Tài liệu Các mô hình canh tác trồng trọt trong mùa lũ năm 2004 tại huyện An Phú tỉnh An Giang: ... Ebook Các mô hình canh tác trồng trọt trong mùa lũ năm 2004 tại huyện An Phú tỉnh An Giang
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2254 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Các mô hình canh tác trồng trọt trong mùa lũ năm 2004 tại huyện An Phú tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGUYỄN THỊ KHÁNH LY
MSSV: DPN010732
CÁC MÔ HÌNH CANH TÁC TRỒNG TRỌT VÀ CHĂN NUÔI
TRONG MÙA LŨ NĂM 2004 TẠI HUYỆN AN PHÚ
TỈNH AN GIANG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGÀNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Ths. Nguyễn Phú Dũng
Tháng 06. 2005
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP – TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
CÁC MÔ HÌNH CANH TÁC TRỒNG TRỌT VÀ CHĂN NUÔI
TRONG MÙA LŨ NĂM 2004 TẠI HUYỆN AN PHÚ
TỈNH AN GIANG
Do sinh viên: NGUYỄN THỊ KHÁNH LY thực hiện và đệ nạp
Kính trình Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xét duyệt
Long Xuyên, ngày .......tháng .......năm 2005
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Ths. Nguyễn Phú Dũng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP – TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP - TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp thuận luận văn đính kèm
với tên đề tài: CÁC MÔ HÌNH CANH TÁC TRỒNG TRỌT VÀ CHĂN
NUÔI TRONG MÙA LŨ NĂM 2004 TẠI HUYỆN AN PHÚ TỈNH AN
GIANG
Do sinh viên: NGUYỄN THỊ KHÁNH LY
Thực hiện và bảo vệ trước Hội đồng ngày:...................................................
Luận văn đã được Hội đồng đánh giá ở mức:...............................................
Ý kiến của Hội đồng:....................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
Long Xuyên, ngày.....tháng.…năm 2005
DUYỆT Chủ Tịch Hội đồng
BAN CHỦ NHIỆM KHOA NN - TNTN (Ký tên)
TIỂU SỬ CÁ NHÂN
Họ và Tên: Nguyễn Thị Khánh Ly
Sinh ngày 28 tháng 08 năm 1980
Nơi sinh: Ấp Bời Lời A, xã Vĩnh Bình Nam, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên
Giang
Con Ông: Nguyễn Văn Miếm
và Bà: Trương Thị Duyên
Địa chỉ: Ấp Bời Lời A, xã Vĩnh Bình Nam, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên
Giang
Đã tốt nghiệp phổ thông: Trường THPT Vĩnh Thuận, năm 1999 –
2000
Vào Trường Đại Học An Giang năm 2000 - 2001 học lớp ĐH2PN2
khoá 2 thuộc Khoa Nông Nghiệp – Tài Nguyên Thiên Nhiên và đã tốt nghiệp
kỹ sư ngành Phát Triển Nông Thôn năm 2005.
LỜI CẢM TẠ
Trong suốt thời gian thực hiện đề tài tôi đã gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc nhưng được sự động viên, giúp đỡ của các thầy cô và bạn bè…đã
tạo cho tôi lòng tin, kiến thức để vững bước vượt qua khó khăn. Đến hôm
nay, tôi đã hoàn thành đề tài. Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn chân
thành đến:
- Thầy Gs. Võ- Tòng Xuân và thầy, cô Khoa Nông Nghiệp – Tài
Nguyên Thiên Nhiên đã tạo điều kiện cho tôi làm Luận văn này.
- Thầy Ths. Nguyễn Phú Dũng đã tận tình giúp đỡ cho tôi trong suốt
thời gian làm Luận văn.
- Thầy Ts. Dương Ngọc Thành đã giúp đỡ một phần kinh phí trong thời
gian đi điều tra đề tài.
- Thầy Nguyễn Thanh Triều và thầy Lê Thanh Phong đã giúp đỡ tôi
trong thời gian phỏng vấn.
- Cô Nguyễn Thị Hạnh Chi và cô Nguyễn Thị Thu Hồng chủ nhiệm lớp
ĐH2PN2 đã tận tình giúp đỡ, động viên tôi trong suốt thời gian học.
- Thầy, cô trường Đại Học An Giang đã giảng dạy và cung cấp cho tôi
kiến thức trong suốt khoá học 2001 – 2005.
- Ba, mẹ và những người thân đã chăm lo và giúp đỡ khuyến khích tinh
thần cho tôi trong suốt thời gian học tập.
- Cán bộ trạm khuyến nông và phòng nông nghiệp huyện An Phú đã
giúp đỡ tôi trong thời gian phỏng vấn nông hộ ở các địa bàn trong
huyện.
- Các cán bộ ấp và xã của huyện An Phú đã tận tình giúp đỡ tôi liên hệ
nông hộ trong thời gian điều tra.
- Các bạn cùng lớp ĐH2PN2 của Trường Đại Học An Giang đã hết lòng
tham gia, động viên và góp sức cùng tôi thực hiện tốt đề tài.
Long Xuyên, ngày 30 tháng 05 năm 2005
Nguyễn Thị Khánh Ly
TÓM LƯỢC
Đề tài: “Các mô hình canh tác trồng trọt và chăn nuôi trong mùa lũ năm
2004 tại huyện An Phú tỉnh An Giang”
Kết quả điều tra hiện trạng canh tác và đánh giá hiệu quả kinh tế của
các mô hình canh tác trồng trọt và chăn nuôi trong mùa lũ năm 2004, tại
huyện An Phú tỉnh An Giang, điển hình qua 4 mô hình canh tác như: rau
nhút, nấm rơm, bò vỗ béo và rau màu với những nội dung tuổi, trình độ học
vấn, giới tính, nghề nghiệp, diện tích nông hộ, kỹ thuật canh tác, những trở
ngại, hiệu quả kinh tế,…cho thấy phần lớn nông dân sử dụng đất cho sản xuất
nông nghiệp với diện tích bình quân từ 0,3 – 1,8 ha/hộ, cao nhất là những hộ
trồng rau màu với 1,8 ha/hộ và thấp nhất là những hộ trồng nấm rơm (0,3
ha/hộ). Thu nhập bình quân của mô hình rau nhút là 13,4 triệu đồng/ha/vụ,
nấm rơm 82,3 triệu đồng/ha/vụ, bò vỗ béo 10,5 triệu đồng/con và rau màu
80,1 triệu đồng/ha/vụ.
Về kỹ thuật, có một số nông hộ áp dụng những kỹ thuật mới còn lại
phần đông là áp dụng kỹ thuật của riêng mình. Chính vì vậy mà họ gặp không
ít khó khăn trong sản xuất. Lợi nhuận từ việc trồng rau nhút là 5,9 triệu
đồng/ha/vụ, nấm rơm 43,2 triệu đồng/ha/vụ, bò vỗ béo 4 triệu đồng/con và
rau màu 64,1 triệu đồng/ha/vụ. Bên cạnh đó, những hộ làm các mô hình trên,
hàng năm họ còn thu thêm lợi nhuận từ các mô hình khác khoảng 20 – 69,1
triệu đồng/ha, làm thuê trong nông nghiệp là 0,8 – 2,6 triệu đồng/tháng.
Đối với những hộ sống ở mùa lũ gặp không ít trở ngại dẫn tới họ
thiếu vốn trong sản xuất, phải vay mượn từ người khác, có những hộ
không có đất thế chấp cho ngân hàng họ phải vay từ tư nhân với lãi suất
rất cao. Những trở ngại lớn để phát triển mô hình đối với nông dân trong
vùng này là vốn, giống và kỹ thuật, riêng ở mô hình nuôi bò vỗ béo trong
mùa lũ thì thức ăn là yếu tố quan trọng.
MỤC LỤC
Nội dung Trang
CẢM TẠ
TÓM LƯỢC
MỤC LỤC
DANH SÁCH BẢNG
DANH SÁCH HÌNH
Chương 1 GIỚI THIỆU
o Đặt vấn đề
o Mục tiêu
Chương 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1. Đặc điểm tự nhiên - sản xuất và kinh tế xã hội
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
2.1.1.2. Đặc điểm đất đai
2.1.1.3. Đặc điểm khí hậu thuỷ văn
2.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội
2.1.2.1. Hiện trạng phân bố và sử dụng đất nông nghiệp
2.1.2.2. Hiện trạng về dân số và lao động
2.1.3. Diễn biến sản xuất nông nghiệp
2.1.3.1. Vai trò của ngành nông nghiệp
2.1.3.2. Diễn biến sản xuất nông nghiệp
Chương 3 PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Phương tiện nghiên cứu
3.2. Phương pháp và nội dung điều tra
3.2.1. Phương pháp thu thập số liệu
3.2.2. Phương pháp tiến hành
3.2.2.1. Chọn hộ điều tra
3.2.2.2. Nội dung điều tra
i
ii
iii
vi
viii
1
1
1
3
3
3
3
4
5
5
6
7
8
8
8
12
12
12
12
12
12
13
3.2.3. Phương pháp phân tích số liệu
Chương 4 KẾT QUẢ THẢO LUẬN
4.1. Phân bố mẫu điều tra trên toàn huyện An Phú
4.2. Đặc điểm chung của nông hộ điều tra trên toàn huyện
4.2.1. Tuổi trung bình của nông hộ
4.2.2. Trình độ văn hóa và kinh nghiệm sản xuất của nông hộ
4.3. Tài sản và phương tiện sản xuất của nông hộ
4.3.1. Phương tiện sinh hoạt
4.3.2. Phương tiện sản xuất
4.4. Nguồn thông tin cho sản xuất nông hộ
4.4.1. Nguồn thông tin cho sản xuất nông nghiệp
4.4.2. Người thu nhận và số lượng thông tin cho sản xuất nông nghiệp
4.5. Sử dụng đất và thu nhập sản xuất trong nông hộ
4.5.1. Đặc điểm phân bố đất đai trên nông hộ
4.5.2. Các mô hình sản xuất trong hộ
4.5.2.1. Mô hình rau nhút
4.5.2.2. Mô hình nấm rơm
4.5.2.3. Mô hình bò vỗ béo
4.5.2.4. Mô hình rau màu
4.6. Chi phí và đầu tư khác trong sản xuất nông hộ
4.6.1. Tổng chi phí khác trong sản xuất nông hộ
4.6.2. Tổng thu nhập khác trong sản xuất nông hộ
4.6.3. Lợi nhuận khác trong sản xuất nông hộ
4.7. Yếu tố quyết định thành công của mô hình
4.8. Vay vốn
4.9. Chi tiêu trong gia đình của nông hộ
Chương 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
5.1. Kết luận
5.2. Đề nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ CHƯƠNG
13
14
14
14
14
15
17
17
20
22
22
23
24
24
26
26
31
41
45
51
51
52
53
54
56
56
59
59
60
61
Pc – 1
DANH SÁCH HÌNH
STT Tên Hình Trang
1
2
3
4
5
6
7
8
Phương tiện đi lại của nông hộ
Phương tiện nghe nhìn của nông hộ
Máy sản xuất nông nghiệp của nông hộ
Phương tiện phục vụ sản xuất của nông hộ
Chi phí phân bón
Chi phí thuốc trồng rau nhút
Đối tượng mua sản phẩm rau nhút
Đối tượng mua sản phẩm của rau màu
19
19
21
21
27
27
30
50
DANH SÁCH BẢNG
STT Tên bảng Trang
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
Cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp cho các loại cây trồng ở huyện
An Phú
Tỷ lệ và dân số huyện An Phu ở năm 2001, 2002 và 2003
Phân bố mẫu điều tra
Đặc điểm của nông hộ
Nguồn thông tin cho sản xuất nông nghiệp của nông hộ
Người nhận và số lượng thông tin cho sản xuất nông nghiệp
Phân bố đất đai trên nông hộ
Kỹ thuật trồng rau nhút
Trung bình chi phí đầu tư và thu nhập của nông hộ trồng rau nhút
Những trở ngại trong việc sản xuất rau nhút
Thông tin chung cho hoạt động sản xuất của trồng nấm rơm
Các yêu cầu kỹ thuật trồng nấm rơm ở nông hộ
Kỹ thuật sản xuất của trồng nấm
Bố trí trồng nấm
7
8
14
17
23
24
26
28
29
31
34
35
36
37
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
Chọn meo giống và rải meo giống
Chăm sóc và thu hoạch
Trung bình chi phí đầu tư và thu nhập của nông hộ trồng nấm rơm
Phương pháp nuôi bò vỗ béo
Trung bình chi phí đầu tư và thu nhập của nông hộ nuôi bò vỗ béo
Những trở ngại trong việc sản xuất bò vỗ béo
Các yêu cầu kỹ thuật trồng rau màu
Lượng phân sử dụng
Chăm sóc và thu hoạch
Trung bình chi phí đầu tư và thu nhập của nông hộ trồng rau màu
Chi phí và đầu tư khác trong nông hộ
Yếu tố quyết định thành công của mô hình
Vay vốn của nông hộ
Chi tiêu trong gia đình của nông hộ
38
39
41
43
44
45
46
47
48
51
53
55
56
58
Chương 1 GIỚI THIỆU
1.1. Đặt vấn đề
An Giang là một trong những tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long, có hai
sông Tiền và sông Hậu chảy qua, là tỉnh có tiềm năng rất lớn cho sản xuất
nông nghiệp. Huyện An Phú thuộc tỉnh An Giang với diện tích tự nhiên:
208,97 km2 là huyện đầu nguồn có đường biên giới quốc gia (Việt Nam và
Campuchia) dài nhất so với các huyện thị khác. Dân số huyện An Phú là
165.846 người (Ủy Ban Nhân Dân tỉnh An Giang, 2003), đa số hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 72,25% dân số.
Là một huyện đầu nguồn nằm hẳn trong vùng ngập sâu nên An Phú gặp
nhiều khó khăn trong việc chuyển đổi cơ cấu cây – con trong sản xuất. Với lượng
nước lũ hàng năm gây thiệt hại lớn cho con người, tài sản của nhân dân, cơ sở hạ
tầng và giao thông nông thôn,… Bên cạnh đó, lũ cũng đã mang đến một lượng phù
sa không ít cho sản xuất nông nghiệp và ngành nuôi trồng thủy sản cho toàn huyện.
Trong những năm gần đây, tỉnh An Giang đã phát động khuyến khích
nông dân, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi, trồng màu,…góp phần tạo việc làm
và tăng thu nhập cho người dân trong mùa lũ. Hiện tại, người dân An Phú đã
và đang thực hiện những mô hình sản xuất trong mùa lũ với những mức độ
thành công và thất bại khác nhau. Để đánh giá chính xác hiện trạng sản xuất
trong mùa lũ trên địa bàn huyện An Phú, đồng thời cũng làm cơ sở cho mục
tiêu chung của tỉnh An Giang là ứng dụng khoa học công nghệ và chính sách
vào các mô hình canh tác có hiệu quả để tăng thu nhập cho người dân trong
mùa nước nổi. Vì thế, đề tài “Các mô hình canh tác trồng trọt và chăn nuôi
trong mùa lũ năm 2004 tại huyện An Phú tỉnh An Giang” nhằm tiến hành
điều tra thực trạng sản xuất trong mùa nước nổi trên địa bàn huyện An Phú là
rất cần thiết.
1.2. Mục tiêu
- Điều tra hiện trạng các hệ thống canh tác của 4 mô hình sản xuất
nông nghiệp khác nhau trên huyện An Phú.
- Đánh giá hiện trạng kinh tế và xã hội.
- Tổng kết các kỹ thuật canh tác và các mô hình sản xuất của nông dân trong
mùa lũ để chọn ra mô hình canh tác có hiệu quả.
- Xác định các yếu tố trở ngại và nhu cầu cần hỗ trợ để phát triển hệ thống
canh tác có triển vọng trong tương lai.
Chương 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1. Đặc điểm tự nhiên - sản xuất và kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang
nói chung và huyện An Phú nói riêng
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Tỉnh An Giang nằm ở phía Tây Nam của nước Việt Nam, giữa hai
con sông Tiền và Hậu và dọc theo hữu ngạn sông Hậu thuộc hệ thống sông
Mekong. Vị trí địa lý của tỉnh từ 100 đến 110 vĩ Bắc và 104,70 đến 105,50 kinh
Đông.
- Phía Đông: giáp tỉnh Đồng Tháp
- Phía Nam: giáp tỉnh Kiên Giang và Cần Thơ
- Phía Tây và Bắc: giáp Campuchia
Diện tích toàn tỉnh 3406,23 km2 chiếm 8,58% diện tích Đồng Bằng
Sông Cửu Long và khoảng 1,03% diện tích cả nước (Dương Văn Nhã, 2004).
(phụ chương 1)
An Phú là huyện đầu nguồn có đường biên giới quốc gia dài nhất so
với các huyện thị khác, cách trở giao thông và thường chịu nhiều thiệt hại do
thiên tai lũ lụt gây ra. Huyện An Phú có diện tích tự nhiên 208,97 km2, dân số
178.613 người (năm 2003), gồm 12 xã và 1 thị trấn .
- Phía Tây và Bắc: giáp Campuchia
- Phía Nam: giáp thị xã Châu Đốc và huyện Phú Tân
- Phía Đông: giáp huyện Tân Châu
Gồm 37 tuyến địa giới cấp xã, dài 126,871 km, trong đó 7 tuyến
trùng với biên giới quốc gia, 12 tuyến trùng với tuyến huyện, được xác định
bằng 39 mốc địa giới hành chính.
An Phú có 5 xã Đa Phước, Quốc Thái, Khánh Bình, Nhơn Hội, Vĩnh
Trường được Ủy Ban dân tộc miền núi công nhận là khu vực dân tộc đồng
bằng và 7 xã giáp biên giới là Vĩnh Hội Đông, Phú Hội, Nhơn Hội, Khánh
An, Khánh Bình, Quốc Thái và Phú Hữu. Huyện lỵ cách Long Xuyên 71 km
theo đường quốc lộ 91 và tỉnh lộ 956.
2.1.1.2. Đặc điểm đất đai
* Địa hình
An Giang có cao độ thấp dần từ biên giới Campuchia đến lộ Cái Sắn
và từ bờ sông Hậu đến giáp ranh tỉnh Kiên Giang, địa hình đồi núi chỉ tập
trung chủ yếu hai huyện: Tri Tôn và Tịnh Biên. Nhìn chung, địa hình tỉnh An
Giang tương đối thấp và khá bằng phẳng.
* Phân loại đất
An Phu là môt huyện đâu nguôn cua tinh An Giang, vơi tông diện
tich đât nông nghiệp là 53.745 ha, trong đo diện tich trông lua là 22.759 ha
(Cục thống kê tinh An Giang, 2003). Điêu này, đa tao nên thê manh cho An
Phu vê san xuât lua. Do đăc điêm đât đai đa dang, môi vung co môt nhom đât
khac nhau vơi nhưng thay đôi vê tinh chât đât, đia hinh, tâp quan canh tac.
Tư kêt qua nghiên cưu cho thây An Giang phân thành 3 nhom đât
chinh: nhom đât phen, nhom đât phu sa và nhom đât đôi nui.
Trong đo, đăc điêm đât đai cua An Phu thuôc nhom đât phu sa. Đăc
tinh chung cua đât phu sa là chưa nhiêu hưu cơ, pH thâp, it bi bào mon và
xâm thưc mà chu yêu luôn đươc bôi đâp hàng năm vơi tưng mưc đô khac
nhau trong nhưng điêu kiện trâm tich khac nhau (Ủy Ban Nhân Dân tinh An
Giang, 2003).
Nhóm đất phù sa xám nâu được bồi, ít hữu cơ chiếm một diện tích
khá lớn ở 4 huyện cù lao: Chợ Mới, Phú Tân, An Phú, Tân Châu và dải cánh
đồng ven sông Hậu thuộc huyện Châu Phú, Châu Thành. Đây là phần đất bị
ngập nước hàng năm vào mùa lũ, địa hình khá bằng phẳng và trải rộng, vật
liệu trầm tích chủ yếu là sét, bột, lẫn chất hữu cơ, bề dày lớp phù sa từ 1 – 2
m. Đất không có khả năng gây hại cho cây trồng, đất dẻo chặt, thích hợp với
nhiều loại cây. Đất có phản ứng hơi chua, hàm lượng lân trao đổi khá thấp,
tổng lượng sulfat hòa tan cũng ở mức độ thấp 0,1 – 0,2% nhưng hơi tăng ở
các tầng dưới. Hàm lượng hữu cơ tầng mặt 3,8% và càng xuống tầng dưới
càng thấp, tổng lượng đạm từ trung bình đến thấp (0,1 – 0,2%), đất nghèo lân
và kali. Về thành phần cơ giới, sét chiếm 45%, bột chiếm 49%, cát chiếm
1,4%. Do đó, đất có sa cấu pha bột nhưng các tầng dưới hàm lượng sét rất
cao.
Hiện nay nhóm đất này chiếm diện tích khoảng 24.455 ha đất dùng
để trồng lúa 2 vụ là chủ yếu. Một số nơi như ở An Phú, Châu Phú, đất có thể
trồng một vụ lúa, một vụ màu như mè, đậu, dưa,…thực vật hoang dại tương
đối ít (Ủy Ban Nhân Dân tỉnh An Giang, 2003).
2.1.1.3. Đặc điểm khí hậu thủy văn
* Khí hậu
Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào cuối tháng 11. Lượng
mưa của các tháng mùa khô cộng lại không vượt quá 150 mm, chiếm khoảng
15% tổng lượng mưa của cả năm. Trong mùa mưa lượng mưa chênh lệch
nhau không nhiều biến động trong khoảng 130 – 280 mm, số ngày mưa trung
bình 121 – 125 ngày/năm (Dương Văn Nhã, 2004).
Về mùa lũ, lưu lượng tăng nhanh từ tháng 7 và đạt giá trị lớn nhất
vào tháng 10, sau đó giảm vào tháng 11. Lượng nước lũ tràn vào vùng Tứ
Giác Long Xuyên theo sông Hậu chiếm khoảng 20 – 25% và lượng lũ tràn từ
Campuchia qua các cầu Châu Đốc đến Nhà Bàng chiếm khoảng 25 – 80%
tổng lượng nước lũ vào vùng này. Khả năng xuất hiện lũ lớn tại Tân Châu
thường có mực nước lũ bằng hoặc cao hơn 4 m, điều này có nghĩa là đại bộ
phận đất đai tỉnh An Giang thường xuyên bị ngập vào mùa lũ (Dương Văn
Nhã, 2004).
* Thủy văn
Mực nước lũ năm 2004 tăng cao từ tháng 7 đến tháng 10 khoảng 2,1
– 6,1 m, bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 11 mực nước hạ xuống đến mức thấp
nhất 2,5 m (Phòng xây dựng và phát triển nông thôn huyện An Phú, 2004).
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Trong những năm gần đây, tỉnh An Giang mặc dù có những ảnh
hưởng của thiên tai, giá cả nông sản, kinh tế của tỉnh vẫn duy trì tăng trưởng
trên 6%/năm. Tỷ trọng nông nghiệp chiếm trong tổng nền kinh tế năm 1997
là 43,6% và 39,5% vào năm 2001. Diện tích gieo trồng lúa năm 2000 và 2001
là 456,2 ha với sản lượng tương ứng là 2,4 triệu tấn và 2,2 triệu tấn (Dương
Ngọc Thành và ctv, 2004).
2.1.2.1. Hiện trạng phân bố và sử dụng đất nông nghiệp
An Giang với tổng diện tích đất tự nhiên 340.623 ha, trong đó diện
tích đất nông nghiệp năm 2002 là 260.446 ha lên 261.575 ha vào năm 2003,
tức tăng 1.129 ha. Trong khi đó, huyện An Phú với tổng diện tích đất tự nhiên
208,02 km2, diện tích trồng lúa năm 2002 chiếm 22.507 ha lên 22.759 ha vào
năm 2003, tức tăng 253 ha.
Cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp của huyện có sự thay đổi theo hướng
gia tăng tỷ lệ sử dụng đất. Diện tích trồng lúa 2 vụ/năm từ năm 2002 đến
2003 tăng như vụ Đông Xuân từ 11.868 ha lên 11.993 ha, vụ Hè Thu từ
10.503 ha lên 10.742 ha, riêng vụ Thu Đông giảm từ 136 ha xuống còn 24 ha.
(Bảng 1)
Việc gia tăng tỷ lệ sử dụng đất một phần do điều kiện đất, nước ngày
càng thuận lợi, gia tăng dân số, thị trường nông sản ngày càng cao và sự tiến
bộ của khoa học kỹ thuật đưa vào đồng ruộng. Tuy nhiên, sản xuất nông
nghiệp chủ yếu là cây lúa.
Với điều kiện hiện nay, người dân đã chuyển đổi diện tích sử dụng
đất với nhiều loại cây trồng khác như rau màu, ngô,…do thị trường tiêu thụ
ổn định, lợi nhuận đem lại cao. Ngoài việc trồng lúa, hiện nay huyện An Phú
có diện tích trồng ngô rất lớn so với các loại rau màu khác. Năm 2002 là
2.924 ha lên 3.458 ha vào năm 2003, tức tăng 534 ha. Trong giai đoạn hiện
nay, vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng sản phẩm nông
nghiệp hàng hóa và hàng xuất khẩu kết hợp với công nghiệp hóa tạo thế mạnh
về địa bàn sản xuất, thị trường tiêu thụ và tiến bộ khoa học kỹ thuật. Đây là
mục tiêu quan trọng của nền nông nghiệp trong tương lai.
(Cục thống kê tỉnh An Giang, 2004)
Bảng 1: Cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp cho các loại cây trồng ở huyện
An Phú
Loại cây trồng Diện tích trồng
năm 2002 (ha)
Diện tích trồng
năm 2003 (ha)
- Cây lương thực có hạt
- Lúa
+ Vụ đông xuân
+ Vụ hè thu
+ Vụ thu đông
- Ngô
- Rau dưa
- Đậu nành
- Đậu phộng
- Mè
- Mía
- Nuôi thủy sản
25.431
22.507
11.868
10.503
136
2.924
1.301
605
23
-
-
63,1
26.217
22.759
11.993
10.742
24
3.458
859
368
14
67
3
44,1
Nguồn: Cục thống kê tỉnh An Giang, 2004
2.1.2.2. Hiện trạng về dân số và lao động
Theo số liệu thống kê năm 2003 đươc thê hiện ở Bang 2, huyện An
Phu co số dân là 178.613 ngươi, trong đo nam là 88.266 ngươi và 90.347
ngươi là nư. Mât đô dân số binh quân 859 ngươi/km2, trong đo số dân sống ở
nông thôn là 167.168 ngươi và 11.445 ngươi ở thành thi. Điêu này cho thây
huyện An Phu co tỷ lệ dân số sống trong khu vưc nông nghiệp chiêm đa số
(Cục thống kê tỉnh An Giang, 2004).
Dân số trong huyện ngày càng cao trong khi điêu kiện kinh tê phat
triên châm, sưc ep dân số cung là trở ngai đê phat triên kinh tê cua huyện.
Dân số chu yêu tâp trung ở linh vưc nông nghiệp, do đo muốn phân bố lai lao
đông cho đông đêu vào cac linh vưc khac là môt vân đê kho khăn. Tỷ lệ can
bô khoa hoc kỹ thuât cao tâp trung ở thành thi là số đông, đối vơi nông dân
san xuât vân con năng theo kinh nghiệm,…vi vây mà không tranh khoi lang
phi tiên vốn và tài nguyên (Cục thống kê tinh An Giang, 2004).
Bang 2: Tỷ lệ và dân số huyện An Phu ở năm 2001, 2002 và 2003
Tỷ lệ và dân số huyện An Phu 2001 2002 2003
Dân số toàn huyện (người)
- Nam
- Nư
Chia theo khu vưc
- Thành thi
- Nông thôn
172.030
84.814
87.216
11.162
160.868
176.917
87.574
89.343
11.318
165.599
178.613
88.266
90.347
11.445
167.168
Nguồn: Cục thống kê tỉnh An Giang,
2004
2.1.3. Diễn biến sản xuất nông nghiệp
2.1.3.1. Vai trò của ngành nông nghiệp
An Phú chủ yếu sản xuất nông nghiệp chiếm 72,3%, lâm nghiệp
(0,9%) và 26,8% là sản xuất khác. Chính vì vậy, nền kinh tế nông nghiệp
chiếm vị trí quan trọng so với các ngành kim ngạch khác. Cho nên An Phú
cần phải tích cực chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nhằm nâng cao
hiệu quả sản xuất trên cơ sở khai thác triệt để, đáp ứng yêu cầu đa dạng của
thị trường và đang trở thành một yêu cầu bức thiết (Phòng xây dựng và phát
triển nông thôn huyện An Phú, 2004).
2.1.3.2. Diễn biến sản xuất nông nghiệp
Vào những năm gần đây, vị trí bắp lai được coi là quan trọng đứng
sau lúa tại An Giang, trồng tập trung tại Châu Phú, Tân Châu, An Phú và Chợ
Mới với diện tích gieo trồng năm 2000 là 4.000 ha, năng suất bình quân tại
An Giang khá cao đạt 9 tấn/ha vụ Đông Xuân, vụ Hè Thu và Xuân Hè đạt 7,5
tấn/ha, bình quân nông dân đạt 7 - 9 triệu đồng/ha (Dương Ngọc Thành và
ctv, 2004).
Toàn tỉnh An Giang có tổng diện tích sản xuất lúa vụ 3 là 35.352 ha
(tăng 16.497 ha so năm 2001), với tổng số 42.502 hộ tham gia, năng suất bình
quân đạt 5,2 tấn/ha, sản lượng lương thực đạt 183.113 tấn (tăng 86.824 tấn so
với năm 2001), đã góp phần giải quyết việc làm thường xuyên cho 51.286 lao
động và hàng trăm ngày lao động trong mùa nước nổi. Nhìn chung, năm 2002
là năm có diện tích sản xuất lúa vụ 3 cao nhất từ trước đến nay, nhiều huyện
có diện tích vụ 3 tăng lên đáng kể so với năm 2001 như huyện Phú Tân, từ
211 ha tăng lên 9.185 ha (tăng 8.974 ha), huyện Chợ Mới từ 13.824 ha tăng
lên 17.404 ha (tăng 3.580 ha), huyện Thoại Sơn từ 101 ha tăng lên 2.708 ha
(tăng 2.607 ha),… Nguyên nhân là do thị trường lúa được giá, dễ tiêu thụ nên
nông dân mở rộng diện tích sản xuất thêm lúa vụ 3 trong năm (Sở nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh An Giang, 2003).
Tình hình lũ năm 2004, mực nước lũ nhỏ, cao hơn so với cùng kỳ,
An Phú có nhiều thuận lợi cho đời sống sinh hoạt của nhân dân. Bên cạnh
việc sản xuất lúa 3 vụ đã đem lại hiệu quả cao còn có các mô hình trồng nấm
rơm với diện tích trồng 12 ha, có khoảng 30 hộ tham gia, diện tích từng điểm
bình quân từ 400 – 600 m2, giải quyết việc làm cho khoảng 150 lao động, sau
45 ngày thu hoạch đạt 3 – 4,5 triệu đồng/500 m2. Ngoài ra, còn có các mô
hình trồng rau nhút, trồng ấu, rau muống,… (Phòng xây dựng và phát triển
nông thôn huyện An Phú, 2004).
Các mô hình nuôi trồng thủy sản trong mùa nước nổi cũng đem lại
hiệu quả kinh tế cao. Có khoảng 5.336 hộ tham gia và giải quyết việc làm
thường xuyên cho 8.627 lao động, trong đó:
• Nuôi cá lồng, bè nhỏ được tiêu thụ nội địa chủ yếu cá lóc, cá rô
đồng, cá lóc bông, bống tượng, cá trê phi với tổng số 1.355 lồng,
tăng 655 lồng so với năm 2002 có 1.141 hộ tham gia và giải
quyết việc làm cho 2.710 lao động, sản lượng 3.609 tấn.
• Nuôi cá hầm: 1.246 ha chủ yếu là cá tra gần 2.500 hộ tham gia và
giải quyết việc làm thường xuyên 3.783 lao động, sản lượng nuôi
trong 5 tháng mùa nước ước đạt 18.690 tấn.
• Nuôi chân ruộng: 354 ha chủ yếu nuôi tôm càng xanh, tăng 47 ha
so năm 2002, có 416 hộ tham gia và giải quyết việc làm thường
xuyên cho 708 lao động, sản lượng ước đạt 266 tấn. Lãi thu được,
đối với nuôi cá từ 5 – 10 triệu đồng/ha, nuôi tôm càng xanh lãi
thu được cao hơn từ 15 – 25 triệu đồng/ha.
• Nuôi đăng quầng chủ yếu nuôi tôm càng xanh 48,6 ha, có 97 hộ
tham gia (phần lớn là hộ nghèo) và giải quyết việc làm thường
xuyên cho gần 50 lao động, sản lượng ước đạt 30 tấn. Thu được
lãi cao từ 10 – 15 triệu đồng/ha.
• Nuôi trong vèo, mùng lưới chủ yếu là các loại cá đen phát triển
mạnh với số lượng 1.421 cái (diện tích mặt nước nuôi 35.115
m2), có 1.182 hộ tham gia (phần lớn là hộ nghèo) và giải quyết
việc làm cho 1.421 lao động, sản lượng ước đạt 1.354 tấn. Qua
điều tra, khảo sát hộ nuôi diện tích 8 – 10 m2, lãi thu được từ 2 –
4 triệu đồng.
(Nguyễn Văn Phương và Vũ Quang Cảnh, 2004)
Để tận dụng mặt nước ao, lòng hồ, vùng trũng và mặt nước trên đất
ruộng để trồng gồm có:
• Rau nhút: diện tích trồng 3,5 ha (rải rác ở các xã), có khoảng 30
hộ tham gia và giải quyết việc làm cho khoảng 65 lao động. Năng
suất từ 9 – 12 tấn/ha, lợi nhuận đạt được từ 10 – 12 triệu đồng/ha
(Phòng xây dựng và phát triển nông thôn huyện An Phú, 2004).
• Ấu: diện tích trồng khoảng 3 ha tập trung ở xã Vĩnh Trường,
Khánh An, Khánh Bình có khoảng 10 hộ tham gia, năng suất đạt
từ 7 – 12 tấn/ha, lợi nhuận đạt được từ 7 – 8 triệu đồng/ha (Phòng
xây dựng và phát triển nông thôn huyện An Phú, 2004).
• Rau muống: diện tích trồng khoảng 13 ha, có khoảng 32 hộ tham
gia, giải quyết việc làm cho khoảng 62 lao động, lợi nhuận đạt từ
6 – 10 triệu đồng/ha (Phòng xây dựng và phát triển nông thôn
huyện An Phú, 2004).
• Sen: 102 ha tăng 73 ha so năm 2002, có 263 hộ tham gia và giải
quyết việc làm thường xuyên cho 715 lao động. Thu lãi cao từ 10
– 15 triệu đồng/ha từ việc bán ngó, bán gương và tranh thủ rằm
bán bông, tỷ lệ lãi/chi phí là 2 - 3 lần (Tỉnh Ủy An Giang, 2004).
Nắm bắt được nhu cầu tiêu thụ trong mùa nước nổi, nhiều hộ nông
dân trong tỉnh tranh thủ trồng dưa leo, cà chua, cải các loại, bầu, bí, mướp,
hành, hẹ, khổ qua, ớt,…theo nhiều mô hình sản xuất đã đem lại hiệu quả kinh
tế cao điển hình như:
• Trồng cải (cải bắp, cải các loại): lãi thu được từ 18 – 21 triệu
đồng/ha (bình quân 1,8 – 2,1 triệu đồng/1000 m2), tỷ lệ
lãi/chi phí là 1,3 – 1,5 lần.
• Dưa leo, cà chua: lãi thu được từ 11 – 13 triệu đồng/ha (bình
quân 1,1 – 1,3 triệu đồng/1000 m2), tỷ lệ lãi/chi phí là 0,6 –
0,8 lần.
• Bầu, bí, mướp: năng suất bình quân đạt 25 tấn/ha, lãi thu
được 19,5 triệu đồng/ha (bình quân 1,9 triệu đồng/1000 m2),
tỷ lệ lãi/chi phí là 1,1 lần.
• Hành, hẹ: năng suất bình quân đạt 20 tấn/ha, lãi thu được
18,6 triệu đồng/ha (bình quân 1,9 triệu đồng/1000 m2), tỷ lệ
lãi/chi phí là 1,6 lần.
Việc trồng bầu, bí, mướp, hành, hẹ, khổ qua, ớt có số đông hộ nghèo
tham gia, diện tích sản xuất của từng hộ không lớn từ 300 – 1.000 m2, nhưng
thu được lãi cao. Ở các huyện đầu nguồn An Phú, Tân Châu và Châu Đốc
nhiều nơi đất thổ cư bị ngập nhưng nông dân còn có sáng kiến đổ đất vào cần
xé, can nhựa, bắt giàn kê cao khỏi mặt nước để trồng cây chủ yếu là bầu, bí,
mướp, khổ qua vừa đáp ứng nhu cầu cho bữa ăn hàng ngày và bán chợ, ngoài
ra cũng góp phần có thu nhập ổn định cuộc sống trong mùa nước nổi. Nhìn
chung, lãi thu được từ việc trồng rau màu các loại gấp từ 3 – 5 lần so với cây
lúa. Mô hình sản xuất 3 vụ trong năm đã làm tăng giá trị sử dụng đất, đạt
doanh thu từ 21 – 29 triệu đồng/ha, lãi thu được từ 12 – 17 triệu đồng/ha.
(Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh An Giang, 2003)
Chương 3 PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
3.1. Phương tiện nghiên cứu
- Địa bàn nghiên cứu huyện An Phú – An Giang.
- Máy vi tính để nhập số liệu và xử lý số liệu.
- Bảng câu hỏi để phỏng vấn nông hộ, phiếu phỏng vấn cần có
thông tin đầy đủ.
- Xe máy để đi đến trực tiếp từng hộ nông dân. Ngoài ra còn có
thêm một số vật dùng có liên quan như giấy, viết,…
3.2. Phương pháp và nội dung điều tra
3.2.1. Phương pháp thu thập số liệu
Thu thập thông tin từ huyện xã, người am hiểu để xác định 4 mô hình có
triển vọng trong mùa lũ trên địa bàn của huyện, chọn ngẫu nhiên 15 - 20 hộ cho mỗi
loại mô hình để tiến hành điều tra bằng bảng hỏi đã được chuẩn bị trước (Phụ
chương 2).
Chọn 4 mô hình tiêu biểu trên toàn huyện An Phú: trồng rau màu,
trồng rau nhút, nuôi bò vỗ béo và trồng nấm rơm.
3.2.2. Phương pháp tiến hành
- Thu thập số liệu thứ cấp (huyện, xã).
- Phỏng vấn người am hiểu.
- Hoàn chỉnh bảng phỏng vấn.
- Điều tra trực tiếp nông hộ bằng “mẫu phỏng vấn nông hộ”.
- Xử lý số liệu.
- Phân tích số liệu.
- Tổng hợp và viết báo cáo.
3.2.2.1. Chọn hộ điều tra
Chọn đại diện 15 – 20 hộ cho mỗi mô hình trên toàn huyện. Sau đó tiến hành
điều tra chính thức từ ngày 12/01/2005 đến 30/01/2005 trên toàn huyện. Để đảm
bảo số liệu tin cậy số phiếu điều tra 75 phiếu cho 4 mô hình.
3.2.2.2. Nội dung điều tra
Nguồn lực nông hộ: Ghi nhận những thông tin chung của nông hộ
như: tên, tuổi, trình độ chủ hộ, nhân khẩu, lao động, nghề nghiệp, những đặc
điểm đất đai nông hộ, bố trí và sử dụng đất, tài sản, phương tiện, nhà ở,…
Hoạt động sản xuất và thu nhập: Ghi nhận các hoạt động sản xuất trong
nông hộ như: sản xuất cây hàng năm, sản xuất cây lâu năm từ khâu chuẩn bị đất đến
khâu thu hoạch, chi phí lao động, chi phí vật tư cho từng vụ, từng loại cây trên diện
tích nông hộ. Trong chăn nuôi và trồng trọt ghi nhận kiểu nuôi, chi phí và thu hoạch
sản phẩm.
Các trở ngại khó khăn: Ghi nhận các trở ngại khó khăn trong sản xuất và đời
sống của nông hộ.
Phương hướng giải quyết: Ghi nhận các đề xuất phát triển của nông hộ.
3.2.3. Phương pháp phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm Excel và SPSS để phân tích số liệu.
Chương 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Phân bố mẫu điều tra trên toàn huyện An Phú
Căn cứ vào số phiếu điều tra tổng cộng là 75 phiếu cho 4 mô hình.
Rau màu: 20 phiếu, rau nhút: 20 phiếu, nấm rơm: 15 phiếu và bò vỗ béo: 20
phiếu, phân bố trên 5 xã của huyện An Phú là Khánh An, Khánh Bình, Quốc
Thái, Vĩnh Trường và Đa Phước. Trong đó, Vĩnh Trường có 20 phiếu (chiếm
26,7%), Quốc Thái (16 phiếu chiếm 21,3%), Khánh An (6 phiếu chiếm 8%),
Khánh Bình (25 phiếu chiếm 33,3%), và Đa Phước (8 phiếu chiếm 10,7%).
Số phiếu phân bố trên 5 xã đại diện với những điều kiện khác nhau theo tỷ lệ
được thể hiện ở Bảng 3 đại diện số hộ trên toàn huyện.
Bảng 3: Phân bố mẫu điều tra
Các xã điều tra trong huyện Số mẫu điều tra Tỷ lệ (%)
Toàn h._.uyện An Phú
1. Xã Vĩnh Trường
- Ấp 1
2. Xã Quốc Thái
- Ấp 2
3. Xã Khánh An
- Ấp 1
4. Xã Khánh Bình
- Ấp 2
- Ấp 5
5. Xã Đa Phước
- Ấp Hà Bao 1
75
20
16
6
25
3
22
8
100
26,7
21,3
8
33,3
4
29,3
10,7
4.2. Đặc điểm chung của nông hộ điều tra trên toàn huyện
4.2.1. Tuổi trung bình của nông hộ
Qua số liệu điều tra được thể hiện ở Bảng 4, tuổi trung bình của các
chủ hộ ở 4 mô hình từ 47 – 51 tuổi, đây là độ tuổi có nhiều kinh nghiệm trong
sản xuất:
- Mô hình rau nhút: chủ hộ ở độ tuổi nhỏ hơn hoặc bằng 30 tuổi chiếm
5%, 31 – 40 tuổi (25%), 41 – 50 tuổi (10%) và khoảng 60% chủ hộ ở
độ tuổi trên 50 tuổi.
- Mô hình nấm rơm, chủ hộ ở độ tuổi nhỏ hơn hoặc bằng 30 tuổi chiếm
6,7%, 31 – 40 tuổi (33,3%), 41 – 50 tuổi (13,3%) và khoảng 46,7%
chủ hộ ở độ tuổi trên 50 tuổi.
- Mô hình rau màu, chủ hộ ở độ tuổi 31 – 40 tuổi chiếm 25%, 41 – 50
tuổi (40%) và khoảng 35% chủ hộ ở độ tuổi trên 50 tuổi.
- Mô hình bò vỗ béo, chủ hộ ở độ tuổi nhỏ hơn hoặc bằng 30 tuổi
chiếm 5%, 31 – 40 tuổi (20%), 41 – 50 tuổi (35%) và khoảng 40%
chủ hộ ở độ tuổi trên 50 tuổi.
Như vậy, chủ hộ ở độ tuổi trên 50 tuổi chiếm tỷ lệ cao từ 35 – 60%,
cao nhất là những hộ trồng rau nhút (60%) và thấp nhất là những hộ trồng rau
màu (35%). Đây là độ tuổi có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất và rất khó
khuyến cáo trong việc áp dụng kỹ thuật canh tác mới.
4.2.2. Trình độ văn hóa và kinh nghiệm sản xuất của nông hộ
Trình độ văn hóa của chủ hộ tương đối thấp, trong đó 25% chủ hộ
không biết chữ, 52,1% có trình độ văn hóa cấp I, 15,4% ở cấp II và cấp III là
7,5%.
Trong khi đó với kinh nghiệm sản xuất nhiều năm làm cho những
nông hộ tích lũy càng nhiều kinh nghiệm trong quá trình sản xuất và được thể
hiện ở các mô hình canh tác sau:
- Mô hình rau nhút: những hộ có kinh nghiệm sản xuất nhỏ hơn hoặc
bằng 10 năm chiếm khoảng 95% và từ 11 – 20 năm chiếm khoảng 5%.
- Mô hình rau màu: những hộ có kinh nghiệm sản xuất nhỏ hơn hoặc
bằng 10 năm chiếm 75%, 11 – 20 năm (15%) và 10% là 21 – 30 năm.
- Mô hình nấm rơm: những hộ có kinh nghiệm sản xuất nhỏ hơn hoặc
bằng 10 năm chiếm 80% và 11 – 20 năm chiếm 20%.
- Mô hình bò vỗ béo: những hộ có kinh nghiệm sản xuất nhỏ hơn
hoặc bằng 10 năm chiếm 80% và 11 – 20 năm chiếm 20%.
Từ kết quả trên cho thấy, trình độ văn hóa của chủ hộ còn ở mức
thấp, sự hiểu biết của họ chưa cao, với kinh nghiệm sản xuất nhiều năm của
họ khoảng 5 – 10 năm chiếm 75 – 95% nên kỹ thuật canh tác chỉ quen theo
cách truyền thống của mình.
Ngoài ra số nhân khẩu trung bình trong hộ từ 4,1 – 5,6 người, số
nhân khẩu này tương đối cao. Nguồn lực lao động tương đối dồi dào trung
bình từ 1,8 – 2,8 người/hộ, trong đó lao động chính trong nông nghiệp chiếm
45 – 85%, cao nhất là những hộ làm mô hình rau màu và thấp nhất là những
hộ làm mô hình rau nhút. Lao động làm thuê trong nông nghiệp chiếm 13,3 –
30%, cao nhất là những hộ làm mô hình rau nhút và thấp nhất là những hộ
làm mô hình bò vỗ béo. Lao động làm thuê phi nông nghiệp chiếm 10 – 40%,
cao nhất là những hộ làm mô hình bò vỗ béo và thấp nhất là những hộ làm
mô hình rau màu.
Từ những kết quả được trình bày ở trên cho thấy, khả năng truyền đạt
kỹ thuật cho nông hộ sử dụng rộng rãi là điều rất khó khăn, đối với những
người lớn tuổi có kinh nghiệm sản xuất nhiều năm cộng thêm trình độ học
vấn hạn chế, nên khó thuyết phục họ áp dụng kỹ thuật mới. Một phần số nhân
khẩu trong hộ tương đối cao dẫn tới họ không dám tin vào người khác, vì họ
chỉ nghe mà không được thấy, nếu áp dụng không thành công thì cuộc sống
họ phải vất vã. Chính vì vậy, mà việc truyền đạt kỹ thuật mới còn nhiều khó
khăn.
Bảng 4: Đặc điểm của nông hộ
Đặc điểm nông hộ Rau
Nhút
Rau
Màu
Nấm
Rơm
Bò Vỗ
Béo
Tỷ lệ
(%)
1. Tuổi trung bình của chủ hộ (TB)
- Nhỏ hơn hoặc bằng 30 tuổi
(%)
- Từ 31 – 40 tuổi (%)
- Từ 41 – 50 tuổi (%)
- Lớn hơn 50 tuổi (%)
2. Trình độ văn hoá chủ hộ (%)
- Mù chữ
- Cấp I
- Cấp II
- Cấp III
- Trung cấp và đại học
3. Kinh nghiệm sản xuất (%)
- Nhỏ hơn hoặc bằng 10 năm
- Từ 11 – 20 năm
- Từ 21 – 30 năm
4. Nhân khẩu trong hộ (TB)
5. Số lao động chính (TB)
6. Số lao động nữ (TB)
7. Lao động chính trong NN (%)
8. Lao động thuê trong NN (%)
9. Lao động thuê phi NN (%)
48,4
5
25
10
60
30
50
5
15
0
95
5
0
5,1
2,8
1,3
45
30
25
48,2
0
25
40
35
20
30
35
15
0
75
15
10
4,9
2,8
1,3
85
5
10
50,7
6,7
33,3
13,3
46,7
20
73,3
6,7
0
0
80
20
0
4,1
1,8
1,5
53,7
13,3
33,3
47,5
5
20
35
40
30
55
15
0
0
80
20
0
5,6
2,8
1,4
60
0
40
25
52,1
15,4
7,5
0
Ghi chú: TB: Trung bình NN: Nông nghiệp
4.3. Tài sản và phương tiện sản xuất của nông hộ
4.3.1. Phương tiện sinh hoạt
Kết quả điều tra được trình bày qua Hình 1 cho thấy, về các phương
tiện khác phục vụ cho đời sống và sinh hoạt, thì những hộ làm mô hình bò vỗ
béo và rau màu có những phương tiện đi lại bằng xe máy và xe đạp chiếm tỷ
lệ tương đối bằng nhau tương ứng với 35 – 53,3% và 70 – 90%. Đối với
phương tiện nghe nhìn bằng ti vi khoảng 55 – 85% và đầu video ở các mô
hình thì tương đối bằng nhau từ 20 – 35% (Hình 2), riêng radio chiếm tỷ lệ
cao nhất ở những hộ trồng rau màu (75%) và thấp nhất ở những hộ nuôi bò
vỗ béo (40%).
Như vậy, từ những phương tiện sinh hoạt của nông hộ ở những mô
hình canh tác trong mùa lũ cho ta thấy rằng, những phương tiện này phần nào
đáp ứng nhu cầu trong đời sống và sinh hoạt của người dân ở đây, tuy nhiên
vẫn còn nhiều hộ nông dân vẫn chưa có đầy đủ phương tiện sinh hoạt.
40
35
40
90
70
75
53,3
46,7
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Bò vỗ béo Nấm rơm Rau nhút Rau màu
Mô hình
Tỷ
lệ
n
ôn
g
hộ
th
ực
h
iệ
n
(%
)
Xe máy
Xe đạp
Hình 1: Phương tiện đi lại của nông hộ
65
55
85
60
75
40
73,3
55
35
25
2020
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Bò vỗ béo Nấm rơm Rau nhút Rau màu
Mô hình
Tỷ
lệ
n
ôn
g
hộ
th
ực
h
iệ
n
(%
) Tivi
Radio
Đầu Video
Hình 2: Phương tiện nghe nhìn của nông hộ
4.3.2. Phương tiện sản xuất
Kết quả điều tra được trình bày qua Hình 3 cho thấy: các phương tiện
máy phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như máy cày, máy suốt và máy sấy
chủ yếu là thuê mướn để phục vụ cho các hoạt động sản xuất khác ngoài mô
hình đang canh tác của nông hộ. Còn máy bơm nước chiếm tỷ lệ cao nhất ở
mô hình rau màu (70%) và thấp nhất ở mô hình bò vỗ béo (25%), máy quạt
nước chiếm tỷ lệ tương đối thấp ở các mô hình.
Ngoài các máy phục vụ sản xuất nông nghiệp còn có các phương tiện khác
phục vụ sản xuất như xuồng chiếm tỷ lệ cao nhất ở những hộ làm mô hình rau nhút
(60%) và thấp nhất ở những hộ làm mô hình rau màu (25%), bình xịt có tỷ lệ cao
nhất ở những hộ làm mô hình rau màu (95%) và thấp nhất ở những hộ làm mô hình
bò vỗ béo là 25% (Hình 4).
Nhìn chung đối với những vùng ngập lũ của huyện, đời sống của nông hộ
sản xuất nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt và phương tiện sản
xuất chính của họ chủ yếu là bình xịt và máy bơm nước ở 4 mô hình.
0 0 0
5
25
55
70
35
0
53,4
13,3
20
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Bò vỗ béo Nấm rơm Rau nhút Rau màu
Mô hình
Tỷ
lệ
n
ôn
g
hộ
sử
d
ụn
g
(%
)
Máy cày
Máy bơm nước
Máy quạt nước
Hình 3: Máy sản xuất nông nghiệp của nông hộ
25
85
95
35
60
25
46,7
26,7
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Bò vỗ béo Nấm rơm Rau nhút Rau màu
Mô hình
Tỷ
lệ
nô
ng
hộ
sử
dụ
ng
(%
) Bình xịt
xuồng
Hình 4: Phương tiện phục vụ sản xuất của nông hộ
4.4. Nguồn thông tin cho sản xuất nông hộ
4.4.1. Nguồn thông tin cho sản xuất nông nghiệp
Theo kết quả điều tra được trình bày ở Bảng 5 cho thấy, trình độ hiểu
biết về kỹ thuật của nông hộ chưa cao, những nguồn thông tin phục vụ cho
sản xuất nông hộ chỉ là sự trao đổi qua lại giữa người này với người khác, từ
đó rút ra kỹ thuật của riêng mình, chiếm khoảng 46,7 – 65% nông dân lấy
nguồn thông tin từ những người dân khác và 30 – 46,7% học hỏi kỹ thuật từ
bà con thân nhân.
Ngoài ra họ còn xem ti vi hoặc radio về các chương trình khuyến
nông, quảng cáo, nhịp cầu nhà nông,…để hiểu biết thêm kỹ thuật và thuốc
phòng trị. Khoảng 30 – 66,7% số hộ nắm bắt thông tin từ ti vi, cao nhất là
những hộ trồng nấm rơm chiếm 66,7% và thấp nhất là những hộ trồng rau
nhút chiếm 30%.
Đối với những nông hộ sống trong vùng ngập lũ, hằng ngày họ phải
đối mặt với đói nghèo, đời sống còn nhiều khó khăn. Họ không có thời gian
tiếp cận với nhiều nguồn thông tin khác như báo, tạp chí, kỹ thuật viên, dịch
vụ buôn bán vật tư nông nghiệp, các nhà nghiên cứu khoa học, hợp tác xã,
lãnh đạo địa phương,…
Bảng 5: Nguồn thông tin cho sản xuất nông nghiệp của nông hộ
Nguồn thông tin Bò Vỗ
Béo
Nấm
Rơm
Rau
Nhút
Rau
màu
Tần
Suất
% Tần
Suất
% Tần
Suất
% Tần
suất
%
1. Không có thu nhận thông tin
2. Có thu nhận nguồn thông tin
- Từ người nông dân khác
- Từ bà con thân nhân
- Ti vi
- Radio
- Báo/ tạp chí
- Tổ chức chính phủ
180
40
10
9
11
2
0
3
81,8
18,2
50
45
55
10
0
15
133
32
7
7
10
2
0
4
80,6
19,4
46,7
46,7
66,7
13,3
0
26,7
185
35
13
9
6
3
1
0
84,1
15,9
65
45
30
15
5
0
166
54
13
6
12
6
3
3
75,5
24,6
65
30
60
30
15
15
- Dịch vụ buôn bán vật tư
nông nghiệp
- Từ các nhà nghiên cứu
khoa học
- Hợp tác xã
- Lãnh đạo địa phương
- Khác
0
0
0
4
1
0
0
0
20
5
0
0
0
3
0
0
0
0
20
0
1
0
0
1
1
5
0
0
5
5
2
0
1
6
2
10
0
5
30
10
Tổng cộng 20 100 20 100 15 100 20 100
4.4.2. Người thu nhận và số lượng thông tin cho sản xuất nông nghiệp
Do trình độ hiểu biết của nông hộ còn kém, nông dân thường có quan
niệm làm theo cách hiểu biết của mình nên họ không cần học hỏi thêm từ ai
khác hoặc là từ các chương trình trên ti vi, phần lớn họ ít quan tâm đến các
chương trình thời sự, mà chỉ thích các chương trình ca nhạc hoặc phim
ảnh,…cho nên đa số những người nắm bắt thông tin thường là những người
trực tiếp sản xuất nông nghiệp như chủ hộ, có khoảng 12,3 – 24,6% chủ hộ
nắm bắt thông tin từ các nguồn khác nhau (từ những người nông dân khác, từ
ti vi, radio,…) cao nhất là những hộ trồng rau màu chiếm 24,6% và thấp nhất
là những hộ trồng rau nhút (12,3%). Tuy nhiên trong số những nông hộ này
chỉ có một số nông hộ là nắm bắt thông tin thường xuyên khoảng 7,3 –
12,7%, một số khoảng vài lần chiếm 6,7 – 15,5%, còn đại đa số là nông hộ
chưa bao giờ học hỏi từ người khác chiếm 75,5 - 84,1%, cao nhất là những hộ
trồng rau nhút (Bảng 6). Từ kết quả này cho thấy, do rau nhút dễ trồng nên
người dân ở đây không quan tâm tới kỹ thuật nhiều, một phần họ không tin
tưởng vào những kỹ thuật do người khác truyền đạt. Vì vậy kỹ thuật canh tác
của họ còn hạn chế dẫn đến hiệu quả kinh tế chưa cao.
Bảng 6: Người nhận và số lượng thông tin cho sản xuất nông nghiệp
Ai nhận thông tin Bò Vỗ
Béo
Nấm
Rơm
Rau
Nhút
Rau
màu
Tần
Suất
% Tần
Suất
% Tần
Suất
% Tần
suất
%
1. Người nhận thông tin
- Chủ hộ
- Vợ chủ hộ
- Người khác
2. Số lần nhận thông tin
- Thường xuyên
- Vài lần
- Chưa bao giờ
35
3
2
21
19
180
15,9
1,4
0,9
9,5
8,6
81,3
24
1
7
21
11
133
14,6
0,6
4,2
12,7
6,7
80,6
27
0
8
16
19
185
12,3
0
3,6
7,3
8,6
84,1
54
0
0
20
34
166
24,6
0
0
9,1
15,5
75,5
4.5. Sử dụng đất và thu nhập sản xuất trong nông hộ
4.5.1. Đặc điểm phân bố đất đai trên nông hộ
Qui mô đất đai bình quân trên hộ biến động lớn giữa các hộ làm
những mô hình khác nhau, thấp nhất là những hộ làm mô hình nấm rơm và
cao nhất là những hộ làm mô hình rau màu (Bảng 7). Do sự phân bố đất đai
không đồng đều giữa các xã, mô hình rau nhút với diện tích bình quân là 1,3
ha/hộ, rau màu (1,8 ha/hộ), nấm rơm (0,3 ha/hộ) và 0,3 ha/hộ ở bò vỗ béo.
Điều này cho thấy, những hộ làm mô hình rau màu có diện tích lớn hơn so
với những hộ làm mô hình nấm rơm. Hơn nữa điều này cũng hợp lí do trồng
nấm rơm không cần diện tích lớn và phù hợp với những hộ nghèo có ít đất
canh tác (Bảng 7). Cũng từ số liệu điều tra được trình bày ở Bảng 7 cho thấy,
bình quân diện tích đất canh tác trên hộ biến động lớn giữa các mô hình từ
0,3 – 1,8 ha/hộ, sự khác nhau rất lớn về sử dụng đất sản xuất được thể hiện ở
các mô hình sau:
- Mô hình nấm rơm diện tích bình quân trên hộ 0,3 ha, đất sử dụng
vào việc sản xuất chủ yếu là thuê mướn. Chính vì vậy, làm cho nông
hộ gặp nhiều khó khăn trong sản xuất nông nghiệp. Trong đó, diện
tích đất thổ cư chiếm 24,1%, đất ruộng (74,7%) và đất vườn (1,2%).
- Mô hình rau màu với diện tích bình quân trên hộ là 1,8 ha. Trong
đó, diện tích đất thổ cư chiếm 10,9%, đất ruộng (71,3%), đất vườn
(2,2%), ao, mương (0,5%) và đất khác (15,1%).
- Mô hình rau nhút với diện tích bình quân trên hộ là 1,3 ha. Trong
đó, diện tích đất thổ cư chiếm 8,6%, đất ruộng (80,5%), ao, mương
(6,5%) và đất khác (4,4%).
- Mô hình bò vỗ béo với diện tích bình quân trên hộ là 0,3 ha. Trong
đó, diện tích đất thổ cư chiếm 21,1%, đất ruộng (53,4%), đất vườn
(6,2%), ao, mương (0,8%) và đất khác (18,5%).
Theo số liệu đã tổng kết trên cho thấy đời sống của những nông hộ
nuôi bò vỗ béo và trồng nấm rơm còn nhiều khó khăn, họ không có đủ đất để
sản xuất, trung bình khoảng 0,3 ha/hộ, hàng năm còn phải đương đầu với cơn
lũ tràn về làm thiệt hại đến tài sản nông hộ, làm cho đời sống của họ gặp khó
khăn lại càng khó khăn hơn.
Bảng 7: Phân bố đất đai trên nông hộ
Phân bố sử dụng đất đai ở nông hộ Bò Vỗ
Béo
Nấm
Rơm
Rau
Nhút
Rau
màu
Diện tích đất bình quân trên nông hộ
( ha/hộ):
1. Tỷ lệ đất thổ cư (%)
2. Tỷ lệ đất ruộng (%)
3. Tỷ lệ đất vườn (%)
4. Tỷ lệ ao, mương (%)
5. Tỷ lệ đất khác (%)
0,3
21,1
53,4
6,2
0,8
18,5
0,3
24,1
74,7
1,2
0
0
1,3
8,6
80,5
0
6,5
4,4
1,8
10,9
71,3
2,2
0,5
15,1
4.5.2. Các mô hình sản xuất trong hộ
4.5.2.1. Mô hình rau nhút
Về kỹ thuật canh tác, qua kết quả điều tra được trình bày ở Bảng 8
cho thấy, rau nhút rất dễ trồng nên có thể trồng ở mọi thời điểm trong năm,
trong đó 70% số nông hộ ở đây trồng quanh năm và còn lại là 30% trồng
trong mùa lũ. Về các hoạt động trước khi trồng như chuẩn bị đất, làm sạch
các tản rong rêu trên bề mặt nước và tu sửa bờ thì đa số các hộ đều không
thực hiện, tuy nhiên vẫn có hộ thực hiện đầy đủ các khâu trên như chuẩn bị
đất chiếm 35%, làm sạch rong (25%) và tu sửa bờ (20%). Về tiêu chuẩn chọn
giống, có khoảng 30% số hộ quan tâm đến tiêu chuẩn chọn cành non và đọt
tốt, 10% chọn cọng dài, 20% chọn rễ lớn và đọt tốt và 35% số hộ quan tâm
chọn không sâu bệnh. Lượng giống sử dụng bình quân 760 kg/ha, khoảng
cách trồng bụi cách bụi từ 0,8 – 1 m, hàng cách hàng từ 1 – 1,3 m và bình
quân trên 1 ha lượng phân bón cho rau khoảng 396 kg, tuy nhiên có những hộ
sử dụng phân bón và lượng thuốc hoá học sử dụng rất ít thậm chí có hộ không
sử dụng nhưng năng suất đem lại cũng tương đối cao. Đối với những hộ
không sử dụng phân bón khoảng 5%, 50% có sử dụng phân bón nhưng ở mức
chi phí thấp (nhỏ hơn 1 triệu đồng/ha) và lớn hơn 1 triệu đồng/ha chiếm 45%
(Hình 5). Chi phí cho việc sử dụng thuốc hóa học nhỏ hơn 1 triệu đồng/ha
chiếm 55%, 10% lớn hơn 1 triệu đồng/ha và còn lại 35% số hộ không sử
dụng thuốc trong trồng rau nhút (Hình 6).
50%45%
5% < 1 triệu đồng/ha
> 1 triệu đồng/ha
Không sử dụng
Hình 5: Chi phí phân bón
55%
10%
35%
< 1 triệu đồng/ha
> 1 triệu đồng/ha
Không sử dụng
Hình 6: Chi phí thuốc trồng rau nhút
Bảng 8: Kỹ thuật trồng rau nhút
Hoạt động Tỷ lệ nông hộ thực hiện
1. Phương pháp canh tác (%)
- Chuẩn bị đất
- Làm sạch rong
- Tu sửa bờ
2. Thời điểm trồng (%)
- Trồng quanh năm
- Trồng trong mùa lũ
3. Khoảng cách trung bình (m)
- Hàng cách hàng
- Bụi cách bụi
35
20
25
70
30
1,33
0,83
4. Tiêu chuẩn chọn giống (%)
- Cọng non, đọt tốt
- Cọng dài
- Rễ lớn, đọt tốt
- Không sâu bệnh
5. Lượng giống sử dụng (kg/ha)
6. Lượng phân bón (kg/ha)
30
10
20
35
760,3
396,4
Tuy nhiên, qua số liệu được trình bày ở Bảng 9 cho thấy, chi phí đầu
tư thấp, trung bình khoảng 8,7 triệu đồng/ha/vụ, trong đó chi phí cho giống là
1 triệu đồng/ha, phân bón (1,9 triệu đồng/ha), thuốc bảo vệ thực vật (0,7 triệu
đồng/ha), lao động thuê (0,5 triệu đồng/ha), lao động nhà (4,1 triệu đồng/ha)
và chi phí khác khoảng 0,5 triệu đồng/ha. Năng suất đạt được tương đối cao,
bình quân khoảng 7.500 – 8.000 kg/ha/vụ. Với chi phí đầu tư rất thấp, những
nông hộ trồng rau nhút hàng năm đều đem lại thu nhập và lợi nhuận cao được
thể hiện qua thông số giá bán bình quân 1.705 đồng/kg thì mỗi vụ trung bình
trên nông hộ thu khoảng 13,4 triệu đồng/ha/vụ, lợi nhuận thu đạt 4,7 triệu
đồng/ha/vụ.
Như vậy, qua các kết quả trên thì rau nhút dễ trồng, ít tốn công chăm
sóc, chi phí đầu tư ít nhưng cho lợi nhuận cao. Do đó việc tận dụng mặt nước
trong việc trồng rau nhút đã góp phần tăng thêm thu nhập, giải quyết được
nguồn lao động nhàn rỗi trong mùa lũ.
Bảng 9: Trung bình chi phí đầu tư và thu nhập của nông hộ trồng rau nhút
Chi phí đầu tư và thu nhập Chi phí
(triệu đồng/ha)
Thu nhập
1. Đầu tư
- Giống
- Phân bón
- Thuốc bảo vệ thực vật
- Lao động thuê
- Lao động nhà
- Chi phí khác
2. Năng suất (kg/ha)
3. Giá bán (đồng/kg)
4. Tổng thu (triệu đồng/ha)
5. Lợi nhuận (triệu đồng/ha)
6. Thu hoạch (kg/ha)
- Lần 1
- Lần 2
- Lần 3
- Lần 4
- Lần 5
- Lần 6
- ….
8,7
1
1,9
0,7
0,5
4,1
0,5
7.934
1.705
13,4
4,7
165
172
203,5
167,3
139,3
111,5
…
Theo số liệu điều tra được thể hiện ở Hình 7 cho thấy: đa số những
hộ trồng rau nhút sau khi thu hoạch chủ yếu bán cho bạn hàng chiếm 95%,
còn lại là bán cho hàng xóm 5%. Rau cắt xong được vận chuyển đến chợ cân
lại cho bạn hàng hoặc có thể những người này đến nhà mua. Số lượng rau
cắt/lần từ 100 – 200 kg/lần tương đối lớn nên những hộ trồng phải đem cân
nhanh, tránh làm rau héo khó bán.
95%
5%
Tư nhân
Hàng xóm
Hình 7: Đối tượng mua sản phẩm
Rau nhút là loại dễ trồng đem lại thu nhập cao. Bên cạnh đó, trồng
rau nhút cũng gặp một số trở ngại như đất, giá bán, giá mua, thuê mướn, ngập
lũ, kiến thức,… Tuy nhiên, những trở ngại này cũng không ảnh hưởng nhiều
đến việc trồng rau nhút. Hàng năm khi lũ lớn, độ ngập sâu tương đối cao, gây
thiệt hại cho việc trồng rau nhút, nước làm cuốn trôi rau dẫn tới thu nhập
giảm xuống, khoảng 40% số hộ gặp trở ngại về vấn đề này. Trong khi đó, trở
ngại về giá bán chỉ chiếm 5%, giá mua (5%) và thuê mướn là 5% (Bảng 10).
Tóm lại, rau nhút rất dễ trồng, có thể trồng được quanh năm, chi phí
đầu tư thấp, dễ tiêu thụ, đem lại lợi nhuận cao và ít gặp trở ngại trong sản
xuất. Ngoài ra việc trồng rau nhút cũng góp phần giải quyết được nguồn lao
động nhàn rỗi trong mùa lũ.
Bảng 10: Những trở ngại trong việc sản xuất rau nhút
Trở ngại trong việc sản xuất rau nhút % nông hộ thực hiện
1. Đất 10
2. Giống
3. Lao động
4. Giá mua
5. Giá bán
6. Thuê mướn
7. Ngập lũ
8. Kiến thức
9. Phương pháp
10.Nguồn vốn
11.Vấn đề khác
12.Không có thông tin
0
0
5
5
5
40
0
0
0
0
35
4.5.2.2. Mô hình nấm rơm
* Các thông tin chung về hoạt động sản xuất nấm rơm được thể hiện
ở Bảng 11 cho thấy:
- Đa số nông hộ trồng nấm rơm có ít đất sản xuất, diện tích đất trồng
nấm chủ yếu thuê mướn chiếm 80%, mượn của người khác (13,3%)
và đất nhà khoảng 6,7%.
- Nền chất nấm, nông dân thường chọn đất ruộng để chất nấm khoảng
46,7%, đất dọc theo lộ (26,7%), đất bờ kinh (6,7%) và (20%) đất rẫy.
Tùy theo từng đặc điểm của đất mà chọn nền chất, trong đó số hộ
chất nấm trên nền đất thịt khoảng 33,3%, đất sét (6,7%), đất sét pha
thịt (26,7%), đất cát pha (20%) và 13,3% là đất cát pha thịt.
- Rơm sau khi chất cần phải tưới nước thường xuyên để tạo độ ẩm
thích hợp cho nấm phát triển tốt, nguồn nước tưới chủ yếu lấy từ
sông khoảng 93,3% còn 6,7% nông hộ dùng nước giếng để tưới.
Chất lượng nước sông thường là không bị nhiễm phèn (53,3%),
33,3% nước ngọt và 13,3% nhiễm phèn nhẹ.
Như vậy, nhìn chung đa số nông hộ sản xuất nấm rơm đều có ít đất
canh tác, chủ yếu là thuê mướn đất ruộng, nguồn nước tưới lấy từ sông và
chất lượng nước không bị nhiễm phèn.
* Về các yêu cầu kỹ thuật trồng nấm rơm, qua số liệu được thể hiện ở
Bảng 12 như sau:
- Nấm rơm là loại tương đối dễ trồng, có thể trồng vào mọi thời điểm
trong năm, trong đó 73,3% nông hộ thường xuyên trồng bất kỳ thời
điểm trong năm và trồng sau vụ lúa chiếm khoảng 26,7%.
- Nấm có thể trồng quanh năm tùy theo điều kiện thời tiết mà chúng ta
có cách bố trí khác nhau để khắc phục tình trạng bất lợi trên. Theo số
liệu điều tra cho thấy 100% nông hộ chọn nơi trồng nấm ở ngoài
trảng. Hướng chất nấm phải xuôi theo chiều gió nhằm giảm thiệt hại
về năng suất cho nấm, khoảng 93,3% nông dân chọn theo cách này.
- Để tăng thêm nguồn thu nhập cho gia đình, bà con nông dân đã tận
dụng rơm lúa để sản xuất nấm rơm. Loại rơm chọn để chất nấm
thường nông dân chọn thân lúa hoặc cũng có thể chọn cả thân và gốc
lúa. Khoảng 73,3% nông hộ chọn thân lúa chất nấm, họ cho rằng thân
lúa cho năng xuất cao hơn và còn lại khoảng 26,7% nông hộ chọn cả
thân lẫn gốc.
Như vậy, nấm rơm là loại tương đối dễ trồng ở mọi thời điểm trong
năm, nền chọn chủ yếu là nơi bằng phẳng và nguồn vật liệu chính từ thân
rơm.
* Về các yêu cầu kỹ thuật trong sản xuất nấm rơm nông hộ được
trình bày ở Bảng 13 như sau:
- Năng suất nấm cao hay thấp còn tùy thuộc vào chủng loại rơm, tình
trạng chất lượng của nguyên liệu. Để đạt năng suất cao và có sản
lượng nấm rơm lớn, bà con thường thu gom rơm rạ và xử lý trước
khi chất nấm, rơm sau khi thu hoạch ta tiến hành ủ rơm có khoảng
80% nông hộ có ủ rơm trước khi trồng, 6,7% ủ không đậy và 13,3%
ủ có đậy. Mục đích của việc ủ rơm là để rơm được phân huỷ tạo điều
kiện cho nấm rơm phát triển mạnh hơn.
- Thời gian từ khi ủ đến khi đảo rơm khoảng 7 – 9 ngày, nhiệt độ
trung bình thích hợp cho đóng ủ khoảng 60 – 660C, số lần đảo rơm từ
1 – 2 lần, để tránh meo nấm ăn lan ra lớp mô áo, không tạo được
nấm.
Rơm sau khi ủ phải đạt được yêu cầu: cọng rơm vàng sậm và có mùi
thơm của rơm chiếm 40% nông hộ nhận biết theo cách này, cọng rơm mềm
và vắt nước vừa rỉ tay khoảng 33,3%, vàng đều cọng rơm (6,7%), bứt vừa đứt
(13,3%) và màu vàng sậm (6,7%).
* Về bố trí trồng nấm được thể hiện ở Bảng 14 cho thấy:
- Khoảng 86,7% nông dân chọn nơi bằng phẳng để chất nấm và nền
hơi nghiêng chiếm 13,3%.
- Sau khi ủ khoảng 8 – 9 ngày ta tiến hành chất nấm rơm, khoảng
66,7% hộ nông dân xử lý nền chất mô trước khi chất, loại hóa chất
thường dùng là vôi.
- Dạng mô trồng thường là mô đơn chiếm 20%, mô đôi (60%) và
(20%) là mô ba.
- Bố trí mô nấm giống như giồng khoai chiều rộng mô 20 – 80 cm,
tưới nước dùng tay đè cho dẻ chặt, cho đến khi lớp rơm cao mô từ 20
– 60 cm.
- Khoảng cách giữa mô đơn khoảng 60 cm và mô đôi (46 cm), trong
đó có khoảng 40% số hộ bó rơm khi chất và còn lại 60% là không bó
rơm. Chiều cao lớp đáy trước khi chất khoảng 30 cm và sau khi chất
39 cm.
Sau khi chất mô xong khoảng 93,3% người ta thường phơi nắng mô
nấm còn lại 6,7% không phơi nắng mô nấm. Thời gian phơi khoảng 5 ngày,
giữ nhiệt độ ở khoảng 37,50C là nhiệt độ thích hợp để nấm phát triển. Để
nhận biết nhiệt độ thích hợp thì 100% nông dân thường dùng tay sờ lên rơm
thấy hơi ấm lên đều là được.
Bảng 11: Thông tin chung cho hoạt động sản xuất của trồng nấm rơm
Thông tin chung % nông hộ thực hiện
1. Diện tích đất
- Đất nhà
- Đất thuê
- Đất mượn
2. Chất nấm trên nền
- Đất ruộng
- Dọc theo lộ
- Bờ kinh
- Đất rẫy
3. Loại đất
- Sét
- Sét pha thịt
- Thịt
- Cát pha
- Cát pha thịt
4. Nguồn nước tưới
- Sông
- Nước giếng
5. Chất nước
- Không nhiễm phèn
- Ngọt
- Phèn nhẹ
- Phèn nặng
- Sạch
6,7
80
13,3
46,7
26,7
6,7
20
6,7
26,7
33,3
20
13,3
93,3
6,7
53,3
33,3
13,3
0
0
Bảng 12: Các yêu cầu kỹ thuật trồng nấm rơm ở nông hộ
Các yêu cầu kỹ thuật Tỷ lệ nông hộ thực hiện (%)
1. Thời vụ trồng nấm
- Cả năm
- Sau vụ lúa
2. Bố trí nơi trồng nấm:
Ngoài trảng
3. Hướng trồng nấm
- Xuôi theo gió
- Hướng khác
4. Loại rơm chất nấm tốt
- Thân lúa
- Cả thân và gốc
73,3
26,7
100
93,3
6,7
73,3
26,7
Năng suất và chất lượng của nấm phụ thuộc rất lớn vào chất lượng
của meo nấm, vì meo tốt cho năng suất cao và chất lượng nấm tốt. Theo kinh
nghiệm nhận biết giống meo tốt của người nông dân khoảng 46,7% số hộ
chọn những sợi nấm màu trắng trong đều và có mùi thơm tương đương như
mùi rơm, kéo tơ mạnh (6,7%), tơ không có màu xanh (6,7%), đóng cổ trầu
(6,7%), tơ trắng đều giống như bông gòn (6,7%) và 26,7% tơ nấm phát triển
đều khắp mặt môi trường bịch meo. Giống meo tốt được nhiều người nông
dân tin tưởng là giống meo Thần Nông chiếm 86,7% và giống meo Tư Sài
Gòn là 13,3%. Meo giống sản xuất tại Cần Thơ được nông dân ưa chuộng
chiếm 46,7%, Long Xuyên (20%) và 33,3% sử dụng meo giống từ Thành phố
Hồ Chí Minh.
Sau khi chất rơm xong có khoảng 86,7% số hộ rải đều một đường
meo giữa dọc theo mô, còn lại 13,3% số hộ rải hai bên liếp, sau đó dùng rơm
ủ đẹp phủ lên một lớp, dùng tay nhét những cọng rơm còn rơi vãi bên ngoài
vào đáy mô, thời gian từ lúc chất mô đến khi phủ áo từ 5 ngày.
Về kỹ thuật phủ áo mô, theo số liệu điều tra được thể hiện ở Bảng 15,
kể từ lúc chất mô nấm từ ngày thứ 5 – 6 bắt đầu phủ áo, lựa rơm tốt phủ áo,
trung bình khoảng 4 – 5 ngày bắt đầu trở tơ lần thứ nhất kể từ khi chất mô, 6
– 7 ngày trở tơ lần thứ hai và 7 – 8 ngày sau trở tơ ngày thứ ba.
Bảng 13: Kỹ thuật sản xuất nấm rơm
Kỹ thuật sản xuất Tỷ lệ (%) Trung bình
1. Ủ rơm
- Có ủ
- Ủ không đậy
- Ủ có đậy
2. Số lần đảo (lần)
3. Thời gian từ khi chất đến đảo (ngày)
4. Nhiệt độ ủ (0C)
5. Cách nhận biết rơm
- Bứt vừa đứt
- Vàng đều cọng rơm
- Vàng sậm, có mùi thơm của rơm
- Rơm mềm, vắt nước vừa rỉ tay
- Màu vàng sậm
80
6,7
13,3
13,3
6,7
40
33,3
6,7
1,5
8,7
66
Bảng 14: Bố trí trồng nấm
Bố trí trồng nấm Tỷ lệ nông hộ (%) Trung bình
1. Chọn nền chất
- Bằng phẳng
- Hơi nghiêng
2. Xử lý nền chất
- Vôi
- Không xử lý
3. Dạng mô
- Mô đơn
- Mô đôi
- Mô ba
4. Kích thước mô (cm)
- Rộng mô
- Cao mô
5. Khoảng cách giữa các mô (cm)
- Mô đơn
- Mô đôi
6. Bó rơm khi chất
- Có
- Không
7. Chiều cao lớp rơm đáy (cm)
- Trước khi rãi meo
- Sau khi rãi meo
8. Sau khi chất mô xong phơi
nắng
- Có
- Không
9. Thời gian phơi (ngày)
10. Nhiệt độ thích hợp để nấm
phát triển (0C)
11. Nhận biết nhiệt độ thích hợp:
Sờ tay vào mô thấy hơi ấm đều
86,7
13,3
66,7
33,3
20
60
20
40
60
93,3
6,7
100
40
39
60
46
30
39
5
37,5
Bảng 15: Chọn meo giống và rải meo giống
Chọn meo giống và rải meo giống Tỷ lệ nông hộ (%) Trung bình
(ngày)
1. Giống meo
- Thần Nông
- Tư Sài Gòn
2. Kinh nghiệm nhận biết meo nấm
- Kéo tơ mạnh
- Tơ không có màu xanh
- Tơ trắng, đều, thơm mùi rơm
- Đóng cổ trầu
- Tơ trắng, đều, giống bông gòn
- Chạy tơ đều
3. Nơi sản xuất
- Long Xuyên
- Cần Thơ
- Thành phố Hồ Chí Minh
4. Vị trí rải meo
- Giữa mô
- Hai bên liếp
5. Cách rải meo giống
- Rải đều
6. Thời gian từ lúc chất đến phủ áo
7. Thời gian từ lúc chất đến trở tơ
- Lần 1
- Lần 2
- Lần 3
86,7
13,3
6,7
6,7
46,6
6,7
6,7
26,6
20
46,7
33,3
86,7
13,3
100
5,4
4,7
6,5
7,1
* Về kỹ thuật chăm sóc và thu hoạch được trình bày ở Bảng 16 như
sau:
- Sau khi tủ rơm áo mô, khoảng 1 – 2 ngày bắt đầu tưới nước, mỗi
ngày có thể tưới từ 1 – 2 lần vào lúc trời mát (sáng sớm hoặc chiều
mát), khi tưới cần chú ý đến nhiệt độ của mô nấm dao động trong
khoảng 35 – 450C là được.
- Kể từ lúc rải meo đến thu hoạch trung bình từ 13 – 14 ngày, khoảng
8 – 9 ngày kể từ khi rải nấm phát triển bằng đầu đinh ghim, 1 – 2
ngày từ đinh ghim trở thành nút, từ 1 – 2 ngày nấm từ dạng nút
chuyển thành dạng trứng, 1 – 2 ngày tiếp nấm từ dạng trứng thành
dạng nấm kéo dài và tiếp tục khoảng 1 ngày sau đó nấm trưởng
thành có thể thu hoạch được.
Tùy theo thời tiết, trung bình khoảng 13 – 14 ngày sau khi rải meo là
có thể thu hoạch được, thời gian thu hoạch kéo dài khoảng 35 – 40 ngày, với
số đợt thu hoạch từ 15 – 16 lần năng suất trung bình đạt 1,1 – 1,2 tấn/ha.
Bảng 16: Chăm sóc và thu hoạch
Chăm sóc và thu hoạch Ngày (trung bình)
1. Thời gian tưới sau khi chất mô
2. Số lần tưới (lần)
3. Từ khi rải đến thu hoạch
4. Các giai đoạn trồng nấm:
- Từ rải đến đinh ghim
- Từ đinh ghim đến nút
- Từ nút đến trứng
- Từ trứng đến kéo dài
- Từ kéo dài đến trưởng thành
5. Thời gian từ khi chất đến thu hoạch hoàn toàn
6. Số đợt thu hoạch
1,5
1,6
15
8,7
2,2
1,7
1,2
1
34,6
15,3
Trồng nấm rơm đem lại hiệu quả kinh tế cao được thể hiện qua kết
quả điều tra ở Bảng 17 như sau:
- Tổng chi phí của nông hộ trên 1 ha trung bình khoảng 46,7 triệu
đồng. Trong đó, chi cho lượng rơm mua chất nấm là 25,9 triệu đồng,
meo giống (5,4 triệu đồng), thuốc dưỡng (1,4 triệu đồng), công chất
(2,3 triệu đồng), công hái (2,3 triệu đồng), công tưới (2,1 triệu đồng),
công chuyên chở (1,5 triệu đồng), vôi (0,7 triệu đồng), xăng dầu (0,7
triệu đồng) và tiền thuê đất là 4,4 triệu đồng.
- Đối với những nông hộ sống trong vùng ngập lũ, đời sống gặp
nhiều khó khăn, chi phí chi cho việc trồng nấm tương đối cao, tốn
công chăm sóc, nhưng năng suất thu lại khoảng 12,3 tấn/ha với giá
bán là 5.000 – 9.000 đồng/kg. Mỗi vụ thu được trung bình là 87,4
triệu đồng/ha/hộ, lợi nhuận khoảng 40,7 triệu đồng/ha/hộ. Từ đó cho
thấy, trồng nấm đem lại hiệu quả kinh tế cao cho nông hộ trong mùa
nước nổi.
Bảng 17: Trung bình chi phí đầu tư và thu nhập của nông hộ trồng nấm rơm
Chi phí đầu tư và thu nhập Chi phí
(triệu đồng/ha)
Thu nhập
1.Tổng chi
- Rơm
- Meo
- Thuốc dưỡng
- Công chất
- Công há._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XT1189.pdf