PHẠM THANH DIỄM
MSSV: DPN010609
CÁC MÔ HÌNH TRỒNG TRỌT VÀ CHĂN NUÔI TRONG MÙA
LŨ NĂM 2004 TẠI HUYỆN CHỢ MỚI, AN GIANG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGÀNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Ths. Nguyễn Thị Minh Châu
Tháng 6.2005
ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP - TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP - TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
CÁC MÔ HÌNH TRỒNG TRỌT VÀ CHĂN NUÔI TRONG MÙA
LŨ NĂM 2004 TẠI HUYỆN CHỢ MỚI, AN GIANG
Do sinh viên: PHẠM THANH DIỄM thực hiện và đệ nạ
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2674 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Các Mô Hình Trồng Trọt Và Chăn Nuôi Trong Mùa Lũ Năm 2004 Tại Huyện Chợ Mới, An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p
Kính trình Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xét duyệt
Long Xuyên, ngày……tháng…… năm 2005
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Ths. Nguyễn Thị Minh Châu
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP - TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp thuận luận văn đính kèm
với tên đề tài: CÁC MÔ HÌNH TRỒNG TRỌT VÀ CHĂN NUÔI
TRONG MÙA LŨ NĂM 2004 TẠI HUYỆN CHỢ MỚI, AN GIANG.
Do sinh viên: PHẠM THANH DIỄM
Thực hiện và bảo vệ trước Hội đồng ngày...........................................................
Luận văn đã được Hội đồng đánh giá ở mức.......................................................
Ý kiến của Hội đồng....................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
Long xuyên, ngày……tháng…… năm 2005
DUYỆT Chủ Tịch Hội Đồng
BAN CHỦ NHIỆM KHOA-TNTN
TIỂU SỬ CÁ NHÂN
Họ và Tên: PHẠM THANH DIỄM
Ngày tháng năm sinh: 26/05/1982.
Nơi sinh: Mỹ Phước - Long Xuyên - An Giang.
Con Ông: PHẠM THÀNH HƯNG
và Bà: ĐỖ THỊ ANH
Địa chỉ: 115/2A Đông thịnh 2 phường Mỹ Phước - Long Xuyên - An Giang.
Đã tốt nghiệp phổ thông năm 2000, tại trường PTTH Long Xuyên.
Vào Trường Đại học An Giang năm 2001, học lớp ĐH2PN1, ngành Phát Triển
Nông Thôn, khóa II thuộc Khoa Nông Nghiệp & Tài Nguyên Thiên Nhiên và
tốt nghiệp kỹ sư ngành Phát Triển Nông Thôn năm 2005.
LỜI CẢM TẠ
Tôi xin chân thành cảm ơn khoa Nông Nghiệp - Tài Nguyên Thiên
Nhiên trường Đại Học An Giang, thầy Dương Ngọc Thành trường Đại Học
Cần Thơ đã tạo cơ hội cho tôi có thể thực hiện đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Minh Châu đã tận tình giúp đỡ
tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Thanh Triều, thầy Nguyễn Bá
Trung đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn các bạn cùng khóa học đã giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập
Tôi xin chân thành cảm ơn:
Ủy ban nhân dân huyện Chợ Mới và Ủy ban nhân dân các xã nơi tôi
tiến hành điều tra.
Cán bộ trạm Khuyến Nông huyện Chợ Mới đã giúp đỡ tôi thực hiện đề
tài này.
Tất cả các giáo viên đã giảng dạy và giúp đỡ tôi, tạo nền tảng kiến
thức cho tôi trong suốt khóa học (2001 - 2005).
Cha mẹ, những người thân, bạn bè đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
học tập.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn.
Tác giả
Phạm Thanh Diễm
TÓM LƯỢC
Nhằm tổng kết hiện trạng canh tác của nông hộ trong mùa lũ năm
2004 và đánh giá hiệu quả của các mô hình, đề tài “Các mô hình trồng trọt và
chăn nuôi trong mùa lũ năm 2004 tại huyện Chợ Mới, An Giang” được thực
hiện bằng phương pháp phỏng vấn nông hộ.
Từ 4 mô hình canh tác như lúa, màu, chăn nuôi bò, bò - bắp, các số
liệu nguồn lực nông hộ như tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp, số
lao động, diện tích, hiệu quả kinh tế của các mô hình.... đã được phân tích.
Diện tích được phân bố bình quân từ 0,31 - 1,41 ha/hộ, những hộ trồng
lúa có diện tích trung bình lớn nhất, các hộ chăn nuôi bò có diện tích trung
bình thấp nhất. Diện tích của nông hộ được sử dụng hợp lý, phần lớn đất đai
được sử dụng sản xuất nông nghiệp, cho thu nhập từ 50,85 - 87,61% trong
tổng thu nhập một năm của nông hộ. Những nguồn thu nhập khác như lao
động trong nông nghiệp, phi nông nghiệp cũng góp một phần lớn trong thu
nhập của nông hộ.
Về kỹ thuật canh tác, ở mô hình lúa nông dân đã từng bước thực hiện
cơ giới hóa vào trong sản xuất, không còn sản xuất bằng phương pháp thủ
công như trước đây. Ở mô hình rau màu, kỹ thuật của nông dân còn thấp. Ở
cả 2 mô hình lúa và màu nông dân sử dụng thuốc chưa đúng cách, họ chỉ
quan tâm đến lợi ít trước mắt là làm sau diệt được sâu càng nhanh càng tốt
mà không quan tâm đến sự độc hại đối với con người. Chăn nuôi và trồng rau
chủ yếu lấy công làm lời.
Lợi nhuận từ trồng lúa là 7,3 triệu đồng/ha/vụ, từ trồng rau là 16,0
triệu đồng/ha/vụ, lợi nhuận từ nuôi bò là 4,2 triệu đồng/vụ nuôi, lợi nhuận từ
chăn nuôi bò kết hợp với trồng bắp là 26,6 triệu đồng/vụ nuôi cao hơn từ
chăn nuôi bò không có trồng bắp. Đối với những nông hộ có bỏ công gia đình
vào việc sản xuất thì họ sẽ thu thêm được lợi nhuận là 0,5 triệu đồng ở mô
hình trồng lúa, 2,9 triệu đồng ở mô hình trồng màu, 2,8 triệu đồng ở mô hình
chăn nuôi bò và 3,8 triệu đồng ở mô hình kết hợp bò - bắp.
Được bao đê, sản xuất trong mùa lũ đã làm tăng thu nhập của nông
dân, thay vì trong mùa lũ không sản xuất được có hộ ở không, có hộ làm
thuê, đánh bắt thì nguồn thu nhập từ sản xuất trong mùa lũ này là có hiệu quả.
Nhiều nông dân thiếu vốn sản xuất, họ không có thế chấp nên không
được vay ngân hàng, đôi khi họ phải vay của tư nhân với lãi suất cao. Điều
này cản trở quá trình sản xuất của nông hộ.
Các trở ngại chính để phát triển mô hình là vốn, giá cả nông sản. Cần
khuyến khích nông dân tham gia câu lạc bộ, các chương trình khuyến nông,
hội nông dân, các hợp tác xã để có thể vay vốn hoặc tiếp cận với kỹ thuật,
dịch vụ, thông tin giá cả giúp nông dân sử dụng tài nguyên một cách có hiệu
quả hơn.
MỤC LỤC
Nội dung Trang
CẢM TẠ i
TÓM LƯỢC ii
MỤC LỤC iv
DANH SÁCH BẢNG vi
DANH SÁCH HÌNH viii
Chương 1 GIỚI THIỆU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
Chương 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 3
2.1. Đặc điểm tự nhiên 3
2.1.1. Vị trí địa lý 3
2.1.2. Đặc điểm sông ngòi 3
2.1.3. Đặc điểm khí hậu 4
2.1.4. Đặc điểm đất đai 4
2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 5
2.2.1. Hiện trạng phân bố và sử dụng đất nông nghiệp 5
2.2.2. Hiện trạng dân số và lao động 5
2.2.3. Sản xuất nông nghiệp 2004 6
2.2.3.1. Trồng trọt 6
2.2.3.2. Chăn nuôi 9
2.2.3.3. Thủy sản 10
2.2.3.4. Kinh tế hợp tác 11
2.3. Kỹ thuật trồng một số loại cây 12
2.3.1. Rau 12
2.3.2. Lúa 13
2.4. Kỹ thuật chăn nuôi bò 15
Chương 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 17
3.1. Vật liệu 17
3.2. Phương pháp 17
3.2.1. Phương pháp điều tra 17
3.2.3. Chỉ tiêu theo dõi 18
3.3. Phân tích thống kê 18
Chương 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 19
4.1. Đặc điểm nông hộ 19
4.2. Diện tích đất đai và tài sản nông hộ 23
4.3. Nguồn thông tin cho sản xuất nông nghiệp 25
4.4. Kỹ thuật canh tác của các mô hình 26
4.4.1. Lúa 26
4.4.2. Màu 29
4.4.3. Chăn nuôi bò 31
4.5. Hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp 32
4.5.1. Hiệu quả kinh tế trong một vụ nuôi trồng theo từng mô hình
canh tác
32
4.5.2. Hiệu quả kinh tế trong một năm sản xuất của nông hộ 34
4.6. Yếu tố quyết định thành công của mô hình và khả năng vay
vốn của nông hộ
39
4.6.1. Yếu tố quyết định thành công của mô hình 39
4.6.2. Tình hình vay vốn của nông hộ 40
4.7. Chi tiêu gia đình 41
Chương 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 43
5.1. Kết luận 43
5.2. Đề nghị 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO 45
PHỤ CHƯƠNG pc-1
Phụ chương 1 pc-1
Phụ chương 2 Phiếu phỏng vấn nông hộ pc-3
DANH SÁCH BẢNG
Bảng Tựa bảng Trang
1 Dân số - lao động huyện Chợ Mới, An Giang 6
2 Diện tích sản xuất (ha) qua 3 vụ tại huyện Chợ Mới, An
Giang
7
3 Cơ cấu cây màu thực hiện được năm 2004 qua 3 vụ tại
huyện Chợ Mới, An Giang
8
4 Khẩu phần thức ăn của bò vỗ béo 15
5 Số nhân khẩu và số lao động trung bình trong nông hộ của
4 mô hình canh tác tại huyện Chợ Mới, An Giang
22
6 Tỉ lệ (%) thành viên trong nông hộ ở các độ tuổi khác
nhau của 4 mô hình tại Chợ Mới, An Giang
23
7 Tỉ lệ hộ (%) có tổng diện tích đất theo 4 mô hình tại Chợ
Mới, An Giang
24
8 Tỉ lệ (%) số hộ có phương tiện sản xuất theo 4 mô hình
canh tác tại Chợ Mới, An Giang
25
9 Tỉ lệ (%) nông hộ nhận các nguồn thông tin cho sản xuất
nông nghiệp theo 4 mô hình canh tác tại Chợ Mới, An
Giang
26
10 Tỉ lệ (%) hộ sử dụng các giống lúa khác nhau ở mô hình
lúa (vụ 3) tại Chợ Mới, An Giang
27
11 Các hoạt động trong canh tác ở mô hình lúa (vụ 3) tại Chợ 28
Mới, An Giang
12 Tỉ lệ (%) hộ sử dụng các loại phân bón khác nhau ở mô
hình lúa (vụ 3) tại Chợ Mới, An Giang
29
13 Kỹ thuật canh tác của mô hình màu tại Chợ Mới, An
Giang
30
14 Hiệu quả kinh tế trong một vụ nuôi trồng của các mô hình
canh tác tại Chợ Mới, An Giang
33
15 Hiệu quả kinh tế của nông hộ trong một năm của mô hình
Lúa vụ 3 tại Chợ Mới, An Giang
36
16 Hiệu quả kinh tế của nông hộ trong một năm của mô hình
Màu tại Chợ Mới, An Giang
37
17 Hiệu quả kinh tế của nông hộ trong một năm của mô hình
Bò tại Chợ Mới, An Giang
38
18 Hiệu quả kinh tế của nông hộ trong một năm của mô hình
Bò - Bắp tại Chợ Mới, An Giang
39
19 Yếu tố quyết định thành công của 4 mô hình canh tác tại
huyện Chợ Mới, An Giang
40
20 Tình hình vay vốn của nông hộ ở 4 mô hình canh tác tại
Chợ Mới, An Giang
41
21 Chi tiêu gia đình của nông hộ 42
PHỤ CHƯƠNG
22 Tỉ lệ chủ hộ (%) ở các độ tuổi khác nhau của 4 mô hình
canh tác tại Chợ Mới, tỉnh An Giang
pc-1
23 Tỉ lệ hộ (%) có trình độ học vấn khác nhau của 4 mô hình
canh tác tại Chợ Mới, An Giang
pc-1
24 Tỉ lệ hộ (%) có kinh nghiệm sản xuất của với 4 mô hình
canh tác tại Chợ Mới, An Giang
pc-2
25 Phiếu phỏng vấn nông hộ pc-3
DANH SÁCH HÌNH
Hình Tựa hình Trang
4.1 Tỉ lệ chủ hộ (%) ở các độ tuổi khác nhau của 4 mô hình
canh tác tại Chợ Mới, An Giang
19
4.2 Tỉ lệ hộ (%) có trình độ học vấn khác nhau của 4 mô hình
canh tác tại Chợ Mới, An Giang
20
4.3 Tỉ lệ hộ (%) có kinh nghiệm sản xuất của 4 mô hình canh
tác tại Chợ Mới, An Giang
21
pc-3 Bản đồ hành chánh huyện Chợ Mới, An Giang pc-29
pc-4 Phỏng vấn nông hộ ở Chợ Mới, An Giang pc-30
pc-5 Mô hình trồng lúa ở Chợ Mới, An Giang pc-30
pc-6 Thu hoạch cải bẹ dúng ở Chợ Mới, An Giang pc-31
pc-7 Phỏng vấn nông hộ chăn nuôi bò ở Chợ Mới, An Giang pc-31
Chương 1 GIỚI THIỆU
1.1. Đặt vấn đề
An Giang là một tỉnh đầu nguồn lưu vực sông Cửu Long, là một
trong những tỉnh có diện tích đất canh tác lớn trong vùng Đồng Bằng Sông
Cửu Long, với nguồn nước ngọt phong phú, khí hậu ôn hòa, đất đai màu mỡ
được phù sa bồi đắp hàng năm, tạo điều kiện cho tỉnh phát triển sản xuất
nông nghiệp, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi. Tổng diện tích đất nông nghiệp
là 246.821 ha, trong đó vùng trồng lúa chiếm hơn 82% (233.018 ha), điều này
đã tạo cho An Giang thế mạnh về sản xuất lúa nói riêng và tạo thế mạnh về
nông nghiệp nói chung (Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh An Giang, 2003).
Bên cạnh những mặt thuận lợi đó, hàng năm tỉnh An Giang phải đối
mặt với lũ lụt, gây ra nhiều thiệt hại về người và của, người dân không thể
canh tác được làm dư thừa lao động nông nhàn trong mùa lũ, không có thu
nhập làm đời sống nông dân khó khăn.
Chợ Mới là một huyện thuộc tỉnh An Giang, với diện tích đất nông
nghiệp là 25.357 ha, đây là một huyện cù lao được bao quanh bởi sông Tiền,
Sông Hậu và sông Vàm Nao, với hệ thống sông ngòi chằng chịt, được phù sa
bồi đắp và cung cấp một lượng thủy sản tự nhiên. Để đảm bảo tính mạng, tài
sản và gia tăng sản xuất, trong những năm gần đây, huyện đã tiến hành bao
đê triệt để để sản xuất được nhiều vụ, gia tăng kinh tế. Chợ Mới là huyện có
bao đê sớm nhất, với đê bao tháng 8 để bảo vệ lúa Hè Thu, năm 1998 đê bao
tháng tám được thay thế dần bởi đê bao triệt để, và đến năm 2002 đê bao triệt
để được xây dựng trên toàn huyện. Đây là một lợi thế cho Chợ Mới trong sản
xuất nông nghiệp, diện tích gieo trồng các loại cây tăng từ 63.101 ha năm
1999 lên 73.628 ha năm 2003, sản lượng cây trồng tăng lên đáng kể, sản
lượng lúa tăng từ 272.121 tấn ở năm 1999 lên 306.988 tấn năm 2003, sản
lượng bắp tăng từ 8.465 tấn năm 1999 lên 12.143 tấn năm 2003 (Phòng thống
kê huyện Chợ Mới, 2004a).
Từ khi có đê bao, người dân an tâm sản xuất, để tận dụng ưu thế này,
người dân nên có chiến lược chọn lựa mô hình canh tác thích hợp, chọn lựa
cây trồng, vật nuôi theo nhu cầu của thị trường. Vì nhiều nơi bị ảnh hưởng
của lũ không sản xuất được nên giá cả một số hàng hóa như các loại rau màu
thường cao. Nắm bắt được tình hình trên để chọn lựa mô hình canh tác thích
hợp, góp phần phát triển kinh tế nông hộ nói riêng, phát triển kinh tế tỉnh nhà
nói chung, chúng tôi thực hiện đề tài “Các mô hình trồng trọt và chăn nuôi
trong mùa lũ năm 2004 tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang” để khảo sát các
mô hình mà nông dân đang canh tác trong mùa lũ 2004, mong muốn tìm ra
mô hình canh tác thích hợp, góp phần cải thiện đời sống nông dân.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tổng kết các mô hình canh tác trong mùa lũ năm 2004.
- Đánh giá hiệu quả của các mô hình.
- Đề xuất những mô hình canh tác thích hợp, đem lại lợi nhuận cao
cho nông dân.
Chương 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Chợ Mới có diện tích tự nhiên 35.571 ha, dân số 359.576
người, gồm 16 xã và 2 thị trấn.
Tây bắc giáp huyện Phú Tân, bắc giáp huyện Thanh Bình tỉnh Đồng
Tháp, đông giáp thị xã Cao Lãnh và huyện Cao Lãnh (Đồng Tháp), đông nam
giáp huyện Lấp Vò (Đồng Tháp), tây nam giáp thành phố Long Xuyên, tây
giáp huyện Châu Thành và huyện Châu Phú. Gồm 70 tuyến địa giới cấp xã
dài 242,209 km, trong đó 21 tuyến trùng với tuyến tỉnh và 15 tuyến trùng với
tuyến huyện, được xác định bằng 71 mốc địa giới hành chính (8 mốc tỉnh, 15
mốc huyện và 48 mốc xã). Huyện lỵ cách Long Xuyên 29 km theo đường
tỉnh lộ 944 từ An Hòa đi Cựu Hội và tỉnh lộ 942 từ Hội An đi Thuận Giang
(Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh An Giang, 2003).
Năm 1978, An Giang bị lũ lớn, huyện Chợ Mới đã thực hiện thành
công hệ thống đê bao ngăn lũ ở ấp Hòa Thượng, xã Kiến An, bảo vệ được
một diện tích lúa khá lớn để giải quyết vấn đề giống cho vụ sau (Ủy Ban
Nhân Dân Tỉnh An Giang, 2003). Năm 1998, huyện Chợ Mới tiến hành đê
bao triệt để, bảo vệ tài sản, tính mạng con người đồng thời gia tăng sản xuất.
2.1.2. Đặc điểm sông ngòi
Theo Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh An Giang (2003), Chợ Mới là huyện cù
lao được bao quanh bởi sông Tiền, sông Hậu và sông Vàm Nao và nhiều
kênh rạch phục vụ cho tưới tiêu như rạch Ông Chưởng, kinh Cà Mau, kinh
Long An, kinh Mới,… Sông Tiền chảy theo hướng tây bắc - đông nam. Sông
Tiền là trục giao thông thủy lợi quan trọng nhất, là nguồn cung cấp nước và
phù sa lớn nhất, đồng thời cũng là con sông có chế độ dòng chảy và diễn biến
lòng sông phức tạp nhất.
Sông Hậu có hướng chảy song song với sông Tiền. Đối với An
Giang, sông Hậu là trục giao thông thủy đi xuyên suốt trung tâm của tỉnh từ
thượng lưu về hạ lưu, là nguồn cung cấp nước và phù sa chủ yếu cho vùng
trũng Tứ Giác Long Xuyên.
Sông Vàm Nao chảy ven xã Phú Mỹ huyện Phú Tân và xã Kiến An
huyện Chợ Mới, nối liền sông Tiền với sông Hậu.
Rạch trở thành tuyến giao thông thủy quan trọng, trục tưới tiêu chính
của huyện Chợ Mới là rạch Ông Chưởng, Cái Tàu Thượng. Rạch Ông
Chưởng có dạng uốn khúc như một con rồng, lấy nước sông Tiền ngay đầu
thị trấn Chợ Mới, chảy theo hướng đông bắc - tây nam.
2.1.3. Đặc điểm khí hậu
Vĩ độ địa lý của An Giang nằm trong khoảng từ 100 - 110 vĩ độ bắc,
tức là nằm gần với xích đạo nên các quá trình diễn biến của nhiệt độ cũng
như lượng mưa đều giống với khí hậu xích đạo, thời gian mặt trời chiếu sáng
dài. Trong mùa khô, bình quân mỗi ngày có tới gần 10 giờ nắng, còn trong
mùa mưa là 7 giờ có nắng (Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh An Giang, 2003).
Hàng năm, An Giang chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc và tây
nam. Khí hậu An Giang mang đầy đủ những đặc điểm của khí hậu nhiệt đới
gió mùa điển hình mà đặc trưng cơ bản của nó là một nền nhiệt độ cao và ít
thay đổi quanh năm, nhiệt độ cao nhất ở An Giang dao động từ 360 - 380,
nhiệt độ trung bình khoảng 270. Chế độ mưa phong phú và phân hóa rõ rệt
theo hai mùa gió, cụ thể là gió mùa mùa đông tương ứng với mùa khô, gió
mùa mùa hè tương ứng với mùa mưa (Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh An Giang,
2003).
Lượng mưa trung bình ở Chợ Mới khoảng 114 mm, lượng mưa thấp
nhất là 4,4 mm vào tháng 2, lượng mưa cao nhất xuất hiện vào tháng 10
khoảng 305 mm. Ẩm độ phụ thuộc vào lượng mưa. Ở An Giang, trong mùa
khô ẩm độ ở thời kỳ đầu mùa là 82%, giữa mùa khoảng 78% và cuối mùa còn
72%. Khác với mùa khô, mùa mưa ở An Giang là một mùa ẩm ướt thật sự, độ
ẩm trung bình trong những tháng mùa mưa trên 84%, có những tháng xấp xỉ
90% (Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh An Giang, 2003).
2.1.4. Đặc điểm đất đai
Do vị trí của huyện Chợ Mới là cù lao được bao quanh bởi sông Tiền,
sông Hậu và sông Vàm Nao, chính điều này đã tạo nên đặc điểm đất đai của
huyện, đất nơi đây được bồi đắp bởi phù sa hàng năm. Đặc tính chung của đất
phù sa ở An Giang là chứa nhiều hữu cơ, pH thấp, ít bị bào mòn. Đây là
nhóm đất được dùng để trồng lúa chủ yếu trong tỉnh với tính chất ít hoặc
không bị phèn và có dinh dưỡng cao, khả năng tăng vụ có thể bắt đầu từ
nhóm đất này.
Nhóm đất phù sa xám nâu được bồi, ít hữu cơ chiếm một diện tích
khá lớn ở 4 huyện cù lao như Chợ Mới, Phú Tân, An Phú, Tân Châu. Vật liệu
trầm tích chủ yếu là sét, bột, lẫn chất hữu cơ, bề dày lớp phù sa từ 1 - 2 m.
Đất có phản ứng hơi chua, pH biến động trong khoảng 4,0. Đạm tổng số từ
trung bình đến thấp (0,06 - 0,18%), đất nghèo lân và kali. Thành phần cơ giới
gồm sét chiếm 45%, bột 49%, cát 1,4%.
Một phần nhỏ của huyện Chợ Mới mang đặc tính đất phù sa xám nâu
ít được bồi đắp, pH khoảng 4,5. Tầng mặt có bề dày trung bình 30 - 50 cm,
đất có độ dinh dưỡng khá cao. Đất có sa cấu nặng, hàm lượng sét chiếm
41,3%, bột 36,6%, cát rất ít hoặc không có (Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh An
Giang, 2003).
2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.2.1 Hiện trạng phân bố và sử dụng đất nông nghiệp
Theo Phòng thống kê huyện Chợ Mới (2004a), toàn huyện Chợ Mới
có diện tích đất tự nhiên là 35.571 ha, diện tích đất nông nghiệp chiếm 25.357
ha, trong đó diện tích đất trồng cây hàng năm là 22.670 ha, đất chuyên dùng
là 3.618 ha, đất ở là 1.860 ha và đất chưa sử dụng là 4.736 ha.
Với diện tích đất nông nghiệp chiếm 71,29% tổng diện tích đất toàn
huyện, nguồn lực lao động dồi dào, điều kiện tự nhiên thuận lợi là thế mạnh
cho huyện phát triển nông nghiệp.
2.2.2. Hiện trạng dân số và lao động
Theo Phòng thống kê huyện Chợ Mới (2004a), tổng số dân của huyện
là 359.576 người, số nam giới chiếm 178.382 người. Dân số trong độ tuổi lao
động chiếm 220.427, dân số trong độ tuổi lao động phục vụ trong các ngành
nông lâm nghiệp - thủy sản chiếm tới 114.764 người, mật độ dân số 1.010
người/km2. Dân số toàn huyện tăng đều qua các năm tạo trở ngại cho phát
triển kinh tế (Bảng 1).
Bảng 1: Dân số - lao động huyện Chợ Mới, An Giang
Chỉ tiêu 2001 2002 2003
- Dân số toàn huyện (người)
+ Nam
+ Nữ
+ Dân số trong độ tuổi lao động
(phục vụ trong nông nghiệp)
- Mật độ dân số (người/km2)
- Số hộ toàn huyện
+ Hộ nghèo theo tiêu chuẩn
355.657
176.770
178.887
121.701
1.000
74.661
2.902
358.296
177.806
180.490
118.781
1.007
75.086
2.263
359.576
178.382
181.194
114.764
1.010
75.315
1.514
(Nguồn: Phòng thống kê huyện Chợ Mới, 2004a)
2.2.3. Sản xuất nông nghiệp 2004
Ngành nông nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế
của huyện vì huyện Chợ Mới chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Tổng giá trị
sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (theo giá thực tế) tăng từ 430.300
triệu đồng năm 1999 lên 656.645 triệu đồng năm 2002 và 777.019 triệu đồng
năm 2003. Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp (theo giá thực tế) tăng từ
931.507 triệu đồng năm 1999 lên 1.331.982 triệu đồng năm 2002 và
1.558.659 triệu đồng vào năm 2003, trong đó, ngành trồng trọt chiếm 740.958
triệu đồng năm 1999, 1.279.769 triệu đồng năm 2003; ngành chăn nuôi chiếm
42.586 triệu đồng năm 1999, 84.763 triệu đồng năm 2003 tăng gần như gấp
đôi trong vòng 4 năm. Qua đây ta thấy kinh tế của huyện tăng đáng kể từ khi
huyện tiến hành bao đê triệt để từ năm 1998 (Phòng thống kê Chợ Mới,
2004a).
2.2.3.1. Trồng trọt
Tổng diện tích gieo trồng là 74.166 ha, tăng 538 ha so năm 2003.
Trong đó, diện tích lúa 54.730 ha, giảm 1.609 ha so năm 2003. Diện tích lúa
giảm do chuyển sang trồng màu, do vậy diện tích màu là 19.436 ha, tăng
2.147 ha so năm 2003 (Bảng 2). Cơ cấu cây trồng có chuyển dịch khá hơn.
Nông dân trồng các loại giống cây trồng có năng suất và chất lượng tốt hơn
nên sản phẩm tiêu thụ thuận lợi.
Bảng 2: Diện tích sản xuất (ha) qua 3 vụ tại huyện Chợ Mới, An Giang
Diện tích (ha) 2003 2004
- Tổng diện tích vụ 1 24.708 25.162
+ Lúa 19.528 18.964
+ Màu 5.180 6.198
- Tổng diện tích vụ 2 25.530 25.401
+ Lúa 18.237 17.576
+ Màu 7.293 7.825
- Tổng diện tích vụ 3 23.390 23.603
+ Lúa 18.574 18.190
+ Màu 4.816 5.413
- Tổng diện tích cả năm 73.628 74.166
+ Lúa 56.339 54.730
+ Màu 17.289 19.436
- Hệ số sử dụng đất (vòng/năm) 3,33 3,35
(Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân huyện Chợ Mới, 2004)
Vụ 1 năm 2004, toàn huyện đã xuống giống được 25.162 ha, tăng
454 ha so với cùng kỳ năm 2003, trong đó diện tích cây lúa 18.964 ha, giảm
564 ha so với năm 2003, diện tích màu là 6.198 ha, tăng 1.018 ha so với năm
2003 (Bảng 2). Vụ 2 năm 2004, toàn huyện đã xuống giống được 25.401 ha,
giảm 129 ha so với cùng kỳ năm 2003, trong đó diện tích cây lúa 17.576 ha,
giảm 661 ha so với năm 2003, diện tích màu là 7.825 ha, tăng 532 ha so với
năm 2003. Vụ 3 năm 2004, toàn huyện đã xuống giống được 23.603 ha, tăng
213 ha so với cùng kỳ năm 2003, trong đó diện tích cây lúa 18.190 ha, giảm
384 ha so với năm 2003, diện tích màu là 5.413 ha, tăng 597 ha so với năm
2003. Diện tích lúa giảm qua các vụ so với năm 2003 như trên là do chuyển
sang trồng màu. Mặt khác, vụ 2 xã Mỹ An do thu hoạch vụ 1 trễ nên có
khoảng 120 ha diện tích lúa chuyển sang vụ 3 làm cho diện tích cây lúa vụ 2
có giảm so kế hoạch cũng như cùng kỳ (Phòng thống kê huyện Chợ Mới,
2004c) và ở vụ 3 xã Long Kiến do có một số diện tích đất nằm trong vùng
trũng, khoảng 170 ha chuyển sang sản xuất vụ đông xuân sớm, làm cho diện
tích cây lúa vụ 3 giảm so cùng kỳ (Phòng thống kê huyện Chợ Mới, 2004d).
Đối với cây màu ở vụ 3 năm 2004, nông dân đã xuống giống được
5.413 ha. Gồm một số cây chủ yếu như: bắp trắng 564 ha, khoai lang 15 ha,
rau dưa 3.448 ha. Diện tích đất trồng cỏ tăng lên 82 ha để cung cấp thức ăn
cho đàn bò (Bảng 3).
Năm 2004, năng suất lúa 3 vụ đạt 17,35 tấn/ha, tăng 1,08 tấn/ha so
năm trước. Sản lượng lúa đạt 317.156 tấn, tăng 10.168 tấn so năm 2003. Sản
lượng lúa tăng so năm trước do yếu tố năng suất tăng cao, nhất là vụ 2 năng
suất 5,56 tấn/ha là năm có năng suất cao nhất từ trước đến nay, góp phần cho
sản lượng lúa tăng cao (Phòng thống kê huyện Chợ Mới, 2004b). Trong đó,
năng suất lúa vụ 3 năm 2004 là 5,29 tấn/ha, sản lượng 96.189 tấn, năng suất
của cây màu cũng tăng so với năm trước (Phòng thống kê huyện Chợ Mới,
2004d).
Diện tích gieo trồng ngày càng tăng lên nên hệ số sử dụng đất đạt
3,35 vòng/năm, tăng 0,02 vòng so năm trước, do diện tích đất trồng cây hằng
năm tăng lên.
Bảng 3: Cơ cấu cây màu thực hiện được năm 2004 qua 3 vụ tại huyện Chợ
Mới, An Giang
Đơn vị tính: ha
Chủng loại Diện tíchVụ 1 Vụ 2 Vụ 3 CỘNG
+ Bắp trắng 796 1.173 564 2.533
+ Rau dưa 4.174 4.057 3.448 11.679
+ Bắp non 256 733 649 1.638
+ Bắp lai 41 69 90 200
+ Cỏ 16 12 82 110
CỘNG 6.198 7.825 5.413 19.436
(Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân huyện Chợ Mới, 2004)
2.2.3.2. Chăn nuôi
Trong điều kiện đê bao triệt để, số lượng heo và bò tăng hơn so với
đê bao tháng 8 trung bình tương ứng là 2,59 con heo/hộ và 4,09 con bò/hộ.
Điều này có thể lý giải với điều kiện thuận lợi cho việc chăn nuôi như bao đê
triệt để, không bị ngập, có thể nuôi được quanh năm và chuồng có thể xây
dựng kiên cố đã có tác dụng kích thích cho chăn nuôi heo và bò. Nhờ có đê
bao canh tác được 3 vụ nên có nhiều tấm cám và dư thừa nông sản, có thể dễ
dàng cho dịch vụ chăn nuôi thú y, thức ăn, con giống… Kết quả hạch toán
hiệu quả kinh tế cho thấy tác động của đê bao tăng lợi nhuận trong chăn nuôi
khoảng 10,457 triệu đồng từ nuôi bò và 0,889 triệu đồng/hộ/năm từ nuôi heo
(Dương Văn Nhã, 2004).
a. Đàn heo
Tính đến thời điểm 01/07/2004, toàn huyện hiện có 30.986 con tương
đương tổng đàn của năm 1983. Trong đó, heo thịt 28.431 con, heo nái 2.494
con, heo đực giống 61 con. Đây là thời điểm đàn heo có tốc độ phát triển cao
nhất trong những năm qua. Do ảnh hưởng đợt dịch cúm gia cầm (phải tiêu
hủy gần toàn bộ đàn gia cầm) nên lượng thịt heo là nguồn cung cấp chủ yếu,
để thay thế sản phẩm thịt gà. Giá thịt heo hơi trên thị trường luôn giữ ở mức
giá cao (giá heo hơi từ 14.000 - 15.000 đồng/kg vào thời điểm tháng
03/2004), tuy giá thức ăn có biến động nhưng so giá bán heo hơi lợi nhuận ở
mức 22% đã kích thích nhiều hộ nuôi. Do vậy, nhiều hộ chăn nuôi đã mở
rộng qui mô để phát triển đàn. Qua kết quả điều tra cho thấy, cơ cấu hộ nuôi
nhỏ từ 3 con trở lại hiện nay chỉ chiếm gần 40% (trong khi tỷ lệ này năm
2003 là 53%). Như vậy, các hộ nuôi có xu hướng chuyển sang loại hình chăn
nuôi bán công nghiệp và qui mô số lượng nhiều hơn, nhất là các hộ chăn nuôi
truyền thống thường có điều kiện đầu tư chuồng trại ngày càng tốt hơn, tích
lũy kinh nghiệm và kỹ thuật chăn nuôi cao hơn ... (Phòng thống kê huyện
Chợ Mới, 2004e).
b. Đàn trâu, bò
Theo báo cáo của Phòng thống kê huyện Chợ Mới (2004e), tính đến
01/07/2004 toàn huyện hiện có 10.513 con, tăng 3.614 con so với năm 2003.
Đàn bò tăng mạnh do nuôi bò hiệu quả cao, ít ảnh hưởng dịch bệnh như heo.
Việc phát triển khá nhanh đàn bò với tốc độ khá cao không những giải quyết
công ăn việc làm cho lao động địa phương mà còn góp phần xóa đói giảm
nghèo. Về con giống, hiện bò lai Sind chỉ chiếm 5% tổng đàn. Do đó, chương
trình khuyến nông tập trung tuyên truyền và đầu tư vốn để người nuôi bò phát
triển bò lai Sind nhiều hơn và hiệu quả sẽ cao hơn. Đến cuối năm 2004 toàn
huyện có 10.623 con bò. Đối với đàn trâu của huyện chỉ có 110 con chủ yếu
nuôi cày kéo, chăn nuôi trâu khó phát triển (Phòng thống kê huyện Chợ Mới,
2004b).
c. Đàn gia cầm
Ngay từ đầu năm 2004, do ảnh hưởng dịch cúm gia cầm nên huyện
đã tiến hành thiêu hủy 653.078 con gia cầm, 53.718 con cút và 377.242 quả
trứng, tổng thiệt hại 20,13 tỉ đồng, nhà nước hỗ trợ người chăn nuôi 4,14 tỉ
đồng, tuy thiệt hại nhưng không ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế. Toàn
huyện hiện có 311.177 con gia cầm, trong đó đàn gà 66.289 con (gà công
nghiệp 2.510 con), vịt 244.888 con (vịt đàn 227.294 con). Như vậy, sau thời
điểm xảy ra dịch bệnh đến nay lượng gia cầm trong huyện đã tăng được
74,2% (tức tăng132.553 con) (Phòng thống kê huyện Chợ Mới, 2004e).
d. Chăn nuôi khác
Chăn nuôi các loại con khác phát triển khá mạnh, đáng chú ý là chăn
nuôi dê, hiện giá rất cao nên có 830 con, cá sấu phát triển lên đến 1.388 con,
rùa, ba ba 10.164 con, thỏ 6.317 con... (Phòng thống kê huyện Chợ Mới,
2004e).
2.2.3.3. Thủy sản
Toàn huyện hiện có 2.041 hộ nuôi trồng thủy sản với các loại hình
nuôi: ao hầm, chân ruộng, đăng quầng, bè, ...
Tổng diện tích nuôi ao hầm, chân ruộng, đăng quầng là 114 ha, trong
đó nuôi ao hầm 103 ha, nuôi chân ruộng 5 ha, nuôi đăng quầng 6 ha. Diện
tích nuôi ao hầm tập trung nhiều nhất ở các xã: Kiến An, Mỹ Hội Đông, An
Thạnh Trung, Hòa Bình, Hòa An... Riêng diện tích nuôi đăng quầng tập trung
ở các xã có bãi bồi như: Kiến An, Mỹ Hiệp, Hòa Bình, Hòa An. Tổng số cá
hiện có 13,10 triệu con, nhưng lượng cá của các trại cá giống trong huyện
cung cấp 1,15 triệu con, chỉ chiếm 8,7% số cá nuôi và số còn lại rất lớn phải
mua các nơi khác, do đó cần phải tổ chức sản xuất cá giống để cung cấp cho
người nuôi đủ số lượng và đảm bảo chất lượng con giống (Phòng thống kê
huyện Chợ Mới, 2004a).
Năm 2004, đối với nghề nuôi thủy sản, toàn huyện có 103 ha nuôi cá
ao hầm, 5 ha nuôi trên chân ruộng, 6 ha nuôi đăng quầng, 156 bè, 27 lồng
nuôi cá, với tổng sản lượng cá nuôi 6.925 tấn tăng 24,7% so với năm trước, là
huyện có điều kiện phát triển thủy sản ở khu vực bãi bồi, cần có qui hoạch để
phát triển ổn định và không ảnh hưởng đến môi trường, ngoài ra cần quan
tâm phát triển cơ sở ươm con giống, vì hiện nay chỉ cung cấp được 8,7% con
giống số còn lại phải mua nơi khác (Phòng thống kê huyện Chợ Mới, 2004b).
2.2.3.4. Kinh tế hợp tác
Toàn huyện có 24 hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, 2 hợp tác xã thủy
sản, 1 hợp tác xã vận tải, 1 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và 4 quỹ tín dụng.
Các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả, riêng hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp
hoạt động không hiệu quả được thể hiện qua nợ phải thu là 1,48 tỉ đồng, trong
khi đó nợ phải trả là 2,84 tỉ đồng, mất cân đối 1,36 tỉ đồng (Phòng thống kê
huyện Chợ Mới, 2004b).
Sản xuất nông nghiệp năm 2004 tiếp tục phát triển, cơ cấu cây trồng
đã chuyển dịch khá hơn, chất lượng sản phẩm từng bước được nâng lên, đã
tạo ra giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 1.815,47 tỉ đồng tăng 16,4% so năm
trước, trong đó giá trị cây lúa đạt 681,96 tỉ đồng tăng 20,8% và chiếm 44,5%,
giá trị cây màu 817,12 tỉ đồng chiếm 53,4% trong tổng giá trị sản xuất ngành
trồng trọt, nhưng diện tích màu chiếm 26,2% và diện tích lúa chiếm 73,8%
tổng diện tích gieo trồng của huyện (Phòng thống kê huyện Chợ Mới, 2004b).
Như vậy năm 2004 giá trị sản xuất cây hàng năm là 1.499,52 tỉ đồng,
bình quân 1 ha đất cây hàng năm đạt 65,22 triệu đồng tăng 10,2 triệu đồng so
năm trước (giá trị sản xuất bình quân 1 ha không tính ngành chăn nuôi, thủy
sản nuôi bè và giá trị dịch vụ nông nghiệp) (Phòng thống kê huyện Chợ Mới,
2004b).
2.3. Kỹ thuật trồng một số loại cây
2.3.1. Rau
Mô hình chuyên màu được áp dụng trên diện tích đất rẫy có địa hình
cao, khả năng dẫn nước và giữ nước kém. Các cây trồng có thể được người
dân thâm canh hoặc luân canh, thường trồng bắp, đậu nành, rau dưa, cà…
Việc chọn cây trồng trong mô hình chuyên canh màu ngoài các điều kiện tự
nhiên và khả năng thực hiện của nông hộ thì yếu tố thị trường cũng quyết
đị._.nh rất lớn.
a. Đất trồng rau
Bộ rễ các loại rau nói chung là nông từ 25 - 30 cm, vì vậy tính chịu
hạn, chịu úng rất kém và dễ bị nhiễm sâu bệnh, cho nên yêu cầu về đất của
các loại rau phải được làm cẩn thận, tốt nhất là được để ải 5 - 7 ngày và rắc
vôi bột để tiệt trùng, trừ các nguồn bệnh trong đất và phải được lên liếp trước
khi trồng. Chiều dài của luống tùy vào địa hình và diện tích đất để thích hợp
cho việc tưới tiêu, rộng 100 - 120 cm là vừa.
Đất trồng rau không được làm quá nhỏ, vì làm đất quá nhỏ sẽ lấp hết
các khoảng trống chứa các khí cần thiết trong lòng luống rau, có thể làm đất
nhỏ 1 - 3 cm hay 5 cm là được. Vụ hè, mưa nhiều thì làm luống khum mai
rùa, mặt luống hẹp và cao, vụ đông xuân khô hanh, làm luống phẳng và rộng
hoặc hơi trũng lòng khay để giữ nước, giữ phân (Nguyễn Văn Thắng và Trần
Khắc Thi, 2000).
b. Bón phân
Rau là cây có thời gian sinh trưởng tương đối ngắn nhưng lại cho sản
lượng rất cao, từ 20 - 60 tấn/ha, do vậy cây rau đòi hỏi phải được bón nhiều
phân và đất trồng rau phải là đất tương đối tốt. Theo Nguyễn Văn Thắng và
Trần Khắc Thi (2000), để thu được 1 tấn cải bắp, cây cải bắp đã lấy đi từ đất
3,5 kg N, 1,3 kg P2O5 và 4,3 kg K2O; như vậy 1 ha cải bắp nếu đạt năng suất
40 tấn thì đất đã mất đi 140 kg N nguyên chất tương đương 304 kg urê, 52 kg
P2O5 tương đương 325 kg Supe lân và 172 kg kali nguyên chất tương đương
358 kg phân kali thương phẩm. Đó là chưa kể đến phần lá già phải bỏ đi. Từ
đây cho thấy nhu cầu dinh dưỡng của cây rau rất lớn, nếu đất trồng không
cung cấp thêm phân bón thì không đủ cho nhu cầu về phân cho rau.
Tùy vào nhu cầu phân của từng loại rau cùng các điều kiện thổ
nhưỡng đất đai, cũng như vào từng giai đoạn phát triển của cây mà các loại
phân khác nhau và liều lượng phân cũng khác nhau. Đạm được dùng cho các
loại cây rau ăn lá như cải bắp, rau cải, mồng tơi…với lượng bón cao hơn ở
những loại rau khác, nhưng nếu bón quá nhiều và lại bón chậm vào lúc sắp
thu hoạch sẽ làm cây rau sinh trưởng quá mạnh, vống lốp, dễ bị sâu bệnh xâm
nhập, làm xấu phẩm chất của rau.
Lân có tác dụng làm cho quả, hạt chắc, sáng mã, làm cho cây có bộ rễ
phát triển đầy đủ, làm cho cây cứng cáp, mô cây dày dặn tăng tính chống đổ,
chống lốp, tính chống chịu với sâu bệnh hại, lân sẽ giúp phát huy được hết
hiệu lực của phân đạm, tăng hiệu quả sử dụng phân bón.
Kali là loại phân có tác dụng đẩy mạnh các quá trình tích lũy vật chất
- sản phẩm của sự quang hợp vào các bộ phận dự trữ của cây rau. Ngoài đạm,
lân, kali rau cũng cần phân vi lượng với một liều lượng rất ít, nhưng chúng lại
cực kỳ cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển bình thường của cây rau như
Bo, Mn, Cu, Zn….
Yêu cầu của kỹ thuật bón phân cho rau:
- Bón cân đối giữa các phân đạm, lân, kali.
- Bón đủ lượng phân cần thiết.
- Bón đúng lúc và đúng cách.
Đạm, lân, kali là ba chất cơ bản để tạo ra chất hữu cơ và năng suất,
phẩm chất của cây rau; nhưng nếu bón mất cân đối giữa chúng sẽ dẫn đến hậu
quả ngược lại: năng suất thấp, chất lượng rau kém, dễ hư hỏng khi vận
chuyển hoặc bảo quản (Nguyễn Văn Thắng và Trần Khắc Thi, 2000).
2.3.2. Lúa
a. Xử lý hạt giống
Giống phải được lựa bỏ những hạt lép, lửng bằng nước muối, sau khi
đãi sạch nước muối đổ nước sạch ngâm đủ 72 giờ, cứ 24 giờ thay nước 1 lần,
lần sau cùng đãi thật sạch, ủ cho hạt nứt nanh (gai dứa), mang gieo ngay
(Nguyễn Văn Hoan, 1999).
b. Gieo sạ
Ruộng lúa đã bón phân lót, chia luống, rút hết nước đem thóc giống
đã ủ đem gieo ngay. Với giống hạt nhỏ (trọng lượng 1000 hạt dưới 22 gam)
cần gieo 55 kg mầm cho 1 ha. Với giống hạt to (trọng lượng 1000 hạt trên 25
gam) cần gieo 69 kg mầm cho 1 ha. Kiểm tra số cây mọc khi có 2 lá thật cần
đạt 140 - 150 cây/m2. Nếu số lượng vượt quá con số trên cần tỉa bỏ các cây
nhỏ và ở những chỗ gieo dày để giữ lại 150 cây/m2 là vừa. Chú ý gieo úp tay
cho hạt lặn sâu vào đất và gieo thật đều (Nguyễn Văn Hoan, 1999).
c. Chăm sóc
Không để nước đọng. Sau khi gieo 1 - 2 ngày cần phun thuốc trừ cỏ
Sofit với lượng 1 lít pha với 300 lít nước phun đều cho 1 ha. Chú ý phun đều
cả phần rãnh luống không bỏ sót.
Khi cây bắt đầu phát triển ta tiến hành bón thúc cho cây:
- Lúa có 2 lá: bón thúc 80 kg đạm urê và 80 kg kali clorua cho 1 ha.
- Lúa có 6 lá: bón thúc lần 2 bằng 80 kg đạm urê và 80 kg kali clorua
cho 1 ha.
- Lúa phân hóa đòng: bón thúc tiếp 55 kg đạm urê và 55 kg kali
clorua cho 1 ha.
- Lúa trổ báo: bón nuôi hạt lần cuối bằng 55 kg đạm urê và 110 kg
kali clorua cho 1 ha (Nguyễn Văn Hoan, 1999).
Tùy theo từng loại lúa, chất lượng đất khác nhau, từng giai đoạn phát
triển khác nhau mà nhu cầu về phân bón cũng khác nhau. Cần chú ý, theo dõi
tình hình lúa, sớm phát hiện sâu bệnh mà có biện pháp phòng trị thích hợp
hạn chế ảnh hưởng đến năng suất lúa.
Trên những ruộng trồng lúa, người nông dân có thể kết hợp nhiều mô
hình khác nhau tùy theo từng điều kiện cụ thể để không làm thoái hóa đất do
canh tác độc canh. Mô hình 2 lúa - 1 màu, trong đó vụ màu có thể trồng cây
họ đậu như đậu nành, vụ đậu nành thường cho năng suất cao cùng với giá đầu
ra của đậu nành tương đối ổn định nên thu nhập vụ màu không thua kém so
với canh tác lúa Hè Thu. Ngoài ra, trồng đậu còn có tác dụng cải tạo đất, phá
thế độc canh cây lúa và tăng hệ số sử dụng đất nông nghiệp. Vụ Đông Xuân
của 2 lúa - 1 màu được áp dụng sớm hơn so với canh tác lúa 2 vụ bình thường
(Đại Học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, 2001).
2.4. Kỹ thuật chăn nuôi bò
Thức ăn chủ yếu của bò là cỏ, nuôi bò ta có thể tận dụng nguồn thức
ăn là các phụ phẩm trong nông nghiệp như thân bắp, cám gạo, rơm, khoai
mì….
Hiện nay, huyện Chợ Mới đang phát triển mô hình chăn nuôi bò vỗ
béo, đặc biệt phát triển rất mạnh ở xã Mỹ An, tận dụng những nguồn phụ
phẩm trong trồng trọt như thân bắp, rơm lúa khô cũng như những nguồn cỏ tự
nhiên của vùng. Do nhu cầu phát triển số lượng bò tăng nhanh trong những
năm qua làm lượng cỏ tự nhiên không đáp ứng được, người nông dân đã tận
dụng thân bắp để cung cấp thêm nguồn thức ăn cho bò.
Nuôi bò vỗ béo là một phương thức chăn nuôi thâm canh được áp
dụng trong một thời gian ngắn trước khi giết thịt nhằm đạt mức tăng trọng
cao. Vỗ béo bò ở lứa tuổi còn non cho hiệu quả, vì bò non có tốc độ lớn
nhanh, với bộ răng chắc khỏe nên khả năng tiêu hóa và đồng hóa thức ăn tốt
hơn, khả năng tích lũy cũng cao hơn. Hơn nữa, vỗ béo ở lứa tuổi còn non cho
tỉ lệ thịt xẻ cao, chất lượng và độ mềm của thịt tốt hơn. Có thể bắt đầu vỗ béo
từ 22 tháng tuổi. Bò đưa vào vỗ béo là những con bò chuyên thịt để cho kết
quả vỗ béo tốt nhất (Phùng Quốc Quảng, 2001).
Bảng 4: Khẩu phần thức ăn của bò vỗ béo
Đơn vị tính: kg
Khối lượng
cơ thể
Cỏ tươi Cỏ khô Rơm
lúa
Thức ăn
ủ chua
Thức ăn
tinh
Muối
ăn
260
290
320
35
35
40
-
1
-
3,0
4,0
5,0
-
3,0
3,0
1,0
1,0
1,5
0,030
0,035
0,040
(Nguồn: Phùng Quốc Quảng, 2001)
Thức ăn ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và phẩm chất thịt bò.
Khối lượng và chất lượng thức ăn đóng vai trò quan trọng trong việc vỗ béo,
thường thức ăn của chúng bao gồm cỏ tươi, cỏ khô, rơm lúa khô, thức ăn tinh
và thức ăn củ quả. Cần cho ăn loại thức tinh giàu năng lượng để giúp cho cơ
thể tích lũy mỡ nhanh và bò chóng béo. Tùy theo điều kiện cụ thể của từng
gia đình, mỗi ngày có thể cung cấp cho mỗi con bò vỗ béo 1- 2 kg thức ăn
tinh. Tùy theo khối lượng cơ thể và giai đoạn của bò mà cung cấp nguồn thức
ăn hợp lý, bảo đảm đủ lượng nước cho bò vì nó ảnh hưởng đến quá trình trao
đổi chất bên trong cơ thể của bò. Ngoài ra, vấn đề vệ sinh, chăm sóc, tiêm
ngừa cho bò cũng là một vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến năng suất của bò.
Trồng trọt kết hợp với chăn nuôi, thủy sản là mô hình tận dụng những
phụ phẩm sẵn có để giảm bớt chi phí. Những nguồn thức ăn từ phụ phẩm của
lúa, bắp và nhiều loại cây trồng khác được người nông dân tận dụng làm thức
ăn cho bò, có thể ủ chua, chế biến thức ăn để dự trữ khi thiếu nguồn thức ăn.
Chương 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Vật liệu
- Địa bàn nghiên cứu huyện Chợ Mới - tỉnh An Giang.
- Xe máy đi lại.
- Các dụng cụ như: bút chì, bút mực, giấy, bảng hỏi…
- Máy vi tính.
3.2. Phương pháp
3.2.1. Phương pháp điều tra
- Thu thập số liệu thứ cấp về: điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế -
xã hội, bản đồ các loại của huyện Chợ Mới.
- Phỏng vấn người am hiểu để xác định những mô hình có triển vọng
trong mùa lũ ở huyện Chợ Mới để điều tra.
- Tiến hành điều tra thử để đảm bảo lấy đầy đủ thông tin của nông
dân.
- Cụ thể gồm 04 mô hình như sau:
• Mô hình sản xuất lúa vụ ba: hộ nông dân có sản xuất lúa vụ 3.
• Mô hình trồng rau màu: hộ nông dân trồng rau màu phổ biến
trong vụ 3.
• Mô hình nuôi bò vỗ béo: hộ nông dân nuôi bò sử dụng nguồn
thức ăn tự kiếm hay mua.
• Mô hình màu kết hợp chăn nuôi (bò - bắp): hộ nông dân nuôi
bò, trồng bắp có sử dụng phụ phẩm cho bò ăn.
- Dựa trên 4 mô hình đã chọn theo tình hình sản xuất của huyện Chợ
Mới, điều tra được tiến hành, với mô hình lúa gồm 18 mẫu ở 4 xã (xã Long
Điền B 9 mẫu, xã Long Kiến 4 mẫu, xã Bình Phước Xuân 2 mẫu, xã Kiến
Thành 3 mẫu). Mô hình rau màu 16 mẫu phân bố trên xã Kiến An. Mô hình
bò vỗ béo gồm 15 mẫu phân bố trên địa bàn xã Mỹ An. Mô hình Bò - Bắp
gồm 30 mẫu phân bố ở xã Mỹ An.
- Điều tra bằng phương pháp phỏng vấn nông hộ theo bảng hỏi đã
được chuẩn bị trước.
- Sau khi thu thập đầy đủ số liệu, tiến hành xử lý số liệu. Tổng hợp
những số liệu đã thu thập được. Phân tích các chỉ tiêu số liệu.
- Tổng hợp và viết báo cáo.
- Thời gian thực hiện: từ 1/1/2005 đến 30/4/2005.
3.2.3. Chỉ tiêu theo dõi
- Điều tra nguồn lực của nông hộ bao gồm những thông tin như tên,
tuổi, trình độ văn hóa, giới tính của chủ hộ và các thành viên trong gia đình,
ghi nhận nghề nghiệp, kinh nghiệm sản xuất, số nhân khẩu trong gia đình,
diện tích, tài sản, phương tiện sản xuất, phương tiện trong gia đình,…
- Ghi nhận các hoạt động sản xuất trong nông hộ như sản xuất loại
cây trồng, vật nuôi từ khâu chuẩn bị đến khi thu hoạch, các chi phí đầu tư
phân, giống, thuốc bảo vệ thực vật, chi phí thuê lao động, chi phí thức ăn cho
từng vụ. Chi tiêu trong gia đình của nông hộ. Các nguồn thu nhập từ hoạt
động sản xuất trong nông nghiệp, từ làm thuê, hay từ các nguồn khác. Các
khả năng về tài chính như khả năng về vốn và cách giải quyết vấn đề này ra
sao? Vay từ đâu?
- Ghi nhận nguồn thông tin mà nông dân tiếp cận trong hoạt động sản
xuất, ai là người thu nhận thông tin. Các yếu tố mà nông dân cho là tác động
tích cực quyết định thành công của mô hình.
3.3. Phân tích thống kê
- Nhập số liệu bằng phần mềm Excel.
- Xử lý số liệu bằng chương trình SPSS.
- Phân tích nguồn lực nông hộ về tuổi, trình độ học vấn, giới tính, số
nhân khẩu, kinh nghiệm sản xuất…
- Từ các nguồn đầu tư, nguồn thu trong sản xuất, phân tích lợi nhuận
của từng mô hình để so sánh hiệu quả giữa các mô hình và hiệu quả của việc
đầu tư trong sản xuất.
Chương 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Đặc điểm nông hộ
Nhìn chung tuổi của chủ hộ đều từ 26 tuổi trở lên. Theo số liệu ở
Hình 1, ở mô hình lúa tuổi của chủ hộ cao nhất từ 55 tuổi trở lên chiếm
38,9%. Mức tuổi thấp nhất của chủ hộ từ 26 - 35 tuổi chiếm 11,1%. Độ tuổi
trung bình của chủ hộ là 51,7 tuổi. Ở mô hình màu độ tuổi trung bình của chủ
hộ là 45,8 tuổi, có 43,8% chủ hộ có độ tuổi từ 36 - 45 tuổi, thấp nhất là 18,7%
ở 2 nhóm tuổi 26 - 35 tuổi và 46 - 55 tuổi. Tuổi trung bình của chủ hộ ở mô
hình bò vỗ béo là 42,8 tuổi, số người ở độ tuổi từ 36 - 45 tuổi và 46 - 55 tuổi
chiếm tỉ lệ cao nhất 33,3%, thấp nhất là 6,7% ở nhóm người có độ tuổi trên
55 tuổi. Tuổi trung bình của chủ hộ ở mô hình bò - bắp là 46,5 tuổi, chiếm tỉ
lệ cao nhất 36,7% là nhóm người ở độ tuổi từ 36 - 45 tuổi, số người ở độ tuổi
từ 26 - 35 tuổi chiếm tỉ lệ thấp nhất 13,3% (Bảng 22).
11,1
27,8
22,2
38,9
18,7
43,8
18,7
18,8
26,7
33,3 33,3
6,7
13,3
36,7
33,3
16,7
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
T ỉ l ệ (%
) c
h
ủ h ộ
Lúa Màu Bò Bò - Bắp
≤35 tuổi
36-45 tuổi
46-55 tuổi
>55 tuổi
Hình 1: Tỉ lệ (%) chủ hộ ở các độ tuổi khác nhau của các mô hình canh tác
tại Chợ Mới, An Giang
Mô hình
Theo số liệu điều tra ở Hình 2, trình độ học vấn của các thành viên
trong nông hộ là tương đối thấp, ở cả 4 mô hình đều có người mù chữ, cao
nhất là ở mô hình lúa tỉ lệ mù chữ chiếm tới 11,1%, mô hình màu là 3,4%,
3,3% ở mô hình bò vỗ béo và 9,8% ở mô hình bò - bắp. Tỉ lệ người có trình
độ học vấn là cấp 1 chiếm đa số, 34,6% ở mô hình lúa, 61,0% ở mô hình
màu, 45,0% ở mô hình chăn nuôi bò và 39,2% ở mô hình bò - bắp. Tuy
nhiên, trong số họ vẫn có người có trình độ trung cấp và đại học. Trình độ
học vấn trung bình ở vào khoảng lớp 6. Đây là mức trình độ tương đối thấp, ở
mức trình độ này khó có thể mà tiếp cận những khoa học kỹ thuật hiện đại để
áp dụng vào sản xuất (Bảng 23).
11,1
34,6
25,9
21
7,4
3,4
61
20,3
15,3
0
3,3
45
36,7
13,3
1,7
9,8
39,2
35,3
14,4
1,3
0
10
20
30
40
50
60
70
T ỉ l ệ (%
) h
ộ
Lúa Màu Bò Bò - Bắp
Mù chữ
Cấp 1
Cấp 2
Cấp 3
Trung cấp và Đại học
Hình 2: Tỉ lệ (%) hộ có trình độ học vấn khác nhau của các mô hình canh tác
tại Chợ Mới, An Giang
Chợ Mới là một huyện sản xuất nông nghiệp với nghề trồng lúa và
rau màu lâu đời, theo Hình 3, ở mô hình lúa có 33,4% số hộ có kinh nghiệm
sản xuất dưới 10 năm, 27,8% số hộ có kinh nghiệm sản xuất từ 11 - 20 năm,
33,5% số hộ có kinh nghiệm sản xuất 21 - 30 năm, có 5,6% số hộ có kinh
Mô hình
nghiệm sản xuất trên 30 năm, đây là vốn kinh nghiệm rất quý báu của nông
dân. Ở mô hình màu có 62,5% số hộ có kinh nghiệm sản xuất dưới 10 năm,
31,3% số hộ có kinh nghiệm sản xuất từ 11 - 20 năm, 6,3% số hộ có kinh
nghiệm sản xuất 21 - 30 năm, không có hộ nào có kinh nghiệm sản xuất trên
30 năm. Riêng ở 2 mô hình chăn nuôi bò và bò - bắp, kinh nghiệm sản xuất
nhỏ hơn hoặc bằng 10 năm chiếm chủ yếu (93,4% số hộ ở mô hình chăn nuôi
bò, 90,0% số hộ ở mô hình bò - bắp), vì mô hình chăn nuôi bò chỉ mới phát
triển trong mấy năm gần đây. Nhìn chung, phần lớn những hộ nông dân chăn
nuôi bò vỗ béo là những hộ nuôi tự phát khi thấy những nông dân ở nơi khác
nuôi bò có lãi cao, qua phỏng vấn thấy phần lớn họ không biết nhiều về kỹ
thuật nuôi bò (Bảng 24).
Như vậy, hầu hết chủ hộ đều có kinh nghiệm sản xuất, chính họ là
người hiểu rõ điều kiện tự nhiên của vùng họ sinh sống, đúc kết nhiều kinh
nghiệm trong sản xuất của chính đồng ruộng của họ. Tuy nhiên, trình độ học
vấn của nông hộ còn rất thấp. Vì vậy, nhiều nông dân sẽ rất bảo thủ, khó chấp
nhận kỹ thuật mới và sợ rủi ro.
Hình 3: Tỉ lệ (%) hộ có kinh nghiệm sản xuất của các mô hình canh tác tại
Chợ Mới, An Giang
33,4
27,8
33,5
5,6
62,5
31,3
6,3
0
93,4
0
6,6
0
90
3,36,7
0
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
T ỉ l ệ (%
) h
ộ
Lúa Màu Bò Bò - Bắp
≤10 năm
11-20 năm
21-30 năm
>30 năm
Mô hình
Bảng 5 cho thấy số nhân khẩu trung bình trên một nông hộ là 4,89
người ở mô hình lúa, 4,13 người ở mô hình màu, 4,20 người ở mô hình chăn
nuôi bò, 5,34 người ở mô hình bò - bắp. Qua 4 mô hình trên ta thấy, số người
trên nông hộ ở mức trung bình, điều này sẽ không tạo áp lực về nhân khẩu.
Số nam giới chiếm 55,2%, nữ giới chiếm 44,8% ở mô hình lúa; ở mô hình
màu số nữ giới bằng với số nam giới; ở mô hình chăn nuôi bò, số nam giới
chiếm 52,4%, số nữ giới chiếm 47,6%; ở mô hình bò - bắp, số nữ giới chiếm
53,1%, số nam giới chiếm 46,9%. Tỉ lệ nam nữ trên nông hộ chênh lệch nhau
không nhiều.
Số lao động trung bình của nông hộ là 2,67 người ở mô hình lúa, 2,19
người ở mô hình màu, 2,73 người ở mô hình bò, 4,70 người ở mô hình bò -
bắp. Số lao động trung bình ở mô hình bò - bắp cao nhất, so với số nhân khẩu
trung bình của nông hộ thì nguồn lực lao động của nông hộ ở mô hình bò -
bắp dồi dào. Còn số lao động ở các mô hình còn lại thì ở mức trung bình.
Bảng 5: Số nhân khẩu và số lao động trung bình trong nông hộ của các mô
hình canh tác tại huyện Chợ Mới, An Giang
Số nhân khẩu và lao động Lúa Màu Bò Bò - Bắp
Số nhân khẩu (người) 4,89 4,13 4,20 5,34
Nam (%) 55,2 50,0 52,4 53,1
Nữ (%) 44,8 50,0 47,6 46,9
Số lao động (người) 2,67 2,19 2,73 4,70
Độ tuổi trung bình của các thành viên trong gia đình là 26,29 tuổi ở
mô hình lúa, 23,54 tuổi ở mô hình màu, 24,08 tuổi ở mô hình chăn nuôi bò,
25,57 tuổi ở mô hình bò bắp. Số người có độ tuổi từ 16 - 55 tuổi chiếm 68,1%
ở mô hình lúa, 62% ở mô hình màu, 64,6% ở mô hình chăn nuôi bò, 67,5% ở
mô hình bò - bắp, từ đây cho thấy lao động trong nông hộ tương đối dồi dào,
đây là độ tuổi có sức mạnh và rất năng động là nguồn lực lớn cho sản xuất
nông nghiệp của nông hộ (Bảng 6).
Bảng 6: Tỉ lệ (%) thành viên trong nông hộ ở các độ tuổi khác nhau của các
mô hình tại Chợ Mới, An Giang
Đơn vị tính:%
Tuổi Lúa Màu Bò Bò - Bắp
≤15 26,1 34 33,3 27,3
16-25 36,2 28 27,1 34,1
26-35 14,5 20 14,6 14,4
36-45 8,7 8 12,5 12,9
46-55 8,7 6 10,4 6,1
>55 5,8 4 2,1 5,3
Độ tuổi trung bình 26,29 23,54 24,08 25,57
Độ lệch chuẩn 16,21 16,15 14,76 15,13
4.2. Diện tích đất đai và tài sản nông hộ
Hầu hết những hộ có đất nhiều là những hộ trồng lúa, rau, một số
nông dân có đất vườn trồng cây ăn trái, tuy nhiên số lượng này ít.
Mô hình lúa: Diện tích trung bình của nông hộ là 1,41 ha. Trong
những hộ điều tra không có hộ nào có diện tích dưới 0,5 ha, diện tích từ 1,1
ha đến 1,5 ha chiếm tỉ lệ lớn nhất 38,9% số hộ, chiếm tỉ lệ nhỏ nhất là 11,1%
số hộ có diện tích đất 1,5 - 2 ha. Số hộ có diện tích trên 2,0 ha chiếm 22,2%
số hộ. Trong đó, diện tích phần lớn là để trồng lúa, còn phần nhỏ khác là diện
tích nhà ở hay có những hộ có đất vườn nhưng diện tích này không lớn, hộ có
diện tích đất vườn lớn nhất là 4000 m2 (Bảng 7).
Mô hình rau màu: Diện tích đất trung bình của nông hộ là 0,41 ha.
Tổng diện tích đất của những hộ này không quá 1 ha. Do có diện tích nhỏ nên
họ chỉ canh tác rau màu. Số hộ có diện tích nhỏ hơn 0,5 ha chiếm tỉ lệ lớn
nhất 68,8%, có 31,2% số hộ có diện tích từ 0,5 - 1 ha (Bảng 7).
Mô hình chăn nuôi bò: Theo Bảng 7 thì diện tích trung bình của nông
hộ là 0,31 ha, vì là những hộ chăn nuôi nên diện tích của nông hộ không
nhiều, diện tích để xây chuồng trại chỉ là phần nhỏ, có thể xây sát nhà tiện
chăm sóc, quản lý.
Mô hình bò - bắp: Diện tích trung bình của nông hộ là 0,75 ha, phần
lớn diện tích của nông hộ là trồng bắp. Nuôi bò là để tận dụng nguồn phụ
phẩm và tăng thu nhập của nông hộ. Diện tích nông hộ dưới 0,5 ha chiếm
30% số hộ, diện tích từ 0,5 - 1 ha chiếm 50% số hộ, 13,4% số hộ có diện tích
từ 1 - 1,5 ha, có 3,3% số hộ có diện tích từ 1,5 - 2,0 ha, chỉ có 3,3% số hộ có
diện tích trên 2 ha (Bảng 7).
Bảng 7: Tỉ lệ hộ (%) có tổng diện tích đất theo các mô hình tại Chợ Mới, An
Giang
Đơn vị tính: %
Diện tích (ha) Lúa Màu Bò Bò - Bắp
< 0,5 0 68,8 73,3 30,0
0,5-1 27,8 31,2 13,3 50,0
1-1,5 38,9 0 6,7 13,4
1,5-2,0 11,1 0 6,7 3,3
> 2 22,2 0 0 3,3
Tổng số hộ 18 16 15 30
Trung bình 1,41 0,41 0,31 0,75
Độ lệch chuẩn 0,77 0,26 0,45 0,72
Bảng 8 cho thấy hầu hết nông hộ đều có phương tiện sản xuất cần
thiết như bình xịt. Trong sản xuất lúa và màu 100% nông hộ đều có bình xịt.
Phương tiện như máy cày, xới, máy suốt chỉ có 11,1% nông hộ có, vì đây là
những phương tiện sản xuất đắt tiền, hầu hết nông hộ đều thuê làm đất. Ngoài
ra, còn có các phương tiện phục vụ cho đời sống nông hộ như: trên 50% số
hộ có xe honda, xe đạp, ti vi, và một số nông hộ có các phương tiện khác như
video, radio. Như vậy, đời sống của nông dân đã khá hơn góp phần giúp họ
có khả năng tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng, học hỏi kỹ
thuật, các thông tin giá cả, thị trường để phục vụ cho sản xuất.
Bảng 8: Tỉ lệ (%) số hộ có phương tiện sản xuất theo các mô hình canh tác
tại Chợ Mới, An Giang
Đơn vị tính: %
Loại tài sản Lúa Màu Bò
Máy cày, xới 11,1 0 0
Máy suốt 11,1 0 0
Bình xịt 100 100 53,3
Sân phơi 27,8 0 6,7
Kho trữ lúa 16,7 0 6,7
Xuồng 44,4 6,3 6,7
Máy bơm nước 33,3 81,3 13,3
TV 88,9 81,3 66,7
Radio 44,4 50 33,3
Đầu video 44,4 56,3 33,3
Xe honda 83,3 50 53,3
Xe đạp 88,9 100 66,7
Tổng số hộ 18 16 15
4.3. Nguồn thông tin cho sản xuất nông nghiệp
Có 100% số hộ có thu nhận thông tin cho sản xuất nông nghiệp ở mô
hình lúa, màu, chăn nuôi bò và 93,3% ở mô hình bò - bắp. Điều này cho thấy
người dân đã chú ý rất nhiều đến các thông tin có liên quan đến sản xuất của
mình. Những người thu nhận thông tin thường là chủ hộ và việc tiếp nhận
thông tin cũng chưa được thực hiện thường xuyên. Người nông dân thu nhận
thông tin chủ yếu từ những người nông dân khác như 61,1% ở mô hình lúa,
62,5% ở mô hình màu, 66,7% ở mô hình bò, 46,7% ở mô hình bò - bắp. Hầu
hết những người nông dân chỉ thu nhận thông tin từ những nông dân khác hay
người thân, khả năng thu nhận thông tin của họ còn hạn hẹp. Bên cạnh đó,
người nông dân còn thu nhận thông tin từ bà con, ti vi, radio, các dịch vụ
buôn bán vật tư nông nghiệp, nhưng tỉ lệ số hộ thu nhận thông tin từ kỹ thuật
viên không nhiều, 27,8% ở mô hình lúa, chiếm tỉ lệ rất ít 3,8% ở mô hình
màu, 26,7% ở mô hình bò, 20% ở mô hình bò - bắp, chủ yếu người dân dựa
vào kinh nghiệm bản thân, do đó cần đẩy mạnh công tác khuyến nông, áp
dụng những kỹ thuật mới vào trong sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả canh
tác. Ở những nông hộ chăn nuôi bò, do phần lớn mang tính tự phát nên họ
không là thành viên của hợp tác xã, không được hưởng những quyền lợi từ
hợp tác xã. Những hợp tác xã ở đây sẽ cung cấp các thông tin về kỹ thuật
nuôi, các thông tin giá cả, thậm chí hợp tác xã có cả nhân viên thú y chăm sóc
sức khỏe bò cho những xã viên (Bảng 9).
Bảng 9: Tỉ lệ (%) nông hộ nhận các nguồn thông tin cho sản xuất nông
nghiệp theo các mô hình canh tác tại Chợ Mới, An Giang
Đơn vị tính: %
Nguồn thông tin Lúa Màu Bò Bò - Bắp
Không có thu nhận nguồn thông tin 0 0 0 6,7
Có thu nhận thông tin 100 100 100 93,3
Từ những nông dân khác 61,1 62,5 66,7 46,7
Bà con thân nhân 33,3 62,5 40,0 53,3
TV 72,2 25 33,3 46,7
Radio 16,7 0 13,3 23,3
Báo/tạp chí 11,1 0 0 10,0
Tổ chức chính phủ/kỹ thuật viên 27,8 3,8 26,7 20,0
Dịch vụ buôn bán vật tư nông nghiệp 22,2 31,3 0 3,3
Người nghiên cứu, thí nghiệm và điều tra 0 6,3 0 3,3
Hợp tác xã 11,1 6,3 0 0
Lãnh đạo địa phương 22,2 6,3 0 16,7
Các nguồn khác 5,6 18,8 6,7 0
Tổng số hộ 18 16 15 30
4.4. Kỹ thuật canh tác của các mô hình
4.4.1. Lúa
Sau khi đê bao, Chợ Mới đã tiến hành tăng vụ. Vụ 3 (vụ Thu Đông)
nông dân thường xuống giống vào khoảng tháng 6dl hoặc tháng 7dl, có hộ
xuống giống vào tháng 8dl (Bảng 11). Theo kết quả điều tra ở Bảng 10, về cơ
cấu giống, vụ 3 nông dân sử dụng nhiều giống lúa khác nhau. Tất cả các hộ
đều sử dụng những giống lúa có thời gian sinh trưởng từ 90 - 120 ngày, trong
đó có hộ sử dụng 2 giống lúa khác nhau trong 1 vụ. Giống 1490 được nông
dân sử dụng nhiều nhất chiếm 38,89% số hộ, kế đó là giống Jasmine chiếm
27,28%, còn các giống CS2000, 2519, 2514, 2517, Tài nguyên, 50404 chỉ
chiếm tỉ lệ ít.
Bảng 10: Tỉ lệ (%) hộ sử dụng các giống lúa khác nhau ở mô hình lúa
(vụ 3) tại Chợ Mới, An Giang
Loại giống Số hộ Tỉ lệ (%)
Jasmine 5 27,28
Tài nguyên 1 5,56
1490 7 38,89
2519 1 5,56
2514 2 11,11
2517 1 5,56
50404 2 11,11
CS2000 1 5,56
Tổng số 18
Theo Bảng 11, có 61,11% số hộ sạ giống bằng phương pháp sạ hàng
với mật độ gieo sạ là 12 - 17 kg/1000m2, 38,89% số hộ vẫn sử dụng phương
pháp sạ tay với mật độ gieo sạ là 20 - 25 kg/1000m2. Các công đoạn chuẩn bị
đất như cày, xới, trục, trang bằng đất đều được làm bằng cơ giới, chỉ có tu
sửa bờ ruộng được làm bằng tay. Thời gian cấy dặm thường trung bình là
18,42 ngày sau khi gieo sạ. Công tác tưới tiêu, nông dân đều mướn và được
tính trên mỗi công sau cuối vụ.
Bảng 11: Các hoạt động trong canh tác ở mô hình lúa (vụ 3) tại Chợ Mới, An
Giang
Hoạt động Số hộ
(%)
Phương
pháp áp
dụng
Số lượng Thời gian
Cày 55,56 Máy 18,90 NTKS
Xới 100 Máy 15,56 NTKS
Trang bằng 77,78 Máy 9,83 NTKS
Tu sửa bờ ruộng 100 Tay 5,19 NTKS
Cấy dặm 66,67 Tay 18,42 NSKS
Gieo sạ (tháng dl) 6 - 8
Sạ tay 38,89 Sạ tay 20 - 25 kg/0,1ha
Sạ hàng 61,11 Sạ hàng 12 - 17 kg/0,1ha
Thu hoạch Máy 90 - 120 NSKS
Phơi 100
Ghi chú: NTKS: Ngày trước khi sạ
NSKS: Ngày sau khi sạ
DL: Dương lịch
Các nông hộ sử dụng phân bón rất đa dạng, lượng phân và loại phân
cũng khác nhau tùy vào kinh nghiệm của nông hộ và loại đất nơi nông hộ
canh tác. Trung bình nông dân bón phân 4 lần/vụ, có hộ chỉ bón 3 lần/vụ. Về
loại phân, nông dân sử dụng phổ biến nhất là urê (100% số hộ sử dụng), trung
bình nông dân sử dụng 134,23 kg/ha/vụ. Có 83,33% số hộ sử dụng phân
DAP, trung bình nông dân bón 61,63 kg/ha/vụ. Ngoài ra, nông dân cũng sử
dụng phân hỗn hợp NPK (16 - 16 - 8) với lượng trung bình 108,98 kg/ha/vụ.
Ngày nay, nông dân cũng rất quan tâm đến kali, tất cả các hộ đều sử dụng
phân KCl, trung bình nông dân bón 51,27 kg/ha/vụ (Bảng 12). Qua điều tra
cho thấy, nông dân chỉ sử dụng phân bón hóa học, không có hộ nào sử dụng
phân hữu cơ. Do đó, cần khuyến cáo nông dân sử dụng loại phân hữu cơ, đây
là loại phân có tác dụng lâu dài, hơn nữa Chợ Mới là vùng đê bao khép kín
nông dân canh tác 3 vụ trong năm, cần sử dụng phân hữu cơ để cải tạo đất.
Bảng 12: Tỉ lệ (%) hộ sử dụng các loại phân bón khác nhau ở mô hình lúa
(vụ 3) tại Chợ Mới, An Giang
Phân Lượng (kg/ha) Tỉ lệ hộ (%)
Urê 134,23 100
DAP 61,63 83,33
KCl 51,27 100
NPK (16 - 16 – 8) 108,98 55,56
Đối với công tác bảo vệ thực vật, tùy vào điều kiện tự nhiên của từng
vụ, chế độ canh tác mà tình hình sâu, bệnh khác nhau. Thường ruộng lúa
nông dân bị rầy, sâu đục thân, bệnh đạo ôn, lem lép hạt... Biện pháp phòng trị
của nông dân bằng hóa học là chủ yếu, thường nông dân sử dụng các loại
thuốc như Actara, Regent, Fuan, Vali, Tilt... Tuy nhiên, trong công tác bảo vệ
thực vật, nông dân vẫn còn sử dụng những loại thuốc cấm như Thiodan, viên
Mỹ. Tùy tình hình sâu bệnh mà số lần xịt thuốc nhiều hay ít. Tất cả các hộ
điều tra đều sử dụng thuốc hóa học để diệt cỏ, họ cho rằng thuốc hóa học vừa
cho hiệu quả cao lại ít tốn công so với nhổ cỏ bằng tay.
Tùy vào điều kiện từng vụ và nguồn nhân lực nông hộ mà công tác
chăm sóc đồng ruộng khác nhau. Các công tác cắt, suốt, nông dân đều mướn,
nếu có công lao động nhà thì nông dân tự cắt nhưng hầu hết nông hộ do phải
tập trung thời vụ nên không đủ nhân lực, vì vậy họ phải mướn thêm nhân
công. Lúa sau khi hoạch được nông dân phơi khô từ 3 - 4 ngày tùy vào điều
kiện thời tiết, không có hộ nào sử dụng phương pháp sấy. Năng suất trung
bình của nông hộ tương đối cao 6,13 tấn/ha, có hộ đạt 7,6 tấn/ha.
4.4.2. Màu
Về mô hình rau, chúng tôi chỉ chọn điều tra một loại rau là cải bẹ
dúng. Đây là loại rau được canh tác phổ biến trong vụ 3. Nguồn giống nông
dân chủ yếu mua tại địa phương, trung bình nông dân sử dụng lượng giống là
0,18 kg/ha. Loại giống cải bẹ dúng này có thời gian sinh trưởng là 35 ngày
(Bảng 13).
Về kỹ thuật trồng, kích thước liếp trung bình rộng 1,02 m, cao trung
bình 0,33 m, chiều dài của liếp tùy vào diện tích của nông hộ. Hầu hết các
nông hộ đều dùng nước tưới từ sông, hộ nào có phương tiện thì dùng máy
bơm tưới nước, hộ không có phương tiện thì dùng thùng tưới. Mỗi ngày nông
dân đều phải tưới nước, có hộ tưới mỗi ngày một lần, cũng có hộ tưới 2 lần/
ngày, có hộ 2 ngày mới tưới 1 lần. Nông dân thường sử dụng vôi hoặc tro để
xử lý đất trước khi gieo trồng. Có hộ sử dụng thuốc để xử lý đất (Bảng 13).
Bảng 13: Kỹ thuật canh tác của mô hình màu tại Chợ Mới, An Giang
Kỹ thuật Cách xử lý
Tên rau Cải bẹ dúng
Thời gian sinh trưởng (ngày) 35
Lượng giống (kg/ha) 0,18
Kích thước liếp trồng (m)
- Rộng 1,02
- Cao 0,33
Xử lý đất Vôi, tro, thuốc
Tưới nước (lần/ngày) 1
Thời điểm bón phân (ngày) 10,15,20
Thời gian cách ly lần bón phân sau
cùng đến thu hoạch (ngày)
4 - 13
Số lần phun thuốc BVTV 3 - 7
Năng suất (tấn/ha) 24,79
Về phân bón, nông dân sử dụng phân hóa học, loại phân sử dụng chủ
yếu là urê, kế đến phân hỗn hợp là DAP hay NPK (16 - 16 - 8 hay 20 - 20 -
15), rất ít hộ sử dụng phân Kali, không có hộ nào sử dụng super lân. Thời
gian cách ly lần bón phân sau cùng từ 4 đến 13 ngày. Nông dân bón phân cho
rau vào giai đoạn 10, 15 và 20 ngày sau khi trồng.
Về công tác bảo vệ thực vật, nông dân chủ yếu sử dụng thuốc hóa
học. Các loại sâu hại thường gặp như sâu xanh da láng, bọ nhảy, sâu keo...
Sâu hại xuất hiện vào giai đoạn 5 đến 10 ngày sau khi trồng. Các bệnh
thường gặp như thối rễ, thối bẹ. Bệnh thối rễ, thối bẹ thường xuất hiện lúc
cây gần thu hoạch, một số hộ dùng thuốc trị, có hộ thì nhổ bán luôn vì không
biết cách trị. Số lần phun thuốc từ 3 đến 7 lần/vụ, có khi nhiều hơn nếu xịt mà
sâu không giảm, thời gian cách ly phun thuốc đến khi thu hoạch là từ 7 đến
10 ngày. Với thời gian sinh trưởng ngắn mà số lần xịt thuốc nhiều như vậy,
có hộ sử dụng cả những loại thuốc hạn chế sử dụng như Lannate thì liệu rau
đó có đủ an toàn cho người sử dụng? Do đó, cần chú ý đến công tác khuyến
nông khuyến cáo nông dân sử dụng những loại thuốc sinh học an toàn cho để
bảo đảm chất lượng rau. Khuyến cáo nông dân hạn chế sử dụng thuốc hóa
học, hay có thể triển khai mô hình trồng rau sạch, rau an toàn đến những hộ
nông dân.
Các loại cỏ thường xuất hiện như cỏ cú, cỏ bông, rau sam, rau bợ...
Nông dân phòng trừ bằng cách nhổ bỏ vì diện tích nhỏ, và nông dân chăm sóc
hằng ngày nên dễ phát hiện cỏ mà tiêu diệt, có hộ dùng thuốc hóa học xịt
trước khi gieo trồng. Năng suất trung bình đạt 24,79 tấn/ha/vụ (Bảng 13).
Trồng rau cần công chăm sóc nhiều, nhiều hộ nông dân còn rất bảo thủ, chỉ
sản xuất theo kinh nghiệm bản thân, kỹ thuật còn thấp nên trong công tác
phòng trừ sâu bệnh chưa được hợp lý, sử dụng thuốc không đúng (có hộ nói
dùng phân bón để trị sâu, đây là một cách trị hết sức sai lầm, làm như thế sẽ
làm cho sâu có điều kiện phát triển).
4.4.3. Chăn nuôi bò
Nói chung, kỹ thuật chăn nuôi b._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XT1190.pdf