LỜI NÓI ĐẦU
Công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá (CNH - HĐH) mà toàn Đảng toàn dân ta tiến hành chỉ có thể thành công khi chúng ta thực sự tạo cho mình một trình độ sản xuất tiên tiến hiện đại.
Để có một trình độ sản xuất tiên tiến hiện đại, trước tiên chúng ta phải phát triển khoa học công nghệ. Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa hoc - công nghệ sẽ là quốc sách hàng đầu trong quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) nói chung và trong công cuộc CNH - HĐH hiện nay nói riêng.
Để nân
90 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1383 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Các nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cao trình độ khoa học công nghệ trong nước đòi hỏi chúng ta phải đồng thời kết hợp giữa vấn đề tự nghiên cứu phát triển khoa học trong nước với việc du nhập tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới. Với điều kiện thực tế Việt Nam hiện nay chuyển giao công nghệ (CGCN) từ nước ngoài vào trong nước sẽ được ưu tiên trước một bước trong trọng tâm phát triển khoa học công nghệ.
Để đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra, đã có rất nhiều những công trình tài liệu nghiên cứu đề cập đến lĩnh vực CGCN từ nước ngoài vào trong nước ở những góc độ, mức độ khác nhau. Với mong muốn góp một tiếng nói chung vào việc nâng cao hoạt động CGCN nước ngoài vào Việt Nam, và góp phần hoàn thiện hơn một bước những kiến thức liên quan hoạt động CGCN nước ngoài vào Việt Nam, khoá luận tốt nghiệp có đề tài : “Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài tại Việt Nam” với những kiến thức về lý luận và thực tế liên quan đến hoạt động CNCG, người viết hy vọng rằng đây sẽ là một tài liệu phản ánh chân thực về tình hình CGCN và những giải pháp để nâng cao hiệu quả.
Khoá luận này đi vào nghiên cứu những lý luận chung nhất về công nghệ và CGCN trên cơ sở kết hợp phân tích đánh giá thực trạng về công nghệ và CGCN cũng như điều kiện thực tế của Việt Nam từ đó đi đến xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu phản ánh một giải pháp công nghệ thích hợp với Việt Nam.
Và tiếp đó là chú trọng hướng vào việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt
động CGCN trong mỗi doanh nghiệp.
Phương pháp nghiên cứu của khoá luận là kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và thực nghiệm thực tế dựa trên quan điểm duy vật biện chứng.
Khoá luận này được xây dựng trên cơ sở đánh giá phân tích tổng hợp các tài liệu, số liệu, thông tin thực tế liên quan đến CGCN cùng với việc tham khảo những kiến thức lý luận trong chương trình giảng dạy ở trường Đại học Ngoại thương qua các môn học như: Kinh tế ngoại thương; Quan hệ kinh tế Quốc tế; Đầu tư nước ngoài; Chuyển giao công nghệ; Thanh toán quốc tế; Kỹ thuật nghiệp vụ Ngoại thương; Phân tích hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và các môn học cơ bản, chuyên ngành khác. Khoá luận này còn xây dựng trên cơ sở tham khảo những định hướng của Đảng và Nhà nước về phát triển khoa học công nghệ.
Ngoài lời nói đầu và kết luận ra khoá luận được chia làm 3 chương sau: Chương I: Vai trò của hoạt động CGCN với sự phát triển kinh tế của Việt nam
Chương II: Tình hình hoạt động CGCN tại Việt Nam trong thời gian qua Chương III: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam.
Do trình độ và thời gian có hạn nên khoá luận này không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Bùi Thị Lý, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong việc hoàn thành khoá luận này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2003.
Người viết
Học viên Vũ Thế Anh
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
I. CÔNG NGHỆ VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ (CGCN)
1. Công nghệ
1.1. Khái niệm về công nghệ
Công nghệ là gì? Có nhiều định nghĩa khác nhau về công nghệ. Mỗi định nghĩa đề cập đến công nghệ ở những phương diện khác nhau.
Æ Công nghệ theo cách hiểu của các nhà khoa học thì “công nghệ” là hệ thống các giải pháp được tạo nên bởi sự ứng dụng các tri thức khoa học để giải quyết một vấn đề thực tiễn.
Æ Theo các nhà quản lý và các nhà kinh tế học nói một cách tổng quát “công nghệ” là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế biến vật chất hoặc chế biến thông tin nhằm biến đổi các nguồn lực tự nhiên thành các nguồn lực sử dụng.
Æ Theo tổ chức phát triển công nghiệp liên hiệp quốc UNIDO (United Nations Industrial Development Orgnization) “công nghệ” là việc áp dụng khoa học vào công nghệ bằng cách sử dụng những nghiên cứu và xử lý có một hệ thống và có phương pháp.
Æ Theo Uỷ ban kinh tế xã hội Châu Á - Thái Bình Dương ESCAP (Economic and Social Commision for Asia and Pacific), “công nghệ” bao gồm tất cả các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất, chế tạo hoặc dịch vụ công nghiệp, dịch vụ quản lý, công nghệ luôn luôn gắn liền với quá trình sản xuất trực tiếp. Định nghĩa này đã được mở rộng khái niệm ứng dụng của công nghệ vào các lĩnh vực quản lý và dịch vụ. Định nghĩa này được áp dụng rộng rãi, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của quan niệm về công nghệ.
Æ Về phương diện kinh doanh khái niệm “công nghệ” được định nghĩa như sau: “Công nghệ” là hệ thống các giải pháp mà con người sử dụng trong quá trình thực hiện, như chế tạo một sản phẩm, xây dựng một công trình hay thực hiện một dịch vụ.
Như chúng ta điều biết, khoa học và công nghệ khác nhau về bản chất mặc dù có quan hệ ngày càng mật thiết. Khoa học nhằm đạt đến sự tiến bộ của nhận thức trong khi đó công nghệ áp dụng nhận thức nhằm tìm cách biến đổi thực tại. Khoa học thường gắn với các khám phá, công nghệ gắn với hàng hoá dịch vụ. Công nghệ luôn là loại hàng hoá vô hình được mua bán trên thị trường thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ.
1.2. Các yếu tố cấu thành công nghệ
1.2.1. Hình thái vật chất của công nghệ
Hình thái vật chất của công nghệ được gọi là phần cứng (hardware) hay gọi tắt là trang thiết bị (technoware) bao gồm máy móc thiết bị, công cụ, hạ tầng kỹ thuật (các giải pháp đã được vật chất hoá).
1.2.2. Thông tin (informware)
Thông tin là các sơ đồ, bản vẽ, thuyết minh, quy trình, phương pháp dự án, mô tả sáng chế, chỉ dẫn kỹ thuật… được thể hiện trong các ấn phẩm và các phương tiện lưu trữ thông tin khác.
Phần thông tin rất quan trọng nó quyết định phần lớn sự thành công hay thất bại của chuyển giao công nghệ. Nó được tiến hành tìm kiếm trong một thời gian dài và được hoàn thiện trước thời gian ký hợp đồng.
1.2.3. Thiết chế (Orgaware)
Thiết chế là cơ cấu tổ chức, quản lý, là động lực quan trọng thúc đẩy chuyển giao công nghệ bao gồm sự liên hệ, bố trí sắp xếp, đào tạo đội ngũ… cho các hoạt động như phân chia nguồn lực, tạo mạng lưới, lập kế hoạch, kiểm tra, tiến hành.
1.2.4. Yếu tố con người (Humanware)
Yếu tố con người bao gồm kiến thức, kỹ năng công nghệ, kinh nghiệm sản xuất, kỷ luật sản xuất và tính sáng tạo.
Ba yếu tố thông tin, thiết chế, yếu tố con người gộp lại gọi là phần mềm của công nghệ (Software)
1.3. Phân loại công nghệ
1.3.1. Căn cứ vào mức độ tiên tiến của công nghệ
Căn cứ vào mức độ tiên tiến của công nghệ chia làm 3 loại công nghệ chính:
- Công nghệ cao.
- Công nghệ thường.
- Công nghệ thấp.
Æ Những chỉ tiêu đối với một công nghệ cao là:
+ Tiêu hao một lượng lớn về chi phí (R&D) công nghệ.
+ Áp dụng những giải pháp hoặc kiến thức khoa học mới nhất, sử dụng nhiều phát minh sáng chế mới.
+ Trình độ tự động hoá cao.
+ Vận dụng phức hợp nhiều giải pháp công nghệ.
+ Có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghệ khác.
Tuy nhiên, khái niêm công nghệ cao chỉ có ý nghĩ tương đối, khái niệm này biến đổi theo thời gian, và được hiểu không giống nhau ở các nước có trình độ công nghệ khác nhau.
Một công nghệ cao được hiểu theo những tiêu chí ở trên quá thiên về mặt kỹ thuật, nó chưa tính đến khía cạnh thương mại, bởi lẽ có công nghệ cao chưa hẳn đã đảm bảo thành công về mặt thương mại vì nó phụ thuộc và sự chấp nhận của thị trường. Do đó đứng trên góc độ doanh nghiệp, khi đánh giá công nghệ không thể tách rời các yếu tố kỹ thuật ra khỏi các yếu tố thương mại. Tóm lại một công nghệ được coi là công nghệ cao hiện đại còn cho phép nhà đầu tư đạt
được hiệu quả kinh doanh tương ứng thể hiện ở mức độ sinh lợi, giá trị gia tăng, năng suất cao hơn các công nghệ tương tự.
1.3.2. Căn cứ vào mức độ hàm lượng các nguồn lực trong công nghệ
Chia làm 3 loại công nghệ chính:
- Công nghệ có hàm lượng lao động cao (Labour intensive): may mặc, dệt, lắp ráp.
- Công nghệ có hàm lượng vốn cao (Capital intensive): đóng tàu cơ khí, khai khoáng.
- Công nghệ có hàm lượng tri thức cao (Knowledge intensive): phần mềm, công nghệ sinh học...
Các nước phát triển thuộc tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đều đã trải qua một cách tuần tự trong những “bậc thang công nghệ” đó là chuyển dần từ công nghệ có hàm lượng lao động cao sang công nghệ có hàm lượng vốn và tri thức cao. Tuy nhiên việc giải bài toán “nhảy cóc công nghệ” (thực hiện chu trình công nghệ đứt đoạn: nhảy từ chu trình công nghệ hiện có sang một chu trình công nghệ cao hơn, tiên tiến hơn của các nước phát triển) là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đặt ra với các nước đang phát triển trong thời đại ngày nay để rút ngắn khoản cách về trình độ và năng suất của nền sản xuất so với nền sản xuất của các nước phát triển.
1.4. Xu hướng phát triển của công nghệ thế giới hiện nay
Hiện nay, trên thế giới theo OECD, những ngành mũi nhọn công nghệ cao đang được phát triển mạnh mẽ ở những nước công nghiệp như Mỹ, Nhật, EU và đặc biệt các nước công nghiệp mới (NICs) ở Châu Á; đó là những ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ gia công chính xác trong chế tạo máy, tự động hoá, năng lượng mới, công nghệ hàng không vũ trụ... Đây là những ngành thể hiện những xu thế phát triển chủ yếu hiện nay của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ thế giới. Nó đưa vai trò của các lợi thế so sánh cạnh tranh có tính truyền thống như tài nguyên, vốn, sức
lao động xuống hàng thứ yếu sau trình độ công nghệ. Tổ chức hoạt động khoa học có tính sáng tạo sẽ là nền tảng của sự phát triển thịnh vượng và giàu có của mỗi quốc gia và xã hội.
Điện tử tin học, công nghệ sinh học và vật liệu mới là ba nội dung cơ bản nhất của cách mạng công nghệ, của hệ thống công nghệ thời đại. Nói đến cách mạng công nghệ tất nhiên là còn phải đề cập tới các hướng phát triển khác như: công nghệ vũ trụ, công nghệ đại dương, công nghệ tổng hợp hạt nhân nhưng đó là những hướng công nghệ đặc trưng cho một số ít siêu cường về kinh tế và khoa học kỹ thuật không mang tính phổ cập. Hơn nữa những tiến bộ trong các hướng này phần lớn do những thành tựu mới của điện tử tin học, công nghệ sinh học và vật liệu mới quyết định. Ba hướng công nghệ cơ bản nói trên phát triển không tách rời nhau và thâm nhập vào nhau tạo điều kiện cho nhau phát triển. Cách mạng công nghệ càng phát triển lên cao thì sự thâm nhập vào nhau của các hướng công nghệ ấy càng mật thiết. Không có những thành tựu mới của điện tử và tin học thì không thể có các loại vật liệu có tính năng theo đơn đặt hàng, không thể tạo ra các cơ thể sống có tình trạng mong muốn, ngược lại không có vật liệu mới thì cũng không thể có những thành tựu hiện nay của điện tử và tin học. Sinh điện tử trong tương lai sẽ là một sự lai ghép thực sự giữa công nghệ sinh học và vi điện tử với sự tham gia của các vật liệu sinh học.
Điện tử tin học, công nghệ sinh học và vật liệu mới là ba hướng công nghệ mang tính “generic”có khả năng thâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực công nghệ khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Đó là cơ sở công nghệ để thực hiện sự nghiệp tái công nghiệp hoá tại các nước một mặt vừa tạo những ngành công nghiệp mới có tốc độ phát triển rất cao từ 17% - 25% (như công nghiệp điện tử và công nghiệp sinh học) một mặt góp phần hiện đại hoá và nâng cao hiệu quả kinh tế của các ngành đã có từ trước (như dệt may, da dầy, luyện kim, công nghiệp ô tô) mang lại cho các nước một mức sống mới, những giá trị kinh tế - kỹ thuật mới.
2. Chuyển giao công nghệ
2.1. Khái niệm chuyển giao công nghệ
Trong nền kinh tế thị trường, công nghệ luôn được coi là hàng hoá, mà đã là hàng hoá thì tất yếu sẽ có mua và bán, trao đổi và có thị trường tiêu thụ hàng hoá đó. Việc mua và bán đó được gọi chung bằng thuật ngữ CGCN, như vậy 4 yếu tố cấu thành CGCN chính là máy móc (machine), thị trường (market), quản lý (management), tiền (money) gọi tắt là 4 M.
CGCN được hiểu đơn giản là mang kiến thức kỹ thuật vượt qua một giới hạn trong hay ngoài nước. Thực ra CGCN là việc tiếp nhận công nghệ nước ngoài và là quá trình vật lý, trí tuệ, một quá trình đi tìm kiếm với việc huấn luyện toàn diện của một bên về sự hiểu biết học hỏi của một bên khác.
Bên bán là: “bên giao công nghệ” là một bên gồm một hay nhiều tổ chức kinh tế, khoa học, công nghệ và tổ chức có tư cách pháp nhân hoặc cá nhân ở nước ngoài có công nghệ chuyển giao vào nước khác. Do xuất phát từ nhu cầu đổi mới và cải tiến công nghệ của các nước chủ công nghệ, các nước thường xuyên chuyển giao công nghệ và thiết bị đã bắt đầu bão hoà trên thị trường chứ không phải chuyển giao công nghệ mới nhất.
“Bên nhận công nghệ” là một hay nhiều tổ chức kinh tế, khoa học, công nghệ khác nhau có tư cách pháp nhân hay cá nhân tiếp nhận công nghệ. Bên mua công nghệ phải có thông tin, có hiểu biết, có nghiệp vụ kỹ năng cần thiết, mặt khác cũng cần định hướng, hỗ trợ của các cấp quản lý và sự phối hợp của các doanh nghiệp cùng ngành nghề. Trong xu thế thời đại hiện nay, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, công nghệ liên tục được cải tiến và đổi mới. Do đó, CGCN góp vốn bằng công nghệ thực chất là một cuộc mua bán, xuất nhập hàng hoá đặc biệt, có những yếu tố lượng hoá được, có những yếu tố không thể lượng hoá được, có những ảnh hưởng trực tiếp của tương lai. Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế, hai bên “mua” và “bán” công nghệ bị ràng buộc lẫn nhau bằng hợp đồng chuyển giao công nghệ. Trong hợp đồng CGCN, việc xác định giá cả và
phương thức thanh toán hết sức quan trọng. Cần được xem xét và tiếp nhận một cách có hệ thống. Việc nhận dạng đánh giá và phân tích công nghệ phải đặt trong tổng thể: Phân tích thị trường, phân tích tài chính và kinh tế của dự án. Chỉ có như vậy mới đánh giá được công nghệ một cách hợp lý, bảo đảm tính cạnh tranh và lợi nhuận cho dự án.
2.2. Nội dung chuyển giao công nghệ
2.2.1. Chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp
Đối tượng sở hữu công nghiệp bao gồm các đối tượng sau:
- Sáng chế (invention): là một giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kĩ thuật thế giới, có tính sáng tạo, có khả năng áp dụng vào thực tiễn sản xuất kinh doanh và trong các lĩnh vực kinh tế xã hội khác.
- Giải pháp hữu ích: là các giải pháp kĩ thuật mới so với trình độ kĩ thuật ở
Việt Nam và có khả năng áp dụng vào thực tế sản xuất kinh doanh ở Việt Nam.
- Kiểu dáng công nghiệp (industrial design): là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu đó, có tính mới so với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp hay thủ công nghiệp và để phân biệt sản phẩm này với sản phẩm khác cùng loại.
- Nhãn hiệu hàng hoá (trade mark): Nhãn hiệu hàng hoá có thể là dấu hiệu, biểu tượng, tên gọi, màu sắc, từ ngữ, hình ảnh hay sự kết hợp các yếu tố đó để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau.
- Tên gọi xuất xứ hàng hoá (Origin): là tên gọi của một loại hàng hoá gắn liền với một địa danh nổi tiếng mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra với các tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên điều kiện địa lí độc đáo và ưu điểm bao gồm các yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó.
2.2.2. Chuyển giao thông qua việc mua bán, cung cấp đối tượng sau:
- Phương án công nghệ, quy trình công nghệ.
- Tài liệu thiết kế sơ bộ và thiết kế kỹ thuật.
- Công thức, bản vẽ sơ đồ, bản biểu.
- Thông số kỹ thuật hoặc kiến thức kỹ thuật chuyên môn khác.
- Bí quyết kỹ thuật - công nghệ (có thể hoặc không có thiết bị kèm theo).
Bí quyết kỹ thuật là những kinh nghiệm hoặc kiến thức kỹ thuật để sản xuất những sản phẩm nhất định hoặc để áp dụng một quy trình công nghệ nào đó một cách tốt nhất hoặc để nâng cao chất lượng một sản phẩm kỹ thuật nào đó mà nếu không có kinh nghiệm và kiến thức này thì không thể sản xuất được sản phẩm hoặc không thể tiến hành việc sản xuất một cách chính xác và hiệu quả kinh tế như thế.
2.2.3. Thực hiện các hình thức dịch vụ và tư vấn sau:
- Hỗ trợ trong việc lựa chọn công nghệ, hướng dẫn lắp đặt thiết bị, vận hành thử các dây chuyền thiết bị nhằm áp dụng công nghệ được chuyển giao.
- Tư vấn quản lý công nghệ, tư vấn quản lý kinh doanh, hướng dẫn thực hiện các quy trình công nghệ được chuyển giao.
- Đào tạo huấn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, quản lý công nhân, cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý để nắm vững công nghệ được chuyển giao.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá, nghiên cứu cơ hội, nghiên cứu tiền khả
thi và khả thi các dự án đầu tư và đổi mới công nghệ.
- Thực hiện dịch vụ về thu nhập, xử lý và cung cấp thông tin về thị trường công nghệ, pháp lý, tài nguyên và môi trường.
Các hoạt động thuần tuý nhập khẩu máy móc, thiết bị, thông thường không
được coi là CGCN.
2.3. Các hình thức và các dòng chuyển giao công nghệ
2.3.1. Các hình thức chuyển giao công nghệ
ngoài
Chuyển giao công nghệ thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước
Đây là hình thức đang được thực hiện ồ ạt nhất hiện nay và quy mô ngày
càng tăng dần do đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhất là vào các nước
ASEAN, đang tăng rõ rệt.
Các trường hợp CGCN thuộc hình thức này có đặc điểm chung là:
- Công nghệ được đưa vào cùng với hợp đồng đầu tư trực tiếp từ nước chuyển giao.
- Nhà đầu tư nước ngoài đồng thời là người nắm công nghệ và sử dụng công nghệ.
- Công nghệ được sử dụng để thực hiện dự án mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ
vốn dưới một hình thức và mức độ nào đó.
Hỗ trợ kỹ thuật và nhượng quyền (license)
Hỗ trợ kỹ thuật và nhượng quyền thực chất là hình thức mua bán loại hàng hoá đặc biệt - đó là công nghệ. Tham gia vào quá trình này là hai bên hoàn toàn độc lập nhau, không bị ràng buộc về tài chính. Đây chỉ là hình thức CGCN điển hình và phổ biến nhất.
Hợp đồng “chìa khoá trao tay”
Hợp đồng chìa khoá trao tay là thoả thuận giao cho nhà thầu (bên giao công nghệ) thực hiện mọi bước từ đầu đến cuối của một dự án đầu tư (kể cả các dịch vụ tư vấn, quản lý, thiết kế kỹ thuật và các dịch vụ khác) cho đến khi dự án sẵn sàng đi vào sản xuất thương mại hoặc được sử dụng ngay.
Hợp tác nghiên cứu cùng phát triển công nghệ
Hợp tác nghiên cứu cùng phát triển công nghệ là hình thức chuyển giao công nghệ mà hai bên cùng xây dựng một dự án công nghệ trên cơ sở thế mạnh vốn có của mỗi bên, các bên cùng tiến hành nghiên cứu phát triển dự án công nghệ đó theo nguyên tắc cùng đầu tư cùng chịu rủi ro để tạo ra một giải pháp công nghệ mới.
Đây là hình thức các công ty nước sở tại, các chính phủ rất kỳ vọng và tạo mọi điều kiện ưu đãi, vì nó thể hiện đầy đủ tính tích cực của một cuộc CGCN theo đúng nghĩa:
- Thực hiện đúng nguyên tắc: cùng đầu tư, cùng chịu rủi ro.
- Tận dụng được thế mạnh của mỗi bên, tạo ra thế mạnh chung mà trước đó mỗi bên không hề có.
- Mỗi bên đều tham gia tích cực vào quá trình tạo ra công nghệ, học hỏi lẫn nhau.
2.3.2. Các dòng chuyển giao công nghệ chủ yếu trên thị trường thế giới
Dòng chuyển giao công nghệ giữa các nước phát triển sang các nước
đang phát triển (chuyển giao công nghệ Bắc - Nam)
Dòng CGCN Bắc - Nam là dòng CGCN được thực hiện chủ yếu từ các nước công nghiệp phát triển ở Bắc bán cầu sang các nước đang phát triển ở Nam bán cầu.
Dòng CGCN này được diễn ra ồ ạt từ đầu những năm 70 của thế kỉ 20, khi mà các nước công nghiệp phát triển như Mỹ và các nước Tây Âu chuyển một số bộ phận công nghiệp gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn nhiều tài nguyên như: khai khoáng, khai thác dầu khí... sang các nước đang phát triển để tập trung đi vào nghiên cứu phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn có trình độ kỹ thuật cao. Hơn nữa, vào những năm 70 các nước đang phát triển đang trong giai đoạn đầu của quá trình CNH - HĐH nên rất cần CGCN từ các nước phát triển. Vì vậy dòng CGCN này càng có điều kiện phát triển. Cho đến nay dòng CGCN này vẫn còn tiếp tục phát triển mạnh mẽ bởi lẽ nhu cầu nhập khẩu công nghệ hiện đại từ các nước phát triển để phát triển nền kinh tế đối với các nước phát triển vẫn còn thiết yếu và tất yếu. Dòng chuyển giao công nghệ này chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức FDI.
Có thể đơn cử một số trường hợp điển hình trong dòng CGCN này như: đầu tư của tập đoàn IBM, Motorola của Mỹ vào Trung Quốc, đầu tư của tập đoàn
dầu khí BP vào các nước dầu lửa Nam Mỹ, vào các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam.
Chuyển giao công nghệ giữa các nước đang phát triển (chuyển giao Nam
- Nam)
Với nguồn tín dụng của chính phủ Italia, một hệ thống công nghệ pilot về thông tin (TIPS) đã được hình thành với mạng lưới thông tin phát triển đa ngành, trong đó thông tin khoa học kỹ thuật cần cho sự phát triển kinh tế của các nước tham gia được trao đổi thông qua mạng lưới liên lạc bằng vệ tinh. Mười thành viên ban đầu tham gia vào hệ thống TIPS là: Trung Quốc, Kênia, Peru, Hy Lạp, Philipin, Mehico, Braxin, Pakistan, ấn Độ Zimbabuê. Mục tiêu của TIPS là thúc đẩy CGCN và hợp tác kinh tế nhằm khai thác các nguồn lực và khả năng của các ngành công nghệ thuộc các khu vực của chính phủ, công cộng và tư nhân, các tổ chức nghiên cứu, các tổ chức tài chính, các cơ quan chuyên ngành về phát triển TIPS cũng nhằm vào việc phát triển các cơ hội hợp tác và nâng cao công nghệ, khuyến khích đầu tư và các chương trình phối hợp. Hiện nay TIPS bao gồm các lĩnh vực sau: máy nông nghiệp sinh khối, công nghệ sinh học, điện tử, nghề cá, máy dệt, năng lượng mặt trời.
Từ cuối những năm 60 của thế kỷ 20 đến nay dòng CGCN Nam - Nam bắt đầu xuất hiện và có xu hướng gia tăng. Tuy nhiên khối lượng CGCN theo dòng Nam - Nam vẫn chưa nhiều, và chủ yếu tập trung vào các nước NICs.
Dòng chuyển giao công nghệ giữa các nước công nghiệp phát triển với nhau
Dòng chuyển giao công nghệ này được đánh giá là dòng chuyển giao công nghệ lớn nhất. Ví dụ trong tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài, đầu tư của Mỹ sang các nước công nghiệp phát triển chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao chưa bao giờ nhỏ hơn 60%, tỷ lệ tương ứng của Anh là 80% và của Pháp là
70% so với tổng giá trị đầu tư ra nước ngoài của các nước này.
Dòng chuyển giao công nghệ thông qua hình thức mua lại và sáp nhập các công ty.
Ngày nay cạnh tranh giữa các công ty lớn diễn ra ngày một gay gắt và khốc liệt, để tồn tại trong điều kiện cạnh tranh thì việc nắm bắt những công nghệ tiên tiến nhất, những trình độ hoàn hảo nhất đang trở thành yếu tố then chốt chi phối chiến lược hoạt động và phát triển của mỗi công ty. Vì vậy trong xu thế thời đại ngày nay việc các công ty, các tập đoàn sáp nhập, liên kết nhau để cùng nhau đầu tư nghiên cứu tìm ra công nghệ mới nhất nhằm duy trì lợi thế cạnh tranh và giữ vững thị phần cùng nhau hưởng lợi là một xu hướng phổ biến.
Vào những năm 90 xu hướng này đã bắt đầu xuất hiện ở Mỹ và phổ biến trong ngành điện tử với các công ty AT&T, Nortel, IBM, Compaq, Lucent, Ericsson...
Dòng chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển sang các nước NICs và tới các nước đang và chậm phát triển theo mô hình “đàn sếu bay”.
Do sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế của các nước phát triển, cũng như chu kỳ sống của công nghệ và sản phẩm của các nước này ngày càng rút ngắn. Do đó để khắc phục được tình trạng lão hoá sản phẩm, các nước tư bản phát triển đã di chuyển một bộ phận sản xuất công nghiệp, phần lớn là máy móc ở giai đoạn lão hoá sang các nước kém phát triển hơn để tiếp tục sử dụng, kéo dài thêm chu kỳ sống của sản phẩm. Vào những năm 70 khi những cuộc khủng hoảng cơ cấu nổ ra, trong chiến lược tái triển khai công nghiệp lúc đó, các nước tư bản phát triển đã di chuyển một bộ phận công nghiệp có kỹ thuật đơn giản dùng nhiều lao động và gây ô nhiễm môi trường bao gồm các ngành như: quần áo, giầy dép, đồ chơi, hàng điện tử đơn giản công nghiệp khai khoáng sang các nước NICs Châu Á như (Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông). Và các nước tư bản phát triển tiếp tục đầu tư vào ngành mới kỹ thuật cao hơn như: điện tử, tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hoá...Vào cuối thập kỷ 70 đến thập kỷ 90 của thế kỷ 20, làn sóng CGCN thứ hai được bắt đầu từ các nước NICs sang các nước đang phát triển như Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia tới Philipines, Trung Quốc, Việt Nam...
2.4. Giá cả và phương thức thanh toán trong chuyển giao công nghệ
2.4.1. Giá cả trong chuyển giao công nghệ
2.4.1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả chuyển giao công nghệ
Công nghệ là một loại hàng hoá đặc biệt nên không có giá cả quốc tế hay giá cả quốc gia cho mỗi công nghệ như hàng hoá thông thường khác. Việc mua bán công nghệ hầu như phụ thuộc vào người bán hay nước chuyển giao định đoạt phần nhiều. Do vậy nước được chuyển giao hay nước mua công nghệ phải xem xét những yếu tố sau đây để thoả thuận:
- Lợi nhuận do công nghệ được chuyển giao mang lại.
- Tính mới của sản phẩm.
- Khả năng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm sản xuất theo hợp đồng
CGCN.
- Khối lượng sản phẩm.
- Chất lượng sản phẩm và giá thành.
- Nguy cơ cạnh tranh (của sản phẩm cùng loại hay sản phẩm thay thế).
- Khả năng cung ứng nguyên vật liệu, phụ tùng.
- Thời hạn hợp đồng CGCN.
- Thời hạn hiệu lực của các đối tượng sở hữu công nghiệp.
- Các điều kiện liên quan đến độc quyền, lãnh thổ áp dụng, phạm vi thị
trường.
- Phương thức thanh toán, đồng tiền dùng để thanh toán.
- Các điều kiện bảo hành.
- Các luật lệ về thuế, các phí tổn do luật pháp của nước thuộc bên bán và bên mua qui định.
- Số người muốn bán công nghệ tương tự và số người muốn mua.
2.4.1.2. Cơ sở đánh giá và định giá công nghệ
Đánh giá công nghệ là việc định lượng, phân tích và xem xét công nghệ trên ba khía cạnh: Đồng bộ - tiến bộ - thích hợp để từ đó quyết định. Việc lựa chọn và đánh giá công nghệ là công việc hết sức phức tạp nhưng hết sức quan trọng.
Tính đồng bộ: Công nghệ có tính mục tiêu cụ thể, công nghệ nào sản phẩm đó, ứng với mỗi công nghệ có một sản phẩm nhất định do vậy sự đồng bộ của công nghệ thể hiện khía cạnh vật chất của công nghệ, đảm bảo cho công nghệ có đầy đủ các giải pháp để đạt được mục tiêu đã định.
Tính tiến bộ (hay tính hiện đại): Tính tiến bộ hay tính hiện đại của công nghệ được thể hiện qua sản phẩm của công nghệ. Đánh giá mức độ tiên tiến của sản phẩm hay đánh giá công nghệ ở quá trình sản xuất biểu hiện ở thế hệ thiết bị, thời hạn hiệu lực của các đối tượng sở hữu công nghệ có liên quan, tuổi thọ, việc giảm đầu vào hay tăng đầu ra.
Tính thích hợp: Tính thích hợp của công nghệ khá phức tạp. Nó đòi hỏi phải xem xét nhiều tiêu chuẩn liên quan tới hàng loạt tác nhân như: sự thích ứng với môi trường xung quanh, khả năng đáp ứng kế hoạch hoá theo chiều ngang và bao quát mục tiêu ngắn hạn đã được đề ra. Ngoài ra tính thích hợp của bất kỳ công nghệ nào còn được xác định bởi chiến lược phát triển quốc gia - một sự phát triển mang tính tự sáng tạo (tự lực và tự trị). Công nghệ là một yếu tố cơ bản của cơ cấu kinh tế mà nó trực thuộc, thí dụ: đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động dư thừa, không có trình độ cao, không có khả năng sử dụng công nghệ cao cần nhiều vốn tri thức. Tính thích hợp của công nghệ phụ thuộc rất nhiều vào việc sử dụng công nghệ, nó mang tính năng động. Hôm nay công nghệ này còn thích hợp, nhưng ngày mai thì không, hoặc ngược lại, hôm nay nó không thích hợp thì ngày mai nó lại thích hợp. Vì thế trước khi lựa chọn công nghệ cần quyết định xem loại hàng hoá nào, dịch vụ nào sẽ được sản xuất, tiêu thụ và buôn bán, ai sẽ sản xuất chúng và việc sản xuất, lưu thông chúng sẽ được tổ chức như thế nào.
Ngoài ra còn phải căn cứ vào các chỉ tiêu sau để đánh giá:
- CN sử dụng nhiều trí thức (Knowledge intensive)
- CN sử dụng nhiều vốn (Capital intensive)
- CN sử dụng nhiều lao động (Labour intensive)
2.4.1.3. Phương pháp tính giá công nghệ
Có thể dựa vào doanh thu hoặc lợi nhuận thu được để tính giá công nghệ
theo các tỷ lệ sau:
- Tỷ lệ % của giá trị khối lượng sản phẩm được sản xuất ra hàng năm.
- Tỷ lệ % của giá trị khối lượng sản phẩm được tiêu thụ hàng năm.
- Tỷ lệ % của lợi nhuận thu được hàng năm.
Tuy nhiên, do công nghệ là một đối tượng rất trừu tượng, việc định lượng chính xác giá trị tăng thêm của sản phẩm do công nghệ đem lại là khó khăn và vô cùng phức tạp do đó người ta loại bỏ các yếu tố không mang tính công nghệ trong tính doanh thu đạt được. Để đạt được điều này người ta đưa ra khái niệm “gá bán tịnh” (Net selling price).
Giá bán tịnh là tổng giá bán sản phẩm dịch vụ mà trong quá trình tạo ra chúng có áp dụng công nghệ được chuyển giao, tính theo hoá đơn bán hàng sau khi trừ đi các khoản sau:
- Chiết khấu thương mại
- Thuế gián thu
- Hàng tồn kho
- Chi phí quảng cáo, bảo hiểm cho việc bán hàng;
- Thanh toán hoa hồng uỷ thác bán hàng
- Chi phí bảo dưỡng sản phẩm
- Chi phí bao bì đóng, vận tải phục vụ bán hàng
- Giá nhập khẩu CIF và thuế nhập khẩu cán bán thành phẩm, bộ phận chi tiết, linh kiện, phụ tùng.
Để có một đánh giá và tính được giá công nghệ thật chuẩn xác đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu kết hợp trên nhiều chỉ số định lượng khác nhau.
2.4.2. Phương pháp thanh toán
Khi đề cập đến các phương pháp tính giá, thì phương pháp thanh toán cũng nên được đưa ra vì nó cũng có ảnh hưởng rất quan trọng đến hiệu quả, tính thực thi của hợp đồng CGCN.
Trong hợp đồng, các bên có thể lựa chọn một trong các phương thức sau:
Góp vốn bằng công nghệ: Giá trị công nghệ được tính thành một số tiền nhất định và số tiền này được coi là phần góp vốn của bên giao trong liên doanh.
Trả gọn (Lump - sum): Phương thức trả gọn là phương thức theo đó hai bên thoả thuận định giá của công nghệ bằng một khoản tiền nhất định. Bên mua có thể trả gọn một hoặc nhiều lần trong một thời hạn nhất định (thông thường bắt đầu từ khi ký xong hợp đồng và kết thúc lúc bên mua sản xuất được sản phẩm đầu tiên).
Phương thức trả kỳ vụ (Royalty): là phương thức theo đó bên mua trả dần cho bên bán một khoản tiền tính bằng tỷ lệ theo chỉ số nhất định trong một thời gian nhất định do hai bên thoả thuận. Đối với CGCN từ nước ngoài vào và CGCN trong nước, giá thanh toán cho việc CGCN bao gồm các đối tượng đã nêu ở điều 4 của Nghị định 45/1998 NĐ-CP, trong đó không kể giá trị máy móc thiết bị kèm theo, phải tuân theo một thời hạn:
- Từ 0-5% giá bán tịnh (net selling price) trong thời gian hiệu lực của hợp
đồng.
- Hay từ 0-25% lợi nhuận sau thuế thu được từ việc tiêu thụ sản phẩm được chuyển giao trong thời gian hiệu lực hợp đồng.
- Hay từ 0-8% tổng vốn đầu tư trong trường hợp góp vốn bằng công nghệ không quá 20% ._.vốn pháp định đối với việc chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam và chuyển giao trong nước, giá thanh toán cho việc CGCN không kể giá trị máy móc thiết bị kèm theo, có thể đến 8% giá bán tịnh hay đến 30% lợi nhuận sau thuế, hoặc trong trường hợp góp vốn bằng giá trị công nghệ đến 10% tổng số vốn đầu tư đối với công nghệ hội đủ tiêu chuẩn:
+ Công nghệ chuyển giao thuộc công nghệ cao (theo danh mục của Bộ
Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường công bố trong từng thời kỳ).
+ Công nghệ được chuyển giao có ý nghĩa lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội của vùng sâu vùng xa và miền núi hải đảo.
+ Phần lớn sản phẩm được xuất khẩu (hoặc phí được trả cho công nghệ ở
mức cao đối với sản phẩm được xuất khẩu).
+ Đối với những công nghệ đặc biệt, có mức phê duyệt thanh toán cho việc CGCN cao hơn quy định nêu trên. Bộ Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường sẽ xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Kết hợp trả gọn một phần, phần còn lại trả theo kỳ vụ.
Theo kinh nghiệm của một số nước phát triển cho thấy họ không khuyến khích phương thức trả gọn hay góp vốn bằng công nghệ (trả gọn chỉ áp dụng khi bên nhận có thể tiếp thu được toàn bộ công nghệ trong thời gian ngắn xác định), mà họ khuyến khích trả kỳ vụ nhằm gắn quyền lợi và trách nhiệm của bên giao và hiệu quả sử dụng công nghệ trong suốt thời gian áp dụng công nghệ (doanh thu càng cao, sử dụng càng nhiều nhiên liệu, bán thành phẩm và nhân công trong nước thì phí kỳ vụ sẽ tăng tương ứng). Chính sách này cũng nhằm thúc đẩy bên giao liên tục thông báo và chuyển giao những cải tiến, đổi mới công nghệ để duy trì lợi thế cạnh tranh của bên nhận hòng thu được những khoản phí kỳ vụ như mong muốn.
III. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG CGCN
1. Tính tất yếu của chuyển giao công nghệ
1.1. Chuyển giao công nghệ là con đường tất yếu để không ngừng đổi mới, nâng cao trình độ lực lượng sản xuất.
Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ đang phát triển với một tốc độ vũ bão, là động lực trực tiếp thúc đẩy lực lượng sản xuất mỗi quốc gia phát triển. Chính sự phát triển kỳ diệu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang tác động sâu sắc đến mọi mặt kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Sự phát triển ở mỗi quốc gia dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển cũng như chậm phát triển không thể nằm ngoài xu thế phát triển của khoa học và công
nghệ. Mỗi một trình độ khoa học công nghệ nhất định tạo ra một nền sản xuất tương ứng, song cái đích phát triển của mỗi quốc gia đều hướng tới là sự giàu có phồn vinh, không ngừng nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của nước mình. Tuy nhiên luôn có sự chênh lệch về trình độ khoa học, công nghệ giữa các quốc gia bởi quy luật phát triển không đều tạo ra. Vì vậy dù là nước tư bản chủ nghĩa phát triển hay các nước đang và chậm phát triển đều phải học hỏi tiếp thu công nghệ của nước ngoài thông qua con đường chuyển giao công nghệ để rút ngắn khoảng cách về trình độ khoa học công nghệ của nước mình so với nước khác, cũng như phát huy triệt để lợi thế của người đi sau.
1.2. Chuyển giao công nghệ là con đường tất yếu để mỗi quốc gia giải quyết tốt các vấn đề khoa học nằm ngoài khả năng của mình
Do nhu cầu thực tế sản xuất đặt ra, cũng như các vấn đề có liên quan đến đời sống hàng ngày của mỗi dân tộc mỗi quốc gia đang gặp phải vô cùng rộng lớn, mà bản thân nền khoa học và công nghệ của các quốc gia riêng rẽ không có thể tự mình giải quyết mọi vấn đề đó, do vậy việc hợp tác trong nghiên cứu khoa học, cũng như chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia là tất yếu.
1.3. Chuyển giao công nghệ là cần thiết để mỗi quốc gia phát huy triệt để lợi thế
so sánh tương đối của mình.
Ngày nay khi mà mỗi quốc gia đã ý thức được rằng, nguồn tài nguyên của mỗi quốc gia là có hạn, cũng như mỗi nước chỉ có những lợi thế so sánh tương đối trong sản xuất một số lĩnh vực cụ thể, do vậy họ luôn luôn tìm tòi con đường khoa học và công nghệ tiên tiến và hợp lý nhất để khai và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên của quốc gia mình, cũng như tăng tính cạnh tranh về lợi thế so sánh tương đối của mình, trong đó con đường chuyển giao công nghệ từ nước ngoài luôn được các quốc gia cân nhắc tới.
1.4. Chuyển giao công nghệ là con đường cần thiết để các công ty tăng năng lực cạnh tranh, đồng thời tránh hàng rào bảo hộ kỹ thuật ngày càng tinh vi trên các thị trường.
Ngày nay cùng với xu hướng phát triển mạnh mẽ của thương mại thế giới, thì sự cạnh tranh giữa các tập đoàn, các công ty diễn ra ngày càng khốc liệt, cũng như sự bảo hộ của các thị trường dân tộc và khu vực ngày càng tinh vi hơn. Đứng trước xu thế đó, các công ty, các tập đoàn, các quốc gia phải tính đến khả năng đầu tư nước ngoài và CGCN. Đối với các nước đang và chậm phát triển thì việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và CGCN từ nước ngoài sẽ giúp họ nâng cao năng lực sản xuất và năng lực cạnh tranh của hãng. Với các nước phát triển, các công ty, các tập đoàn họ luôn xác định rằng việc khai thác các thị trường tiềm năng ở nước ngoài bằng cách chuyển các kỹ thuật cơ bản, bí quyết chế tạo và thiết bị sản xuất ra nước ngoài, và tiến hành sản xuất ngay tại nước nhận CGCN với mức giá thành rẻ do tận dụng được chi phí nhân công và nguyên vật liệu rẻ song tạo ra hàng hoá có chất lượng cao hơn hẳn các sản phẩm bản địa giúp họ vừa có thể cạnh tranh với hàng hoá của nước bản địa, vừa tránh được hàng rào bảo hộ của nước bản địa.
Việc di chuyển các cơ sở sản xuất cũng như CGCN ra nước ngoài, chính là việc tạo nguồn hàng xuất khẩu sang các nước thứ ba, cạnh tranh với hàng hoá của đối thủ khác trên thị trường các nước thứ ba, cũng như ngay trên thị trường tại khu vực mà tập đoàn tiến hành CGCN và sản xuất. Sự kết hợp giữa tính ưu việt về công nghệ cao của các nước phát triển hoặc của các TNCs với lợi thế so sánh về giá thành các yếu tố sản xuất do việc sản xuất ở nước ngoài và sự quản lý chặt chẽ và hiệu quả của các công ty tập đoàn đã đem lại cho hàng hoá của các công ty một sức cạnh tranh cao trên thị trường.
Qua những phân tích ở trên, qua các cách nhìn nhận khác nhau về chuyển giao công nghệ, chúng ta đã thấy được tính tất yếu của chuyển giao công nghệ trong thời đại ngày nay. Một khi mà sự chênh lệch và trình độ công nghệ về mức
sống giữa các quốc gia các khu vực khác nhau trên thế giới còn tồn tại thì
CGCN còn tồn tại.
2. Vai trò của chuyển giao công nghệ với nền kinh tế và doanh nghiệp
Năng lực công nghệ của mỗi công ty, mỗi quốc gia không tự nhiên mà có, mà là quá trình tích luỹ sàng lọc và không ngừng đào thải. CGCN quốc tế là cơ hội quý hiếm không những giúp cho các nước phát triển không ngừng cách tân để tạo cho mình có công nghệ tiên tiến nhất, mà nó còn giúp cho các nước đang và chậm phát triển có đựơc công nghệ cần thiết mà tiết kiệm được chi phí và thời gian.
Thật vậy, đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, thì công nghệ luôn là đối tượng nghiên cứu phân tích để lý giải những thành bại của doanh nghiệp này so với doanh nghiệp khác, luôn là yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh trên thị trường của mỗi doanh nghiệp.
Đối với các nước phát triển và các TNCs, từ trước đến nay vẫn theo đuổi chiến lược “dẫn đầu về công nghệ”, sự dẫn đầu về công nghệ cho phép duy trì lợi thế cạnh tranh ngay cả khi chênh lệch đã giảm đi, tuy nhiên vị thế “dẫn đầu về công nghệ” chỉ có ý nghĩa tương đối theo thời gian, do vậy để duy trì vị trí dẫn đầu công nghệ buộc các nước phát triển và các TNCs phải tính đến CGCN. CGCN giúp cho các quốc gia và các công ty này luôn luôn có thể hấp thụ và học hỏi, và cập nhật được công nghệ mới nhất của đối thủ cạnh tranh. Hơn thế nữa khi áp dụng công nghệ mới, các nước phát triển và các TNCs sẽ thay thế dần các công nghệ và thiết bị lạc hậu (kể cả thiết bị mới chưa sử dụng nhưng đã cũ về nguyên lý công nghệ). Khi đó mong muốn chuyển giao các công nghệ cũ sang các nước khác là tất yếu để có thể tiếp tục thu lợi từ công nghệ đáng ra phải bỏ đi từ đó lại tạo điều kiện cho các nước phát triển và các TCNs tăng thêm khả năng tài chính để cách tân công nghệ mới của mình. Một chi phí để duy trì một nhà máy hoạt động cầm chừng (do đã cũ về nguyên lý công nghệ) lớn hơn nhiều chi phí dỡ bỏ nó, và tất nhiên nếu có người chịu bỏ tiền để tháo dỡ và mua lại nhà máy đó, công nghệ đó thì lại càng tốt cho các nước phát triển.
Đối với các nước đang và chậm phát triển, CGCN sẽ mang lại cho các nước này những lợi ích cơ bản như:
- Thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài kèm theo chuyển giao công nghệ.
- Tiết kiệm được chi phí lớn về R&D.
- Tiếp cận và sử dụng được ngay những công nghệ tiên tiến hơn những công nghệ đang có trong nước.
- Khai thác và sử dụng hữu hiệu nguyên vật liệu trong nước.
- Tạo công ăn việc làm cho người lao động có trình độ cao.
- Thay thế nhập khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu nhập ngoại tệ.
CGCN quốc tế đã và đang tạo cho các nước đang và chậm phát triển những lợi thế cạnh tranh tương đối bền vững trong một khoảng thời gian nhất định trên thị trường thế giới về một số sản phẩm đặc trưng của mình (theo lợi thế so sánh) trên cơ sở đó có thể đạt được sự tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. Cho dù trình độ công nghệ của các nước đang và chậm phát triển chỉ đang ở trong giai đoạn đầu CNH - HĐH thấp hơn nhiều so với các nước công nghiệp phát triển nhưng nếu có chính sách nhập khẩu công nghệ “thích hợp”, khai thác triệt để lợi thế “của kẻ đi sau”, tích cực tham gia vào phân công lao động quốc tế cũng như có chính sách ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo giáo dục, nghiên cứu và triển khai, thì chắc chắn dần dần sẽ khắc phục được “nguy cơ tụt hậu” về công nghệ so với các nước công nghiệp phát triển.
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG CÔNG NGHỆ VÀ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM.
1. Khái quát chung về thực trạng công nghệ Việt Nam hiện nay
1.1. Mức độ tiên tiến của công nghệ
Về toàn cảnh công nghệ Việt Nam có thể khái quát như sau: “Công nghệ Việt Nam ở mức trung bình kém, cố gắng đến 2005 đạt trình độ trung bình khá của khu vực”[1]
Theo đánh giá của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường đăng trên tạp chí “Kinh tế Việt Nam và thế giới” số 71 xuất bản tháng 6 / 1999, và cũng theo báo cáo của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường trình Chính phủ cho thấy một tổng quan về công nghệ Việt Nam. Công nghệ Việt Nam lạc hậu so với các nước trên thế giới khoảng 50 đến 100 năm. So với mức trung bình của thế giới thì thiết bị của ta hiện nay lạc hậu từ 2-3 thế hệ hoặc 4-5 thế hệ tuỳ từng lĩnh vực chuyên ngành cụ thể. Kết quả điều tra thực trạng máy móc thiết bị và công nghệ ở 2.292 Doanh nghiệp nhà nước cho thấy hiện có 1.217 doanh nghiệp có các loại máy móc thiết bị hỗn tạp, có xuất xứ từ gần 20 nước trên thế giới khác nhau. Trên
11.000 doang nghiệp có 50% máy móc thiết bị đã quá cũ.
Theo một báo cáo khác của Bộ công nghiệp cũng cho hay qua khảo sát ở
727 thiết bị và dây chuyền công nghệ tại 42 nhà máy thì có tới 70% thiết bị mới nhập thuộc thế hệ những năm 50- 60 thế kỷ 20, trên 70% thiết bị đã hết khấu hao, 50% thiết bị được tân trang lại. Trình độ công nghệ kỹ thuật và thiết bị máy móc ở các doanh nghiệp nhỏ còn yếu kém hơn. Trên 1/2 doanh nghiệp này mua máy móc cũ, điều này dẫn đến sản phẩm kém chất lượng, doanh nghiệp không
có khả năng đổi mới và sáng tạo ra sản phẩm mới. Trong 2.733 doanh nghiệp
[1] GS - TS Trần Đắc Vụ - Vụ trưởng vụ phát triển công nghệ Bộ khoa học Công nghệ và Môi trường - Công nghệ Việt Nam đang đứng ở đâu - Thời báo kinh tế Việt Nam ngày 22/3/1995, Tr.12
thuộc các thành phần kinh tế đóng trên điạ bàn Hà Nội có 90-92% thuộc loại này[2].
Và theo những đánh giá gần đây nhất cũng cho thấy trình độ đổi mới công nghệ của nước ta còn nhiều hạn chế. Về chỉ tiêu đánh giá trình độ tự động hoá mới chỉ có 3% doanh nghiệp công nghiệp nhà nước sử dụng thiết bị tự động hoá,
39% doanh nghiệp nhà nước sử dụng thiết bị bán cơ khí. Chỉ có 40% số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt trình độ tự động hoá và 45% số doanh nghiệp này đạt trình độ bán tự động[3]. Với tốc độ đổi mới công nghệ như hiện nay (8-10%/năm) thì sau 10 năm chúng ta mới đổi mới được một thế hệ công
nghệ.
Bảng 1: Đánh giá Công nghệ 10 nước ASEAN
(Qua ý kiến của 24 công ty Nhật Bản đang hoạt động ở 10 nước ASEAN, thang điểm tối đa là 5)
Xinhgapo
3,8
Indonêsia
2,2
Malaysia
3,0
Việt Nam
1,9
Phi lippin
2,8
Myanmar
1,8
Thái Lan
2,6
Lào
1,5
Brunei
2,6
Campuchia
1,3
Nguồn: Danh Sơn, Đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà Nước
ở Việt Nam - thực trạng, vấn đề và giải pháp - T/c Nghiên cứu kinh tế số 264-
5/2000, tr 4.
Việc huy động và khai thác công nghệ - thiết bị lạc hậu đã qua sử dụng làm cho khoảng cách tụt hậu về công nghệ so với thế giới ngày càng xa. Trong các
[2] Đoàn Châu Thanh - Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam trong công cuộc CNH - HĐH nền kinh tế - Luận văn thạc sĩ - Trường Đại học Ngoại thương
[3] Nguyễn Mạng Hùng - Thực trạng đầu tư đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước - Tạp chí kinh tế và dự báo số 11/2002
lĩnh vực lắp ráp điện, lắp ráp xây dựng, thuỷ sản đông lạnh lạc hậu 1-2 thế hệ; điện, giấy sửa chữa, máy lâm nghiệp, đường mía lạc hậu 2-3 thế hệ; đường sắt đường bộ, đóng tàu cơ khí là 3-5 thế hệ. So với các nước trong khu vực công nghệ của ta lùi xa về thế hệ khoảng 15-20 năm trong ngành điện tử, 20 năm trong ngành cơ khí; 3-5 thập kỉ đối với công nghiệp sản xuất giấy in, giấy bao bì.
70% công nghệ dệt, sợi, nhuộm đã sử dụng trên 20 năm; công nghệ sản xuất phân bón đã sử dụng từ 25-30 năm[4].
Do công nghệ lạc hậu dẫn đến năng suất ở Việt Nam rất thấp, mức hao phí năng lượng nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm ở mức cao từ đó làm hạn chế tính cạnh tranh hàng hoá Việt Nam. Cụ thể năng suất ở Việt Nam chỉ bằng
30% mức trung bình của thế giới. Tiêu hao phí năng lượng so với các nước trên thế giới ở ngành cơ khí bằng 120%, ngành quần áo may mặc sản xuất xuất khẩu
127%, ngành giấy 126%, dệt 110%, ngành than 175%, xăm lốp cao su 204%, hoá chất cơ bản 138%, luyện kim đen 250%, luyện kim màu 148%, các sản phẩm kim loại 170%, quạt điện 246%. Chi phí đầu vào của công nghệ hiện có khá cao so với công nghệ tiên tiến, ví dụ như tiêu hao điện năng trên đơn vị công suất ở thiết bị sản xuất xi măng cao gấp 1,4 lần; gạch chịu lửa 2,5 lần; trong luyện thép 1,7 lần[5].
Chính do yếu tố công nghệ lạc hậu sẽ gây ra một phản ứng dây chuyền đó
là nền kinh tế chỉ có thể sản xuất ra sản phẩm có chất lượng trung bình thậm chí thấp, giá thành cao, và sản phẩm sản xuất ra không theo kịp thay đổi về nhu cầu thị trường.
Để có thể đánh giá sát thực hơn nữa về mức độ tiên tiến và năng suất của công nghệ Việt Nam hiện nay, dưới đây người viết sẽ trình bày cụ thể hơn về thực trạng của một số ngành, một số lĩnh vực chủ chốt của Việt Nam hiện nay:
Ngành công nghệ thông tin
[4], [5] Nguyễn Mạnh Hùng - Giảm chi phí sản xuất nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp Việt Nam - Tạp chí kinh tế và dự báo số 11/2002
So với các ngành khác, ngành công nghệ thông tin được xem là ngành có công nghệ hiện đại nhất ở Việt Nam hiện nay.
Với công nghệ hoàn toàn nhập khẩu, Việt Nam liên lạc trực tiếp với thế
giới qua vệ tinh viễn thông, song dung lượng truyền còn thấp, tốc độ mới trên 34
Mbit/ giây, trong khi thế giới đạt tốc độ 2 Gbit/ giây. Việc khai thác tính năng của cách mạng thông tin vào mục đích thương mại ở nước ta cho đến nay chưa được bao nhiêu. Thậm chí khái niệm “thương mại điện tử” còn rất mơ hồ và xa lạ với nhiều doanh nghiệp. Hiện nay ở Việt Nam mới có khoảng 27% doanh nghiệp sử dụng Internet. Qua khảo sát ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ cho thấy chỉ có khoảng 3% số doanh nghiệp này tỏ ý quan tâm tới “thương mại điện tử”,
7% mới bắt đầu triển khai và tới 90% không có khái niệm gì về “thương mại điện tử”. Đó là chưa kể đến một số doanh nghiệp vừa và nhỏ không có cả máy Fax lẫn máy vi tính[6].
Hiện nay chỉ có khoảng 2% (gần 3.000 doanh nghiệp) trong tổng số doanh nghiệp Việt Nam có Website riêng, và khoảng 8% số doanh nghiệp tham gia có tính phong trào hoặc mới bắt đầu đi vào thử nghiệm. Đã thế số doanh nghiệp tham gia “thương mại điện tử” chủ yếu dừng lại ở giai đoạn 1 và 2 của quy trình giao dịch “thương mại điện tử” nên hiệu quả còn thấp. Có tới 97% số doanh nghiệp chưa thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Với 90% số doanh nghiệp chưa tham gia “thương mại điện tử”, đây thực sự là một vấn đề đáng lo ngại[7].
Cho đến nay mới có khoảng chục sản phẩm điện tử - tin học mang thương hiệu
Việt Nam do các công ty trong nước thiết kế, chế tạo như (Vietronics, Gvec, VTB, VTD, Setro, Jec..), máy tính cá nhân (CMT, Genpacific, FPT, Green
Mekong, VTB...) số doanh nghiệp tham gia tăng nhanh, nhưng doanh số không
[6] Kỳ Minh - Bảo Châu - Triển vọng của ngành công nghệ thông tin ở nước ta - Tạp chí Con số và Sự kiện số
quý I/2002, Tr.16
[7] Thanh Xuân - Thương mại điện tử còn xa lạ với doanh nghiệp Việt Nam - Báo khoa học và phát triển số 50 ngày 12/12/2002, Tr.12
lớn, không đứng vững trên thị trường và không có sức mạnh cạnh tranh ngay cả
với các sản phẩm điện tử nước ngoài sản xuất tại Việt Nam.
Ngành sinh học
Dựa trên công nghệ sinh học để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá là một bước quan trọng để thúc đẩy công nghiệp hoá ở nông thôn. Vì nước ta là một nước nông nghiệp, 80% số dân ở nông thôn, sản xuất nông nghiệp chiếm
27,2%[8]. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền với công nghiệp hiện đại hoá
nông thôn đúng theo tinh thần văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản
Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành sinh học.
Công nghệ sinh học bao gồm từ kỹ thuật chọn, lai tạo giống truyền giống, công nghệ vi sinh, công nghệ mô, công nghệ tế bào đến công nghệ di truyền, công nghệ ADN có ý nghĩa rất lớn đối với phát triển toàn diện ở Việt Nam một cách bền vững, với sự bảo vệ và cải thiện môi trường thiên nhiên và môi trường sinh thái.
Về công nghệ sinh học, trên thực tế Việt Nam mới dừng lại ở 2 sản phẩm là rượu cồn và bia. Những sản phẩm hết sức quan trọng khác của công nghệ sinh học như kháng sinh, axit amin, axit hữu cơ, dung môi hữu cơ...có mặt trên thị trường Việt Nam đều là sản phẩm nhập ngoại. Công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm không đủ sức cạnh tranh với các nước trong khu vực, đang chao đảo do thiếu vốn, thiếu vốn thiếu công nghệ.
Thành tựu của chúng ta trong áp dụng công nghệ sinh học mới chỉ là những bước sơ khai, do chúng ta ít sáng tạo, mới chỉ ứng dụng máy móc, dập khuôn thành tựu khoa học kỹ thuật nước ngoài, thiếu đầu tư chiều sâu.
UNESCO đã có sáng kiến giúp cho các nước đang phát triển đi vào công nghệ sinh học và nước ta về danh nghĩa là thành viên của trung tâm công nghệ gen, công nghệ sinh học quốc tế, nhưng trên thực tế cho đến nay còn ít tham gia
vào các hoạt động CGCN quốc tế về lĩnh vực này.
[8] GS Nguyễn Đình Phan - CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn - Tạp chí KCM tháng 3/1998, Tr.3.
Ngành thiết bị vật liệu
Có thể nói rằng, Việt Nam chưa thiết lập được nền công nghiệp chế tạo vật liệu mới, như vật liệu thông minh, vật liệu phi tuyến...Các loại vật liệu gốm kỹ thuật, vật liệu composit gần đây mới phát triển ở nước ta chỉ chiếm 5% tổng số các loại vật liệu. Các loại vật liệu này chỉ là vật liệu của giai đoạn tiền công nghiệp hoá. Trong khi đó công nghiệp chế biến và sử dụng nguyên liệu khoáng sản truyền thống lạc hậu so với thế giới từ 30-100 năm.
Ngành cơ khí chế tạo
Ngành cơ khí chế tạo của Việt Nam lạc hậu từ 3-5 thế hệ (khoảng 50-100 năm) so với thế giới. Hệ số cơ giới hoá trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp của Việt Nam đạt khoảng 50% (còn ở giai đoạn đầu của cơ khí hoá), tỷ lệ tự động hoá không đáng kể, nhiều khâu lao động còn thủ công.
Cả nước hiện nay có khoảng 39.000 máy công cụ thì trong đó hơn 10.000 chiếc là do Việt Nam tự chế tạo từ những năm 50 của thế kỷ 20, số còn lại nhập từ Liên Xô (cũ) và Đông Âu đã lạc hậu ngay từ lúc lắp đặt, chỉ có 1% là máy hiện đại mới nhập gần đây. Những minh chứng sau cho thấy sự yếu kém của ngành cơ khí nước ta: Việt Nam mới chỉ đóng được tàu đi biển trọng tải lớn nhất là 6,5 vạn tấn song động cơ chủ yếu là nhập khẩu (tàu Vĩnh Thuận do nhà máy đóng tàu Bạch Đằng thực hiện). Trong khi đó các nước trên thế giới đã đóng tàu chở hàng có trọng tải 20 vạn tấn, tàu chở dầu 1 triệu tấn.
Theo ông Nguyễn Xuân Chuẩn, Thứ trưởng Bộ công nghiệp chủ tịch hội kỹ sư ô tô Việt Nam cho biết: “ngành công nghiệp ô tô Việt Nam mới được hình thành song công nghệ không tương xứng với trình độ thế giới, công nghệ còn nghèo nàn lạc hậu, 70% số lượng công nghệ cần phải được thay thế tính từ năm
1995 đến năm 2000. Chúng ta mới chế tạo hoàn chỉnh động cơ diezel 50 ml còn các nước tiên tiến khác đã chế tạo hoàn chỉnh động cơ diezel 20.000-30.000 ml” Trong ngành đường sắt tổng sức kéo sử dụng trong đường sắt Việt Nam không lớn (250.000 CV) gồm 11 chủng loại khác nhau do hơn 20 nước chế tạo. Đặc biệt loại đầu máy TY-7 do Liên Xô (cũ) chế tạo chiếm quá nửa số lượng
đầu máy hiện có chế tạo từ những năm 70 làm nhiệm vụ kéo gỗ trong các lâm trường ở Liên Xô được chuyển sang Việt Nam từ trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại và hiện nay vẫn còn kéo trong đoàn tàu chính tuyến. Số đầu máy còn lại đều thuộc loại công suất nhỏ. Nếu năng suất đầu máy của ta là 100% thì của Trung Quốc là 153,5%, Indonexia 444,58%, Thái Lan 656,85%, Malaixia
249,17%, Ấn Độ 973,65%. Số toa xe sử dụng trước năm 1970 là 29,3%; trước 1980 là 58,5%; số thích hợp với nhu cầu hiện tại chỉ có 4,1%[9].
Ngành công nghiệp thép và luyện kim
Ngành công nghiệp thép và luyện kim sẽ đánh giá trình độ phát triển nền công nghiệp mỗi quốc gia, nó là công nghiệp nền tảng để phát triển các ngành công nghiệp cơ khí và các ngành có trình độ kỹ thuật cao hơn.
Chưa thể nói là Việt Nam đã có công nghiệp luyện kim một cách cơ bản bởi lẽ công nghệ của ngành luyện kim ở ta lạc hậu so với thế giới tới hơn 50 năm. Chúng ta chỉ có mỗi khu gang thép Thái Nguyên ở miền Bắc và chỉ sản xuất được 20% nhu cầu về phôi thép là nguyên liệu chính phục vụ luyện và cán thép thành phẩm, số còn lại phải nhập từ nước ngoài. Ở miền Nam mới chỉ có nhà máy luyện và cán thép, chưa có quá trình luyện quặng thành gang.
Công suất trung bình của các nhà máy ước tính chỉ khoảng 10 ngàn tấn thép một năm so với 500 ngàn tấn thép một năm của các nhà máy sản xuất thép ở khu vực Đông Nam Á. Ngành thép Việt Nam mới chỉ cán được các sản phẩm dài cỡ nhỏ và vừa với các mác phổ biến là Cacbon thấp. Xét về thực chất vẫn chỉ là gia công thép cho nhu cầu vừa và thấp, còn các sản phẩm thép hình, thép chất lượng cao phải nhập khẩu 100 %[10].
Việt Nam đang chế tạo lò điện luyện thép 40 tấn / mẻ, trong khi thế giới có
lò sản suất 500 tấn / mẻ. Dung tích của lò cao Thái Nguyên, con chim đầu đàn của ngành luyện kim Việt Nam là 100m3 tức là bằng 1/50-1/20 lần so với thế
[9] TS Lưu Văn Nghiêm - Định hướng trong phát triển công nghệ đường sắt trước tiến trình hội nhập - Tạp chí kinh tế và dự báo số tháng 6/2002
[10] Lê Huy Khôi - Hướng đi nào cho ngành thép Việt Nam - Tạp chí Con số và Sự kiện số 8/2002, Tr.18.
giới (2000-5000m3). Công nghệ cũ nát này đã ngốn rất nhiều nguyên liệu. Lò điện ở Việt Nam tiêu hao điện năng 900-1000 kw / tấn thép so với 400-500 kw / tấn của thế giới. Theo ông Nguyễn Hữu Thơ - Phó Tổng giám đốc Tổng công ty thép Việt Nam cho biết: “hiện nay nước ta có 35 doanh nghiệp sản xuất thép, 40 cơ sở cán thép. Nếu tính tổng sản lượng thép sản xuất ra của các nhà máy sản xuất thép (Công ty thép Đà Nẵng, Công ty thép Miền Nam, Công ty gang thép Thái Nguyên) hiện nay sản lượng thép của cả nước ước khoảng 3,454 triệu tấn
thép năm”[11] .
Ngành sản xuất xi măng
Hiện cả nước có tất cả 65 nhà máy xi măng, trong đó chỉ có 10 nhà máy lò quay hiện đại với tổng công xuất thiết kế là 15,2 triệu tấn / năm, 55 nhà máy xi măng lò đứng công nghệ lạc hậu với công suất thiết kế 3 triệu tấn / năm. Ngoài ra còn có 40 trạm nghiền xi măng với tổng công suất thiết kế 43,35 triệu tấn / năm. Do công nghệ lạc hậu nên chủng loại xi măng sản xuất hiện nay còn nghèo, chủ yếu là PCB 30, PCB 40, xi măng Puzôla[12].
Ngành dệt
Trong ngành dệt may do trình độ về công nghệ còn thấp từ đó dẫn tới năng suất lao động của ngành này thấp chỉ bằng 30 - 50% so với các nước trong khu vực. Cụ thể trong ngành kéo sợi năng suất lao động được biểu hiện qua số cọc sợi trên một lao động. Ở các nước khác với một dây truyền hiện đại chỉ tiêu này là 300 - 400 cọc sợi trên một người. Nhưng ở Việt Nam chỉ có một vài xưởng sợi hiện đại, một công nhân quản lý từ 200 - 350 cọc sợi. Còn đa số các dây chuyền sợi do dây chuyền công nghệ cũ, một công nhân chỉ quản lý được 70 -
80 cọc sợi.
[11] Tạp chí Công nghiệp Việt Nam số 20/2002, Tr.12
[12] Linh Hoa - Ngành xi măng Việt Nam công nghệ lạc hậu năng lực yếu - Báo khoa học và phát triển số 44 ngày 31/10 - 6/11/2002
Đối với ngành dệt thoi, hiện đa số các nước trong khu vực và trên thế giới chuyên sản xuất vải cung cấp cho ngành may đều sử dụng máy dệt không thoi với tốc độ 700 - 900 vòng / phút và một công nhân có thể quản lý được 30 - 50 máy dệt, hiệu suất thiết bị đạt từ 90 - 98%. Trong khi đó ở Việt Nam máy dệt thoi chỉ có tốc độ 140 - 170 vòng / phút và một người công nhân chỉ đứng được
8 - 10 máy. Có một số ít máy dệt không thoi vừa được trang bị nhưng cũng chỉ đạt tốc độ 500 - 600 vòng/ phút, một công nhân đứng được 10 - 12 máy. Hiệu suất thiết bị chỉ đạt được 70 - 80%[13].
Chất lượng vải của ngành dệt Việt Nam còn nhiều hạn chế. Trong một lô hàng đưa vào may thì khổ vải phải đồng đều, màu sắc phải đúng mẫu, các lỗi chỉ cho phép bình quân 30 - 40m một lỗi. Tuy nhiên các công ty dệt trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu này, nguyên nhân chính là do công nghệ trong ngành dệt của ta còn nhiều lạc hậu.
1.2. Giá cả của công nghệ
Giá cả của công nghệ được biểu hiện bằng tiền của giá trị công nghệ. Thông thường với những công nghệ có trình độ kỹ thuật hiện đại, có hiệu quả thương mại cao sẽ có giá cao. Tuy nhiên điều này lại không hoàn toàn đúng với thực tế của hoạt động CGCN nước ngoài vào Việt Nam.
Do thiếu những thông tin về thị trường CGCN trên thế giới, cũng như các thông tin có liên quan tới đối tượng công nghệ chuyển giao, phía Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định đúng giá cả công nghệ. Mặt khác do thiếu kinh nghiệm, kiến thức liên quan đến CGCN cùng với những biểu hiện yếu kém về phẩm chất của một số cán bộ thực hiện CGCN đã làm cho phía Việt Nam chịu thua thiệt lớn về giá cả khi CGCN. Giá cả của công nghệ được chuyển giao trong các dự án thường bị khai khống rất nhiều so với giá trị thực có của nó, và
đặc biệt là đối với các dự án liên doanh. Song vì các lý do khác nhau, mà rất ít
[13] Thách thức phát triển ngành dệt - Báo công nghiệp và Thương mại số 27 - 2002, Tr.10
[14] Tạp chí công nghiệp số quý I/2002
người và các cơ quan ban hành có thể biết được những thua thiệt về giá cả của các công nghệ nước ngoài chuyển giao vào trong nước.
Để minh chứng cho những nhận định trên, xin đưa ra một số ví dụ điển hình về các trường hợp khai khống giá công nghệ được chuyển giao:
Æ Trong dự án liên doanh gia cầm giữa Việt Nam và Thái Lan, phía Thái Lan thực hiện góp vốn bằng dây chuyền giết mổ gia súc, tuy nhiên qua thẩm định cho thấy phía Thái Lan đã khai khống giá của dây chuyền này lên tới
600.000 USD.
Æ Trong dự án liên doanh giữa công ty du lịch thành phố Hồ Chí Minh và Vinagroup, phía Vinagroup thực hiện góp vốn bằng giá trị thiết bị. Tổng trị giá của số dây chuyền thiết bị được hai bên quyết toán là 4.340.000 USD nhưng sau khi được một công ty quốc tế giám định lại thì giá trị thực còn lại là 2.990.000
USD.
Æ Công ty kiểm toán SGS được Nhà nước uỷ nhiệm thí điểm thẩm định ở
12 đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài. Kết quả cho thấy có tới 6 đơn vị có chênh lệch về giá mua thiết bị, số chênh lệch này lên tới 14.000.000 USD
Æ Qua một cuộc khảo sát của Bộ Công nghiệp cho thấy 42 liên doanh của
Bộ có vốn FDI, do mua phải thiết bị cũ đã qua tân trang con số thiệt hại lên tới
50.000.000 USD[14]. Việc giá tài sản cố định bị nâng lên cao làm tăng khấu hao tài sản cố định và có lợi cho việc thu hồi vốn của phía nước ngoài. Phía Việt Nam thiệt hại về tỷ lệ chia lãi, ngành thuế thiệt về thuế thu nhập doanh nghiệp. Cũng tương tự như tài sản cố định hữu hình, giá trị của tài sản cố định vô hình (nhãn hiệu, bản quyền…) do phía nước ngoài xác định thường rất cao, từ đó làm tăng khấu hao, giảm lợi tức chịu thuế.
1.3. Mức độ gây ô nhiễm môi trường của công nghệ
CGCN và nhập máy móc thiết bị cũ lạc hậu vào Việt Nam đã gây tác động xấu tới môi trường và sức khoẻ của người lao động cũng như người dân.
Máy móc không hiện đại, không sử dụng công nghệ sạch đã gây nên lượng chất thải lớn. Tại các nhà máy chế biến thuỷ sản ở Hải Phòng, Nha Trang, T.P Hồ Chí Minh do khí Freon và NH3 từ hệ thống máy cấp đông, kho đông lạnh, xe phát lạnh bị rò rỉ cộng với khí CO, SO2 bốc lên từ các bể dầu để chế biến các sản phẩm đông lạnh đã gây ô nhiễm không khí ở mức rất cao.
Tại khu công nghiệp Biên Hoà gồm 65 nhà máy phân bổ trên 1 diện tích
382 ha có phần lớn thiết bị công nghệ thuộc thế hệ năm 1970 nên vừa tiêu hao năng lượng nhiều vừa dẫn đến chất thải công nghiệp có tỷ lệ cao. Trung bình mỗi ngày đêm khu công nghiệp Biên Hoà thải ra hơn 26.000m3 nước thải xả trực tiếp vào sông Đồng Nai (cung cấp 90% lượng nước cho 3 khu vực dân cư: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và một phần tỉnh Bình Dương). Nước tại đây thải nhiều chất hữu cơ, nhiều dầu mỡ, kim loại nặng và vượt quá mức cho phép. Tải lượng nhiễm BODS lên đến 15.091 kg ngày đêm. Nồng độ bụi Oxit Ni tơ trong khu công nghiệp cao hơn nhiều lần so với tiêu chuẩn cho phép (TCCP). Đặc biệt là tại các nhà máy hoá chất ở Biên Hoà nồng độ khí Clo cao gấp 15 - 30 lần so với mức cho phép.
Tại nhà máy phân lân Văn Điển lượng bụi lên tới 1.100mg / m3 chiếm trên
90% lượng thải vào không khí. Xí nghiệp hoá chất sơn Hà Nội bụi chì vượt nồng độ cho phép tới hàng ngàn lần. Nhà máy cao su Hà Nội có nồng độ ô nhiễm cao, vượt quá TCCP 40 lần. Qua điều tra nồng độ khí độc trong các liên doanh về hoá chất vượt quá 11 lần so với tiêu chuẩn quy định; nồng độ bụi vượt quá 28 lần cho phép và có tới 10 % dây chuyền thiết bị gây ô nhiễm quá mức quy định._.ài nguyên; góp phần tăng năng suất lao động giải quyết việc làm và tiếp theo là các tiêu chí còn lại.
Bảng 3: Việt Nam và sự lựa chọn cho các ngành công nghiệp
Tiêu chí
Việt Nam có khả năng thành công
Cao
Thấp
Độ hấp dẫn
Cao
- Công nghệ tin học (phần mềm)
- Công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp nhiệt đới
-Công nghệ vật liệu mới
- Năng lượng mới
-Truyền thông
- Công nghiệp dịch vụ tầm xa (kiểm
VŨ THẾ ANH, A1 CN9 71
toán, bảo hiểm, tài chính)
- Công nghiệp du lịch
- Dược phẩm
Thấp
- Máy móc thiết bị nhỏ
- Nhóm linh kiện và sản phẩm điện tử
- Dệt may da dày đồ chơi
- Đóng tàu chuyên dụng vừa và nhỏ
- Sản xuất đồ gia dụng
- Hoá chất cơ bản
- Lọc dầu
-Sản xuất thép
- Xi măng
Tuy nhiên sự phân luồng cho các lựa chọn ở trên chỉ mang tính tương đối và có ý nghĩa tham chiếu, và có thể thay đổi theo mục tiêu phát triển khác nhau ở các thời kỳ khác nhau.
II. CÁC GIẢI PHÁP LỰA CHỌN CÔNG NGHỆ THÍCH HỢP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM.
1. Có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của chuyển giao công nghệ
Một sự nhận thức, đánh giá đúng đắn về tầm quan trọng của CGCN là yếu tố quan trọng đầu tiên quyết định sự thành công hay thất bại của mỗi cuộc CGCN. Từ nhận thức ban đầu đó sẽ phối tới chính sách định hướng, trước khi thực hiện một cuộc chuyển giao, cũng như trong quá trình khai thác công nghệ đã chuyển giao. Một nhận thức về tầm quan trọng của CGCN tới nền kinh tế trong nước nếu như có những lệch lạc, thiếu sót ngay từ ban đầu, sẽ kéo theo hàng loạt thất bại, mà chúng ta không thể khắc phục hoặc khó khắc phục, những thất bại đó sẽ xảy ra trên cục diện lớn của nền kinh tế ở mọi khâu sản xuất, và diễn ra theo một phản ứng dây chuyền trong một thời gian lâu dài không xác định.
Qua nghiên cứu những kinh nghiệm của một số nước trong lĩnh vực CGCN cũng như căn cứ vào tình hình thực tế của Việt Nam, cho thấy một nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của CGCN được thể hiện trên những khía cạnh sau:
- CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam là hướng quan trọng nhất hiện nay để đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ nước ta, là con đường ngắn nhất để rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với thế giới về khoa học và công nghệ. Tuy nhiên về lâu dài việc nâng cao năng lực công nghệ quốc gia là giải pháp quan trọng xuyên suốt quá trình CNH - HĐH. Thành công trong CGCN được chứng tỏ bằng cách làm chủ công nghệ thông qua những nỗ lực liên tục về tiếp thu công nghệ, thích nghi hoá và cuối cùng là phải sản sinh ra những công nghệ mới. Sự hoàn toàn lệ thuộc vào công nghệ nước ngoài sẽ kìm hãm việc đuổi bắt trình độ khoa học - công nghệ của các nước phát triển.
- CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam chỉ thực sự phát huy vai trò của nó nếu như các điều kiện về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực để tiếp nhận và khai thác công nghệ được chuyển giao thích ứng được yêu cầu mà công nghệ đó yêu cầu. Điều này có nghĩa công nghệ được chuyển giao vào nội địa phải phù hợp với điều kiện thực tế của nơi tiếp nhận có như vậy công nghệ được chuyển giao mới phát huy tối đa hiệu quả trên cơ sở kết hợp tính ưu việt về tính năng khai thác của công nghệ đó với lợi thế tương đối về nguồn lực trong nước.
2. Xây dựng chính sách nhất quán mang tầm chiến lược về ưu tiên phát triển công nghệ
Trên cơ sở những nhận thức đúng đắn về vai trò của CGCN tới nền kinh tế, chúng ta phải đưa ra hệ thống chính sách nhất quán mang tầm chiến lược về ưu tiên phát triển công nghệ.
Hệ thống chính sách đòi hỏi phải mang tính nhất quán, bởi vì nếu không có sự nhất quán trong chính sách chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình đổi mới công nghệ, đó là tình trạng “trên nói dưới không nghe”, “mạnh ai người ấy làm”. Kết quả CGCN sẽ không đem lại cái đích mà chúng ta hướng tới, thậm
chí phải gánh chịu những hậu quả nặng nề do chính sách không nhất quán về
CGCN đem lại.
Hệ thống chính sách về ưu tiên phát triển công nghệ và CGCN bao gồm: Chính sách ưu tiên phát triển lĩnh vực chuyển giao, và chính sách hỗ trợ cho hoạt động chuyển giao công nghệ .
2.1. Về lĩnh vực ưu tiên chuyển giao công nghệ
Qua việc căn cứ và phân tích đánh giá thực tế về tiềm năng và nhu cầu về
công nghệ trong nước chúng ta có thể đưa ra một số lĩnh vực ưu tiên CGCN như
sau:
- Bằng mọi khả năng có thể tranh thủ CGCN tiên tiến trên thế giới để thực hiện “đi tắt đón đầu” trong các ngành (viễn thông, điện tử, tin học, sinh học, vật liệu mới).
- Đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh CGCN phục vụ CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn.
- Chú trọng CGCN nhằm phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ
sản phục vụ xuất khẩu và công nghiệp hàng tiêu dùng.
- CGCN một cách có chọn lọc cho các ngành công nghiệp nặng (năng lượng, vật liệu xây dựng, cơ khí luyện kim, hoá chất).
2.2. Về chính sách hỗ trợ cho phát triển công nghệ và CGCN
2.2.1. Chính sách về vốn cho CGCN
Văn kiện hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VIII chỉ rõ: “Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần huy động nhiều vốn, sử dụng vốn có hiệu quả”. Nguồn vốn trong nước là quyết định nguồn vốn nước ngoài là quan trọng. Điều then chốt là huy động vốn bằng cách nào, sử dụng nguồn vốn như thế nào để có hiệu quả.
Chúng ta có thể huy động tối đa nguồn tích luỹ tiết kiệm từ dân cư đang tạm nhàn rỗi để đầu tư cho phát triển nói chung và cho hoạt động CGCN nói
riêng. Để thu hút được nguồn vốn này Nhà nước cần có biện pháp giảm thủ tục phiền hà, có chính sách lãi suất thích hợp có lợi cho người dân đồng thời xây dựng chế độ bảo hiểm tiền gửi đối với những tài khoản trong ngân hàng nội địa ở Việt Nam. Bên cạnh đó dần tạo ra một môi trường lành mạnh hấp dẫn trong hoạt động thị trường mở.
Huy động vốn từ nước ngoài (chủ yếu thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA) là hai nguồn vốn lớn có tính khả thi cao. Để huy động nguồn vốn FDI Nhà nước phải không ngừng hoàn thiện về những chính sách ưu đãi, cơ sở hạ tầng cho việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Bên cạnh đó phải triệt tiêu nạn quan liêu hành chính, giảm thiểu rườm rà trong việc tạo các nguồn vốn đối ứng cho các dự án ODA.
Trên cơ sở đã có nguồn vốn cần thiết, Nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng trang trải vốn cho hoạt động đổi mới công nghệ và CGCN theo nguyên tắc
sau:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vay vốn để đổi mới công nghệ như cho vay với lãi suất thấp, chỉ với điều kiện phương án có tính khả thi chứ không cần thế chấp; cho vay để thanh toán nợ trước khi đổi mới công nghệ; có thể trả nhiều lần.
- Đối với các lĩnh vực công nghệ mà Việt Nam cần “đi tắt đón đầu”, còn mới lạ với các doanh nghiệp, mà chỉ có các trung tâm nghiên cứu và triển khai khoa học mới có khả năng hấp thụ song đòi hỏi lượng vốn quá lớn vượt quá khả năng của họ, ngân hàng có thể cấp vốn với mức lãi suất thấp thậm chí bằng không với điều kiện bảo lãnh của Nhà nước.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng cho dù có sự hỗ trợ hoặc ưu đãi trong các biện pháp tài chính, tín dụng song dứt khoát không thực hiện chế độ bao cấp.
2.2.2. Về chính sách thuế
Những ưu đãi về thuế đối với những hoạt động đổi mới và CGCN vào Việt
Nam được thể hiện trên các phương diện sau:
- Phải làm cho các sắc thuế của Việt Nam có tính thuyết phục nội dung các sắc thuế phải thông suốt rõ ràng và ít thay đổi nhất.
- Dùng công cụ về thuế để hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ
hiện đại phù hợp với hướng ưu tiên của Nhà nước. Cụ thể:
+ Áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu thấp với các thiết bị, giải pháp công nghệ tiên tiến.
+ Miễn mọi loại thuế cho các sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử
bằng công nghệ mới.
+ Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong một số năm đối với các sản phẩm làm ra bằng công nghệ mới lần đầu tiên được áp dụng trong nước, hoặc công nghệ nội sinh mới.
+ Khi đánh thuế vào hoạt động CGCN cần lưu ý: chỉ nên đánh thuế ở mức độ hợp lý với phần thu được từ bí quyết kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá, hỗ trợ kỹ thuật của chuyên gia nước ngoài, tuy nhiên để khuyến khích việc đào tạo công nhân chúng ta không nên đánh thuế vào phần lợi thu được từ việc đào tạo công nhân (mặc dù đào tạo công nhân cũng thuộc nội dung CGCN).
3. Không ngừng hoàn thiện công tác quản lý hoạt động chuyển giao công nghệ
Ngày nay đứng trước sức ép của sự cạnh tranh gay gắt, bản thân mỗi doanh nghiệp luôn luôn phải tính đến việc không ngừng cải thiện năng lực cạnh tranh của mình, trong đó đổi mới công nghệ là yếu tố then chốt nhất trực tiếp tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, bất cứ một doanh nghiệp nào, vì lợi ích trước mắt luôn nỗ lực cách tân công nghệ hiện có bằng mọi khả năng có thể, thậm chí chỉ chạy theo việc phát triển lối mòn khoa học kỹ thuật nước ngoài mà không tính tới việc phát triển công nghệ một cách bền vững. Do vậy nhất thiết đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước tới hoạt động chuyển giao công nghệ, để ngăn chặn tình trạng du nhập công nghệ một cách lan tràn, trùng lặp gây lãng phí nguồn lực đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là vấn đề quan trọng đầu tiên chi phối các doanh nghiệp theo quy luật kinh tế khách quan. Nếu không có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp vì chạy theo lợi nhuận sẽ sẵn sàng du nhập những công nghệ không có chiều sâu thậm chí không có lợi tới cộng đồng đi ngược mục tiêu chung của công cuộc CNH - HĐH hoá đất nước, phương hại lợi ích quốc gia.
Công tác hoàn thiện chính sách quản lý hoạt động CGCN nước ngoài vào
Việt Nam thể hiện trên các phương diện sau:
- Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong hoạch định chính sách quản lý hoạt động CGCN cũng như trong giám sát việc chấp hành các quy chế đổi mới CGCN của các doanh nghiệp. Để thực hiện các yêu cầu nói trên cần tăng cường vai trò của Bộ Khoa học công nghệ và môi trường, Bộ công nghiệp cùng các cơ quan hữu quan để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ dưới đây:
+ Tham mưu cho chính phủ trong việc hoạch định các chính sách phát triển công nghệ cũng như trong việc hoàn thiện môi trường thể chế và hệ thống các chính sách nhằm thực hiện các mục tiêu của chiến lược CNH - HĐH.
+ Xây dựng các quy chế đánh giá công nghệ phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam.
+ Phối hợp cùng các cơ quan hữu quan xem xét lại các điều khoản có liên quan đến đổi mới và CGCN để kiến nghị sửa đổi bổ sung hoặc ban hành mới các thể chế không chỉ nhằm khuyến khích các loại hình đầu tư góp nhiều vốn mà còn đặc biệt khuyến khích các loại hình đầu tư góp phần nâng cao năng lực công nghệ quốc gia thông qua dạy nghề, truyền đạt các kỹ năng quản lý và nhập khẩu công nghệ đảm bảo sự phát triển lâu bền của đất nước.
- Các cơ quan Nhà nước cần có sự phối hợp tốt để phát hiện và xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đã được bảo hộ của nước ngoài tại Việt Nam, từ đó tăng thêm lòng tin của các đối tác trong quá trình chuyển giao công nghệ vào Việt Nam.
- Cần có các biện pháp hữu hiệu, thuận tiện cho việc đăng ký quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam.
4. Hoàn thiện hệ thống giám định, thẩm định, kiểm toán
Trong những năm qua, do hệ thống giám định, thẩm định và kiểm toán của nước ta còn hạn chế về số lượng và yếu kém về năng lực, chính vì vậy mà trong quá trình du nhập công nghệ nước ngoài vào trong nước chúng ta đã gặp phải rất nhiều thua thiệt như không biết được chính xác lai lịch và độ tuổi công nghệ; công nghệ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường lớn, giá cả công nghệ vượt quá cao so với giá trị thực có.
Mặt khác công tác giám định, thẩm định, kiểm toán có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đưa ra quyết định đầu tiên có chấp nhận đình chỉ thậm chí huỷ bỏ một cuộc CGCN từ nước ngoài vào trong nước. Chính vì hai lý do nêu trên, chúng ta phải không ngừng hoàn thiện hệ thống giám định, thẩm định, kiểm toán nhằm phục vụ có hiệu quả cho công tác giám định, thẩm định, kiểm toán trong hoạt động CGCN nước ngoài vào Việt Nam.
Công tác hoàn thiện hệ thống tổ chức hoạt động và nâng cao năng lực hoạt động của giám định, thẩm định, kiểm toán Việt Nam được tập trung trên các phương diện sau:
- Xây dựng một cơ chế kiểm soát thống nhất, hệ thống tổ chức thích hợp phục vụ công tác giám định và thẩm định kiểm toán.
- Vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động giám định, thẩm định, kiểm toán cần phải được luật hoá. Dành sự ưu tiên cho các tổ chức giám định và kiểm toán Việt Nam. Bên cạnh đó có sự kết hợp lựa chọn các công ty giám định và kiểm toán nước ngoài.
- Đối với các công nghệ và dự án công trình mà Việt Nam chưa đủ trình độ, phương tiện kỹ thuật để tiến hành giám định, thẩm định và kiểm toán có thể tổ chức đấu thầu hoặc thuê công ty giám định và kiểm toán có uy tín nước ngoài tiến hành giám định, kiểm toán thông qua hợp đồng thương mại trên cơ sở luật pháp quốc tế có sự giám sát của các cơ quan chức năng Việt Nam.
- Tăng cường hiệu quả hoạt động của công tác tổ chức quản lý tiêu chuẩn, đo lường, kiểm tra chất lượng, cũng như nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ nhân lực hoạt động trong các cơ quan kiểm tra tiêu chuẩn đo lường.
- Xây dựng hệ thống thông tin công nghệ và đảm bảo cập nhật kịp thời để phục vụ cho việc thẩm định kiểm toán, đánh giá công nghệ cũng như lựa chọn thiết bị công nghệ.
- Xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn, thông số kỹ thuật, và giới hạn cho phép của các nội dung liên quan đến CGCN (mức độ tiên tiến dây chuyền thiết bị, tính năng kỹ thuật, an toàn lao động, an toàn phóng xạ, ô nhiễm môi trường, nhu cầu thị trường, giá cả công nghệ).
5. Đẩy mạnh công tác tư vấn trong hoạt động chuyển giao công nghệ
Hoạt động tư vấn đóng vai trò là người “dẫn đường chỉ lối” cho các doanh nghiệp trong nước trong quá trình tìm tòi đổi mới công nghệ. Một hoạt động tư vấn có hiệu quả sẽ giúp phía nhập công nghệ tìm được nguồn công nghệ thích hợp, giảm thiểu được những chi phí không cần thiết, và quan trọng hơn hết là sự đầu tư vào du nhập công nghệ là đúng nơi đúng chỗ. Để hoạt động tư vấn trong CGCN có hiệu quả chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Thành lập một hội đồng tư vấn CGCN bao gồm: đại diện các cơ quan chuyên môn, các nhà khoa học, nghiên cứu triển khai, đại diện các hiệp hội ngành nghề, các doanh nghiệp. Hội đồng này có nhiệm vụ nghiên cứu khảo sát số liệu, tập hợp ý kiến đề đạt của các doanh nghiệp tổ chức có nhu cầu du nhập công nghệ để có thể tham mưu cho Nhà nước trong việc đưa ra chính sách cụ thể nhằm khuyến khích CGCN tiên tiến, phù hợp, có định hướng.
- Tăng cường việc tìm kiếm xử lý công bố các thông tin về CGCN trên thế giới để giúp doanh nghiệp trong việc tìm nguồn, lựa chọn công nghệ, đàm phán về mua bán công nghệ. Việc này có thể thực hiện được thông qua hợp tác liên kết (song phương hoặc đa phương) với các tổ
chức xúc tiến thương mại, các hiệp hội chuyên môn, các tổ chức dịch vụ
thông tin công nghệ của các nước.
6. Kết hợp hài hoà công nghệ nội sinh và công nghệ chuyển giao từ nước ngoài, từng bước nâng cao năng lực công nghệ nội sinh
Kết hợp du nhập công nghệ nước ngoài và công nghệ nội sinh là con đường ngắn nhất để thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. CGCN từ nước ngoài vào trong nước và phát triển công nghệ nội sinh có tác động qua lại hữu cơ với nhau. Công nghệ nhập ngoại sẽ có vai trò thúc đẩy và dẫn dắt hỗ trợ phát triển công nghệ nội sinh. Công nghệ nội sinh có vai trò làm tăng năng lực hấp thụ công nghệ nước ngoài sử dụng công nghệ đó đạt hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên cả hai nguồn công nghệ ngoại nhập và nội sinh chỉ thực sự đem lại hiệu quả nhất nếu như chúng ta có một sự bố trí kết hợp khai thác hai nguồn công nghệ này một cách thích hợp. Nếu không, hai nguồn công nghệ này sẽ không thể thúc đẩy lẫn nhau phát triển thậm chí triệt tiêu lẫn nhau thao chiều hướng tiêu cực.
Sự phối kết hợp hài hoà hai nguồn công nghệ và nâng cao năng lực công nghệ nội sinh được thể hiện qua cách thức sau:
-Trong bất cứ ngành sản xuất nào, công nghệ nội sinh cũng phải chiếm tỷ lệ
nhất định cho dù là ít nhất, ở khâu đơn giản nhất.
-Trong mỗi ngành sản xuất, mức độ đòi hỏi đổi mới công nghệ ở mỗi khâu là khác nhau, vì thế tuỳ thuộc vào yêu cầu đổi mới của từng khâu sản xuất mà đưa ra quyết định đổi mới công nghệ bằng việc du nhập công nghệ ngoại hay tự nâng cao công nghệ nội sinh cho phù hợp. Có thể đồng thời kết hợp việc sử dụng công nghệ nội sinh cho khâu sản xuất này bên cạch sử dụng công nghệ ngoại nhập cho khâu sản xuất khác trong cùng một ngành sản xuất. Hoặc trong cùng một khâu sản xuất có thể đồng thời kết hợp công nghệ ngoại nhập trên cơ sở nền tảng của công nghệ nội sinh.
- Trong quá trình du nhập công nghệ nước ngoài vào Việt Nam chúng ta kiên trì phấn đấu thực hiện nguyên tắc MAYA (Most advanced yet acceptable- hiện đại nhất nhưng có thể tiếp thu được) trên cơ sở đó trong quá trình khai thác
và sử dụng công nghệ ngoại nhập chúng ta sẽ có thể tiếp thu làm chủ và “Việt
Nam hoá” công nghệ ngoại nhập nâng cao năng lực công nghệ nội sinh.
7. Phát triển đào tạo, nghiên cứu và triển khai.
7.1. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hoạt động CGCN
Nhân tố con người là nhân tố trung tâm, là nhân tố quan trọng nhất trong các nhân tố quan trọng, là động lực quyết định đến sự phát triển khoa học công nghệ của mỗi quốc gia. Công nghệ được chuyển giao bởi con người và cũng chính do con người khai thác và điều hành. Công nghệ được chuyển giao sẽ không thể phát huy được tác dụng nếu như tách rời nó với yếu tố con người. Và yếu tố quan trọng nhất trong CGCN chính là con người điều hành công nghệ. Như vậy khai thác chất xám trong nước cũng như nâng cao việc đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực trong nước là công việc tối cần thiết mà bất cứ quốc gia nào cũng phải quan tâm hàng đầu, coi đó là quốc sách.
Công tác phát triển nguồn nhân lực phục vụ CGCN được tập trung vào những điểm sau:
- Gấp rút lập kế hoạch dài hạn phát triển khoa học, công nghệ, môi trường theo các định hướng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Phát huy tác dụng của đội ngũ cán bộ khoa học hiện có, trên cơ sở đó tiếp tục phát triển lên trình độ cao hơn cả về mặt chất và lượng.
- Xây dựng một số chương trình với tài trợ và ưu đãi đặc biệt để nghiên cứu một số hướng công nghệ ưu tiên ở tầm quốc gia. Gấp rút đào tạo (kết hợp trong và ngoài nước) đội ngũ cán bộ giỏi về công nghệ cho các lĩnh vực ưu tiên này.
- Phải luôn đào tạo lại, và cập nhật hoá các kiến thức về khoa học và công nghệ mới cho đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ.
- Thay đổi về căn bản phương thức tổ chức đào tạo, nghiên cứu và triển khai theo hướng nhất thể hoá ba khâu này sao cho hoạt động nghiên cứu ở các trường các viện gắn chặt hơn nữa với nhu cầu đổi mới công nghệ của khu vực
sản xuất, trên cơ sở đó đổi mới và hoàn thiện chương trình đào tạo theo hướng tăng cường nội dung công nghệ trong hệ thống giáo dục.
- Phải đảm bảo một cơ sở vật chất kỹ thuật tối thiểu công tác nghiên cứu khoa học, cũng như một chế độ đãi ngộ xứng đáng cho những người hoạt động trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học công nghệ, nhất là trong các ngành công nghệ cao.
- Từng bước nâng cao mặt bằng chung về dân trí, cùng với phát triển khoa học, công nghệ giáo dục thực sự là vấn đề quốc sách hàng đầu.
7.2. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu triển khai.
Trong giai đoạn phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, hệ thống nghiên cứu và triển khai dịch vụ kỹ thuật là yếu tố rất quan trọng nhằm đảm bảo quá trình phát triển tối ưu của nền kinh tế theo kế hoạch định hướng. Hệ thống này có ảnh hưởng mạnh mẽ tới xu hướng phát triển của tất cả mọi hệ thống và phân hệ đang vận hành trong nền kinh tế quốc dân.
Hệ thống R &D là trung tâm nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ ngoại nhập có hiệu quả nhất, là trung tâm đầu ngành đầu mối trong việc tiếp nhận, tư vấn và giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc khai thác và sử dụng công nghệ nội sinh và công nghệ ngoại nhập có hiệu quả mong muốn.
Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay hệ thống nghiên cứu và triển khai ở các viện các trường còn yếu kém, hoạt động chưa có hiệu quả, chưa có mối gắn kết thực sự giữa công tác nghiên cứu triển khai R&D ở các viện với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó chưa tạo ra cho các doanh nghiệp một năng lực cần thiết để có thể hấp thụ cải tiến và làm chủ công nghệ được chuyển giao.
Vì vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác R & D chúng ta nhất thiết phải phát triển công tác này theo những hướng sau đây:
- Đổi mới quản lý và tiến hành quy hoạch tổ chức cơ quan nghiên cứu và triển khai theo một hệ thống có cơ cấu hợp lý, theo hướng tập trung thống nhất, liên kết chặt chẽ giữa các lĩnh vực khoa học, giữa các ngành khoa học và các
ngành kinh tế - kỹ thuật để giải quyết những vấn đề có tính chất chiến lược tổng hợp, liên ngành với nền kinh tế quốc dân.
- Cần gắn các tổ chức và hoạt động về nghiên cứu và triển khai với hệ thống sản xuất vật chất và kinh doanh nhằm nhanh chóng nâng cao trình độ khoa học công nghệ của sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh, cũng như hướng cho các hoạt động nghiên cứu triển khai có mục đích cụ thể rõ ràng và thực tế.
- Nâng cao mức độ tự chủ và tài chính của các cơ quan nghiên cứu và triển khai thông qua các hoạt động dịch vụ và bán các kết quả nghiên cứu cho các doanh nghiệp theo hợp đồng. Ngoài ra chính phủ cần chuyển việc cấp kinh phí theo chương trình, đề tài sang phương thức khoán gọn, đấu thầu.
- Khuyến khích việc thành lập cơ sở nghiên cứu và triển khai trong các doanh nghiệp, cũng như đa dạng hình thức tổ chức nghiên cứu và triển khai trên nguyên tắc tự trang trải về tài chính.
- Mọi hoạt động nghiên cứu và triển khai luôn luôn phải gắn liền với diễn biến của thị trường. Hoạt động nghiên cứu - triển khai; marketing; sản xuất là ba quá trình không tách rời nhau. Nếu không tuân thủ quy luật này thì nghiên cứu và triển khai sẽ không mang lại hiệu quả về thương mại như mong muốn.
Hình 3: Các giai đoạn của chu trình nghiên cứu
SẢN XUẤT
HÀNG LOẠT
Khoa học - Triển khai công nghệ - Sản xuất - Tiêu thụ
CƠ BẢN
Ý ĐỒ, PHÁT TRIỂN KHOA HỌC
Nghiên cứu thị trường
NGHIÊN CỨU KHOA
ỨNG DỤNG
Phân tích lựa chọn
phương án
Nhu cầu tiềm năng
So sánh những sản phẩm cùng loại
Giá cả
khả quan
Phân tích giá cả, lợi nhuận
RA QUYẾT ĐỊNH
CÓ KHÔNG
Triển khai
Kỹ thuật Kinh tế
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ
Thử nghiệm
Sản phẩm trong phòng thí nghiệm
Giá thành
Thiết kế chuẩn
bị sản xuất
Sản phẩm mẫu
Giá bán
Loại Zero
Lợi nhuận
Chuẩn bị qui trình công nghệ
Chuẩn bị
sản xuất
Dự kiến giá cả
Chuẩn bị
thị trường
Tiêu thụ
Sản xuất hàng loạt Tiêu thụ sản phẩm
Dịch vụ sau khi bán
Bảo hành
Nguồn: Nguyễn Thanh Thịnh - Đào Duy Tính - Lê Dũng - Quy hoạch phát triển hệ thống nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ ở Việt Nam (một số vấn đề lý luận và thực tế) Nxb Chính trị quốc gia, 1999
KẾT LUẬN
Ngày nay khoa học - công nghệ đang dần thực sự trở thành lực lượng sản xuất chi phối trực tiếp đến tình hình sản xuất của các quốc gia và các doanh nghiệp. Việc nắm bắt, làm chủ trình độ công nghệ hiện đại sẽ đem lại sự phát triển lâu dài, bền vững ổn định cho quốc gia cũng như lợi thế cạnh tranh tuyệt đối cho mỗi doanh nghiệp. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay vấn đề đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ trong nước là yếu tố quyết định sự sống còn của nền kinh tế và là yếu tố không thể thiếu được để chúng ta đi lên xây dựng CNXH mà trước mắt là đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Con đường để chúng ta cách tân công nghệ ngắn nhất là CGCN từ nước ngoài vào trong nước. Tuy nhiên việc CGCN từ nước ngoài vào trong nước có mang lại hiệu quả mong muốn hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào phía chúng ta.
Khoá luận đi vào nghiên cứu về thực trạng của hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt nam với các đặc điểm tóm tắt như sau:
- Trình độ của phần lớn công nghệ được chuyển giao quá lạc hậu so với trình độ chung của thế giới, mức độ ô nhiễm lớn, chi phí vận hành cao.
- Các doanh nghiệp chưa ý thức được đầy đủ tầm quan trọng của công nghệ, mặt khác chưa đủ trình độ và vốn để tiếp nhận các công nghệ mới.
- Trình độ công nghệ giữa các lĩnh vực không đồng đều, có những lĩnh vực tương đối tiên tiến (viễn thông) nhưng còn nhiều lĩnh vực rất lạc hậu (cơ khí, thép, xi măng, dệt) và thậm chí có những lĩnh vực đang ở giai đoạn rất sơ khai hoặc chưa có gì (sinh học, vật liệu mới, vũ trụ…).
- Ngược lại, giá cả của công nghệ được chuyển giao rất đắt so với trình độ của chúng do chúng ta chưa có đội ngũ chuyên gia trong các lĩnh vực và một phần cũng do các tiêu cực trong quá trình ký kết hợp đồng.
Xuất phát từ thực tế trên và trong điều kiện Việt Nam hiện nay công nghệ
thích hợp là công nghệ tạo ra sản phẩm mà sử dụng nhiều nhân công với trình độ
kỹ năng ở mức trung bình phù hợp với mức thu nhập, thanh toán của người sử dụng (sản phẩm) và khai thác (công nghệ); tận dụng được các nguồn tài nguyên phong phú giá rẻ; phù hợp quy mô sản xuất nhỏ và trung bình ở Việt Nam; từng bước nâng cao năng lực công nghệ nội sinh và không tách rời vấn đề bảo vệ môi trường.
Tóm lại, khoá luận này đi vào nghiên cứu những lý luận chung nhất về công nghệ và CGCN trên cơ sở kết hợp phân tích đánh giá thực trạng về công nghệ và CGCN cũng như điều kiện thực tế của Việt Nam từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm lựa chọn công nghệ thích hợp với Việt Nam.
Nắm vững các kiến thức liên quan đến hoạt động CGCN để từ đó có thể vận dụng linh hoạt vào từng trường hợp CGCN thực tế khác nhau là yêu cầu cấp bách hiện nay. Và quan trọng hơn hết, trên cơ sở nắm vững những kiến thức đó các doanh nghiệp sẽ không ngừng nâng cao kiến thức kinh nghiệm của mình trong khi thực hiện hoạt động CGCN nước ngoài vào trong nước cũng như nâng cao hiệu quả của hoạt động đó, từ đó góp phần đẩy nhanh tiến trình CNH - HĐH ở Việt Nam.
Tuy nhiên, do thời gian và trình độ chuyên môn có hạn, khoá luận này chưa thể đề cập được đầy đủ các chi tiết cũng như các giải pháp cho từng lĩnh vực cụ thể như các giải pháp để tính giá thành công nghệ, đánh giá trình độ thực của công nghệ…
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ luật dân sự nước CHXHCN Việt Nam, ban hành ngày 9/1/1995. [2] Báo lao động số 9/1996.
[3] Chương trình kỹ thuật về công nghệ vật liệu thành công sau ba năm hoạt động - Tạp chí Nhịp sống Công nghiệp số 21/2002.
[4] Giáo sư - PTS Tô Xuân Dân, PTS Vũ Xuân Lộc - Quan hệ kinh tế
quốc tế - Nhà xuất bản Hà Nội, 1997.
[5] Trần Hữu Dũng - Thử đánh giá khả năng bắt kịp các nước láng giềng của Việt Nam - Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 286 - tháng 9/ 2000.
[6] Bùi Hồng Đới - Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng công thương
Việt Nam - Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 11/2001.
[7] Nguyễn Hoàng Giáp - Khai thác môi trường kinh tế quốc tế cho CNH
- HĐH - Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 267 - tháng 9/ 2000.
[8] Nguyễn Văn Hảo - Chuyển giao công nghệ từ Nhật Bản vào các nước
ASEAN, luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế - Trường Đại học Ngoại thương.
[9] Linh Hoa - Ngành xi măng Việt Nam, Công nghệ lạc hậu năng lực yếu - Báo Khoa học và Phát triển số 44 ngày 31/10-6/11/2002.
[10] Nguyễn Mạnh Hùng - Giảm chi phí sản xuất nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp Việt Nam - Tạp chí Kinh tế và Dự báo số tháng 11/2002.
[11] Nguyễn Mạnh Hùng - Thực trạng đầu tư đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước - Tạp chí Kinh tế và Dự báo số tháng
11/2002.
[12] Phan Lê - Công ty thuê tài chính mô hình phù hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ - Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 11/2001.
[13] Lê Huy Khôi - Hướng đi nào cho ngành thép Việt Nam - Tạp chí
Con số và Sự kiện số 8/2002.
[14] Vũ Chí Lộc - Giáo trình chuyển giao công nghệ - Trường Đại học Ngoại thương, 1998.
[15] Vũ Chí Lộc - Giáo trình đầu tư nước ngoài - Trường Đại học Ngoại thương - NXB Giáo Dục, 1997.
[16] Võ Đại Lược - CNH - HĐH Việt Nam đến năm 2000, NXB Khoa học xã hội, 1996.
[17] Kỳ Minh - Bảo Châu - Triển vọng của ngành công nghệ thông tin ở
nước ta - Tạp chí Con số và Sự kiện số quý I/2002.
[18] Nghị định 45/1998/ NĐ-CP ban hành ngày 01/7/1998 của Chính phủ
Quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ.
[19] Tiến sỹ Lưu Văn Nghiêm - Định hướng thị trường trong phát triển công nghệ đường sắt trước tiến độ hội nhập - Tạp chí kinh tế và Dự báo số 6/
2002.
[20] Dương Ngọc - Cách mạng tạo sức bật cho nền kinh tế Việt Nam trở thành một quốc gia Công nghiệp vào 2020 - Thời báo kinh tế Việt Nam, số Quốc Khánh 02/9/2002.
[21] Giáo sư Nguyễn Đình Phan - CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn, tạp chí KCM ngày 3/1998.
[22] Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghệ ngày 28/01/ 1989.
[23] Phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển Kinh tế - Xã hội 5 năm
2001 - 2005 - Bao cáo của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội Đảng IX.
[24] Quyết định 2109/1997 QĐBKHHCN & MT. Quy định về nhập khẩu máy móc thiết bị đã qua sử dụng. Quy định về nhập khẩu máy móc thiết bị đã qua sử dụng của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường.
[25] Danh Sơn - Đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà nước vở Việt Nam - Thực trạng vấn đề và giải pháp - Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 264 tháng 5/2000.
[26] Tạp chí công nghiệp số 20/ 1999.
[27] Tạp chí công nghiệp quý I/2002. [28] Tạp chí công nghiệp số 20/2002.
[29] Tạp chí Kinh tế Việt Nam và thế giới, số 71 xuất bản tháng 6/1999. [30] Đoàn Châu Thanh - Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt
Nam trong công cuộc CNH - HĐH nền kinh tế, Luận văn thạc sỹ kinh tế - Trường
Đại học Ngoại thương.
[31] Thời báo kinh tế Việt Nam ngày 22/3/1995.
[32] Nguyễn Thanh Thịnh - Đào Duy Thịnh - Lê Dũng - Quy hoạch phát triển hệ thống nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ ở Việt Nam. (Một số vấn đề lý luận và thực tiễn) - NXB chính trị quốc gia, 1999.
[33] Trần Văn Thọ, CNH Việt Nam trong thời đại châu Á - Thái Bình
Dương, NXB TP. HCM, 1997.
[34] Tiến sỹ Bùi Anh Tuấn - Tạo việc làm cho người lao động qua đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. NXB Thống kê Hà Nội, 2000.
[35] Vũ Hữu Tửu - Kỹ thuật nghiệp vụ Ngoại thương - Trường Đại học
Ngoại thương - NXB Giáo Dục, 1998.
[36] Quốc Trường và Minh Phương - Tổng công ty bưu chính viễn thông
Việt Nam 10 năm đổi mới và phát triển - Kinh tế và Dự báo tháng 6/ 2002.
[37] Thanh Xuân - Thương mại điện tử còn “xa lạ” với Doanh nghiệp
Việt Nam - Báo Khoa học và Phát triển số 50 ngày 12/12/2002. [38] Văn kiện Đại hội Đảng khoá VIII, IX.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8355.doc