Lời mở đầu
Lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt. Nếu xác định lãi suất hợp lí sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất-lưu thông hàng hoá phát triển và ngược lại. Bởi vậy, lãi suất ngân hàng vừa là công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước, vừa là công cụ điều hành vi mô của các ngân hàng thương mại. Một chính sách lãi suất có hiệu quả là chính sách được áp dụng nhất quán trong một lãnh thổ và được NHNN điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo theo từng thời kì cho phù hợp với nhu cầu huy
35 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1200 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các mục tiêu cần hướng tới giải quyết đối với chính sách lãi suất ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động vốn và cung ứng vốn nhằm thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, phục vụ phát triển kinh tế đất nước, đồng thời đảm bảo được cho hoạt động của các ngân hàng thương mại thực sự có hiệu quả. Một chính sách lãi suất đúng đắn sẽ có tác động tích cực tới các mục tiêu kinh tế vĩ mô, và ngược lại, khi chính sách lãi suất thiếu chuẩn xác, nó sẽ làm trầm trọng thêm các hoạt động kinh tế.
Đối với Việt Nam, trong bước chuyển mình từ một nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết quản lí của Nhà nước, trong quá trình hoà nhập cùng sự phát triển của nền kinh tế thế giới, việc xem xét vấn đề lãi suất là rất cần thiết. Bài viết xin được đề cập tới vấn đề : Tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam thông qua 4 phần chính:
Phần I: Tìm hiểu chung về lãi suất
Phần II: Thực trạng vấn đề lãi suất ở Việt Nam hiện nay
Phần III: Các mục tiêu cần hướng tới giải quyết đối với chính sách lãi suất hiện nay
Phần IV: Một số kiến nghị, giải pháp về việc tự do hoá lãi suất ở Việt Nam hiện nay.
Với sự hiểu biết còn nhiều hạn chế, em xin được trình bày những hiểu biết, nhận thức của mình về vấn đề tiến tới tự do hóa lãi suất và đề xuất những kiến nghị của bản thân về định hướng tự do hoá lãi suất ở nước ta hiện nay. Em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo của thầy giáo: thạc sỹ Đào Hùng đã giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu. Em cũng xin chân thành cảm ơn thư viện nhà trường đã cung cấp tư liệu cho bài viết.
Hà nội ngày 1/ 2/2001
Sinh viên
Đinh Thị Thu Hương
Nội dung
Phần I
Tìm hiểu chung về lãi suất
Khái niệm và các yếu tố cấu thành lãi suất.
1. Khái niệm.
Tiền lãi là phần tiền dôi ra bên ngoài số vốn mà người đi vay trả cho người cho vay.
Lãi suất là tỉ lệ phần trăm tính theo năm (hoặc tháng, ngày) giữa lãi vay và số tiền cho vay.
2.Các yếu tố cấu thành lãi suất.
Lãi suất được hình thành từ rất nhiều yếu tố vật chất và phi vật chất. Những yếu tố này luôn luôn biến động đòi hỏi sự theo dõi thường xuyên để định lượng chúng, đặt ra mức lãi suất phù hợp.
Yếu tố vật chất.
Chi phí huy động vốn bình quân.
Chi phí huy động vốn là số tiền mà một người dự định dùng để cho vay kiếm lời. Số tiền đó có thể thuộc quyền sở hữu của người cho vay hoặc có thể do anh ta vay từ người khác với một lãi suất thấp hơn. Đây là yếu tố đầu tiên được tính đến và chiếm phần lớn trong mỗi mức lãi suất. Khi chi phí này tăng thì lãi suất cũng phải tăng để đủ bù đắp khoản chi phí vốn ban đầu bỏ ra. Ngược lại, chi phí giảm thì lãi suất giảm để hấp dẫn người đi vay.
b) Tỉ suất lợi nhuận bình quân.
Tỉ suất lợi nhuận bình quân là tỉ lệ phần trăm giữa lợi nhuận bình quân so với số vốn của các tổ chức đưa vào kinh doanh.
Bất cứ một khoản tiền vay dùng để đầu tư vào một lĩnh vực nào đó đều phải nhằm mục tiêu có lợi nhuận và lợi nhuận này càng lớn hơn số lãi phải trả thì càng tốt. Do đó, nếu lãi suất lớn hơn tỉ suất lợi nhuận bình quân thì người đi vay sẽ không cảm thấy thích thú khi đi vay, họ có thể vay ít đi hoặc ngừng vay. Bởi vậy, tỉ suất lợi nhuận cũng là một căn cứ quan trọng để xác định lãi suất. Thông thường tỉ suất lợi nhuận bình quân tăng thì lãi suất cũng tăng và ngược lại.
c) Tỉ lệ lạm phát.
Tỉ lệ lạm phát là % tăng giá cả trên thị trường trong một thời gian (thường là một năm)
Trong thực tế, không phải lúc nào lãi suất cũng tỉ lệ thuận với chi phí huy động vốn bình quân và tỉ suất lợi nhuận bình quân vì nó còn bị chi phối bởi lạm phát - một yếu tố không kém phần quan trọng. Sự biến động của thị trường giá cả -nhất là trong tình trạng lạm phát thường xuyên làm hao mòn giá trị của vốn tiền tệ cho vay nên buộc người vay phải tính đến việc bảo toàn giá trị của vốn vay bằng cách tính vào mức lãi suất một tỉ lệ tương ứng với tỉ lệ giảm giá của đồng tiền để bảo đảm thu hồi vốn và có lãi với giá trị thực của vốn ban đầu. Mặc dù tỉ lệ lạm phát đã tính vào lãi suất nhưng con số đó chỉ được xác định một cách tương đối vì khó có thể dự đoán trước chính xác diễn biến giá cả như thế nào? Nó tăng hay giảm phụ thuộc vào nhiều yếu tố mà những yếu tố này có khi không lường trước được như chiến tranh, mất mùa, khủng hoảng...Do đó, cả người đi vay lẫn người cho vay đều chịu một rủi ro lạm phát nhưng theo hướng ngược lại trong giao dịch đi vay và cho vay( đặc biệt khi lãi suất là cố định đối với toàn bộ thời gian giao dịch) đối với người cho vay, đó là rủi ro tăng tỉ lệ lạm phát mà ảnh hưởng của nó sẽ làm giảm số lãi thực tế của nghiệp vụ cho vay; đối với người đi vay, đó là rủi ro hạ tỉ lệ lạm phát mà ảnh hưởng của nó sẽ làm tăng chi phí thực tế của khoản nợ. Chính vì tính bất định của lạm phát nên rủi ro lạm phát tăng thì lãi suất cũng tăng và ngược lại.
d) Mức độ rủi ro.
Người đi vay và người cho vay thường là những người không quen biết, không bị ràng buộc bởi các mối quan hệ, vì thế khi thực hiện giao dịch đi vay và cho vay dễ phát sinh các vấn đề tiêu cực, các rủi ro không mong muốn. Để giảm bớt những rủi ro đó, người cho vay phải yêu cầu người đi vay thế chấp một vật gì đó để làm đảm bảo cho khả năng tính toán của họ. Tuy vậy, các rủi ro đối với khoản vay không vì thế mà được loại bỏ. Đặc biệt đối với những hoạt động kinh doanh tín dụng thì sự rủi ro nguy hiểm đe doạ bội phần bởi lẽ có bao nhiêu đơn vị vay vốn gặp rủi ro là bấy nhiêu nguy hiểm đến với vốn ngân hàng. Cho nên, để bù đắp phần nào những rủi ro có thể xảy ra, người cho vay phải tính vào lãi suất tiền vay một tỉ lệ nào đó làm lãi suất cao lên. Tỉ lệ này tăng thì lãi suất tăng và ngược lại.
Nếu tỉ lệ lạm phát và mức độ rủi ro là những yếu tố mang tính khách quan khó khắc phục được thì chi phí dịch vụ và thuế suất lại có thể tác động được vì chúng phụ thuộc nhiều vào khả năng của tổ chức tín dụng và mức đánh thuế của chính phủ.
Chi phí dịch vụ.
Nếu một cá nhân tiến hành việc cho vay thì chi phí này rất thấp, có thể nói là không đáng kể vì việc cho vay là không thường xuyên, số tiền không thực sự lớn. Đối với các tổ chức tín dụng thì chi phí dịch vụ là một vấn đề luôn được bàn đến. Do đối tượng kinh doanh của các tổ chức tín dụng là tiền nên chi phí tiền lương cho cán bộ làm dịch vụ và trang thiết bị rất lớn. Chi phí dịch vụ trong lãi suất tăng thì lãi suất cũng tăng và ngược lại. Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng có thể giảm được chi phí này bằng nhiều cách như bỏ bớt các khâu trung gian, giảm biên chế, tổ chức bộ máy hoạt động một cách khoa học, tăng lượng tiền trong mỗi lần giao dịch lên...Bằng biện pháp giảm chi phí dịch vụ, các tổ chức tín dụng có thể tăng khả năng cạnh tranh của mình thông qua mức lãi suất thấp. Đây là một giải pháp hữu hiệu mà các tổ chức tín dụng luôn cố gắng đạt được.
Thuế suất.
Thuế suất là tỉ lệ phần trăm giữa mức thuế với số tiền bị đóng thuế. Số tiền này có thể là doanh thu hoặc lợi nhuận của ngân hàng.
Mức thuế mà chính phủ đặt ra đối với thu nhập và việc kinh doanh của các tổ chức tín dụng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến lãi suất. Thuế suất tăng lên làm cho thu nhập giảm và quy mô hoạt động của tổ chức tín dụng bị thu hẹp buộc các tổ chức tín dụng tăng lãi suất nhằm bù đắp phần thu nhập phải nộp cho ngân sách nhà nước và những lợi nhuận mất đi do giảm bớt các hoạt động kinh doanh. Các chính phủ có thể sử dụng thuế suất để tác động vào tình hình kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Nếu muốn khuyến khích mở rộng các giao dịch đi vay và cho vay, chính phủ sẽ giảm thuế suất xuống, tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng hạ lãi suất cho vay, lúc đó các doanh nghiệp có nhiều cơ hội đi vay để đầu tư vào sản xuất, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế và tạo nhiều việc làm cho xã hội. Ngược lại muốn hạn chế hoạt động của tổ chức tín dụng, chính phủ sẽ tăng thuế suất lên, buộc các tổ chức tín dụng phải tăng lãi suất, ở mức lãi suất cao các doanh nghiệp ít vay vốn hơn, nhu cầu vốn ít đi dẫn đến giảm sức tăng trưởng của nền kinh tế. Như vậy, thuế suất tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng đến quyết định nâng cao hay hạ thấp lãi suất của các tổ chức tín dụng.
1.2.Yếu tố phi vật chất.
Bên cạnh những yếu tố vật chất không thể không kể đến những yếu tố có tính trìu tượng cao, khó xác định nhưng cũng rất cần thiết cho việc tính toán mức lãi suất.
Quy luật lưu thông tiền tệ.
Trên thị trường, thường xuyên xảy ra tình trạng cung- cầu không gặp nhau, song chúng luôn có xu hướng đi đến sự cân bằng cho dù sự cân bằng đó chỉ tồn tại trong giây lát và ngay sau đó lại trở về tình trạng không cân bằng cũ. Thị trường vốn cũng trong tình trạng như vậy, có lúc số tiền cho vay lớn hơn số tiền cần vay và ngược lại. Thực chất của sự mất cân bằng cung cầu nói chung và cung cầu vốn nói riêng là do người mua và người bán không đi đến thoả thuận một mức giá mà hai bên có thể chấp nhận. Nói cách khác, họ không chịu hy sinh một phần lợi nhuận của mình. Tuy nhiên, đến một lúc nào đó, một người sẽ phải thoả hiệp nhường cho người kia vì anh ta thấy rằng những thiệt hại do không thực hiện thoả thuận còn lớn hơn nhiều so với phần lợi nhuận bị mất, như thế cung và cầu sẽ tự điều chỉnh dần dần để đạt được mức cân bằng. Vì vậy, khi xác định lãi suất, người cho vay luôn phải căn cứ vào tình hình cung - cầu trên thị trường và xu hướng tăng giảm của chúng.
Thời hạn sử dụng tiền vay.
Đặt tài sản của mình, đặc biệt là tiền vào tay người khác để anh ta toàn quyền sử dụng là việc làm có nhiều rủi ro, ngay cả khi biết được mục đích sử dụng của người ta. Thời gian cho vay càng dài thì các rủi ro này càng lớn và khả năng thu hồi vốn vay cùng với tiền lãi càng thấp. Vì vậy, để bù đắp rủi ro này, người cho vay phải tăng lãi suất theo thời hạn sử dụng tiền vay, thời hạn càng dài, lãi suất càng cao và ngược lại. Bên cạnh mục đích đó, mối quan hệ tỉ lệ thuận giữa lãi suất và thời hạn sử dụng tiền vay còn có tác dụng buộc người đi vay có trách nhiệm hơn với số vốn vay cũng như xem kỹ lưỡng hơn khả năng sinh lợi nhuận của dự án định đầu tư sao cho có thể thanh toán cả vốn gốc lẫn lãi tiền vay đúng hẹn và giữ uy tín của mình.
Uy tín của người đi vay và những ưu đãi dành cho họ.
Trên thực tế, không phải bất cứ người đi vay nào cũng có tư tưởng lừa đảo muốn chiếm đoạt tiền của người cho vay. Phần lớn trong số họ vay tiền với mục đích đầu tư vào một lĩnh vực nào đó nhằm thu lợi nhuận chính đáng nên họ thực hiện các quy định của người cho vay về tiền lãi, thời hạn thanh toán một cách nghiêm chỉnh. Những khách hàng lớn, có uy tín không bao giờ chậm trễ trong việc thanh toán tiền vay để tránh những ảnh hưởng xấu đến uy tín cũng như công ăn việc làm của họ. Đối với những khách như vậy, rủi ro xảy ra với vốn vay thường rất ít. Để thu hút các khách hàng đó và cũng để khuyến khích các khách hàng khác noi theo, người cho vay sẽ định ra mức lãi suất ưu đãi phù hợp với từng khách hàng trong từng điều kiện, chẳng hạn khách hàng càng có uy tín thì lãi suất càng thấp, khách hàng trả tiền trước thời hạn hay ứng trước lãi sẽ được hưởng lãi suất ưu đãi. Như vậy, người cho vay cũng phải dựa vào uy tín của khách hàng để đặt ra các mức lãi suất nhằm tạo sức hấp dẫn thu hút khách ngày càng nhiều.
Như vậy, để tạo ra một mức lãi suất hợp lí không chỉ đòi hỏi khả năng nghiệp vụ cao mà còn cần có sự theo dõi sát sao các biến động của thị trường và tình hình kinh doanh của các khách hàng.
II. Nguyên tắc và phương pháp xác định lãi suất.
Các nguyên tắc cơ bản để xác định chế độ lãi suất.
Lãi suất tín dụng phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Lãi suất phải đồng thời thực hiện được 2 chức năng kích thích, điều tiết hoạt động kinh tế phát triển và là chính sách kinh tế có hiệu quả.
Do lãi suất có ảnh hưởng đến tất cả các quyết định liên quan đến tiền trong xã hội nên việc xác định một mức lãi suất hợp lí là rất quan trọng. Lãi suất có khả năng điều tiết một cách tự nhiên lượng vốn lưu thông từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ người có vốn sang người cần vốn để đưa vốn vào sử dụng trong các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh có lợi cho nền kinh tế và xã hội. Mức lãi suất nhỏ hơn mức hợp lí sẽ khiến người vay đánh giá thấp giá trị sử dụng của đồng vốn dẫn đến đầu tư không hiệu quả, lãng phí nguồn vốn, gây thiệt hại cho bản thân người đi vay lẫn người cho vay và hơn nữa, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, mức lãi suất cao hơn mức hợp lí tức là đánh giá quá cao giá trị sử dụng của đồng vốn thì chỉ có tác dụng khuyến khích người cho vay, làm cho vốn trở nên dư thừa, ứ đọng, không được đầu tư vào sản xuất kinh doanh, không sinh lãi, lúc đó đồng vốn trở thành ” vốn chết ” không còn tác dụng gì nữa. Vì vậy, trước khi xác định mức lãi suất phải tính đến nguyên tắc này đầu tiên.
Nguyên tắc 2: Bảo tồn giá trị của vốn, bù đắp được rủi ro, có tích luỹ cho người sở hữu vốn và người sử dụng vốn.
Khi đem vốn vào sử dụng, sau một thời gian nhất định, người sử dụng vốn cũng như người cho vay vốn đều hi vọng vốn ban đầu sẽ tạo ra một lượng tiền lớn hơn tức là có sinh lãi đủ để trang trải các chi phí và để lại một phần lợi nhuận. Đây là lẽ đương nhiên. Song trên thực tế không phải đầu tư nào cũng đem lại kết quả tốt đẹp, sẽ có những lúc bị lỗ, thậm chí mất cả vốn ban đầu. Do đó, lãi suất phải đảm bảo nguyên tắc 2 để người cho vay và người đi vay không bị thiệt thòi dù cho việc sử dụng vốn có lúc lãi có lúc lỗ.
Nguyên tắc 3: Lãi suất phải được phân định theo thị trường tiền tệ cấp 2.
Sở dĩ lãi suất phải phân định ra vì trên mỗi thị trường, các yếu tố quyết định đến mức lãi suất là khác nhau như: chủ thể sở hữu và sử dụng vốn, chi phí huy động vốn, mức độ rủi ro, uy tín của người vay.v.v...Tuy nhiên, lãi suất trên thị trường cấp 2 có thể dựa vào lãi suất trên thị trường cấp một để định ra mức lãi suất phù hợp và lãi suất trên thị trường cấp 1 có thể tăng hay giảm để tác động vào lãi suất của thị trường cấp 2. Tóm lại, lãi suất trên 2 thị trường tiền tệ phải khác nhau nhưng có quan hệ hữu cơ và ràng buộc lẫn nhau. Thông thường, lãi suất trên thị trường cấp một nhỏ hơn lãi suất trên thị trường cấp 2 để đảm bảo cho các tổ chức tín dụng sau khi đi vay trên thị trường cấp 1 và cho vay trên thị trường cấp 2 sẽ thu được một phần lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất trên hai thị trường đó.
Nguyên tắc 4: Nguyên tắc này được hình thành trên cơ sở nguyên tắc 1 và 2, trong đó:
Tỉ lệ lạm phát < Lãi suất đi vay < Lãi suất cho vay < Tỉ suất lợi nhuận bình
quân của nền kinh tế
Lãi suất ngắn hạn < Lãi suất trung và dài hạn.
Bất đẳng thức 1 cho thấy lãi suất phải đảm bảo có lợi cho cả người vay và người đi vay đồng thời có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh doanh, phát triển nền kinh tế. Tỉ lệ lạm phát càng thấp và tỉ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế càng cao thì càng tốt đối với cả dân cư, tổ chức tín dụng và doanh nghiệp.
Trong bất đẳng thức 2, lãi suất rõ ràng phải có tính bù đắp được rủi ro, thời hạn sử dụng vốn càng dài, rủi ro càng cao thì lãi suất càng lớn. Vì nếu lãi suất ngắn hạn lớn hơn lãi suất trung và dài hạn thì nó chỉ có lợi cho những người giàu, lắm tiền gửi vào TCTD, sống dựa vào lãi cao, ngắn ngày, làm mất đi chức năng cơ bản của các tổ chức tín dụng là “ đi vay để cho vay” và có hại cho nền kinh tế, xã hội và các doanh nghiệp sản xuất.
Nguyên tắc 5: Đảm bảo sự biến thiên của lãi suất theo sát sự biến động của thị trường tiền tệ trong nước và tiếp cận thị trường quốc tế.
Lãi suất phản ánh qui luật cung- cầu vốn, do đó nó phải phụ thuộc vào sự biến động của các luồng vốn trên thị trường. Nếu cung vốn đang thừa mà lãi suất cứ tăng lên thì những người cần vốn trên thị trường sẽ không vay tiền nữa, làm cho vốn không được lưu thông, hạn chế sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Mặt khác, đối với mỗi quốc gia, lãi suất không chỉ phù hợp với thị trường trong nước mà còn phải vận động ngày càng gần với lãi suất trên thị trường quốc tế. Có như thế, đất nước mới có thể hoà nhập với nền kinh tế thế giới và có quan hệ bình đẳng với các quốc gia phát triển khác.
Phương pháp xác định lãi suất.
2.1. Cơ sở hình thành lãi suất.
Việc tìm ra một cơ sở có thể hoàn toàn tin cậy là không thể có ngay được. Các nước có nền kinh tế thị trường cạnh tranh hoàn hảo cũng đã và đang xây dựng lãi suất theo phương pháp phân tích thông tin của thị trường, với kinh nghiệm và sự uyên thâm trong nghề nghiệp để định lượng một lãi suất phù hợp. Trong phần này, chúng ta xem xét các cơ sở mà hầu hết các nước đang sử dụng cho việc hình thành lãi suất.
Tỉ lệ lợi nhuận bình quân và tỉ lệ trượt giá là hai yếu tố quan trọng cấu thành nên lãi suất đồng thời cũng là 2 cơ sở hình thành nên mức lãi suất. Lãi suất tín dụng trong cơ chế thị trường bị giới hạn bởi tỉ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế (giới hạn trên) và tỉ lệ lạm phát (giới hạn dưới). Lãi suất chỉ có thể vận động trong giới hạn đó và phải căn cứ vào 2 yếu tố này cùng với quy luật cung - cầu vốn để tăng, giảm một cách hợp lí. Mặt khác, do nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào 2 cơ sở trên nên lãi suất được đặt ra, ngoài mục đích thu lợi cho một cá nhân, một tổ chức, phải đảm bảo kích thích nền kinh tế tăng trưởng. Do đó, khi xác định lãi suất, người ta phải dựa trên 2 cơ sở cơ bản này.
Cơ sở thứ 3 là ước định một tỉ lệ kích thích. Lãi suất cũng giống như các loại giá cả khác, chỉ cần thấp hoặc cao hơn một chút so với các tổ chức tín dụng khác đã có thể thu được nhiều khách hàng hơn, cho vay nhiều hơn hoặc ngược lại. Như vậy, trên cơ sở một tỉ lệ kích thích, lợi nhuận của TCTD có thể bị giảm đi nếu tính trên giá trị từng giao dịch song với số lượng giao dịch tăng lên thì lợi nhuận vẫn tăng mà TCTD lại tạo ra được lợi thế cạnh tranh lâu dài cho mình.
Cơ sở tiếp theo là chỉ tiêu hợp lí về tổng chi phí tín dụng bình quân. Dựa trên chỉ tiêu này, người ta có thể xác định được nhiều chỉ tiêu khác như doanh thu, lợi nhuận, mức lương, mức lãi suất.v.v...Nếu tính toán tổng chi phí tín dụng bình quân cao hơn nhu cầu thực tế của thị trường sẽ dẫn đến thừa vốn, TCTD muốn cho vay được phải giảm lãi suất cho vay. Điều này có thể dẫn đến hai hậu quả là giảm lãi suất tiền gửi khiến khách hàng chuyển sang gửi tiền ở các TCTD khác hoặc là giảm lợi nhuận đồng thời giảm tiền lương của cán bộ công nhân viên. Nếu chỉ tiêu trên thấp hơn nhu cầu thực tế thì tác động ngược lại , TCTD phải nâng cả lãi suất đi vay và lãi suất cho vay lên. Khi lãi suất cho vay tăng, các doanh nghiệp sẽ vay ít hơn cho đầu tư vào sản xuất kinh doanh khiến cho nền kinh tế tăng trưởng chậm lại. Vì vậy, xác định chỉ tiêu tổng chi phí tín dụng bình quân hợp lí là rất cần thiết khi hình thành lãi suất giúp cho TCTD giữ được uy tín với các doanh nghiệp vay vốn và thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền.
Cơ sở cuối cùng là kinh nghiệm nghề nghiệp của các chuyên gia. Lãi suất là một biến số được cấu thành từ rất nhiều biến số khác nhau mà trong đó chủ yếu là những biến số mang tính khách quan. Do đó, muốn xác định được lãi suất phải nắm chắc được các yếu tố cấu thành nó. Sự biến động của các yếu tố này rất phức tạp, do đó cần phải xem xét, phân tích kĩ lưỡng, đòi hỏi phải do các chuyên gia hoạt động lâu năm trong nghề thực hiện.
Công thức tổng quát tính lãi suất.
a) Lãi suất đi vay của ngân hàng.
Lãi suất tiền gửi = < a% tỉ suất lợi nhuận + tỉ lệ lạm phát.
bình quân
Trong đó: 0 = < a < 100.
Với a = 0 % => Lãi suất tiền gửi không kì hạn = Tỉ lệ trượt giá.
Với tiền gửi có kì hạn thì kì hạn càng dài, a% càng lớn.
b) Lãi suất cho vay.
Lãi suất cho vay = Lãi suất tiền gửi + b%Tỉ suất lợi nhuận +Phụ phí +Hệ số
nói chung bình quân tín dụng rủi ro.
b% phụ thuộc vào thời hạn vốn được sử dụng, thời hạn càng dài b% càng lớn.
Hệ số rủi ro phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thời hạn sử dụng vốn, chủ thể vay vốn, mục đích vay vốn, tính khả thi của dự án đầu tư...
III. Các loại lãi suất thông dụng.
Lãi suất đi vay.
Là lãi suất mà ngân hàng trả cho khách hàng khi vay vốn của họ. Lãi suất đi vay thường được công bố trước lãi suất cho vay.
Lãi suất cho vay.
Là lãi suất mà người đi vay của ngân hàng phải căn cứ vào đó để trả lãi cho ngân hàng. Lãi suất cho vay đứng đằng sau lãi suất đi vay trong bảng công bố lãi suất.
Lãi suất đơn.
Là lãi suất được hình thành do không ghép lãi vào vốn. Lãi suất đơn thường là lãi suất danh nghĩa, ghi trên hợp đồng tín dụng.
Lãi suất kép.
Còn gọi là lãi suất thực tế không ghi trên hợp đồng tín dụng mà tự các bên kí kết hợp đồng tính toán để biết được mức lãi thực tế mà họ nhận được là bao nhiêu. Lãi suất kép chính là mức lãi suất mà người đi vay và người cho vậy quan tâm đến.
IV. Vai trò của lãi suất.
Đối với kinh tế vĩ mô.
Lãi suất được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô. Thể hiện ở các nội dung sau:
Lãi suất tiến hành phân bổ các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế -> điều chỉnh cơ cấu đầu tư -> điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối và ổn định.
Lãi suất tác động trực tiếp đến đầu tư, do đó được sử dụng như một công cụ để chống lạm phát. Nếu nền kinh tế suy thoái, có thể sử dụng lãi suất để tăng đầu tư, phát triển kinh tế.
Lãi suất hướng dẫn cho sản xuất- tiêu dùng: Lãi suất tăng -> chi phí sản xuất tăng -> giá thành sản phẩm tăng -> dân chúng sẽ hạn chế tiêu dùng loại hàng sản xuất đó và ngược lại.
Lãi suất là công cụ để kiểm soát các luồng vốn di chuyển giữa các ngành trong nền kinh tế cũng như với nước ngoài.
Vậy, đối với tầm vĩ mô, lãi suất rất quan trọng, tất cả các nước đều rất quan tâm.
Đối với tầm vi mô.
Lãi suất là cơ sở quan trọng cho các cá nhân, các doanh nghiệp đưa ra các quyết định đối với việc sử dụng vốn. Ngoài ra, lãi suất còn góp phần thúc đẩy và củng cố hiệu quả kinh tế.
Phần II.
Thực trạng lãi suất ở Việt Nam hiện nay.
I.Sơ lược việc điều hành, cải tiến lãi suất trong thời gian qua.
Trước tháng 3- 1989 : là thời kỳ điều hành theo cơ chế lãi suất âm. Điều này có nghĩa là:
Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.
Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức lạm phát.
Hệ thống lãi suất có nhiều tiêu cực.
+ Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông, giải toả áp lực của tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều.
+ Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo cho doanh nghiệp.
+ Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không đáng có cho ngân hàng. Ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ bình thường theo cơ chế thị trường.
2.Từ tháng 3-1989: NHNN đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất, chuyển từ lãi suất âm qua lãi suất dương. Để thu hút tiền thừa trong lưu thông về, kìm chế lạm phát, tránh bao cấp qua lãi suất, NHNN đã nâng lãi suất huy động lên một lượng rất cao trong một thời gian ngắn (lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn 109 % / năm, lãi suất tiết kiệm 3 tháng 144 %/ năm). Nhờ vậy đã:
Thu hút một khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng, giảm áp lực lạm phát.
Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương, xử lí hài hoà lợi ích giữa người gửi tiền, người vay vốn và TCTD.
Xoá bỏ bao cấp qua lãi suất ngân hàng, chuyển hoạt động ngân hàng sang kinh doanh thực sự.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này, hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn nhiều mức lãi suất tiền gửi và cho vay.
+ Đối với từng ngành kinh tế có mức lãi suất riêng.
+ Đối với các thành phần kinh tế còn có phân biệt lãi suất.
3. Từ 1/ 10/ 93: NHNN vừa áp dụng lãi suất trần( cho vay) vừa áp dụng lãi suất thoả thuận.
Trần: Cho vay doanh nghiệp nhà nước 1,8% / tháng, kinh tế ngoài quốc doanh 2,1 % / tháng.
Thoả thuận: Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận: Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn là 0,1 %/ tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng.
Trên thực tế, khoảng 30-60 % tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân, với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5 % tháng. Với cơ chế lãi suất thoả thuận, có thể hiểu là đã tự do hoá một phần lãi suất, hoặc đó là cơ chế cho vay với lãi suất “cứng” đi đôi với một biên độ dao động nhất định.
4.Chuyển từ lãi suất thoả thuận qua trần lãi suất.
a) Việc quy định trần lãi suất và khống chế mức chênh lệch 0, 35% thực chất là vừa quy định trần lãi suất, vừa quy định sàn lãi suất. Vì thế từ 1/ 1/ 96, NHNN đã quy định trần lãi suất cho vay tối đa và mức chênh lệch 0,35 % thay cho việc điều hành theo lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi chi tiết và lãi suất thoả thuận quy định trước đó .
Do quy mô và địa bàn hoạt động khác nhau, nhu cầu vốn khác nhau, chi phí hoạt động khác nhau, nên NHNN đã quy định trần lãi suất có phân biệt như sau:
Trần lãi suất cho vay ngắn hạn.
Trần lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn.
Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn.
Trần lãi suất cho vay của Quỹ tín dụng đối với các thành viên.
Từ 21/1/1998 đến nay, Quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh lệch0,35 % / tháng, đồng thời để thu hẹp sự cách biệt giữa mức lãi suất cho vay của thành thị và nông thôn, NHNN quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn 3 trần lãi suất và không quy định mức chênh lệch 0,35 %/ tháng nữa:
Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2 % tháng.
Trần lãi suất cho vay trung dài hạn 1,25 % tháng.
Trần lãi suất QTD cho vay thành viên 1,5 % tháng.
Việc quản lí lãi suất theo trần có ưu điểm sau:
+ Trong phạm vi trần, các TCTD được tự do ấn định các mức lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp điều kiện kinh doanh , thực hiện chính sách khách hàng, tự chủ trong kinh doanh, thực hiện cạnh tranh lành mạnh, từng bước tự do hoá lãi suất.
+ Phù hợp với đặc diểm, chi phí hoạt động NH ở các vùng khác nhau.
+ Tạo mặt bằng chung về lãi suất trong cả nước, xoá bỏ lãi suất thoả thuận, vượt quá xa mức lãi suất do NHNN quy định.
+ Có trần khống chế sẽ bảo vệ được lợi ích người vay, TCTD và người gửi tiền.
+ Đảm bảo vai trò quản lí nhà nước của NHNN về lãi suất trong giai đoạn đầu của thị trường tiền tệ mới hình thành trong nền kinh tế thị trường.
II.Các tồn tại xung quanh chính sách lãi suất hiện nay
Diễn biến các mức trần lãi suất cho vay theo quy định của NHNN kể từ khi xảy ra khủng hoảng tài chính- tiền tệ trong khu vực đến nay.
Thời điểm thực hiện mức trần lãi suất cho vay các loại
1/7/1997
21/1/1998
1/2/1999
1/6/1999
1. Ngắn hạn
1,0%
1,2%
1,1%
1,15%
2. Trung dài hạn
1,1%
1,25%
1,15%
1,15%
3.Vùng nông thôn
1,2%
1,25%
1,25%
1,15%
4. QTDND & HTXTD
1,5%
1,5%
1,5%
1,5%
5. Lãi suất tái cấp vốn
1,1%
1,1%
1,0%
0,85%
Chỉ số tiết kiệm, lãi suất danh nghĩa trung bình, lãi suất thực
Năm
Tiết kiệm
(%GDP)
LS danh nghĩa(%năm)
LS thực
(% năm)
CPI
(% năm)
1991
10,10
42,0
25,6
17,5
1992
13,77
35,5
17,9
5,1
1993
14,54
21,6
16,4
14,5
1994
17,08
16,8
2,4
14,3
1995
18,99
16,8
4,1
13,5
1996
15,96
13,5
9,0
4,5
1997
16,50
12,6
8,9
3,7
Nguồn: IMF
Thực tế cho thấy có nhiều tồn tại xoay quanh chính sách lãi suất hiện hành. Dù cho việc kiểm soát lãi suất trong những điều kiện nhất định vì mục tiêu của chính sách tiền tệ thì vẫn không thể tránh khỏi những thiệt hại xét trên tổng thể nền kinh tế. Điều này từng khuyến khích sự vay mượn chiếm dụng lòng vòng, trốn tránh kiểm soát của NHNN, làm méo mó chế độ lãi suất quy định. Mức độ toàn dụng vốn trong nền kinh tế thấp, tính đầu cơ thực lợi và cạnh tranh bất tương xứng về lãi suất còn phổ biến, vốn bị sử dụng lãng phí, kém hiệu quả. Chuyển sang lãi suất trần là một bước tiến bộ, song lãi suất vẫn chưa phản ánh đúng quan hệ cung-cầu về vốn của nền kinh tế. Một biểu hiện rõ nhất là lãi suất chung của nền kinh tế chủ yếu được áp đặt bởi NHNN chứ chưa phải được hình thành theo đúng tín hiệu thị trường, thông qua một số tham số chủ chốt: lãi suất tín phiếu, trái phiếu kho bạc, lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất giao dịch hợp đồng mua đứt, bán đoạn hay mua bán có kì hạn, lãi suất khiết khấu, cầm cố, thế chấp tài sản...Nhìn chung, lãi suất chưa phản ánh được rủi ro tín dụng, thiếu quan hệ khăng khít với diễn biến tỉ giá hối đoái, trong lúc thường xuyên bị trói buộc hết sức cứng nhắc bởi “vòng kim cô” chỉ số giá CPI...
Đôi lúc trần lãi suất chỉ có ý nghĩa tượng trưng, bên cạnh đó còn tồn tại nhiều mức lãi suất khác nhau trên thực tế, lại có hiện tượng lạm dụng lãi suất ưu đãi tràn lan trong vòng 2 năm nay. Do đó xu hướng hạn chế, dỡ bỏ mọi áp đặt, can thiệp, kiểm soát hành chính về lãi suất là một tất yếu khách quan. Mục tiêu là cuối cùng thì phải để thị trường tự quyết định lãi suất phù hợp cho nó(cũng là cho nền kinh tế). Dựa vào đó sự can thiệp một cách gián tiếp của NHNN vào thị trường tiền tệ mới thực hiện được linh hoạt, đúng hướng và có hiệu quả. Hai vấn đề bức xúc hiện nay là:
+ Trong điều kiện hiện tại của Việt Nam thì nên hoàn chỉnh chính sách lãi suất theo định hướng nào.
+ Phải có những điều kiện cần và đủ nào cho việc hoạch định và điều hành chính sách lãi suất tốt hơn.
Quan điểm định hướng về chính sách lãi suất mới.
Do một số điều kiện đặc thù, thị trường tiền tệ Việt Nam vẫn ở trong giai đoạn quá độ với trình độ hết sức sơ khai. Tham khảo một tài liệu của đoàn IMF, thuộc chương trình ESAF dành cho Việt Nam (giai đoạn 2) qua mấy năm đổi mới, chỉ số phát triển chiều sâu về tài chính của Việt Nam vẫn ở xu hướng giảm và còn thấp. Chỉ số M2/ GDP mới chỉ là 25,1% so với mức bình quân trên 60% của nhiều nước đang phát triển, riêng Trung Quốc đạt mức cao là 82,3%; Chỉ số Mo/ tiền gửi ngân hàng vẫn còn cao là 61,2%, trong khi khối các nước ASEAN phổ biến chỉ khoảng12%, riêng Trung Quốc là 20,4%. Có nghĩa trong lúc mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế còn rất thấp thì chủng loại “hàng hoá ”cho mọi giao dịch vốn, tiền tệ còn hết sức nghèo nàn, phương thức giao dịch còn thô sơ và mức độ rủi ro tiền tệ còn lớn. Đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam là các quan hệ cung cầu vốn, tiền tệ hình thành một cách hết sức khó khăn, diễn ra không bình thường. Sự ấn định giá cả(hình thành lãi suất thị trường) không tránh khỏi bị áp đặt bởi số ít lực lượng tham gia thị trường đóng vai trò độc quyền. Sự nôn nóng theo đuổi các mục tiêu, chính sách đôi lúc khiến NHNN cũng bị cuốn hút vào đó, mặc dù không phải lúc nào việc áp đặt các mức trần lãi suất cũng suôn sẻ và dễ dàng được thị trường chấp nhận....
Xét về năng lực thể chế yếu kém của hệ t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35096.doc