăng tài sản, mở rộng khai thác thêm nguồn vốn, tăng nhanh vòng quay của vốn là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao lợi nhuận và ngược lại.
2.2.2.Nhân tố ảnh đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm :
Thứ nhất : Khối lượng sản phẩm hàng hoá đưa ra tiêu thụ :
Đây là nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ, từ đó ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận. Tuy nhiên nếu khối lượng sản phẩm đưa ra càng nhiều thì khả năng doanh thu càng lớn, nhưng chỉ mới là khả năng. Vấn đề là phải phù hợp với thị hiếu, hấp dẫn thị hiếu người tiêu dùng. Nếu khối lượng đưa ra quá lớn thì dù sản phẩm đưa ra có hấp dẫn,giá cả có hợp lý nhưng sức mua có hàn do vậy không thể tiêu thụ hết được. Ngược lại nếu đưa xản phẩm ra thị trường một khối lượng sản phẩm nhỏ hơn nhu cầu thị trường thì tất yếu doanh thu sẽ giảm. Mặt khác bộ phận khách hàng không được đáp ứng nhu cầu sẽ phải tìm đến những sản phẩm cùng loại trên thị trường của doanh nghiệp khác. Như vậy doanh nghiệp sẽ mất đi một bộ phận khách hàng. Trong những kì kinh doanh tiếp theo doanh nghiệp có số sản phẩm cung ứng cho thị trường cũng chưa chắc đã thu hút được bộ phận khách hàng đó trở lại. Do đó doanh nghiệp cần phải đánh giá đúng nhu cầu thị trườngvà khả năng sản xuất của mình để đưa ra thị trường khối lượng sản phẩm thích hợp, nhằm đảm bảo doanh thu tiêu thụ, tối đa hoá lợi nhuận cho doanh nghiệp mình.
Thứ hai : Chất lượng sản phẩm tiêu thụ :
Ngày nay, xã hội đã phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến chất lượng sản phẩm.Những doanh nghiệp đầu tư trang thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại nhằm cải tiến sản phẩm sẽ có khả năng tăng giá cao từ đó thu được nhiều lợi nhuận. Bên cạnh đó, những sản phẩm đảm bảo chất lượng mà giảm giá bán một cách hợp lý sẽ tiêu thụ nhanh chóng và cũng sẽ tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Có thể nói, nâng cao chất lượng sản phẩm là biện pháp thiết thực để tăng giá bán sản phâmả, tăng khối lượng sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ, tạo điều kiện tiêu thụ nhanh và thuận lợi trong công tác thanh toán tiền hàng, trên cơ sở đó doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp được tăng lên.
Thứ ba : Kết cấu mặt hàng tiêu thụ :
Hiện nay, để nâng cao hiệu quả kinh tế, tránh rủi ro trong kinh doanh. Doanh nghiệp thường đưa ra nhiều loại ản phẩm khác nhau, đáp ứng những thị hiếu tiêu dùng khác nhau, do đó nếu tăng tỷ trọng của mặt hàng có giá cao, giảm tỷ trọng mặt hàng có giá thấp làm tăng doanh thu tiêu thụ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng đảm bảo kế hoạch sản xuất kinh doanh những mặt hàng mà doanh nghiệp đã kí hợp đồng sản xuất, tránh vì chạy theo lợi nhuận mà thay đổi kết cấu mặt hàng, làm tổn hại đến lợi ích của bạn hàng, làm tổn hại đến lợi ích bạn hàng. Việc ngiên cứu nhân tố này giúp doanh nghiệp lựa chọn được kết cấu mặt hàng hợp lý, tối ưu khi quyết định phương hướng sản xuất kinh doanh ở đầu kỳ.
Thứ tư : Giá bán sản phẩm :
Về nguyên tắc giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá và giá cả xoay quanh giá trị hàng hoá. Với cơ chế thị trường hiện nay, giá cả hình thành tự phát dựa trên cơ sở người mua và người bán do đó doanh nghiệp có thể hoàn toàn sử dụng giá cả như một công cụ sắc bén để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm từ đó tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Đối với những thị trường mà sức mua có hạn thì giá cả có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong tiêu thụ sản phẩm, với mức giá chỉ thấp hơn một chút đã có thể thu hút được đông đảo người mua. Nhưng với mức giá chỉ cao lên một chút đã làm giảm đi sức mua rất nhiều. Điều này có thể thấy được ở thị trường nông thôn, miền núi nơi có sức mua thấp hay nói rộng hơn tương lai thị trường của những của những nước chậm phát triển.
Như vậy, với chính sách giá cả của doanh nghiệp có thể đẩy mạnh hay hạn chế tiêu thụ sản phẩm. Từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Thứ năm : Thị trường tiêu thụ :
Khi thị trường ổn định thì sản phẩm được tiêu thụ bình thường, nhưng khi cung hoặc cầu về sản phẩm trên thị trường thay đổi nó sẽ làm cho giá cả biến động, khi đó khối lượng sản phẩm tiêu thụ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Ngoài ra, việc tổ chức công tác kiểm tra tình hình chấp hành những điều khoản về thanh toán cũng ảnh hưởng đến doanh thu tiêu thụ, doanh nghiệp cần có những biện pháp tăng cường thu hồi, quay vòng vốn nâng cao khả năng sinh lời vốn đầu tư.
2.2.3.Giá thành toàn bộ :
Giá thành toàn bộ bao gồm giá thành sản xuất, chi phí bán hàng , chi phí quản lý doanh nghiệp. Khi giá thành tăng thì lợi nhuận doanh nghiệp giảm và ngược lại. Do đó, việc đưa ra các biện pháp làm giảm giá thành có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Chi phí vật liệu trực tiếp : Khoản mục vật liệu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ cũng như từng loại sản phẩm, do đó ảnh hưởng lớn đến giá thành sản phẩm từ đó tác động lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Khoản mục này lại chịu ảnh hưởng của mức tiêu hao vật liệu, giá mua vật liệu, phế liệu thu hồi và sử dụng vật liệu thay thế. Cần phải xem xét mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến khoản chi vật liệu để có biện pháp quản lý cần thiết nhằm tiết kiệm chi phí vật liệu trong giá thành sản phẩm.
- Chi phí tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất :
Các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật chưa cao, nên khoản mục tiền lương của công nhân trực tiếp còn chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá thành sản phẩm. Do đó muốn hạ thấp giá thành thì phải giảm chi phí tiền lương trên một đơn vị sản phẩm. Tuy nhiên việc hạ thấp tiền lương phải hợp lý bởi tiền lương là một hình thức thù lao trả cho người lao động, thù lao hợp lý sẽ kích thích người lao động hăng say với công việc. Tỷ suất tiền lương chỉ được haj thấp trong điều kiện tốc độ tăng của sản phẩm nhanh hơn tốc độ tăng của quỹ tiền lương. Điều đó khẳng định quy luật tốc độ tăng năng suất lao động phải nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân là một nhu cầu khách quan.
- Chi phí về quản lý sản xuất kinh doanh ( gồm chi phí sản xuất chung và chi phí quản lý doanh nghiệp ) :
Quản lý sản xuất kinh doanh gồm hai mặt : Tổ chức quản lý hành chính và tổ chức hành chính . Nếu người lãnh đạo tổ chức được một hệ thống quản lý khoa học, cắt giảm hợp lý lao động, tổ chức bộ máy nhân viên gọn nhẹ, tăng hiệu suất công tác sẽ giảm được chi phí quản lý, góp phần giảm giá thành tăng lợi nhuận.
Còn trong công tác tổ chức hành chính , yêu cầu phải đảm bảo tiền vốn vật liệu hợp lý, kịp thời , đầy đủ. Nếu ở bất cứ khâu nào đó của quá trình sản xuất kinh doanh, nhu cầu về vốn không đáp ứng đầy đủ, kịp thời hoặc có sự dư thừa về vốn thì sẽ xảy ra tình trạng sản xuất ngưng trệ hoặc ứ đọng vốn, cả hai trường hợp đều làm phát sinh chi phí ngoài dự kiến dẫn đến tăng giá thành sản phẩm tiêu thụ.
- Chi phí bán hàng :
Chi phí bán hàng là chi phí lưu thông và chi phí tiếp thị phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, nó đảm bảo quá trình tiêu thụ sản phẩm được nhanh chóng. Doanh nghiệp phải chú ý cắt giảm chi phí này mà không ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ và uy tín của doanh nghiệp.
2.2.4. Người lao động :
Nhân tố này có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Số lượng, trình độ và ý thức của người lao động luôn là vấn đề doanh nghiệp cần phải quan tâm. Doanh nghiệp phải trả lương cho người lao động khi thuê họ làm việc, chi phí này càng cao thì lợi nhuận càng giảm và ngược lại. Tuy nhiên doanh nghiệp cũng phải tiết kiệm một cách hợp lý chi phí này ( trả lương theo năng lực, trình độ ) . Trình độ và ý thức phục vụ của người lao động có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi trình độ của người lao động cao, ý thức phục vụ tốt thì chắc chắn làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên và ngược lại. Do đó , việc tuyển chọn lao động, bố trí lao động hợp lý luôn là vấn đề mà mọi doanh nghiệp đều phải quan tâm.
2.2.5 Biện pháp điều hành, quản lý, chỉ đạo của ban lãnh đạo, phương hướng, chiến lược, mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp đều ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận. Muc tiêu cuối cùng của mọi doanh nghiệp là lợi nhuận, nếu ban lãnh đạo của doanh nghiệp năng động, nhạy bén , có trình độ hiểu biết sâu rộng, quan tâm đến người lao động thì lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên và ngược lại. Việc đề ra chiến lược, kế hoạch, mục tiêu kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ có thích hợp hay không đều ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp, làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp cao hay thấp.
Chương ii: Tình hình thực hiện lợi nhuận tại công ty công trình giao thông 208
I. Khái quát chung về hoạt động kinh doanh của công ty
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty :
Công ty Công trình Giao thông 208 là doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập trực thuộc Tổng Công ty Công trình Giao thông 4 - Bộ Giao thông Vận tải. Tiền thân của Công ty là trạm quản lý quốc lộ Hà Nội thuộc Sở Giao thông Vận tải, được thành lập năm 1965. Nhiệm vụ chính của trạm là đảm bảo giao thông thông suốt tất cả các cửa ngõ trong Thủ đô Hà Nội mà lúc đó chủ yếu là các bến phà, cầu phao.
Năm 1971, Công ty thuộc Cục Quản lý đường bộ Việt Nam và đổi tên là Xí nghiệp Quản lý Sửa chữa Giao thông Trung ương 208. Nhiệm vụ chính của Xí nghiệp là đảm bảo giao thông thông suốt khu vực Hà Nội và ứng cứu đảm bảo giao thông trên phạm vi toàn quốc khi có lịch điều động. Ngoài ra, Xí nghiệp còn quản lý một số lượng lớn các thiết bị giao thông phục vụ cho quốc phòng và chỉ Xí nghiệp này mới được giao nhiệm vụ đó. Xí nghiệp cũng có nhiệm vụ duy tu và bảo dưỡng 125 Km quốc lộ từ Hà Nội đến dốc xây Thanh Hóa.
Năm 1992, Xí nghiệp đổi tên thành phân khu quản lý đường bộ 208 thuộc khu quản lý đường bộ 2. Nhiệm vụ là bảo dưỡng các thiết bị giao phà, ứng cứu đảm bảo giao thông trên toàn quốc khi có lệnh, tiến hành xây dựng các công trình cơ bản nhỏ. Đại tu sửa chữa các cầu đường bộ, rải thảm bê tông atphal, sửa chữa và làm mới một số cầu và đường ở các tỉnh phía Bắc, xây dựng các công trình dân dụng.
Tháng 7/1992, phân khu quản lý đường bộ 208 tách làm đôi, một nửa thành lập phân khu quản lý đường bộ 234 trực thuộc khu quản lý đường bộ 2, còn lại một nửa trực thuộc Cục Đường bộ Việt Nam có tên là Công ty Sửa chữa Công trình Giao thông 208.
Từ năm 1995 trở lại đây, Công ty Sửa chữa Công trình Giao thông 208 được đổi tên thành Công ty Công trình Giao thông 208, trực thuộc Tổng Công ty Công trình Giao thông 4. Nhiệm vụ của Công ty lúc này là đại tu, làm mới nâng cấp và mở rộng đường bộ, xây dựng cầu bê tông cốt thép. Sản xuất và rải thảm atphal, lắp ráp các cầu phao khi xảy ra bão lụt, phạm vi hoạt động của Công ty trên toàn quốc và cả nước ngoài, thông qua đấu thầu dự án.
Nguồn vốn kinh doanh của Công ty là: 5.843.068.057 đồng.
Trong đó:
- Vốn do Ngân sách cấp : 1.623.766.038 đồng
- Vốn tự bổ sung : 4.209.302.019 đồng.
Năm 1992, hoàn thiện việc tách Công ty thành 1 Công ty kinh doanh và một Công ty quản lý nên Công ty Công trình Giao thông 208 là Công ty sản xuất đã gặp nhiều khó khăn trong việc tìm việc làm. Việc làm chủ yếu của Công ty lúc này được Tổng Công ty giao là chính, trong đó cơ chế đấu thầu mới ra đời nên quản lý không chặt chẽ. Năm 1998, Công ty giải quyết được 80% việc làm cho công nhân, năm 1999 Công ty thắng thầu và được Tổng Công ty giao nên đã giải quyết được 90% việc làm và đến năm 2000 đã lo đầy đủ được 100% việc làm cho CBCNV.
Tổng số CBCNV của Công ty: Năm 2001 : 332 người
Năm 2002 : 355 người
Dưới đây là kết quả hoạt động SXKD của Công ty năm 2001 - 2002.
Đơn vị : triệu đồng .
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
1. Tổng
doanh thu
42.700
53.576
2. Nộp Ngân sách
2.135
2.678,8
3. Lợi nhuận
488
749
2. Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh.
Công ty công trình giao thông 208 tổ chức hoạt động với một số các nghành nghề sản xuất kinh doanh trong đó chủ yếu là xây dựng mới đường bộ , cầu bê tông cốt thép , rải thảm bê tông atphal . Với đặc điểm riêng của sản phẩm xây dựng , nó tác động trực tiếp lên công tác tổ chức quản lý . Quy mô công trình giao thông thường là rất lớn , sản phẩm mang tính đơn chiếc , thời gian sản xuất kéo dài , chủng loại yếu tố đầu vào đa dạng và đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư lớn .
Để đảm bảo sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này , một yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp xây lắp là phải xây dựng được giá dự toán cho từng công trình (dự toán thiết kế và dự toán thi công ) . Trong quá trình sản xuất , thi công , giá dự toán trở thành thước đo và được so sánh với các khoản chi phí thực tế phát sinh . Sau này khi công trình hoàn thành , giá dự toán lại là cơ sở nghiệm thu , kiểm tra chất lượng công trình , xác định giá thành quyết toán và thanh lý hợp đồng đã ký kết .
Bên cạnh sự ảnh hưởng của đặc điểm sản phẩm xây dựng thì việc tổ chức quản lý sản xuất , hạch toán các yếu tố đầu vào còn chịu ảnh hưởng của quy trình công nghệ . ở công ty hiện nay gôm có 3 quy trình công nghệ chính là : Làm đường mới , vá đường và rải thảm đường bê tông atphal . Có thể khái quát quy trình công nghệ của công ty qua 3 sơ đồ sau :
+Dây chuyền làm đường mới :
Đào khuôn đường Trồng đá hộc Rải đá 4x6
Lu nèn Rải đá 1x2 Tưới nhựa nhũ tương 2 lớp .
+Vá sửa đường :
Vệ sinh mặt đường Cuốc sửa vuông chỗ vá Rải đá 2x4 Lu nèn rải đá 1x2 Tưới nhựa nhũ tương 2 lớp .
+ Rải thảm bê tông đường atphal :
Vệ sinh mặt đường Bổ lỗ châm chim Tưới nhựa dính bám Rải nhựa bê tông atphal Lu bánh lốp Lu nặng 10 tấn Đập mép đường
Trên cơ sở nắm chắc quy trình công nghệ của quá trình thi công sẽ giúp cho việc tổ chức quản lý và hạch toán các yếu tố chi phí đầu vào hợp lý, theo dõi từng bước quá trình tập hợp chi phí sản xuất đến giai đoạn cuối cùng . Từ đó góp phần làm giảm chi phí sản xuất một cách đáng kể , nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty . Với tư cách pháp nhân của mình , công ty có thể đứng ra vay vốn , thay mặt các xí nghiệp sản xuất đứng ra ký kết các hợp đồng cũng như tham gia đấu thầu tìm việc làm cho đơn vị .Trên cơ sở các hợp đồng kinh tế , công ty tiến hành giao khoán và điều hành sản xuất các đơn vị thành viên là : xí nghiệp thi công cơ giới , xí nghiệp công trình giao thông I,II,III . Đội 281 , 282 , 283 ,284, trạm bê tông Phú Viên , trạm bê tông Phủ Lý , trạm bê tông Văn Lâm .
Bên cạnh các xí nghiệp trên , trạm sản xuất nhựa bê tông atphal hoạt động lại mang tính chất của một nghành sản xuất để tạo ra sản phẩm chuyên phục vụ cho công tác rải nhựa và nâng cấp đường .
Sơ đồ tổ chức hoạt động sản xuất – kinh doanh .
Công ty
XN công trình giao thông I.
XN công trình giao thông II
XN công trình giao thông III
XN thi công cơ giới
Đội 281
Đội 282
Đội 283
Đội 284
Để duy trì tốt bộ máy sản xuất , công ty đã xây dựng và hoạt động theo cơ chế điều hành sản xuất kinh doanh cuả mình .
Kế hoạch sản xuất mang tính pháp lệnh , các phòng ban bằng các nỗ lực chủ quan phải chấp hành nghiêm túc , tổ chức thực hiện đem lại hiệu quả cao nhất . Kế hoạch sản xuất mang các nội dung : nhiêm vụ công trình, khối lượng công việc , chất lượng sản phẩm , tiến độ hoàn thành bàn giao .
Giá trị sản lượng và kinh phí cho từng công trình chia theo giai đoạn hoàn thành . Mọi hợp đồng kinh tế với các chủ đầu tư , các cơ quan trong và ngoài nghành đều do giám đốc trực tiếp ký kết , không uỷ quyền cho các xí nghiệp thành viên ký kết và tổ chức thực hiện . Tuy nhiên , bản hợp đồng đã ký phải nộp về phòng kinh doanh và tài vụ của công ty để công ty theo dõi .
Công ty giao kế hoạch kèm theo các điều kiện đảm bảo thực thi kịp thời : hồ sơ , mặt bằng , tiền vốn (theo từng giai đoạn nếu công trình kéo dài). Các xí nghiệp chịu trách nhiệm thực hiện , huy động nhân lực , vật tư thiết bị đưa vào sản xuất , chịu trách nhiệm về chất lượng công trình , giá thành xây dựng cũng an toàn trong sản xuất , phải giao nộp sản phẩm theo đúng kế hoạch ấn định được giao. Công ty theo dõi , giám sát hướng dẫn , tập hợp và lập hồ sơ để thanh toán dứt điểm đối với xí nghiệp đồng thời bàn giao ngay công trình cho chủ đầu tư . Khi giao việc làm cho các xí nghiệp , công ty có các hình thức khoán sau đây : khoán gọn công trình , khoán theo dự toán , khoán nhân công thiết bị . Nguyên tắc của khoán là đảm bảo chất lượng , tiến độ động viên công nhân viên hăng hái trong lao động sản xuất .
Tỷ lệ công ty thu theo từng loại công trình : từ 5% đến 20% của doanh thu .
+ Đối với công trình chọn thầu , chỉ định thầu , công ty tìm kiếm thi thu tối đa 20% .
+ Đối với công trình đấu thầu : tuỳ theo tình hình cụ thể , giám đốc công ty quyết định mức thu hợp lý nhưng không thấp hơn 8% .
+ Công trình do cá nhân , hoặc xí nghiệp tìm kiếm để công ty ký kết hợp đồng để giao lại cho cá nhân hoặc đơn vị chịu trách nhiệm thi công và giao nộp sản phẩm cho bên A thì công ty thu 5% ( không kể các khoản thuế ) .
Chi phí tại công ty bao gồm chi phí cho bộ máy quản lý của công ty, nộp thuế giá trị gia tăng , lợi tức , tiền thuê sử dụng vốn, phân phối lợi nhuận, các quỹ doanh nghiệp . Đảm bảo tích luỹ chung và các hoạt động xã hội khác. Các khoản chi BHYT , BHXH , KPCĐ , bảo hộ lao động tiện sẽ tập trung tại văn phòng công ty và phân bổ cho các xí nghiệp khi thanh toán nội bộ hàng năm .
Tại các xí nghiệp được hưởng từ 80% đến 90% doanh thu thì chi phí dùng để trả cho giá thành công trình như : nhân công , nguyên nhiên vật liệu , chi phí cho máy hoạt động quản lý xí nghiệp , trả lãi vốn vay và mọi quyền lợi của người lao động .Đối với công trình bàn giao kế hoạch , xí nghiệp phải có trách nhiệm cho đến khi có biên bản phúc tra và chịu trách nhiệm bảo hành theo quy định . Đối với công trình do xí nghiệp tự tìm kiếm thì xí nghiệp phải chịu trách nhiệm hoàn toàn .
Về vốn ứng cho sản xuất , công ty căn cứ vào bảng tổng hợp khối lượng, tiến độ thi công , trên cơ sở có xác nhận của các phòng chức năng để cho vay vốn trên nguyên tắc : ứng kỳ sau phải nộp chứng từ chi tiêu kỳ trước và
công ty không để bất cứ công trình nào ứng quá giá trị về vật tư , tiền lương… hoặc không quá 80% giá trị thực hiện .
Các xí nghiệp phải căn cứ vào tiến độ sản xuất và nhu cầu xí nghiệp , cân đối khả năng vay ứng của công ty để chuẩn bị vốn sản xuất như : Hợp đồng mua, bán, thuê mướn, các hoá đơn xuất hàng , các chứng từ hợp pháp khác ...
3 - Đặc điểm bộ máy quản lý .
Cũng như các doanh nghiệp xây dựng cơ bản khác, bộ máy quản lý của công ty công trình giao thông 208 chịu ảnh hưởng rất lớn của đặc điểm ngành xây dựng cơ bản khác .
Mô hình tổ chức bộ máy sản xuất , tổ chức bộ máy quản lý của công ty được tổ chức theo hình thức trực tuyến chức năng : từ công ty đến xí nghiệp , đội sản xuất , tổ sản xuất đến người lao động theo tuyến kết hợp với các phòng ban chức năng .
Đứng đầu công ty là giám đốc công ty giữ vai trò lãnh đạo chung toàn công ty, là đại diện pháp nhân của công ty trước pháp luật , đại diện cho quyền lợi của công nhân viên toàn công ty và chịu trach nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty . Giúp việc cho giám đốc là các phó giám đốc .
Các phòng ban chức năng bao gồm : Phòng tài chính – kế toán , phòng tổ chức hành chính , phòng kế hoạch , phòng kỹ thuật - vật tư .
+ Phòng tổ chức hành chính : Giải quyết mọi công việc có liên quan đến tổ chức nhân sự , tiền lương và công tác văn phòng trong công ty như : Tổ chức sản xuất quản lý hồ sơ cán bộ , chính sách lao động tiền lương , lập phương án trang thiết bị sửa chữa nhà cửa , tài sản phục vụ cho hoạt động chung toàn công ty .
+ Phòng tài chính – kế toán : Có nhiệm vụ tổ chức và thực hiện công tác hạch toán của công ty theo yêu cầu , chế độ kế toán nhà nước , theo dõi hạch toán các khoản chi phí phát sinh , kiểm tra giám sát xem các khoản chi phí đã hợp lý chưa , từ đó giúp giám đốc đưa ra các biện pháp khắc phục .Đồng thời phòng kế toán cũng phải chịu trách nhiệm lo thanh toán vốn , đảm bảo cho công ty có vốn liên tuc hoạt động .
+ Phòng kỹ thuật – vật tư : công ty không tổ chức kho vật tư và vật tư sử dụng do các xí nghiệp thành viên , các đội sản xuất tự đi mua lấy nên phòng kỹ thuật - vật tư của công ty không phải trực tiếp mua vật tư mà chỉ tìm kiếm các nguồn vật tư ổn định , rẻ nhất giúp các xí nghiệp tìm nguồn vật tư .
+ Phòng kỹ thuật :có nhiệm vụ vẽ thiết kế và giám sát thi công đối với các đội sản xuất trên các mặt :tiến độ thi công, định mức tiêu hao, vật tư công trình, nghiệm thu công trình ... Bên cạnh đó phòng kỹ thuật – vật tư cùng phối hợp với các phòng ban khác lập dự toán công trình giúp công ty tham gia đấu thầu và giám sát thi công sau này.
+ Phòng kế hoạch : có nhiệm vụ tìm hiểu thị trường , khai thác hợp đồng nhận thầu , lập các hợp đồng kinh tế , lập và kiểm tra kế hoạch sản xuất kinh doanh của toàn công ty , lập kế hoạch thực hiện các hợp đồng nhận thầu , tổ chức điều đội sản xuất , tổ chức thanh toán công trình .
Do các công trình có địa điểm thi công khác nhau nên lực lượng lao động của công ty được tổ chức thành các xí nghiệp sản xuất , các đội công trình và dưới đó lại tổ chức sản xuất theo yêu cầu của thi công ở mỗi xí nghiệp hoặc mỗi đội công trình thì có giám đốc hoặc đội trưởng và các nhân viên kinh tế kỹ thuật chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp về kinh tế , kỹ thuật . Phụ trách các tổ sản xuất là các tổ trưởng .
Cách tổ chức lao động , tổ chức sản xuất như trên tạo điều kiện thuận lợi cho công ty quản lý chặt chẽ về mặt kinh tế kỹ thuật tới từng đội công trình, từng đội sản xuất , đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để công ty có thể ký kết hợp đồng làm khoán với từng đội công trình , từng tổ sản xuất .
Sơ đồ bộ máy quản lý của công ty :
Ban giám đốc
Phòng tổ chức hành chính
Phòng kế hoạch
Phòng kỹ thuật vật tư
Phòng tài chính kế toán
XN thi công cơ giới
XN công trình GT
I
XN công trình GT II
XN công trình GT III
Đội 281
Đội 282
Đội 283
Đội 284
II. Tình hình thực hiện lợi nhuận tại công ty công trình giao thông 208 :
1.Phương pháp xác định lợi nhuận của công ty
Cũng như các doanh nghiệp khác , tại công ty CTGT 208 để xác định được lợi nhuận của công ty cần phải xác định được doanh thu bán hàng, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, giá vốn hàng bán, các khoản giảm trừ và thuế phát sinh trong kì. Đồng thời công ty còn phải xác định thu nhập, chi phí hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính bất thường để xác định lợi nhuận từ những hoạt động này .
Lợi nhuận của công ty được xác định theo từng tháng, sau đó cộng lợi nhuận ba tháng trong quý để tính lợi nhuận của quý . Lợi nhuận năm được tính dồn của bốn quý trong năm.
Lợi nhuận chung của doanh nghiệp trong kỳ được xác định như sau :
Tổng lợi nhuận = Lợi nhuận + Lợi nhuận + Lợi nhuận
Của DN HĐSXKD HĐTC HĐBT
1.1. Phương pháp xác định lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
1.1.1Phương pháp xác định doanh thu :
Doanh thu tại công ty CTGT 208 được xác định theo giai đoạn quy ước tức là công trình khi có biên bản nghiệm thu kỹ thuật giữa A và B thì lúc đó khối lượng hoàn thành đó được coi là tiêu thụ hoặc công trình đã được quyết toán.
Tổng doanh thu của công ty được xác định dựa trên cơ sở doanh thu của từng loại hoạt động mà công ty đang tiến hành . Hiện tại công ty có các khoản doanh thu từ các hoạt động sau :
Doanh thu từ xây lắp
Doanh thu từ cơ khí , sữa chữa
Doanh thu từ các dịch vụ khác
Trong ba loại hoạt động kinh doanh trên thì hoạt động kinh doanh xây lắp là chủ yếu còn hai hoạt động còn lại chỉ là phụ.
1.1.2 Phương pháp xác định giá vốn hàng bán :
Tại công ty CTGT 208, giá vốn hàng bán được xác định theo phương pháp tổng cộng chi phí, tức là toàn bộ những chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra phục vụ cho công trình đó.
Những chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra phục vụ cho công trình đó bao gồm : Chi phí vật liệu, chi phí nhân công , chi phí máy , chi phí sản xuất chung.
Trong đó :
- Chi phí vật liệu : Căn cứ vào bảng kê xuất vật liệu cho công trình nào thì ghi đích thị cho công ty đó vì đối tượng tính giá thành là công trình ( nhìn thấy được )
- Chi phí nhân công : Căn cứ vào bảng khoán nhân công trực tiếp của từng công trình nào thì ghi tiền lương trực tiếp cho công trình đó.
- Chi phí máy : Toàn bộ phần chi phí máy đều căn cứ vào những chứng từ xuất vật liệu ( Xăng, dầu, mỡ ) cho máy nào phục vụ cho công trình nào thì ghi trực tiếp cho công trình đó, còn lại những máy phục vụ chon nhiều công trình cùng một lúc thì phân bổ theo ca máy hoạt động.
Ca máy hoạt động thì lại căn cứ vào sổ vận hành của máy theo từng ca hoạt động. Cuối tháng tổng hợp giờ máy chạy sau đó căn cứ vào chi phí phục vụ cho máy thi công để phân bổ cho từng công trình.
Công thức :
Chi phí máy thi công Tổng chi phí cho máy giờ máy chạy
Phân bổ cho từng = x Công trình Tổng số giờ máy chạy cá biệt
- Chi phí sản xuất chung : căn cứ vào khối lượng xây lắp dã thực hiện trong kỳ ( giá trị sản lượng thực hiện )
Chi phí SXC Tổng chi phí SXC giá trị sản
Phân bổ cho = x lương thực
Từng công trình Giá trị sản lượng thực hiện hiện cá biệt
Những chi phí này đã được loại trừ :
+ Đối với chi phí vật liệu : đã trừ phần vật liệu đã thu hồi làm giảm giá thành.
+ Đối với chi phí nhân công : ( bao gồm nhân công thuê ngoài và nhân công trong doanh nghiệp ) : nhân công thực hiện xây lắp không phân biệt.
+ Chi phí chung : cũng đã loại trừ các khoản làm giảm giá thành.
1.1.3. Chi phí QLDN :
Chi phí QLDN của công ty bao gồm những khoản mục sau :
- Chi phí nhân viên : Lương, bảo hiểm, thu lại bảo hiểm.
- Chi phí sữa chữa, khấu hao TSCĐ
- Trị giá vật liệu xuất dùng trong văn phòng
- Chi phí về thuế phí và lệ phí :
+ Thuế môn bài
+ Thuế nhà đất
+ Các khoản lệ phí có tính chất thuế phải nộp
- Chi phí dự phòng giảm giá hàng tồn kho và phải thu khó đòi
- Chi phí tiền điện, nước, điện thoại, dịch vụ thuê ngoài sữa chữa
- Các chi phí dịch vụ mua ngoài khác
- Các chi phí bằng tiền phát sinh liên quan đến hoạt động chung của toàn doanh nghiệp
Chi phí QLDN không được theo dõi cụ thể cho từng công trình hay hạng mục công trình nào. Để xác định lợi nhuận theo từng hoạt động, công ty phải phân bổ chi phí QLDN như sau :
Chi phí QLDN Tổng chi phí QLDN Doanh thu công
Phân bổ cho công = x trình, hạng mục
Trình hay hạng công trình X
Mục công trình Tổng doanh thu
Chi phí bán hàng :
Chi phí bán hàng là chi phí thời kì không được tập hợp riêng cho từng công trình hay hạng mục công trình nào mà tập hợp thành một khoản chi phí chung. Để xác định lợi nhuận theo từng công trình, hạng mục công trình thì công ty phải phân bổ chi phí bán hàng cho từng hoạt động đó. Công thức phân bổ chi phí bán hàng như sau :
Chi phí bán hàng Tổng chi phí bán hàng Doanh thu công
Phân bổ cho công = x trình, hạng mục
Trình, hạng mục công trình X
Công trình X Tổng doanh thu
Xác định lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh :
Lợi nhuận = lợi nhuận từ + Lợi nhuận từ + Lợi nhuận từ
HĐKD HĐ xây lắp HĐ cơ khí, sữa chữa KD dịch vụ khác
1.1.4. Chi phí bán hàng :
Chi phí bán hàng là chi phí thời kì không được tập hợp riêng cho từng công trình hay hạng mục công trình nào mà tập hợp thành một khoản chi phí chung. Để xác định lợi nhuận theo từng công trình, hạng mục công trình thì công ty phải phân bổ chi phí bán hàng cho từng hoạt động đó. Công thức phân bổ chi phí bán hàng như sau :
Chi phí bán hàng Tổng chi phí bán hàng Doanh thu công
Phân bổ cho công = x trình, hạng mục
Trình, hạng mục
công trình X Tổng doanh thu
1.1.5. Xác định lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh :
Lợi nhuận = lợi nhuận từ + Lợi nhuận từ + Lợi nhuận từ
HĐKD HĐ xây lắp HĐ cơ khí, sữa chữa KD dịch vụ khác
1.2 Phương pháp xác định lợi nhuận thuần từ hoạt động tài chính :
Lợi nhuận thuần = Thu nhập - Chi phí
HĐTC HĐTC HĐTC
Thu nhập hoạt động tài chính của công ty :
- Thu lãi tiền gửi
- Thu lãi trả chậm của khách hàng
- Chênh lệch tăng tỷ giá
- Thu nhập hoạt động tài chính khác
Chi phí hoạt động tài chính bao gồm :
- Chênh lệch giảm tỷ giá
- Chi phí hoạt động tài chính khác
1.3.Phương pháp xác định lợi nhuận hoạt động bất thường :
Lợi nhuận bất thường được xác định như sau :
Lợi nhuận = Thu nhập - Chi phí
HĐBT HĐBT HĐBT
Thu nhập hoạt động bất thường của công ty gồm
- Nợ vô chủ
- Thu về thanh lý tài sản
- Thoái thu thuế
- Thu nhập từ những năm trước bị bỏ sót không ghi sổ nay phát hiện ghi sổ bổ sung
- Thu về bất thường khác
Chi phí bất thường gồm :
- Truy thu về thuế
- Chi phí thanh lý tài sản
- Chi phí bất thường khác
1.4. Phương pháp xác định lợi nhuận sau thuế của công ty :
Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế - Thuế TNDN phải
Của DN trong kỳ của DN trong kỳ nộp trong kỳ
Trong đó :
Lợi nhuận trước Lợi nhuận Lợi nhuận Lợi nhuận
Thuế của DN = HĐKD + HĐTC + HĐBT
Trong kỳ trong kỳ trong kỳ trong kỳ
2. Tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty CTGT 208 trong 2 năm 2001 – 2002 :
2.1. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty 2 năm 2001 -2002:
Biểu 1: Kết quả kinh doanh của Công ty trong 2 năm 2001 -2002
Đơn vị: 1000đồng.
Chỉ tiêu
Năm
So sánh
2001
2002
Số tiền
Tỷ lệ %
2
3
4
5 = 4 - 3
6 = 5/3
Tổng doanh thu
59.674.607
25.466.672
- 34.027.935
- 57,02
Các khoản giảm trừ
2.260.480
- 2.260.480
- 100
Doanh thu thuần
57.414.126
25.646.672
- 31.767.454
- 55,33
Giá vốn hàng bán
54.646.228
23.482.255
- 31.163.703
- 57,02
Lợi nhuận gộp
2.767.898
2.164.146
- 603.752
- 21,81
CP QLKD
2.225.181
1.900.175
- 325.006
- 14,6
LN từ HĐKD
542.717
263.2970
- 278.746
- 51,36
LN từ HĐTC
236.365
191.605
- 447.609
- 18,9._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4643.doc