CHƯƠNG I
NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA
I. KINH DOANH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA NHẬP KHẨU ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
1. Kinh doanh thương mại quốc tế
Kinh doanh thương mại là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các doanh nghiệp của các quốc gia thông qua hành vi mua bán.
Sản xuất hàng hoá ra đời kéo theo sự phát triển của phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Trao đổi và lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển cao hơn
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1404 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các Hoàn thiện Quy trình Nhập khẩu máy móc thiết bị tại Công ty Xây dựng và Thương mại (ngoại thương), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và hiện đại hơn từ trao đổi hàng hoá trong từng vùng, quốc gia tiến tới mua bán hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia với nhau. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia.
Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ mà vẫn đầy đủ được. Thương mại quốc tế cho phép một quốc gia tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn có thể tiêu dùng, với ranh giới khả năng sản xuất và tiêu dùng trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp.
Phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá ngày càng sâu sắc là tiền đề xuất hiện sự trao đổi hàng hoá. Ngày nay với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng thì nhu cầu của con người về hàng hoá và dịch vụ cũng không ngừng phát triển phong phú và đa dạng. Sự phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng chặt chẽ. Xu hướng toàn cầu hoá ngày càng tăng. Do vậy một quốc gia nếu tách khỏi môi trường thế giới thì sẽ bị tụt hậu và kém phát triển. Xuất nhập khẩu là một công cụ để giúp các quốc gia hoà nhập vào sự phát triển chung của thế giới, đẩy nhanh sự phát triển của đất nước và văn minh xã hội.
Trước hết, thương mại quốc tế xuất hiện từ sự đa dạng, sự khác nhau về điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các khu vực và các quốc gia. Điều đó dẫn đến một việc rất có lợi là mỗi quốc gia chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng cụ thể phù hợp với tài nguyên và
nhân lực của mình, xuất khẩu hàng hoá của mình và nhập khẩu hàng hoá của các nước khác. Song như chúng ta đã biết, phần lớn số lượng thương mại lại thuộc về mặt hàng không xuất phát từ điều kiện tự nhiện vốn có của sản xuất. Cũng như tại sao Mỹ đã sản xuất được vô tuyến còn mua vô tuyến của Nhật.
Nhà kinh tế học David Ricordo (1887) đã trả lời câu hỏi này đầu tiên và chứng minh bằng lý thuyết “Lợi thế so sánh”. Quy luật lợi thế tương đối mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, coi đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. Lý thuyết này khẳng định một quốc gia (hoặc một cá nhân) có thể nâng cao mức sống và thu nhập thực tế cách chuyên môn hoá vào sản xuất so sánh cao nhất. Đây chính là khai thác hiệu quả kinh tế theo quy mô sản xuất.
Điều kiện để có thương mại quốc tế là trao đổi và chuyên môn hoá sản xuất trên cơ sở lợi thế so sánh. Thương mại quốc tế càng trở nên quan trọng bởi vì thương mại quốc tế luôn tác động đến phân công lao động quốc tế và chuyên môn hoá sản xuất, nó rất cần thiết cho việc chuyên môn hoá sâu để có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại . Chuyên môn hoá theo quy mô lớn làm cho chi phí sản xuất giảm. Và hiệu quả kinh tế theo quy mô sẽ được thực hiện ở từng nước trong các nước sản xuất. Mặt khác sự khác nhau về sở thích và nhu cầu của người dân ở các quốc gia cũng là nguyên nhân để có buôn bán quốc tế, ngay cả trong trường hợp hiệu quả ở hai nơi sản xuất giống hệt nhau cũng có thể diễn ra sự trao đổi, buôn bán do sở thích khác nhau.
Trong điều kiện của thế giới hiện đại khi quá trình quốc tế hoá ra đời sống trở nên sâu sắc rộng khắp, và khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã phát triển đến một trình độ cao trở thành một yếu tố không thể thiếu cho sự phát triển của nền kinh tế, cho phép có thể phân chia các giai đoạn của quá trình sản xuất ở những khâu khác nhau và phân bổ ở những vị trí khác nhau thì không một nước nào có thể đóng cửa nền kinh tế, tự mình thực hiện một chính sách biệt lập tách khỏi mối quan hệ cùng có lợi với thế giới bên ngoài. Nhận thức được điều đó Đảng và Nhà nước ta đã có những hướng đi thích hợp trong chính sách của mình. Trong nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ tám đã nhấn mạnh tầm quan trọng của nền kinh tế đối ngoại đối với nhiệm vụ ổn định và phát triển đất nước cũng như phát triển khoa học kỹ thuật công nghệ.
2. Vai trò nhập khẩu nói chung và nhập khẩu vật tư - thiết bị Giao thông vận tải nói riêng trong nền kinh tế nước ta:
Nhập khẩu là một trong hai nhiệm vụ cấu thành nghiệp vụ ngoại thương xuất nhập khẩu khẩu, là một mặt hàng không thể tách khỏi nghiệp vụ ngoại thương. Có thể hiểu đó là một sự mua bán hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu trong nước hoặc tái sản xuất nhằm mục đích thu lợi thể hiện sự phụ thuộc, gắn bó lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, nó cũng quyết định sự sống còn đối với một nền kinh tế mà đặc biệt trong tình hình thế giới hiện nay các nước thống nhất dưới mái nhà chung, nền kinh tế quốc gia đã hoà nhập vào nền kinh tế thế giới thì vai trò của nhập khẩu càng trở nên quan trọng.
Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước. Nhập khẩu để bổ sung các hàng hoá mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu về những hàng hoá mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu.
Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển nền kinh tế quốc dân, trong đó cân đối trực tiếp ba yếu tố của sản xuất: Công cụ lao động, đối tượng lao động và lao động.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, vai trò quan trọng của nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng, từng bước công nghiệp hoá đất nước.
- Bổ sung kịp thời những mặt cân đối của nền kinh tế, đảm bảo phát triển kinh tế
cân đối và ổn định.
- Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. ở đây, nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này thể hiện ở chỗ: Nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất nhập khẩu, tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng Việt nam ra nước ngoài, đặc biệt là nước nhập khẩu.
Nhập khẩu trang thiết bị, kỹ thuật công nghệ sẽ góp phần phát triển các ngành công nghiệp và kết cấu hạ tầng, phát triển ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp chế biến và tiêu dùng, cải tạo và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đáp ứng mục tiêu dân giàu nước mạnh của Đảng ta. Hoạt động xuất nhập khẩu tạo ra sự chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào nước ta: Các loại máy móc thiết bị phục vụ cho ngành Giao thông vận tải được sản xuất trong nước rất ít và lạc hậu. Nhờ hoạt động nhập khẩu mà ngành Giao thông vận tải cũng như các ngành khác đã có được các loại máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng đường xá, cầu cống . . . . Qua đó tiếc kiệm được chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều về trình độ phát triển trong nước.
Hoạt động nhập khẩu góp phần làm đa dạng hoá mặt hàng về chủng loại, quy cách, cho phép thoả mãn nhu cầu trong nước. Nhu cầu về máy móc thiết bị ngành Giao thông vận tải rất lớn và cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước ta thì nhu cầu này ngày càng đòi hỏi phải nhập nhiều máy móc thiết bị hiện đại để phục vụ cho ngành trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng.
Nhập khẩu còn có vai trò nhất định trong việc cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân bởi thông qua nhập khẩu, sản xuất của nước ta mới có đủ nguyên vật liệu thiết bị máy móc hoạt động, nên công nhân mới có đủ công ăn việc làm, có thu nhập ổn định. Mặt khác nhập hàng tiêu dùng làm cho cơ cấu hàng hoá lưu động trên thị trường trở nên phong phú hơn, góp phần thoả mãn nhu cầu của nhân dân về hàng hoá, đặc biệt là đối với những mặt hàng mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng được.
Ngoài ra nhập khẩu còn có tác dụng kìm giữ giá cả, ổn định thị trường, làm cân đối cung cầu hạn chế sự khan hiếm hàng hoá và tình trạng leo thang giá cả.
Thực hiện nhập khẩu máy móc thiết bị vật tư và công nghệ hợp lý sẽ tạo cơ sở để tận dụng nguồn lao động dư thừa trong nước, nâng cao trình độ kỹ năng của người lao động. Thêm vào đó hàng hoá sản xuất ra từ máy móc thiết bị, công nghệ nhập khẩu có chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn. Đó là một kích thích cho cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong nước, đòi hỏi họ phải phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, phân công lao động có hiệu quả, tạo ra động lực cho sự phát triển nền kinh tế trong nước.
Chính vì hoạt động nhập khẩu đóng vai trò quan trọng như vậy mà hiện nay Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm chú trọng tới nhập khẩu, khuyến khích nhập khẩu máy móc thiết bị, vật tư công nghệ tiên tiến phục vụ cho sản xuất và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hạn chế nhập khẩu những hàng hoá xa xỉ, lãng phí ảnh hưởng xấu tới sản xuất và tiêu dùng trong nước cũng như làm mất sự cạnh tranh lành mạnh của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nước.
3. Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu và các hình thức nhập khẩu:
3.1. Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu:
Hoạt động nhập khẩu là hoạt động phức tạp so với hoạt động kinh doanh trong nước. Việc buôn bán ra ngoài biên giới của một đất nước đòi hỏi phải có trình độ cao hơn. Những hoạt động chủ yếu của hoạt động nhập khẩu gồm:
- Hoạt động nhập khẩu chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật như điều ước quốc tế
và ngoại thương, luật quốc gia của các nước hữu quan, tập quán thương mại quốc tế.
- Các phương thức giao dịch mua bán trên thị trường quốc tế rất phong phú đó là: Giao dịch trực tiếp thông qua các mối quan hệ, giao dịch qua các trung gian giới thiệu, giao dịch tại hội chợ triển lãm và qua thông tin quảng cáo. . . .
- Mọi hoạt động nhập khẩu hàng hoá đều phải thông qua hợp đồng kinh tế.
- Các phương thức thanh toán rất đa dạng: Thanh toán bằng chuyển khoản qua Ngân hàng, thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán nhờ thu, hàng đổi hàng, tín dụng chứng từ . . . .
- Tiền tệ dùng trong thanh toán thường là ngoại tệ tự do chuyển đổi như: Đồng Đô la
Mỹ, Bảng anh, đồng EURO, . . . .
- Điều kiện cơ sở giao hàng: Có rất nhiều hình thức được quy định cụ thể trong
INCOTERM 2000, xong phổ biến nhất là nhập khẩu theo điều kiện FOB; CIF và CF. . .
- Kinh doanh nhập khẩu là kinh doanh trên phạm vi quốc tế nên địa bàn rộng, thủ tục phức tạp, thời gian thực hiện lâu .
- Kinh doanh nhập khẩu phục thuộc vào kiến thức kinh doanh, trình độ quản lý, trình
độ nghiệp vụ ngoại thương, sự nhanh nhạy nắm bắt thông tin.
- Trong hoạt động nhập khẩu có thể xảy ra những rủi ro thuộc về hàng hoá. Để đề phòng rủi ro, có thể mua các bảo hiểm tương ứng. Chí phí bảo hiểm có thể do đơn vị nhập khẩu hay người bán trả tuỳ thuộc vào những điều khoản đã thoả trong hợp đồng.
3.2. Các hình thức nhập khẩu hiện nay:
Nhập khẩu hàng hoá là hoạt động thương mại liên quan tới việc mua bán hàng hoá với thị trường nước ngoài. Ta có thể chia thành các tiêu thức phân loại hình thức nhập khẩu sau:
Phân loại theo chủ thể hoạt động
3.2.1. Nhập khẩu uỷ thác:
Khái niệm: Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp có nhu cầu về hàng hoá cần nhập khẩu song lại không có sẵn nguồn hàng, không có nghiệp vụ kinh doanh về ngoại thương uỷ thác cho một doanh nghiệp có hoạt động chuyên doanh về ngoại thương, có nguồn hàng mà bên uỷ thác yêu cầu.
Đặc điểm:
+ Doanh nghiệp nhận uỷ thác nhập khẩu mua hàng bằng tiền, hạn ngạch (nếu có) của doanh nghiệp uỷ thác.
+ Doanh nghiệp nhận uỷ thác làm các thủ tục về giao dịch, ký hợp đồng với nước ngoài, thanh toán, thủ tục giao nhận hàng theo yêu cầu của bên uỷ thác.
+ Khi tiến hành nhập uỷ thác thì các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không được tính doanh số, không chịu thuế doanh số.
đồng:
+ Khi nhập uỷ thác thì doanh nghiệp xuất nhập khẩu (nhập uỷ thác) phải lập hai hợp
Hợp đồng ngoại mua bán hàng hoá với nước ngoài.
Một hợp đồng uỷ thác với bên uỷ thác.
3.2.2. Nhập khẩu tự doanh:
Khái niệm: Hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự
nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực
tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên, cùng chia lãi và cùng chịu lỗ.
* Đặc điểm:
So với nhập khẩu tự doanh thì các doanh nghiệp ít chịu rủi ro hơn bởi mỗi doanh nghiệp liên doanh nhập khẩu góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của các bên cũng tăng lên theo số vốn góp. Việc phân chia chi phí, thuế doanh thu theo tỷ lệ vốn góp và chỉ chịu thuế doanh thu trên doanh số đó.
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải lập hai hợp đồng:
- Một hợp đồng mua hàng với người nước ngoài
- Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác (không nhất thiết phải là Doanh nghiệp Nhà nước)
Ngoài ra còn có một số hình thức nhập khẩu khác:
3.2.4. Nhập khẩu hàng đổi hàng:
* Khái niệm: Nhập khẩu hàng đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu. Nó là một hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, thanh toán không phải dùng tiền mà là hàng hoá. ở đây, mục đích của nhập hàng không phải để chỉ thu lãi từ hoạt động nhập mà còn nhằm để xuất được hàng, thu cả lãi từ hoạt động xuất.
* Đặc điểm:
nhập.
- Hoạt động này rất có lợi bởi vì cùng một lúc thu lãi được từ hai hoạt động xuất -
giá cả
- Hàng hoá xuất và nhập tương đương nhau về giá trị, tính quý hiếm và cân bằng về
- Người bán đồng thời là người mua.
- Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch nhập và kim ngạch xuất, doanh số tiêu thụ trên cả hàng xuất.
- Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng: Dùng thư tín dụng đối ứng (Reciprocal Letter of Credit): Đây là một loại L/C mà trong nội dung của nó có một điều khoản quy định: L/C này chỉ có hiệu lực khi người hưởng mở 1 L/C khác có kim ngạch tương đương.
Dùng người thứ ba khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá, người thứ ba chỉ giao chứng từ đó cho người nhận hàng khi người này đổi lại một bộ chứng từ sở hữu hàng hóa có giá trị tương đương
Nhập khẩu tái xuất:
* Khái niệm: Là hoạt động nhập hàng nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận. Những hàng nhập này không được qua chế biến ở nước tái xuất.
Kinh doanh theo phương thức tạm nhập tái xuất là mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán cho một nước khác (nước nhập khẩu) nhằm mục đích kiếm lợi, có làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam trong một thời gian nhất định rồi tái suất mà không qua gia công chế biến.
* Đặc điểm:
- Doanh nghiệp nước tái suất phải tính toán chi phí ghép mối bạn hàng xuất và bạn hàng nhập, đảm bảo sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để thu được lãi khi tiến hành hoạt động.
- Hàng hoá tái nhập tái xuất phải làm thủ tục hải quan, chịu sự kiểm tra, giám sát của hải quan cho tời thời điểm hàng thực xuất ra khỏi lãnh thổ Việt nam.
- Doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải lập hai hợp đồng: Một hợp đồng xuất khẩu và một một hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp không phải chịu thuế xuất nhập khẩu nhưng phải chịu thuế doanh thu xuất khẩu.
- Để đảm bảo thanh toán hợp đồng của hợp đồng tạm nhập tái xuất thường dùng thư
tín dụng giáp lưng (Back to back - L/C)
- Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về tái xuất mà có thể chuyển thẳng sang nước thứ ba, nhưng tiền do người tái xuất thu được của người nhập khẩu và trả cho người xuất khẩu.
II. NỘI DUNG CỦA NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ TRONG DOANH NGHIỆP KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU:
Nhập khẩu là việc giao dịch mua hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống trong nước. Song việc mua hàng ở đây có những nét riêng phức tạp hơn mua bán trong nước như giao dịch với những người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng, rất khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiểm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh, hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu của các quốc gia khác nhau, phải tuân thủ các tập quán và thông lệ quốc tế cũng như của địa phương.
1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu, lựa chọn bạn hàng:
Nghiên cứu thị trường trong hoạt động nhập khẩu là một loạt các thủ tục và kỹ thuật được đưa ra để giúp các nhà nhập khẩu có đầy đủ thông tin cần thiết để từ đó tạo ra những quyết định chính xác về marketing. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu là cả một quá trình tìm kiếm khách quan và có hệ thống cùng với việc phân tích tổng hợp các thông tin cần thiết để giải quyết vấn đề marketing. Bởi vậy, nghiên cứu thị trường ngày càng đóng một vai trò để giúp các nhà kinh doanh đạt hiệu quả cao trong hoạt động nhập khẩu. Thị trường là một quá trình mà người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá mua bán. Thị trường có thể nhìn thấy được cũng có thể không nhưng nó luôn bao gồm người mua, người bán, các quan hệ mua bán và dịch vụ, dung lượng thị trường.
Để nắm vững các yếu tố của thị trường, hiểu rõ quy luật vận động của thị trường nhằm ứng xử kịp thời , các nhà nhập khẩu nhất thiết phải tiến hành công tác nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường bao gồm những bước sau:
1.1. Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu:
Mục đích của nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu là để tiến hành nhập khẩu đúng chủng loại mà thị trường trong nước cần, kinh doanh có hiệu quả, đạt được mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc nhận biết mặt hàng nhập khẩu trước hết căn cứ vào nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, về số lượng, chất lượng, tính thời vụ, thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó tiến hành xem xét các khía cạnh của
hàng hoá cần nhập khẩu như công dụng, đặc tính, quy cách, phẩm chất, mẫu mã, giá cả,
điều kiện mua bán, khả năng sản xuất và các dịch vụ kèm theo . . . .
Để lựa chọn được mặt hàng nhập khẩu, một nhân tố nữa được tính đến đó là tỷ suất ngoại tệ của các mặt hàng. Trong nhập khẩu, tỷ suất ngoại tệ là tổng số tiền bản tệ có thể thu được khi chi ra một đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu. Nếu tỷ suất ngoại tệ mặt hàng đó (ví dụ: VNĐ/USD) lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thị việc chọn mặt hàng nhập khẩu có hiệu quả.
1.2. Nghiên cứu dung lượng thị trường:
Dung lượng thị trường khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vị thị trường nhất định, trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Nghiên cứu dung lượng thị trường phải xác định nhu cầu thật của khách hàng và khả năng cung cấp của nhà sản xuất. Nghiên cứu dung lượng của thị trường nhằm hiểu rõ hơn về quy luật vận động của thị trường. Từ đó nhà nhập khẩu có thể giải quyết hàng loạt các vấn đề có liên quan đến thị trường.
Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến động có tính chu kỳ: Là sự vận động của tình hình kinh tế các nước trên thế giới đặc biệt là những nước tư bản chủ nghĩa, tính thời vụ trong sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá.
Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường:
- Tiến bộ khoa học kỹ thuật: sự phat triển của khoa học kỹ thuật đã dẫn đến sản xuất và nhu cầu về hàng hoá được mở rộng. Đối với máy móc thiết bị vật tư, khả năng sản xuất cũng khong ngừng thay đổi, nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị vật tư ở các nước kém phát triển cũng khoong ngừng gia tăng lên làm anh r hưởng đến dung lượng thị trường.
- Các chính sách của nhà nước và các tập đoàn lũng đoạn thị trường.
- Thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng, khả năng sản xuất hàng thay thế.
Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường như hiện tượng đầu cơ gây ra những đột biến về cung cầu, các yếu tố tự nhiên như thiên tai, động đất, bão lụt, hạn hán...các yếu tố chính trị xã hội.
1.3 Lựa chọn bạn hàng
Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng là những người hoặc những tổ chức có quan hệ giao dịch với tanhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá hay dịch vụ, các hoạt dộng hợp tác kinh tế hay khoa học kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp hàng hoá.
Chọn nước để nhập khẩu hàng hoá , để đáp ứng nhu cầutrong nước chúng ta cần phải nghiên cứu tình hình sản xuất của nước đó, chất lượng mẫu mã hàng xuất khẩu, chính sách và tập quán thương mại nước đó.
Chọn thương nhân để giao dịch. Thường chọn những người xuất nhập khẩu trực tiếp. Cần phải quan tâm đến : quan điểm kinh doanh của thương nhân đó, lĩnh vực kinh doanh của họ, vốn và cơ sở vật chất, uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ.
1.4. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trong nhập khẩu:
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời biểu hiện một cách tổng hợp các hoatj động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quôc dân. Giá cả luôn gắnliền với thị trường và là một yếu tố cấu thành thị trường, nghiên cứu giấ cả thị trường là một một bộ phận của nghiên cứu thị trường bao gồm các công việc như: nghiên cứu mức giá từng mặt hàng tại từng thời điểm trên thị trường, xu hướng biến động và các nhân tố ảnh hưởng đến nó, các loại giá.
Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với một loại hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới và là giá của những giao dịch thông thường, không kèm theo một đều kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.
Khi định giá nhập khẩu cho một hàng hoá, nhà nhập khẩu có thể tham khảo giá xuất khẩu mặt hàng đó trên thị trường khác, cước phí vận tải. . . và cũng cần lưu ý rằng với mức giá đó cộng với chi phí liên quan liệu có phù hợp với thị trường trong nước hay không.
2. Giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu:
2.1. Các phương thức chủ yếu trong giao dịch nhập khẩu:
Sau khi tiến hành công việc nghiên cứu thị trường quốc tế thì căn cứ vào mặt hàng dự định nhập khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và năng lực của người tiến hành giao dịch mà doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu lựa chọn cho mình một phương thức giao
dịch phù hợp nhất, thuận tiện nhất cho doanh nghiệp mình. Dưới đây là một số phương thức giao dịch cơ bản trong buôn bán quốc tế.
* Giao dịch trực tiếp:
Giao dịch trực tiếp trong kinh doanh thương mại quốc tế là giao dịch mà người mua (hoặc bán) thoả thuận, bàn bạc trực tiếp (hoặc thông qua thư từ, điện tín . . . ) với người bán (người mua) về hàng hoá, giá cả, giao dịch, phương thức thanh toán.
Trong phương thức giao dịch này hai bên tiếp cận thị trường hỏi giá, báo giá, chào hàng và đi đến chấp thuận giá cả của hàng hoá đó. Và sau đó đi đến ký hợp đồng nhập khẩu hàng hoá. Ngày nay giao dịch này ngày càng phát triển vì hình thức giao dịch này tạo điều kiện cho cả hai bên có thể thoả thuận trực tiếp dễ dàng dẫn đến thống nhất và ít xẩy ra những hiểu lầm đáng tiếc, giảm được chi phí trung gian, có điều kiện thu thập thông tin thị trường. Song giao dịch trực tiếp cũng có nhược điểm đó là: Đối với những thị trường mới thường có nhiều bỡ ngỡ, dễ gặp phải sai lầm, bị chèn ép trong mua bán.
* Giao dịch trung gian:
Giao dịch trung gian trong kinh doanh thương mại quốc tế là giao dịch mà người mua (hoặc người bán) quy định về điều kiện trong giao dịch mua bán về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức thanh toán . . . phải qua một người thứ ba là người trung
gian buôn bán.
giới.
Trung gian buôn bán chủ yếu là các cửa hàng đại lý, các môi giới hay tổ chức môi
Việc sử dụng đại lý và môi giới có nhiều ưu điểm đó là:
Những người trung gian hiểu rõ về tình hình thị trường, pháp luật, tập quán địa phương, giảm được chi phí vận chuyển, hình thành được đại lý buôn bán tiêu thụ rộng, tạo điều kiện cho việc chiếm lĩnh thị trường mới và những người trung gian này thường có một số vốn nhất định. Tuy nhiên giao dịch trung gian có những nhược điểm là mất liên hệ trực tiếp với khách hàng, thị trường buôn bán, lợi nhuận bị chia sẻ.
* Giao dịch tại hội chợ triển lãm:
Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ tổ chức vào một thời gian và địa điểm cố định trong một thời gian nhất định. Tại đó người bán trung gian bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng mua bán.
Triển lãm không phải là thị trường, là nơi trưng bày hàng hoá để giới thiệu thành tựu của nền kinh tế, của doanh nghiệp hay của một nơi nào đó.
* Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá:
Sở giao dịch hàng hoá là thị trường đặc biệt, tại đó thông qua người môi giới do sở giao dịch chỉ định người mua và người bán mua bán hàng hóa có khối lượng lớn có phẩm chất đồng loại và có thể thay thế nhau.
Các loại giao dịch ở sở giao dịch:
- Giao dịch ngay
- Giao dịch kỳ hạn
- Nghiệp vụ tự bảo hiểm
* Buôn bán đối lưu:
Khái niệm: Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá dịch vụ trao đổi có giá trị tương đương. Mục đích của xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ không phải là thu về ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị tương đương.
Các loại hình buôn bán đối lưu: Nghiệp vụ hàng đổi hàng, nghiệp vụ bù trừ, nghiệp vụ buôn bán đối lưư là một bên bán thiết bị cho khách hàng của mình để đổi lại mua sản phẩm sản xuất ra, nghiệp vụ giao chuyển nghĩa vụ, giao dịch bồi hoàn , nghiệp vụ mua lại.
* Đấu giá quốc tế:
Khái niệm: Là phương thức bán hàng đặc biệt, tại đó người bán trưng bày hàng hoá và người mua sau khi xem xét hàng hoá và tự do trả giá, hàng hoá sẽ bán cho người nào trả giá cao nhất.
Các bước tiến hành: Chuẩn bị đấu giá - Trưng bay hàng hoá để người mua có thể
xem xét và lựa chọn hàng - tiến hành đấu giá - ký hợp đồng và giao hàng.
Đấu thầu quốc tế:
Khái niệm: Đấu thầu quốc tế trong thương mại quốc tế là một phương thức giao dịch đặc biệt, trong đó người mua (tức là gọi thầu) công bố trước điều kiện mua hàng để người bán (tức là dự thầu) báo giá của mình muốn bán. Sau đó người mua sẽ chọn mua của người nào đó với giá thấp nhất và điều kiện mua bán phù hợp nhất.
Các bước tiến hành: Chuẩn bị đấu thầu- Thu nhận báo giá- Mở thầu và lựa chọn người cung cấp- Ký kết hợp đồng.
2.2. Đàm phán:
Sau khi nhận được thư chào hàng hay đặt hàng và có sự trả lời của phía bên kia, hai bên tổ chức đàm phán, thương lượng để đi đến một thoả thuận chung về điều kiện mua bán và tiến hàn ký kết hợp đồng.
*Đàm phán: là bàn bạc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các nhà kinh doanh để đi đến thống nhất ký kết hợp đồng. Trong thương mại quốc tế có 3 hình thức đàm phán sau:
- Đàm phán qua thư tín
- Đàm phán qua điện thoại
- Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp
Mỗi hình thức đàm phán đều có những ưu nhược điểm nhất định, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà lựa chọn hình thức đàm phán cho phù hợp. Chẳng hạn, trong trường hợp nhập khẩu máy móc thiết bị vật tư đòi hỏi phải có kinh nghiệm về kỹ thuật thì neen áp dụng các hình thức khác tuỳ theo từng trường hợp cụ thể.
*Các bước đàm phán trong nhập khẩu bao gồm: Hỏi giá- Chào hàng (phát giá)- Hoàn giá (mặc cả)- Chấp nhận- Xác nhận
2.3. Ký kết hợp đồng nhập khẩu:
Hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận giữa những đương sự có quốc tịch khác nhau trong đó một bên là bên bán (bên xuất khẩu) có nghĩa vụ phải chuyển quyền sở hữu cho bên kia (bên nhập khâủ) một tài sản nhất định gọi là hàng hoá. Bên mua có trách nhiệm trả tiền và nhập hàng. Hình thức hợp đồng bằng văn bả là một hình thức bắt buộc đối
với các đơn vị xuất nhập khẩu ở nước ta. Các điều khoản trong hợp đồng do bên mua và bên bán thoả thuận chi tiết, mặc du trước đó đã có đơn đặt hàng và chào hàng, nhưng vẫn phải thiết lập văn bản hợp đồng làm cơ sở pháp lý cụ thể cho các hoạt động trao đổi hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác, và làm căn cứ cho việc xác định lỗi khi có tranh chấp xẩy ra.
Hợp đồng kinh tế ngoại thương có vai trò rất quan trọng vì:
+ Là bằng chứng bảo vệ quyền lợi các bên tham gia ký kết
+ Là bằng chứng để quy trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng.
+ Tạo thuận lợi cho thống kê, theo dõi và kiểm tra việc thực hiện hợp đồng cũng như
sự quản lý của các cơ quan có thẩm quyền.
- Đặc điểm của hợp đồng kinh tế ngoại thương
nhau.
+ Chủ thể của hợp đồng mua bán ngoại thương là các pháp nhân có quốc tịch khác
+ Hàng hoá được chuyển từ nước này sang nước khác.
+ Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng là ngoại tệ hay có nguồn gốc ngoại tệ đối với một trong hai bên ký kết hợp đồng.
Các phương thức ký kết hợp đồng:
+ Hai bên cùng ké kết vào hợp đồng mua bán (một văn bản)
+ Người mua xác nhận (bằng văn bản) là người mua đã đồng ý với các điều kiện và
điều khoản củamột thư chào hàng tự do.
+ Người bán xác nhận (bằng văn bản) đơn đặt hàng của người mua trong thời hạn hiệu lực của đơn đặt hàng.
+ Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được những điều thoả thuận trong đơn đặt hàng trước đây của hai bên (nêu rõ những điều đã được thoả thuận)
Hợp đồng chỉ có thể coi như đã ký kết khi các bên đã ký vào hợp đồng. Các bên tham gia ký kết hợp đồng phải có đủ năng lực hành vi, năng lực pháp luật và có đủ thẩm quyền.
3. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu:
Việc tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu bao gồm những bước sau:
* Xin giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký mã số
doanh nghiệp xuất khẩu:
Trước khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin giấy chứng nhận đăng kỹ kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệm xuất nhập khẩu thay vì xin giấy phép nhập khẩu như trước đây.
Mở L/C (thư tín dụng):
Nếu sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ thì phải làm thủ tục mở L/C khi bên bán yêu cầu. L/C là một văn bản pháp lý trong đó Ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ trình được bộ chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung của L/C. Các đặc điểm của L/C rất quan trọng, vì vậy khi mở L/C cần phải làm và kiểm tra kỹ lưỡng.
* Thuê tàu chở hoặc uỷ thác thuê tàu:
Trong trường hợp nhập khẩu với giá FOB chúng ta phải tiến hành thuê tàu với những căn cứ sau:
- Những điều khoản của hợp đồng
- Đặc điểm của hàng hoá mua bán
- Điều kiện vận tải
Tuỳ thuộc vào khối lượng hàng hoá cần chuyên chở mà lựa chọn thuê tàu cho phù hợp đảm bảo thuận lợi và nhanh chóng. Nếu đối với hàng hoá có khối lượng nhỏ thường thuê tàu chợ, hàng có khối lượng lớn phức tạp thường thuê tàu chuyến.
Hiện nay do điều kiện tàu Việt Nam còn hạn chế và do điều kiện khác, chúng ta thường nhập khẩu theo điều kiện giá CIF
* Mua bảo hiểm:
Để đề phòng rủi ro và tổn thất cần mua bảo hiểm, trong kinh doanh thương mại quốc tế bảo hiểm đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất. Các đơn vị kinh doanh khi mua bảo
hiểm phải làm một hợp._. đồng bảo hiểm với công ty bảo hiểm. Tuỳ vào đặc điểm, tính chất của hàng hoá, điều kiện vận chuyển mà mua bán bảo hiểm chuyến hay mua bảo hiểm bao.
* Làm thủ tục hải quan:
Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để xuất khẩu hay nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là một công cụ quản lý hành vi mua bán theo pháp luật của Nhà nước để ngăn chặn buôn lậu.
Việc làm thủ tục hải quan gồm 3 bước: Khai báo hải quan, xuất trình hàng hoá, thực hiện các quy định của Hải quan.
* Nhận hàng nhập khẩu:
Theo nghị định 200/CP ngày 31/12/1993 của Nhà nước thì mọi việc giao nhận hàng đều phải uỷ thác qua cảng khi hàng về cảng chủ hàng biết và chủ hàng đến làm thủ tục nhận hàng.
* Kiểm tra hàng hoá:
Sau khi nhận hàng, bên nhập khẩu làm thủ tục kiểm tra quy cách phẩm chất hàng nhập. Thông thường hai bên lựa chọn một cơ quan giám định chẳng hạn như VINACONTROL
* Thanh toán tiền hàng nhập khẩu:
Nghiệp vụ thanh toán là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh toán quốc tế, là nghiệp vụ quan trọng và cuối cùng trong việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Trong kinh doanh thương mại quốc tế hiện nay có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau như: Phương thức nhờ thu; phương thức chuyển tiền; phương thức tín dụng chứng từ . . . nhưng trong thực tế hiện nay phương thức tín dụng chứng từ và phương thức chuyển tiền được sử dụng phổ biến nhất.
III. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHẬP KHẨU HÀNG HÓA CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU:
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu là hết sức quan trọng. Vì nhờ nó mà biết được những nguyên nhân ảnh hưởng tới sự tăng giảm của hiệu quả nhập
khẩu. Từ đó tìm ra những biện pháp phát huy những mặt mạnh, khắc phục những thiếu sót
để hoàn thiện hiệu quả hoạt động nhập khẩu.
Dưới đây là một số nhân tố ảnh hưởng chủ yếu tới hoạt động nhập khẩu:
1. Nhân tố vĩ mô:
1.1. Quan hệ chính trị và kinh tế giữa nước ta với nước khác:
Hoạt động nhập khẩu vận động trong một khung cảnh rộng lớn là nền kinh tế thế giới, thị trường quốc tế, đối tượng hợp tác rất đa dạng. ở bình diện quốc gia sự phát triển hoạt động nhập khẩu đòi hỏi phải mở rộng đối tượng hợp tác đa phương các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, thiết lập mối quan hệ kinh tế thương mại với Nhà nước, không phân biệt chế độ chính trị. Việc mở rộng các mối quan hệ chính trị ngoại giao sẽ tạo điều kiện thuận lợi và tiền đề pháp lý cho các tổ chức kinh doanh phát triển bán hàng mới. Trên cơ sở đó ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu của các công ty xuất nhập khẩu
1.2. Chế độ chính sách pháp luật của nước ta và nước xuất khẩu:
Đó là chính sách luật pháp về thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, quản lý ngoại hối . . .
Về thuế quan:
Thực chất của biện pháp thuế quan là dùng tỷ lệ thuế quan để điều tiết hoạt động nhập khẩu. Đối với những hàng hoá muốn hạn chế nhập khẩu thì đánh thuế cao, với hàng hoá khuyến khích nhập thì có thể không hoặc đánh thuế thấp với những mức thuế ưu đãi. Từ đó khuyến khích hoặc hạn chế nhập khẩu.
Tuy nhiên chính sách thuế của Nhà nước thay đổi quá nhiều lần trong một thời gian ngắn khiến cho hoạt động nhập khẩu gặp không ít khó khăn. Ví dụ, lúc ký hợp đồng ta áp dụng một biểu thuế nhưng một thời gian sau Nhà nước thay đổi chính sách thuế nên khi thực hiện hợp đồng ta gặp phải không ít những vướng mắc và khiến cho bạn hàng nước ngoài không có cảm giác khi tham gia hoạt động nhập khẩu với chúng ta. Đặc biệt hiện nay chúng ta áp dụng luật thuế giá trị gia tăng, đây cũng là một chính sách thuế mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu rất băn khoăn và lo ngại vì đối với các doanh nghiệp chủ yếu tham gia vào lĩnh vực nhập khẩu thì áp dụng biểu thuế này không mấy gì làm thuận lợi cho họ.
Hạn ngạch nhập khẩu:
áp dụng để quản lý hoạt động nhập khẩu. Hạn ngạch nhập khẩu được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng, giá trị của mặt hàng hoặc nhóm hàng được nhập khẩu từ một thị trường nhất định trong một thời gian nhất định.
Nếu đơn vị kinh doanh những mặt hàng nằm trong chế độ quản lý hạn ngạch thì hạn ngạch được cấp nhiều hay ít sẽ ảnh hưởng đến quy mô kinh doanh của doanh nghiệp .
Ngoài ra còn có những biện pháp điều tiết nhập khẩu khác như: Biện pháp ký quỹ, hệ thống thuế nội địa, cơ chế tỷ giá .
1.3. Ảnh hưởng của sự biện động thị trường ở trong và ngoài nước:
* Ảnh hưởng của sự biến động thị trường trong nước:
Có thể hình dung hoạt động nhập khẩu như là chiếc cầu nối thông thường giữa hai thị trường hai nước, tạo ra sự phù hợp, gắn bó cũng như phản ánh sự tác động qua lại giữa chúng, phản ánh sự biến động của mỗi thị trường. Cụ thể như tồn đọng hàng hoá, giá cả, giảm nhu cầu về một mặt hàng ở trong nước, sẽ làm giảm ngay lập tức lượng hàng nhập khẩu. Cũng như vậy, thị trường nước ngoài quyết định tới sự thoả mãn các nhu cầu trên thị trường trong nước, sự biến động của nó về khả năng cung cấp, về sản phẩm mới, về sự đa dạng của hàng hoá sẽ ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu trong mối quan hệ hữu cơ.
* Ảnh hưởng của sự biến động thị trường ngoài nước:
Sự phát triển của nền sản xuất trong nước, tạo sự cạnh tranh mạnh mẽ tới sản phẩm hàng hoá nhập khẩu, tạo ra sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu do vậy làm nhu cầu. Và nếu như sản xuất kém phát triển, không thể sản xuất những mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật sản xuất cao thì nhu cầu về hàng nhập khẩu tăng lên do đó ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu.
Ngược lại sự phát triển của nền sản xuất ở nước ngoài làm tăng khả năng của sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm mới hấp dẫn phù hợp nhu cầu, hiện đại do vậy có thể thúc đẩy hoạt động nhập khẩu. Nhưng có thế để bảo vệ sản xuất trong nước khi nền sản xuất nước ngoài phát triển thì hoạt động nhập khẩu cũng bị kiểm soát gắt gao.
1.4. Ảnh hưởng của tỷ giá hối và của hệ thống tài chính Ngân hàng
* Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa các đồng tiền của hai nước với nhau hay nói cách khác giá cả của đơn vị tiền tệ nước này được biểu hiện bằng một số tiền tệ của nước khác. Trong cơ chế giá hối đoái thả nổi như hiện nay, tỷ giá hối đoái được xác định và biến động phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ cung cầu trên thị trường hối đoái.
Nhân tố này tác động trực tiếp tới việc xác định mặt hàng, bạn hàng phương án kinh doanh, quan hệ kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp nói chung. Sự biến động của nhân tố này sẽ gây ra biến đổi lớn trong tỷ trọng xuất nhập khẩu. Chẳng hạn, khi tỷ giá hối đoái của đồng tiền thuận lợi cho đồng tiền nhập khẩu thì lại bất lợi cho xuất khẩu và ngược lại. Tỷ xuất ngoại tệ thay đổi giữa các mặt hàng cũng sẽ làm chuyển hướng các mặt hàng cũng như phương án kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Do vậy, phải tính toán rất kỹ nhân tố này vì thời gian nhập khẩu thiết bị thường dài.
* Ảnh hưởng của hệ thống tài chính Ngân hàng:
Với sự phát triển nhanh chóng và hiện đại của hệ thống tài chính Ngân hàng đã có liên hệ chặt chẽ tới các hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế dù lớn hay nhỏ, nó có vai trò quan trọng trong việc quản lý, cung cấp vốn, thanh toán một cách thuận tiện, nhanh chóng chính xác. Hoạt động nhập khẩu hiện nay phụ thuộc rất lớn vào hệ thống Ngân hàng. Dựa trên các mối quan hệ, uy tín, nghiệp vụ của mình các Ngân hàng đã đảm bảo được lợi ích của các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu. Đồng thời, với lòng tin của Ngân hàng, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cũng có thể được Ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho vay với khối lượng lớn, kịp thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nắm bắt được những thời cơ hấp dẫn.
1.5. Ảnh hưởng của hệ thống giao thông vận tải - liên lạc:
Hoạt động nhập khẩu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc vận chuyển thông tin liên lạc đã tạo điều kiện rất lớn cho hoạt động nhập khẩu. Do đó việc nghiên cứu áp dụng những phương tiện thông tin liên lạc và giao thông vận tải là một nhân tố quyết định rất lớn đến sự phát triển của hoạt động nhập khẩu như: FAX; TELEX; TEL; INTERNET . . . đã đơn giản hoá các khâu công việc của hoạt động nhập khẩu rất nhiều, giảm bớt hàng loạt chi phí, nhanh gọn, kịp thời, chính xác. Việc hiện đại hoá các phương tiện vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản . . . cũng góp phần làm cho quá trình nhập khẩu an toàn và hiệu quả.
1.6. Yếu tố cạnh tranh:
Cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thì cạnh tranh cũng đã xuất hiện trong hoạt động xuất nhập khẩu làm giảm hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Đồng thời, khi có nhà nhập khẩu cùng quan tâm tới một loạt hàng hoá, giá cả của việc nhập khẩu cũng tăng lên làm tăng chi phí và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong cùng một lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
2. Nhân tố vĩ mô:
2.1. Ảnh hưởng của bộ máy tổ chức:
Tổ chức bộ máy của doanh nghiệp là sự liên kết giữa các cá nhân, những bộ phận, những quá trình hoạt động trong hệ thống nhằm thực hiện mục đích đề ra dựa trên các chức năng quản trị đã quy định.
Tổ chức bộ máy của doanh nghiệp, một mặt phản ánh quy mô, tính chất hoạt động kinh doanh. Nếu bộ máy tổ chức của doanh nghiệp không phù hợp với quy mô, tính chất và loại hình kinh doanh của doanh nghiệp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp. Tổ chức bộ máy cồng kềnh sẽ làm giảm bước tiến của doanh nghiệp và nếu như nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên lại không tốt thì doanh nghiệp không những trì trệ không phát triển được mà còn có xu hướng suy thoái. Việc xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp là một điều hết sức quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu.
2.2. Cơ sở vật chất và uy tín kinh doanh của doanh nghiệp:
Các công trình nhà cửa, kho tàng dùng làm nơi bán hàng, bảo quản đóng gói, gìn giữ giá trị và sử dụng của hàng hoá, các phương tiện vận tải, trang thiết bị phục vụ cho các nghiệp vụ kinh doanh.
Nếu Công ty có cơ sở vật chất kỹ thuật càng hiện đại bao nhiêu thì càng tạo điều kiện cho công việc kinh doanh. Hệ thống kho tàng hiện đại giúp cho việc giữ gìn bảo quản hàng hoá được tốt hơn. phương tiện vận tải chuyển tốt cũng tiếc kiệm chi phí trong khâu vận chuyển . Hệ thống các cửa hàng kho bãi nếu được đầu tư đúng mức sẽ nâng cao chất lượng dịch vụ, thu hút được khách hàng, nâng cao doanh số.
Nhân tố uy tín ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay. Việc Công ty tạo ra được uy tín cao trong kinh doanh sẽ tăng khả năng thâm nhập thị trường trong và ngoài nước. Có uy tín cao Công ty sẽ có nhiều thuận lợi và ưu đãi trong quan hệ bạn hàng.
2.3. Mặt hàng kinh doanh và khả năng tài chính của Công ty:
Dựa vào kết quả nghiên cứu thị trường nhà kinh doanh lựa chọn cho mình mặt hàng dự định kinh doanh là mặt hàng gì, quy cách, phẩm chất, nhãn hiệu bao bì đóng gói hàng hoá đó như thế nào là điều hết sức quan trọng. Nếu doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá mà trong nước nhu cầu về mặt hàng đó ít thì sẽ rất bất lợi cho doanh nghiệp trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu của mình. Ngược lại nếu doanh nghiệp nhập khẩu mặt hàng mà họ cần nhưng trong nước lại không có thì rất có lợi cho việc kinh doanh mặt hàng nhập khẩu của doanh nghiệp. Vì vậy tuỳ theo vào tình hình thị trường, nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng của khách hàng để lựa chọn mặt hàng nhập khẩu phù hợp với doanh nghiệp mình nhất đồng thời đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng.
Vốn là một trong những vấn đề mà bất cứ một doanh nghiệp nào kinh doanh nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng đều phải quan tâm. Nếu Công ty có số vốn ít thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh nhập khẩu hàng hoá. Ngược lại nếu Công ty có nhiều vốn sẽ rất thuận lợi trong nhập khẩu, chẳng hạn như sẽ tự chủ trong việc nhập khẩu hàng hoá hoặc nhập khẩu hàng hoá có giá trị lớn, số lượng nhiều trong một lần nhập. Hạn chế về số vốn tất yếu ảnh hưởng đến tính chủ động trong nền kinh doanh xuất nhập khẩu.
2.4. Nhân tố con người:
Đội ngũ cán bộ công nhân viên là một nhân tố quan trọng có tính chất quyết định đối với sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh nói chung và trong hoạt động nhập khẩu nói riêng. Nếu Công ty có đội ngũ cán bộ công nhân viên giỏi, tinh thông nghiệp vụ nhập khẩu thì sẽ rất thuận lợi trong quá trình nhập khẩu và ngược lại Công ty không có cán bộ chuyên môn giỏi nghiệp vụ nhập khẩu thì sẽ làm giảm hiệu quả nhập khẩu của doanh nghiệp.
IV. NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ Ở VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆP CỦA MỘT SỐ NƯỚC:
1. Các chính sách nhập khẩu:
Nhận thức được vai trò quan trọng của nhập khẩu, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến đổi mới các chính sách nhập khẩu sao cho phù hợp với tình hình hiện nay. Với mục tiêu đó, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt động nhập khẩu được cụ thể hoá trong nguyên tắc cơ bản của chính sách nhập khẩu.
* Sử dụng vốn nhập khẩu tiếc kiệm đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Các hoạt động nhập khẩu phải dựa trên lợi ích và hiệu quả để quyết định. Mặt khác, phải dựa vào những yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá về trang thiết bị công nghệ để tiến hành nhập khẩu có hiệu quả. Tiếc kiệm và hiệu quả trong hoạt động nhập khẩu là quan trọng. Thực hiện nguyên tắc này có ý nghĩa là đòi hỏi các cơ quan quản lý cũng như doanh nghiệp phải:
- Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội khoa học kỹ thuật của đất nước.
- Sử dụng vốn tiếc kiệm dành ngoại tệ, vật tư thiết bị cho sản xuất và đời sống khuyến khích sản xuất trong nước thay thế hàng nhập khâủ.
- Nghiên cứu thị trường để nhập khẩu được thích hợp với giá cả có lợi, nhanh chóng phát huy tác dụng đẩy mạnh sản xuất và nâng cao đời sống người lao động.
* Nhập khẩu thiết bị tiên tiến hiện đại:
Việc nhập khẩu máy móc và nhận chuyển giao công nghệ, kể cả các thiết bị theo con đường đầu tư phải nắm vững phương châm đón đầu đi thẳng vào tiếp thu công nghệ hiện đại. Nhập phải chọn lọc, hết sức tránh nhập những loại công nghệ lạc hậu mà các nước đang tìm cách thải ra.
* Bảo vệ và thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng nhanh xuất khẩu:
Trong điều kiện sản xuất hiện nay một số mặt hàng trong nước chúng ta chưa sản xuất được vì vậy ta phải nhập khẩu, giá hàng nhập khẩu này thường rẻ hơn nếu trong nước tiến hành sản xuất và chất lượng thường tốt hơn. Nhưng nếu quá ỷ lại vào nhập khẩu sẽ không mở rộng được sản xuất, thậm chí bóp chết sản xuất trong nước. Vì vậy, cần tính toán và tranh thủ các lợi thế trong nước ta, trong từng thời kỳ để mở mang sản xuất, đáp ứng nhu
cầu nội địa, tạo ra nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường nước ngoài. Tuy nhiên cũng phải xác nhận định đúng đắn để bảo vệ sản xuất trong nước với hoạt động nhập khẩu.
Đây chính là nguyên tắc cơ bản của chính sách nhập khẩu của Đảng và Nhà nước ta. Nó cũng được hiểu như là cách xử sự hay đúng hơn là nhưng quy tắc thực hiện trong hoạt động nhập khẩu sao cho phù hợp với lợi ích của xã hội cũng như các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
2. Chính sách nhập khẩu của Việt nam trong những năm tới:
- Nhập khẩu chủ yếu các loại vật tư phục vụ cho sản xuất, hàng tiêu dùng thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được. Hạn chế một cách tối đa nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ.
- Nhập khẩu thiết bị toàn bộ, dây chuyền sản xuất tiên tiến hiện đại. Ưu tiên nhập khẩu máy móc thiết bị để chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu.
Trong những năm tới, với mục tiêu đẩy mạnh hơn nữa khai thác nguồn lực trong nước, Nhà nước nhập khẩu máy móc công nghệ sử dụng nhiều lao động, giải quyết việc làm cho người lao động.
3. Kinh nghiệm của các nước trong hoạt động nhập khẩu - kinh nghiệm rút ra cho hoạt động nhập khẩu của Việt Nam:
Kinh nghiệm của nước ngoài cho thấy trong lĩnh vực nhập khẩu những nước quanh chúng ta như Singapore, Thái Lan . . . đã tương đối thành công. Trong những năm trước đây các nước này tiến hành nhập khẩu để thực hiện phát triển kinh tế. Họ có chiến lược nhập khẩu đúng đẵn, Nhà nước có biện pháp, chính sách quy định các mặt hàng khuyến khích nhập khẩu. Đồng thời, hạn chế tối đa và cấm nhập những trang thiết bị máy móc đã cũ lạc hậu. Nhà nước quản lý chặt chẽ các đơn vị kinh doanh nhập khẩu, chỉ cấp giấy phép cho những doanh nghiệp có đủ năng lực về tài chính, hiểu biết tinh thông và có đủ khả năng trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Nhà nước cũng có những chính sách ưu đãi về vốn, thuế cho các doanh nghiệp.
Ngày nay các nước này đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế. Đa số các nước này chuyển hướng sang xuất khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước và tạo điều kiện thu ngoại tệ.
Đối với kinh nghiệm ở nước ta cho thấy trong những năm gần đây chúng ta đã được những tiến bộ khả quan về hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy chúng ta nhập ở tình trạng nhập siêu nhưng đó là tất yếu. Từ những thành công của các nước đi trước ta đã đúc ra được những kinh nghiệm quý báu. Do đó chúng ta đã nhập những mặt hàng cần thiết cho nhu cầu thị trường.
Trên đây là một số lý luận chung về hoạt động nhập khẩu và hiệu quả của nó trong nền kinh tế nước ta. Dựa trên lý luận này, sau đây chúng ta đi vào xem xét phân tích thực trạng nhập khẩu, biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại Công ty Xây dựng và Thương mại.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG NHẬP KHẨU
CỦA CÔNG TY XÂY DỰNG VÀ THƯƠNG MẠI
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY XÂY DỰNG VÀ THƯƠNG MẠI:
1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY:
1.1. Quá trình hình thành và phát triển:
Công ty Xây dựng và Thương mại được thành lập ngày 23/2/1991, với tiền thân là Trung tâm đào tạo và sản xuất giao thông vận tải, sau đổi tên thành Xí nghiệp thi công cơ giới công trình giao thông trực thuộc trường Kỹ thuật và nghiệp vụ giao thông vận tải I. Công ty được thành lập doanh nghiệp Nhà nước tại quyết định số 694 QĐ/TCCB-LĐ ngày
13/4/1993 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải.
Tháng 9/1996 đổi tên thành “Công ty Xây dựng và Dịch vụ tổng hợp” trực thuộc Bộ Giao thông vận tải. Tháng 6/1998 đổi thành Công ty Xây dựng và Thương mại - trực thuộc Bộ Giao thông vận tải.
Tên doanh nghiệp: Công ty Xây dựng và Thương mại
Tên giao dịch quốc tế: Transport Engineering Construction And Trading Company. Tên viết tắt: TRAENCO
Trụ sở Công ty: 46 - Võ Thị Sáu - Hà nội
Điện thoại: 04.6250950; 04.6251344. 04.6250947
Fax: 04.6250437
nam
Tài khoản 1: 7301-0123F tại Trụ sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Tài khoản 2: 710A-00033 tại Ngân hàng công thương Ba Đình - Hà nội
Qua nhiều năm xây dựng và phát triển, Công ty ngày một lớn mạnh về quy mô cũng như chiều sâu.
Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, trên con đường xây dựng hạ tầng cơ sở, Công ty đã tham gia xây dựng các công trình giao thông, công trình dân dụng, công nghiệp, thuỷ lợi . . . và luôn được các chủ đầu tư đánh giá tốt về tiến độ, chất lượng, kỹ thuật và mỹ thuật của sản phẩm, hoàn thành các nhiệm vụ cấp trên giao.
Trong sản xuất kinh doanh, đơn vị luôn lấy chất lượng sản phẩm, uy tín với khách hàng là ưu tín với khách hàng làm ưu tiên hàng đẩu, coi đó là điều kiện tiên quyết để tồn tại và phát triển.
Vận động phát triển nhiều năm trong nền kinh tế thị trường, các sản phẩm của đơn vị đã và đang khẳng định được sự yêu mến, lòng tin cậy trên các địa bàn: Hà Nội, Ninh Bình, Bắc Cạn, Phú Thọ, Hoà Bình, Tuyên Quang, Hưng Yên, Lạng Sơn... trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là xây dựng dân dụng, công nghiệp và xây dựng hạ tầng cơ sở. Công ty đã có mối quan hệ truyền thống với nhiều Bộ, Nghành trong cả nước như Bộ xây dựng, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đồng thời công ty còn có mối quan hệ với một số bạn hàng quốc tế trong nhiệm vụ xuất khẩu tổng hợp.
1.2. Nguyên tắc hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn của Công ty
Nguyên tắc hoạt động:
Công ty thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh theo pháp luật quy định
Công ty thực hiện quản lý theo chế độ một thủ trưởng trên cơ sở thực hiện quyền làm chủ của ngươì lao động.
Công ty hoạt động theo phương thức hạch toán kinh doanh Xã hội chủ nghĩa, giải quyết đúng mối quan hệ của toàn xã hội, lợi ích tập thể, lợi ích của người lao động trong đó lợi ích của người lao động là chủ yếu.
Nhiệm vụ chủ yếu:
Xuất nhập khẩu và kinh doanh: Nguyên vật liệu, thiết bị, máy móc các loại, hàng tiêu dùng.
Xuất khẩu lao động, đào tạo nghề cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Thi công xây dựng công trình giao thông và công nghiệp. Tư vấn gọi vốn xây dựng hạ tầng cơ sở ngành Giao thông vận tải.
Sản xuất kinh doanh gốm sứ mỹ nghệ.
* Quyền hạn chủ yếu:
Công ty được quyền kinh doanh các ngành nghệ phủ hợp với mục tiêu nhiệm vụ Nhà nước giao, mở rộng quy mô kinh doanh đa dạng theo khả năng của Công ty và nhu cầu của thị trường, tự quyết định giá mua, giá bán sản phẩm và dịch vụ trừ những sản phẩm, dịch vụ do Nhà nước định giá.
Công ty được quyền liên doanh, liên kết kinh tế với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước.
Công ty được mở các văn phòng đại diện, chi nhánh ở các địa phương trong cả nước
để hoạt động, giao dịch và giới thiệu sản phẩm của Công ty theo quy định của pháp luật.
Công ty được hình thành các quỹ theo quy định của Nhà nước, được quyển nhượng bán hoặc cho thuê những tài sản chưa dùng đến hoặc chưa dùng hết công suất. Việc bán tài sản cố định thuộc vốn Nhà nước giao Công ty phải báo cáo các sơ quan quản lý cấp trên.
Công ty được quyền tuyển chọn, bố trí sử dụng, đào tạo lao động, lựa chọn các hình thức trả lương, thưởng và các quyền khác của người sử dụng lao động theo quy định của Bộ luật lao động và các qsuy định khác của pháp luật.
1.3. Cơ cấu tổ chức nhân sự của Công ty:
* Sơ đồ bộ máy quản lý:
SƠ ĐỒ BỘ MÁY CỦA CÔNG TY XÂY DỰNG VÀ THƯƠNG MẠI
TỔNG GIÁM ĐỐC
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC KD
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
HC
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC TC
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC XÂY LẮP
28
2CN7
hạm Th Qu
PHÒNG
P KDXNị K
ỳnh Hoa - A
PHÒNG TCLĐ - TIỀN LƯƠNG
PHÒNG KT - TV
PHÒNG KINH DOANH XNK
PHÒNG DỰ ÁN
- CHI NHÁNH CÔNG TY
TẠI TPHCM
- CHI NHÁNH CÔNG TY
TẠI ĐỒNG NAI
- VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN
TẠI BẮC CẠN, SƠN LA
- TRUNG TÂM PHÁT
TRIỂN VIỆC LÀM PHÍA NAM
- XÍ NGHIỆP XDCT VÀ KD TỔNG HỢP
- XÍ NGHIỆP XDCT VÀ XKLĐ
- XÍ NGHIỆP SX HÀNG XNK VÀ KD TỔNG HỢP
- TRUNG TÂM XKLĐ
- XÍ NGHIỆP XÂY DỰNG CTGT SỐ 2
- 11 ĐỘI CÔNG TRÌNH
Với nhiệm vụ và ngành nghề kinh doanh chủ yếu như đã nêu trên và để thực hiện nghị định số 388/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng nhằm sắp xếp lại cơ cấu tổ chức và nhân sự, Công ty sau nhiều lần sắp xếp, điều chỉnh với sự đồng ý của lãnh đạo Bộ Giao thông vận tải và Vụ Tổ chức cán bộ đến nay đã có một cơ cấu tổ chức khá hợp lý.
Chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban, các đơn vị trực thuộc:
* Phòng Kế toán Tài vụ:
Ghi chép tính toán, phản ánh số hiện có, tình hình luân chuyển và sử dụng tài sản vật tư, tiền vốn, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và sử dụng kinh phí của Công ty và các đơn vị thành viên.
Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch thu chi tài chính, kiểm tra việc sử dụng và giữ gìn các loại tài sản, vật tư, tiền vốn, phát hiện và ngăn chặn kịp thời mọi hành vi tham ô, lãng phí, vi phạm chính sách chế độ quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước.
Cung cấp các số liệu, tài liệu cho việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, kiểm tra và phân tích hoạt động kinh tế, tài chính phục vụ công tác lập và theo dõi thực hiện kế hoạch, phục vụ cho công tác thống kê và thông tin kinh tế.
Lập kế hoạch, dự án huy động vốn đầu tư, vốn lưu động cân đối nhu cầu vốn. Tổ
chức huy động vốn thiếu, điều chỉnh vốn thừa để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thực hiện các mục khác theo sự phân công của Tổng Giám đốc.
* Phòng Kinh doanh Xuất nhập khẩu:
Tham mưu cho cán bộ Công ty về quản lý nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, xây dựng kế hoạch nhập khẩu.
Tổng hợp và lập kế hoạch của Công ty trình Bộ và phân công nhiệm vụ kế hoạch cho các đơn vị trực thuộc Công ty, theo dõi và tổng hợp báo cáo tình hình thực hiện lập kế hoạch.
Làm thủ tục hạn ngạch xuất nhập khẩu, giấy phép và thủ tục khác, tham mưu cho lãnh đạo Công ty ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu, theo quy định hiện hành.
Trực tiếp quản lý các mặt hàng dự trữ của Công ty, nghiên cứu tìm mọi biện pháp bán hàng ứ đọng.
* Phòng Kế hoạch kỹ thuật:
Có nhiệm vụ xây dựng và quản lý kinh tế kế hoạch trong toàn Công ty, có trách nhiệm tham mưu cho Tổng Giám đốc và kế hoạch sản xuất kinh doanh từng tháng, quý, năm, quản lý các văn bản pháp quy về sản xuất kinh doanh của Công ty.
Có trách nhiệm soạn thảo và kiểm tra nội dung các hợp đồng kinh tế, các biên bản thanh lý hợp đồng . . . giữa Công ty với khách hàng theo đúng pháp luật hiện hành.
Tham mưu và soạn thảo quyết định phân công nhiệm vụ sản xuất kinh doanh cho các đơn vị thành viên trong Công ty trình Tổng Giám đốc.
Tổng hợp thống kê, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh thường kỳ và đột suất cho
Tổng Giám đốc và các cơ quan có liên quan.
Quản lý các hồ sơ kỹ thuật (công trình, máy móc, thiết bị . . . ) trong Công ty.
Kiểm tra đánh giá các hồ sơ kỹ thuật trình Ban Giám đốc.
Lập các biện pháp sử lý các tình huống kỹ thuật phát sinh trong quá trình sản xuất của các đơn vị trong Công ty.
Lập các định mức vật tư, kỹ thuật cho các máy móc, thiết bị do Công ty quản lý. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Tổng Giám đốc.
* Phòng Tổ chức lao động tiền lương:
Tổ chức thực hiện các hợp đồng lao động, tổ chức thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước và Công ty đối với người lao động.
Tổ chức thực hiện các quyết định về tổ chức cán bộ. Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với người lao động về tiền lương. Duy trì vật tư, kỷ cương lao động đối với cán bộ công nhân viên.
Thực hiện các quy định của Nhà nước và Công ty về công tác quản trị hành chính trong Công ty: Quản lý đất đai; Trụ sở; Thiết bị văn phòng; Sử dụng dấu; Lưu trữ . . . .
Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Tổng Giám đốc.
* Phòng dự án:
Có chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng Giám đốc thống nhất quản lý và điều hành công tác khai thác tìm kiếm việc làm trong phạm vi toàn Công ty.
Quản lý hệ thống các văn bản pháp quy của Nhà nước, các văn bản quản lý của ngành, địa phương và của Công ty có liên quan để phục cho công tác đấu thầu công trình.
Quản lý và xử lý thông tin về các dự án đầu tư của Nhà nước, các ngành, các địa phương và các tổ chức khác (từ bước lập kế hoạch đầu tư, chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư) để báo cáo Tổng Giám đốc.
Phối hợp với các phòng ban đơn vị có liên quan giúp việc cho Tổng Giám đốc trong quá trình lập kế hoạch đấu thầu và tham gia tổ chức đấu thầu các dự án đầu tư.
Tham mưu cho Tổng Giám đốc về cơ chế tìm kiếm việc làm của Công ty nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này, khuyến khích mọi người trong và ngoài Công ty cùng tham gia tìm việc để đưa ngày càng nhiều việc làm về cho Công ty.
Thực hiện các nhiệm khác theo sự phân công của Tổng Giám đốc.
* Các đơn vị thành viên trực thuộc Công ty (Các chi nhánh, xí nghiệp, đội công trình, trung tâm, văn phòng đại diện . . . )
Là những đơn vị trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh do Công ty và đơn vị đề ra. Các đơn vị thành viên hoạt động theo quy định của pháp luật và những quy định cụ thể của Công ty.
Các đơn vị thành viên thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh theo đúng hướng dẫn cụ thể của các Phòng ban chức năng của Công ty. Đảm bảo kinh doanh đúng pháp luật, có lãi, đảm bảo việc làm thường xuyên cho người lao động và đảm bảo thu nhập chính đáng của người lao động trong đơn vị.
Hàng năm, Công ty căn cứ kế hoạch sản xuất của các đơn vị để xác định cơ cấu tổ
chức, định biên, cơ sở vật chất, máy móc thiết bị cho phù hợp.
Các đơn vị thành viên thực hiện nhiệm vụ báo cáo thống kê, báo cáo kết quả kinh doanh, kế hoạch sử dụng vốn, cân đối chi phí sản xuất kinh doanh theo đúng quy định của Công ty.
2. Tình hình hoạt động chung của Công ty:
2.1. Tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty:
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu máy móc, vật tư và thiết bị vẫn là hoạt động chủ yếu của Công ty nhưng do sự điều tiết của cơ chế thị trường nên Công ty đã biết linh hoạt tạo ra thêm rất nhiều lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu bằng cách đa dạng hoá mặt hàng nhập khẩu, tăng thêm tỷ trọng xuất khẩu. Trong cơ chế thị trường hiện nay hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty có những thuận lợi và khó khăn như sau:
Thuận lợi:
Nhu cầu về vật tư, máy móc thiết bị phục vụ cho các ngành sản xuất và dịch vụ trong nước vẫn cao, hàng loạt các nhà máy bia, nhà máy đường, các công ty may, các cơ sở kinh doanh mọc lên tất yếu cần đến thiết bị và máy móc vật tư.
Công nghiệp phát triển đòi hỏi nguyên vật liệu cần phải nhập từ nước ngoài.
Những năm gần đây mức sống của người dân được nâng cao đặc biệt là ở các thành phố lớn nên người tiêu dùng có nhu cầu cao hơn về mọi mặt như ô tô, xe máy, vô tuyến, tủ lạnh, máy giặt . . . do đó hoạt động nhập khẩu hàng tiêu dùng ngày càng một nâng cao.
Là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ Giao thông vận tải Công ty rất có uy tín trên thương trường về hoạt động xuất nhập khẩu máy móc, vật tư thiết bị cùng với đội ngũ cán bộ có nghiệp vụ giỏi và có kinh nghiệm, do đó Công ty là chỗ dựa vững chắc cho các bạn hàng trong việc xuất nhập khẩu máy móc, thiết bị vật tư.
Khó khăn:
Hiện nay, các Bộ Ngành khác đều đã thành lập các cơ sở kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, phục vụ các nhu cầu thiết yếu của ngành mình, do vậy Công ty luôn phải cạnh tranh trong việc tìm kiếm các bạn hàng, tìm kiếm thị trường.
Về mặt hàng tiêu dùng Công ty phải cạnh tranh với nhiều đơn vị xuất nhập khẩu khác do đó đòi hỏi Công ty phải linh hoạt trong công tác hạch toán kinh doanh của mình như: Mặt hàng phải nhạy bén phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trong nước, giá cả phải hợp lý và có mạng lưới bán hàng rộng khắp.
Chính sách về thuế của Nhà nước ban hàng thường xuyên thay đổi đã gây ảnh hưởng không ít tới việc tính toán và hạch toán kinh doanh của Công ty.
Xuất nhập khẩu vật tư thiết bị và kỹ thuật đòi hỏi phải nắm bắt được khoa học kỹ thuật và công nghệ của thế giới, nếu không Công ty sẽ phải nhập các thiết bị và dây truyền lạc hậu mà các nước trên thế giới đã loại bỏ. Hiện nay việc nghiên cứu thị trường về giá cả cũng như các tiến bộ về khoa học kỹ thuật của Công ty còn rất hạn chế vì Công ty không có mạng lưới đại diện ở nước ngoài.
Nhập khẩu máy móc, thiết bị và kỹ thuật đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Chính vì thế khi nhập khẩu máy móc, thiết bị về mình không bán được hàng bị ứ đọng dẫn đến vốn kh._.hối hợp chặt chẽ và thực hiện tốt khâu kiểm tra và giám định hàng hoá. Nên áp dụng phương pháp giám định tại bến đi (PSI) giám đinh toàn diện mọi loại hàng nhập tại nước cung ứng trước khi hàng gửi đi. Việc giám định sẽ chấp nhận chất lượng và số lượng hàng hoá có phù hợp với yêu cầu đặt hàng không. Giám định tại Cảng đến không cho phép khắc phục các hư hỏng hay thiếu hụt của lô hàng. Điều đó sẽ dẫn đến bế tắc trong thông quan hàng hoá tại cảng đến và mọi chi phí liên quan sẽ tăng lên.
Nếu thực hiện tốt khâu này Công ty sẽ tránh được những tổn thất không đáng có trong nhập khẩu hàng hoá.
Mở rộng thị trường nhập khẩu và hình thức nhập khẩu:
Để có những điều kiện thuận lợi trong nhập khẩu, Công ty cần có nhiều nguồn. Do đó vấn đề mở rộng thị trường và mở rộng quan hệ với bạn hàng có ý nghĩa chiến lược. Ngoài những bạn hàng truyền thống như các Công ty ở Nga, Nhật, Trung Quốc . . . Công ty cần phải xúc tiến hơn nữa trong việc mở rộng thị trường ở các nước Úc; Pháp; Mỹ; Anh; Đức . . . đó là các nước có nền công nghiệp về máy móc thiết bị ngành giao thông vận tải phát triển, có khả năng cung cấp vật tư cho ngành giao thông vận tải phong phí đa dạng do nhu cầu của các nưóc trên thế giới cũng như nước ta nói riêng. Do vậy, Công ty cần tìm kiếm tích cực và tiến tới đàm phán ký kết hợp đồng khi làm ăn với một số đối tác mới có khả năng quan hệ lâu dài thì cần gây ấn tượng tốt và tích cực bày tỏ sở trường, những ưu
thế, thuận lợi của mình, tìm hiểu kỹ về đối tác để tạo cơ sở cho việc thiết lập mối quan hệ
của hai bên . . .
Đối với các thị trường trọng điểm, Công ty cần phải chú ý đến 4 yếu tố thông tin là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu, do đó Công ty cần phải thiết lập một sự trao đổi thông tin qua lại giữa Công ty và công ty khác, hoặc với đại diện thương mại của Việt nam ở nước ngoài và các Công ty nước ngoài mà Công ty có mối quan hệ làm ăn. Những thông tin nắm bắt cần phải kịp thời, đáng tin cậy và có hiệu quả.
Mở rộng hình thức nhập khẩu:
Cùng với việc mở rộng thị trường nhập khẩu thì việc đa dạng hoá hình thức nhập khẩu là một yếu tố khách quan. Các hình thức nhập khẩu mới sẽ ngày càng đòi hỏi sự đứng vững trên khả năng, trình độ nghiệp vụ của các bên kinh doanh đồng thời đòi hỏi tạo lập một hệ thống bạn hàng liên doanh lâu dài. Tức là khi đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu tự doanh thì vấn đề tạo lập “phường hội” vẫn phải đặt lên hàng đầu nếu không thì có thể dẫn đến sự thất bị trong cạnh tranh trên thương trường. Do vậy hình thức nhập khẩu liên doanh cần được phối hợp đẩy mạnh không ngừng ở Công ty cả về mặt số lượng và sự ràng buộc, gắn bó chặt chẽ giữa các bên nhằm khẳng định và tạo uy tín quan hệ làm ăn với nhau.
Bên cạnh đó, hình thức nhập khẩu uỷ thác cũng cần được đây mạnh ở Công ty. Cần chú trọng nhập uỷ thác vật tư máy móc thiết bị cho các dự án được tài trợ vốn nước ngoài (viện trợ, cho vay . . .). Tiếp tục nhận làm uỷ thác nhập khẩu với các chủng loại hàng nhưng cần tránh những loại hàng chủ lực mà Công ty đang nhập vì dễ gây nên cạnh tranh và làm mất cân đối cung cầu, làm tồn đọng vốn và hàng hoá của Công ty.
Trong doanh nghiệp hình thức hàng đổi hàng cũng cần được quan tâm, đây là một phương án tương đương với hai phương án, một xuất và một xuất nhập thu lợi từ hai phía. Mặt khác hình thức nhập khẩu hàng đổi hàng rất thuận tiện, tránh được thủ tục chuyển tiền phiền hà cho cả hai bên.
Các hình thức nhập này không những giúp cho doanh nghiệp giải quyết khó khăn về vốn mà còn giúp cho doanh nghiệp nâng cao được trình độ nghiệp vụ xuất nhập khẩu và được hưởng phí uỷ thác, thu được một khoản lợi nhuận trong kinh doanh.
Tóm lại: Công ty Xây dựng và Thương mại phải xây dựng được hệ thống thu thập thông tin chuyên biệt về thị trường, về cung cầu, giá cả, chất lượng chủng loại, từng đối thủ cạnh tranh, những lợi thế và khó khăn của mình . . . đồng thời phải có hệ thống xử lý thông tin có hiệu quả nhất phản ánh kịp thời biến động của môi trường để từ đó có quyết định kinh doanh đúng đăn.
2. Xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý có hiệu quả.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu, Công ty cần phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh hiệu quả, kết hợp chặt chẽ nhu cầu thị trường với khả năng cung cấp, khắc phục dần tình trạng bị động trong kinh doanh, xây dựng cho mình khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường cao nhất. Khuyến khích và giao nhiệm vụ cho những cán bộ có kinh nghiệm, năng lực tham gia xây dựng và hoàn thiện chiến lược kinh doanh. Ngoài chiến lược kinh doanh chính cũng cần phải có chiến lược kinh doanh dự phòng.
Ngoài ra việc xây dựng kế hoạch kinh doanh ngắn hạn và dài hạn cũng thực sự cần thiết. Nó không những mâu thuẫn với chiến lược kinh doanh mà còn có quan hệ mật thiết và thúc đẩy hoàn thành chiến lược kinh doanh, giúp Công ty kinh doanh có hiệu quả trong từng giai đoạn.
Hiện nay khi mà cơ chế thị trường đang hoàn thiện dần thì Công ty cũng như mọi chủ thể kinh doanh cần có triết lý kinh doanh của mình. Triết lý kinh doanh của Công ty phải độc đáo, phù hợp nhất và phải công bố cho mọi thành viên của Công ty biết và làm theo.
3. Hoàn thiện nghiệp vụ nhập khẩu hàng hoá của Công ty:
Nhập khẩu là một hoạt động hết sức phức tạp. Trong cơ chế thị trường, Công ty thực hiện chính sách giao việc theo từng bộ phận chuyên môn. Phòng Kinh doanh Xuất nhập khẩu có nhiệm vụ tổ chức các hoạt động xuất nhập khẩu nên phải chịu trách nhiệm trước cấp trên về các hoạt động đó trên các mặt kinh tế và tính hợp pháp.
Các chủ trương, chính sách của Nhà nước về ngoại thương không phải là cố định. Do đó người cán bộ làm công tác nhập khẩu luôn nắm bắt các tập quán thương mại đối với các thị trường mà mình hoạt động.Điều này đòi hỏi họ luôn phải có thông tin, tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu. Phòng thư viện của Công ty phải đảm bảo cung cấp sách báo
chuyên ngành và những ấn phẩm có liên quan, phục vụ tốt cho việc mở rộng tầm nắm bắt thông tin. Mặt khác, mỗi cán bộ luôn sự trau dồi bản thân qua việc rút kinh nghiệm thực tiễn trong các hoạt động nhập khẩu đã thực hiện.
Trong nghiệp vụ nhập khẩu thì việc giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng cần được chú trọng. Bất cứ một sơ ý nào trong việc xác định các điều khoản hợp đồng đã ký kết thì sửa lại là một vấn đề phức tạp nếu không xem xét cẩn thận thì dẫn tới hậu quả không thể lường trước được. Những cuộc đàm phán thương lượng tốt là biện pháp đảm bảo giá cả cạnh tranh, thương lượng tốt sẽ đi đến một giá cả hợp lý với số lượng mua và các điều kiện thanh toán, giao nhận thuận lợi.
Công ty cần có kế hoạch đào tạo cán bộ trực tiếp tiến hành đàm phán giao dịch, đảm bảo họ không những có đủ kiến thức về ngoại thương mà còn là người có kinh nghiệm làm ăn với bạn hàng nước ngoài. Họ phải nắm được các tình huống đàm phán, những cơ hội có lợi cho doanh nghiệp để dành lấy điều kiện có lợi nhất . Trong thời gian qua công tác đàm phán giao dịch của Công ty bị kéo dài nên ảnh hưởng không ít tới hiệu quả kinh doanh. Để khắc phục nhược điểm trên, các cán bộ trực tiếp đàm phán giao dịch có thể vận dụng một số sách lược như sau:
- Tạo sự cạnh tranh
- Từng bước tiến tới
- Gây áp lực
- Đề cao mục tiêu của mình
- Không bộc lộ suy nghĩ của mình
- Tuỳ cơ ứng biến
- Tránh việc thoả thuận nhanh chóng
- Phải làm cho đối phương nhượng bộ từng vấn đề vẫn đảm bảo thể diện của họ.
Do đó để đàm phán thương lượng đạt kết quả mong muốn, cần vận dụng tổng hợp tất cả sách lược nêu trên, biến hoá khôn lường để dễ dàng đi đến sự nhất trí chung. Ngoài ra còn cần phải khéo léo sử dụng các kỹ thuật khác như nghệ thuật trả giá, nghệ thuật hỏi và trả lời . . . để đạt được kết quả thương lượng đàm phán cao nhất.
Hợp đồng nhập khẩu nên được ký ngay tại bàn đàm phán, khi đã có sự nhất trí chung về các điều kiện giá cả, chất lượng, chủng loại.
Hợp đồng nhập khẩu phải được ký kết bằng văn bản, đây là điều tiên quyết cho các bên thực hiện nhiệm vụ và trách nhiệm, nếu chỉ là những thoả thuận miệng thì họ có thể không thực hiện những gì thoả thuận. Khi đã ký kết hoặc thoả thuận nhập hàng đồng thời phải có các hợp đồng bán, nếu hợp đồng nhập không được thực hiện thì hợp đồng bán hàng cũng bị cắt bỏ, do đó sẽ bị phạt do không thực hiện hợp đồng. Hợp đồng miệng sẽ trở nên không có giá trị pháp lý để giải quyết tranh chấp , do đó nhất thiết doanh nghiệp phải lập văn bản có xác nhận của các bên, nếu thấy cần thiết thì đăng ký tại cơ quan trọng tài kinh tế có thẩm quyền để đề phòng trường hợp xấu xẩy ra.
Một vấn đề nữa là trong thời gian qua, một số hợp đồng nhập lại không đề cập đến vấn đề chọn nguồn luật giải quyết khi xảy ra tranh chấp. Đây là điều nguy hiểm cho các doanh nghiệp, nếu họ không thực hiện hợp đồng đã ký kết thì sẽ gây khó khăn cho khiếu nại kiện tụng. Để hạn chế và khắc phục các vấn đề trên Công ty cần phải xác định rõ các điều kiện về hàng hoá và giám định chất lượng, số lương, đồng thời lựa chọn nguồn luật giải quyết tranh chấp và quy định cụ thể trong hợp đồng với sự nhất trí của đôi bên. Tốt nhất nên lựa chọn luật của Việt Nam để nâng cao được uy tín của chúng ta trên thương trường và giảm thời gian, chi phí xảy ra khi giải quyết tranh chấp.
Trong qúa trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu, Công ty cần chú ý đến khâu giao nhận hàng hoá, thường xuyên bám sát thực tế để kịp thời phát hiện hư hỏng sai sót từ đó đề ra những biện pháp thích hợp. Đề nghị các cơ quan giám định, bảo hiểm phân tích đánh giá hàng hoá về chất lượng và số lượng xem có phù hợp với quy định trong hợp đồng hay không, nếu có sự không phù hợp về chất lượng, số lượng (vượt quá quy định) thì cần lập ngay biên bản hàng hoá kém chất lượng, không đủ về số lượng và thông báo ngay cho người bán để có hướng giải quyết nhanh chóng, đảm bảo lợi ích và có đủ hàng về số lượng,
chất lượng và chủng loại cung cấp cho thị trường tiêu thụ.
khẩu:
4. Hoàn thiện công tác tổ chức quản lý và đổi mới hoạt động kinh doanh nhập
Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước phù hợp với con người phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước là một bộ phận
quan trọng trong chiến lược đổi mới quan hệ sản xuất mà Đảng ta đã chỉ ra từ Đại hội lần thứ VII, lấy việc giải phóng sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội cải thiện đời sống người lao động là mục tiêu hàng đầu.
Nhằm đạt được mục tiêu của Nhà nước giao, nâng cao hiệu quả kinh doanh đi đôi với giải quyết tốt những vấn đề xã hội, Công ty phải có một chiến lược đổi mới tổ chức cán bộ công nhân viên phù hợp cho từng giai đoạn của Công ty.
* Chuyển hướng tổ chức với bộ máy tinh giảm gọn nhẹ:
Để có thể tồn tại trong cơ chế cạnh tranh khốc liệt hiện nay thì Công ty cần phải có một cơ cấu gọn nhẹ,linh hoạt với trình độ chuyên môn cao. Tại Công ty hiện nay, số cán bộ công nhân viên tham gia các hoạt động kinh doanh còn ít nên cần phải giảm bớt những cá nhân không làm việc tại các bộ phận kinh doanh để thu gọn được số lượng, đồng thời bổ sung những cán bộ có năng lực trình độ chuyên môn cao vào những vị trí thích hợp. Trong qúa trình kinh doanh cần phải giảm bớt những cá nhân làm việc yếu kém để dần thanh lọc được đội ngũ cán bộ có trình độ, có trách nhiệm, năng động sáng tạo phù hợp với cơ chế mới.
Thực hiện khoán trong các khâu sản xuất, kinh doanh, xây dựng quy chế phù hợp rõ ràng trong kinh doanh làm sao có thể gắn bó giữa trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn, lợi ích của cán bộ kinh doanh. Đó là mấu chốt để khơi dây tinh thần sáng tạo, tích cực trong kinh doanh của mỗi cá nhân. Bên cạnh đó Công ty cần tăng cường hơn nữa chế độ khen thưởng vật chất , nó không chỉ tác động khuyến khích vật chất đơn thuần mà còn nâng cao ý thức cho toàn thể cán bộ công nhân viên trong công tác, giúp họ xây dựng lòng tin với lãnh đạo. Còn cho họ thấy rằng ngoài lương ra họ còn có thêm thu nhập nếu làm tốt, tăng doanh thu, lợi nhuận của Công ty. Bên cạnh đó cũng cần có chế độ kỷ luật nghiêm khắc để bảo đảm thưởng phạt phâm minh.
* Nâng cao nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên
Để hoạt động nhập khẩu của Công ty đạt hiệu quả cao đòi hỏi các cán bộ phải có nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi, có trình độ ngoại ngữ và tin học. Trong khi đó cán bộ nhân viên xuất nhập khẩu của Công ty nói chung trình độ chuyên môn và ngoại ngữ còn hạn chế.
Vì vậy để đạt được trình độ cần thiết, công ty cần phải có chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ những kiến thức cơ bản đến kiến thức chuyên ngành. Tránh tình trạng đào tạo tràn lan, vừa tốn tiền vừa không tạo ra hiệu quả của việc đào tạo. Có chính sách tuyển dụng người hợp lý và thực hiện theo công thức 4Đ: Đào tạo, đào tạo nâng cao, đào tạo lại và cuối cùng là đào thải để lựa chọn những người có khả năng nhất về nghiệp vụ kinh doanh cũng như kinh doanh ngoại thương phục vụ mục tiêu chung là nâng cao uy tín của Công ty trên thương trường. Đối với các cán bộ lãnh đạo củ Công ty và các Phòng ban phải là những có trình độ lãnh đạo, am hiểu sâu trên mọi phương diện, có đầu óc sáng tạo, năng động. Cần nâng cao trình độ cán bộ lãnh đạo qua đào tạo tại trường và đào tạo tại chỗ để mỗi người tối thiểu có đại học và các cán bộ kinh doanh nói chung có trình độ ngoại ngữ thành thạo.
Trong những năm tới, Công ty cần tiếp tục đào tạo đội ngũ cán bộ của mình để có trình độ, nghiệp vụ ổn định, nắm vững chắc hơn. Theo ông Harod Geneen - Giám đốc ITT một công ty hàng đầu của Mỹ về thông tin và điện thoại đã nói “Nhân tố con người đóng vai trò quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh của một Công ty". Điều đó chứng tỏ việc phát triển và đào tạo con người đóng một vai trò vô cùng then chốt là tiên quyết trong quá trình thực hiện giải pháp phát triển kinh doanh của mình. Mục tiêu đầu tư phát triển con người của Công ty phải là chất lượng, phải tinh thông một nghề và giỏi nhiều nghề để đáp ứng nền kinh tế thị trường đang hoàn thiện và cạnh tranh mạnh mẽ.
5. Những giải pháp về vốn trong kinh doanh
Việc kinh doanh nhập khẩu liên quan trực tiếp đến việc sử dụng ngoại tệ. Ngoài vốn tự có do Nhà nước cấp thì Công ty cần phải tìm kiếm các giải pháp để tạo nguồn vốn cho kinh doanh vì vốn kinh doanh là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất kinh doanh, là tiền đề cho doanh nghiệp tiến hành kinh doanh. Nếu thiếu vốn sẽ không thực hiện được các mục tiêu nhiệm vụ và giảm khả năng cạnh tranh trên thương trường.
Trong thời gian qua các doanh nghiệp phải vay vốn Ngân hàng thương mại để mở rộng sản xuất kinh doanh trong đó có Công ty Xây dựng và Thương mại. Nhưng do phải vay với khối lượng lớn với lãi suất cao 1,1%/tháng tính ra là 12,2%/năm nên Công ty gặp rất nhiều khó khăn trong hoạch định giá thành và thu lợi nhuận. Để giải quyết những khó
khăn này, Công ty nên có chính sách đi vay tín dụng ưu đãi lãi suất thấp, dài hạn từ những nguồn tài chính trong và ngoài nước. Có như vây mới đảm bảo kinh doanh có lãi.
Do sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu nên Công ty phải chú ý đến vấn đề ngoại hối, theo dõi và dự đoán chính xác tỷ giá hối đoái với đồng Việt Nam. Thông thường Công ty tiến hành mua hàng ở nước ngoài bằng ngoại tệ và bán trong nước bằng nội tệ. Khi đã thanh toán xong và bán được hàng thì việc có lãi hay không còn phải xem xét. Do tỷ giá của ngoại tệ luôn biến động nên thực tế tiền lãi vốn có thể lại thành lỗ ở những thời điểm khác nhau. Do vậy Công ty nên duy trì một số vốn bằng ngoại tệ trong vốn dành cho nhập khẩu. Cần tạo hợp đồng ngoại hối trong Ngân hàng mình mở tài khoản điều đó giúp cho Công ty luôn có ngoại tệ trong tay.
Công ty cần phải mềm dẻo, linh hoạt trong quản lý vốn. Mặc dù quy định vòng quay vốn không được quá 90 ngày nhưng đối với một số mặt hàng do thời gian ngắn vận chuyển lâu hay do đặc điểm tiêu thụ chậm nhưng lãi cao hoặc những mặt hàng có tính thời vụ cần dự trữ chờ giá lên mới bán thì Công ty cần linh động gia hạn thời gian hoàn vốn hoặc giảm mức phạt, đền bù để tạo điều kiện cho phương án mang lại hiệu quả cao nhất. Tránh áp đặt nhiều khi gây ra sự cơ nhỡ thời cơ, sự cân nhắc lưỡng lự, không quyết định trong các phương án làm thu hút sự sáng tạo và hiệu quả không cao.
Một vấn đề tồn tại hiện nay của Công ty là vấn đề ứ đọng vốn, do vậy cần có các biện pháp để tăng tốc độ chu chuyển vốn, vòng quay vốn. Các biện pháp cần phải làm là giải quyết tồn kho, ứ đọng hàng hoá, thực hiện mua nhanh bán nhanh, Công ty cần chấn chỉnh công tác đăng ký cho từng kế hoạch và giao kế hoạch một cách cụ thể, kiên quyết cho từng đơn vị trên cơ sở phù hợp với năng lực của từng đơn vị, chấn chỉnh việc thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, Phòng tham mưu phải thường xuyên đôn đốc nhắc nhở các đơn vị báo cáo giải quyết những vật tồn kho ứ đọng, khai thác ngành hàng và thị trường ngay ở khu vực.
B. Những kiến nghị đối với Nhà nước:
Để thành công trong kinh doanh, ngoài nỗ lực và hướng đi đúng đắn của mình thì Công ty còn phải phụ thuộc rất nhiều vào những chủ trương, chính sách của Nhà nước cũng như của Bộ chủ quản. Thông qua các chế độ, chính sách, pháp luật, kế hoạch Nhà nước tạo ra hành lang pháp lý, môi trường kinh doanh hoàn hảo bình đẳng cho nền kinh tế hoạt động
hiệu quả. Các chế độ chính sách được đặt ra một cách khoa học phù hợp với thực tế sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động tốt và ngược lại, nếu không nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các chủ thể trong nền kinh tế.
1. Chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước:
Chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước cần tiếp tục mở rộng và tăng cường theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ. Về phương diện kinh tế Nhà nước nên xác định đúng đắn các khu vực thị trường thế giới có lợi cho nền kinh tế Việt Nam để có phương hướng tiếp cận từ phía Nhà nước, tạo bước đệm cho các doanh nghiệp của Nhà nước. Với quan hệ gắn bó giữa hai Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của hai quốc gia trao đổi, tận dụng lợi thế của nhau phát triển trong môi trường thuế quan mậu dịch thuận lợi, dựa trên sự bình đẳng hai bên cùng có lợi.
2. Chính sách thuế:
Hiện nay thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước và cũng là một trong những cách thức bảo hộ sản xuất trong nước.
Chính sách thuế đòi hỏi phải thống nhất bình đẳng với mọi cơ sở sản xuất kinh doanh nếu hoạt động trong cùng một lĩnh vực, tránh hiện tượng bảo hộ nâng đỡ một cách quá đáng tạo ra sự độc quyền cung cấp, độc quyền giá làm ổn định đến lợi ích của người tiêu dùng và Công ty khác.
Đối với hàng hoá nhập khẩu, Nhà nước cần từng bước hạ mức thuế nhập khẩu theo những thời điểm thích hợp với tiến bộ hoà nhập nền kinh tế nước ta vào xu thế phát triển chung của thời đại, của thế giới. Theo ý kiến của một số chuyên gia nghiên cứu thương mại quốc tế. Các nước thành viên GAT/WTO đều được hưởng quy chế tối huệ quốc (MEN). Việt nam cần tiến hành đàm phán, chuẩn bị tham gia WTO để áp dụng chế độ tối huệ quốc và chế độ GSP (ưu đãi thuế quan phổ cập) trong quan hệ buôn bán quốc tế.
Đối với các mặt hàng vật tư thiết bị giao thôgn vận tải, việc quy đinh thuế suất của Nhà nước vẫn còn không phù hợp, chẳng hạn như thuế suất nhập khẩu săm lốp ô tô có sự chênh lệch quá cao giữa hai loại chiều rộng lớp, làm cho xu hướng hàng nhập khẩu sẽ ít đi, trong khi đó năng lực sản xuất của chúng ta lại quá nhỏ bé. Vì thế nên không cung cấp dù cho nhu cầu tiêu dùng đồng thời không khuyến khích được các đơn vị xuất nhập khẩu
kinh doanh mặt hàng này. Thay đổi cách tính thuế nhập khẩu trên cơ sở trọng lượng lốp để
có hiệu quả tạo mức thuế nhập khẩu bình đẳng cho tất cả các loại lốp nhập khẩu.
Do tình hình thị trường biến động, Nhà nước luôn thay đổi biểu thuế xuất nhập khẩu đối với các mặt hàng vì vậy gây khó khăn rất lớn trong việc định giá và xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh. Vì vậy thuế suất nói chung phải ổn địnhtrong một thời gian dài,nếu có thay đổi phải thông báo trước ít nhất 6 tháng để công ty có thời gian xây dựng phương án.
Nhà nước nên điều chỉnh hợp lý thuế nhập khẩu đối với hàng thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ đã qua sử dụng,đảm bảo tính ổn định cho biểu thuế xuất nhập khẩu để có thể lập phương án kinh doanh ổn định,không bị động bởi thuế nhập khẩu luôn biến đổi.
3. Về quản lý hoạt động xuất nhập khẩu.
Nhà nước quản lý hoạt động xuất nhập khẩu bằng pháp luật và bằng giấy phép,hạn ngạch.Dựa trên mức độ phát triển chung của nền kinh tế cũng như của từng lĩnh vực cụ thể Nhà nước thông qua các cơ quan ,bộ máy của mình tiến hành các kế hoạch cân đối lớn như tổng cung - tổng cầu ,tiết kiệm và đầu tư...từ đó xác nhận nhu cầu đòi hỏi cho từng lĩnh vực để xem xet cấp giấy phép hạn ngạch xuất nhập khâủ cho các doanh nghiệp.
Để doanh nghiệp đạt hiệu quả trong hoạt động kinh doanh yêu cầu từ phía doanh nghiệp đối với Nhà nước phải có sự ổn định về môi trường kinh doanh ,chính sách thuế và giá cả ... Điều đó đòi hỏi Nhà nước cần thực hiện tốt các chức năng :định hươngsuwj phát triển kinh tế trong từng thời kỳ ,tránh sự can thiệp quá sâu vào công việc kinh doanh của doanh nghiệp.
4. Về thủ tục Hải quan - thông quan hàng hoá nhập khẩu.
Để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.Nghành Hải quan,một trong những cơ quan liên quan trực tiếp đến kinh tế đối ngoại cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chínhtrong hoạt động Hải quan,giảm bớt phiền hà sách nhiễuđể thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu.Ngành Hải quan cần phải công khai tất cả các qui định ,thủ tục hải quan,chính sách pháp luật liên quan đến thông quan hàng hoá xuất nhập khẩunhằm giúp doanh nghiệp chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. Tổng cục Hải quan đã ra Quyết định số 299/1998/QĐ-TCHC về việc bổ sung sửa đổi một số điểm trong bản
hướng dẫn thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuáat nhập khẩu ban hành kèm theo Quyết định số 50/1998/QĐ-TCT ngày 10/03/1998 của Tổng cục hải quan, trong đó quy định bỏ giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu loại 7 chữ số do Bộ Thương mại cấp, thay bằng giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu do cục hải quan tỉnh, thành phố cấp. Đối với trường hợp hàng hoá nhập khẩu thuộc diện phải có văn bản cho phép nhập khẩu của Bộ Thương mại hoặc xác nhận của Bộ quản lý chuyên ngành thì thay bằng giấy phép. Đây là một đổi mới cần thiết và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với nghị định 57/1998/NĐ- CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ.
5. Về quản lý thị trường
Trong thời gian qua khâu quản lý thị trường còn nhiều lỏng lẻo, hiện tượng hàng giả, buôn lậu có xu hướng tăng mạnh do đó gây khó khăn lớn cho doanh nghiệp kinh doanh đúng pháp luật. Nạn buôn lậu và hàng giả đang là vấn đề nhức nhối hiện nay, vừa làm cho ngân sách NHà nước bị thất thu lớn, vừa làm cho thị trường bị rối loạn ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng, vừa tạo môi trường cạnh tranh không lành mạnh giữa đơn vị kinh doanh đúng pháp luật với đơn vị thực hiện hành vi buôn lậu, làm hàng giả do họ có lợi thế (trái pháp luật) về giá thành nên đẩy các doanh nghiệp vào chỗ kinh doanh thua lỗ.
Do vậy, Nhà nước cần phải có các biện pháp cương quyết cứng rắn trong khâu quản lý thị trường làm tiền đề cho việc xây dựng một môi trường kinh tế ổn định và lành mạnh, tạo ra sự bình đẳng trong cạnh tranh giữa các đơn vị. Nhà nước cần tổ chức lại hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước vì trong thời gian qua các cơ quan này hoạt động chưa hiệu quả, chưa phân định rõ chức năng và nhiệm vụ cụ thể của từng cơ quan dẫn đến hiện tượng hoạt động chồng chéo của các cơ quan này với các quan hệ kinh tế, cản trở hoạt động của chủ thể kinh tế. Để khắc phục tình trạng này trong thời gian tới Nhà nước cần hoàn chỉnh luật tổ chức hành chính trong đó quy định rõ chức năng , quyền hạn và thẩm quyền của từng cơ quan, tiến hành sắp xếp, tổ chức theo hướng tinh giảm và hiệu quả, khắc phục hiện tượng quan liêu về hành chính giấy tờ.
Để thị trường máy móc thiết bị tiếp tục phát triển một cách bình thường, các cơ quan quản lý Nhà nước nên có biện pháp chấn chỉnh tình hình kinh doanh trốn thuế, bán phá giá của một số doanh nghiệp trong và ngoài nước, tạo ra sự bình đẳng tỏng kinh doanh, ổn định
giá cả thị trường. Cần ngăn chặn kịp thời những hành vi nhập máy kém chất lượng vào
Việt nam gây thiệt hại cho người sử dụng.
6. Các biện pháp trong lĩnh vực tài chính - tín dụng:
* Chính sách về vốn:
Thực tế hiện nay các công trình đang gặp khó khăn cấp bách về vốn xây dựng cơ bản chưa đáp ứng được so với nhu cầu. Nhưng bằng mọi cách vẫn phải đảm bảo yêu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng, đáp ứng tăng trưởng kinh tế (Theo nghị quyết Quốc hội về chi ngân sách).
Các Bộ ngành liên quan kết hợp với Bộ Giao thông vận tải tổ chức điều hành và quản lý các nguồn vốn lưu chuyển có hiệu quả, tập trung vào các công trình cấp bách để đạt tiến độ yêu cầu. Bắt buộc quy trình hoạt động phải có vốn mới thi công, không có vốn thì phải tìm cách giải quyết. Tránh tình trạng các doanh nghiệp ứng tiền ra thi công nhưng không được thanh toán.
Để xử lý các khoản dư nợ đọng đặc biệt là các Tổng Công ty có số nợ lớn. Các Bộ kế hoạch đầu tư, Tài chính, Giao thông vận tải thành lập đoàn chuyên trách xử lý các khoản nợ vượt kế hoạch. Bộ Giao thông vận tải cũng được phép sử dụng nguồn thu từ phí giao thông kể cả thu vượt. Từ năm 1999 trở đi, Bộ Giao thông vận tải được giữ lại 100% các nguồn phí nhằm cân đối chung và đảm bảo sử dụng có hiệu quả vốn.
Việc giải ngân cho các công trình giao thông đã trở nên hết sức cần thiết để nhanh chóng tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
* Chính sách về tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng một đơn vị
tiền tệ nước khác.
Chính sách tỷ giá hối đoái có quan hệ trực tiếp đến việc tăng hay giảm xuất nhập khẩu của nền kinh tế và của các doanh nghiệp vì nó liên quan đến tỷ suất ngoại tệ hàng hoá xuất nhập khẩu. Khi doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu hàng hoá phải tính ra tỷ suất hàng hoá nhập khẩu. Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu là số lượng bản tệ chi ra để có được một đơn vị ngoại tệ, sau đó đơn vị xuất nhập khẩu đem số tiền ngoại tệ đó ra Ngân hàng ngoại
thương đổi lấy tiền Việt nam. Như vậy đơn vị xuất nhập khẩu sẽ bị thiệt hại do sự chênh lệch tỷ giá mua và tỷ giá bán của Ngân hàng, nên nếu chênh lệch này quá lớn sẽ làm giảm phần lợi nhuận của doanh nghiệp , làm mất đi động lực kinh tế của họ. Để khắc phục tình trạng này Nhà nước cần có sự quản lý và kiểm soát mức biến động của tỷ giá hối đoái sao cho phù hợp với thị trường, giảm bớt sự chênh lệch giữa giá mua vào và bán ra của ngân hàng ngoại thương.
Đồng EURO được sử dụng trong lưu thông tiền tệ từ 01/1999 sẽ tác động theo những mức độ khác nhau trên lĩnh vực tài chính tiền tệ của Việt Nam. Đặc biệt đồng EURO sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ thương mại xuất nhập khẩu. Do vậy phải cân đối, sử lý giao dịch giữa đồng EURO với các đồng tiền mạnh khác trên thế giới hiện nay như đồng USD, YEN...Trong ký kết và thanh toán thương mại, các doang nghiệp phải theo dõi, phán đoán chặt chẽ không chỉ giữa đồng Việt Nam và USD mà còn tỷ giá giữa đồng Việt Nam
và EURO, giữa EURO và USD để tránh thua thiệt.
nước.
7. Về cung cấp các nguồn cung cấp thông tin kinh tế - xã hội trong và ngoài
Nước ta hiện nay rất thiếu các trung tâm tư vấn về xuất nhập khẩu trong việc cung cấp các thông tin về thị trường, giá cả của từng loại hàng, nguồn nhập... lượng thông tin, thời gian cũng như chất lượng thông tin không đầy đủ đã gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu.
Nhà nước đã có đầu tư lớn cho mạng lưới thông tin liên lạc, bưu điện viến thông trong nước đã hoà nhập vào thế giới nhưng các thông tin về kinh tế giấ cả, thị trường vẫn còn đơn giản, chưa bắt kịp với nhịp độ phát triển của kinh tế.
Trong thời gian tới, Nhà nước ngoài việc đầu tư nâng cấp hệ thống thông tin để cung cấp thông tin cho các quyết định kinh tế phải hình thành hệ thống các đơn vị tư vấn kỹ thuật và nghiệp vụ về ngoại thương trong cả nước. Thông qua đó có thể tận dụng mọi năng lực của các chuyên gia giúp cho các doanh nghiệp có thêm nguồn thông tin và trình độ để lựa chọn phương án kinh doanh có hiệu quả lớn. Đồng thời Nhà nước cần hình thành thêm các nguồn cung cấp thông tin chuyên ngành, giới thiệu về thị trường, hàng hoá, giá cả thị trường thế giới . . . một cách thường xuyên hơn đảm bảo đáp ứng được yêu cầu về thông tin cho nền kinh tế cũng như các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu..
KẾT LUẬN
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty Xây dựng và Thương mại (TRAENCO) trong những năm qua đã đạt được những thành tựu nhất định, đóng góp một phần không nhỏ vào công cuộc hiện đại hoá cơ sở hạ tầng của đất nước, làm tiền đề và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Bộ máy của Công ty cũng đã dần thích nghi trong cơ chế thị trường và hoạt động tương đối có hiệu quả, mọi người dù trực tiếp hay gián tiếp đều tích cực đem lại thành công bước dầu cho Công ty.
Tuy nhiên trong kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nõi riêng, làm thế nào để nâng cao và hoàn thiện hoạt động kinh doanh mà Công ty Xây dựng và Thương mại đang rất quan tâm nghiên cứu. Từ đó đưa ra những định hướng chiến lược để đẩy mạnh sự phát triển của doanh nghiệp mình.
Chính vì tầm quan trọng đó, với đề tài “Giải pháp nhằm hoàn thiện nhập khẩu máy móc, vật tư thiết bị của Công ty Xây dựng và Thương mại tôi muốn phần nào cùng nghiên cứu, suy nghĩ tìm tòi, và đóng góp một số ý kiến của mình vào quá trình phát triển kinh doanh mà công ty đang tiến hành. Đồng thời việc nghiên cứu các nghiệp vụ thực tế tại Công ty cũng là những kinh nghiệm hết sức quý báu đối với một sinh viên sắp ra trường.
Đề tài này được xây dựng trên cơ sở đi từ nắm vững lý luận đến việc sử dụng lý luận để nghiên cưú, tìm hiểu về hoạt động kinh doanh nhập khẩu thực tế của Công ty để từ đó tìm ra những giải pháp có ý nghĩa thiết thực là một công việc hết sức phức tạp. Nhưng với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo TS. Nguyễn Thừa Lộc và các cô, chú, anh chị trong Công ty, tôi đã cố gằng hoàn thành tốt nhất đề tài thực tập này. Tuy nhiên với trình độ và kiến thức còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai sót nên mong thầy cô và các bạn hết sức giúp đỡ.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8327.doc