Các hình thức huy động vốn ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng & Giải pháp

Lời mở đầu Việt Nam đã chính thức gia nhập vào WTO, tổ chức thương mại thế giới. Trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này là kết quả của một quá trình đàm phán lâu dài, Việt Nam đang đứng trước cơ hội hội nhập thế giới sâu rộng hơn bao giờ hết. Doanh nghiệp Việt Nam muốn cạnh tranh đứng vững và phát triển trong môi trường mới đầy tiềm năng và nhiều thách thức này, ngoài những yếu tố không thể thiếu như cần có chiến lược lâu dài, cùng với những yêu cầu nâng cao kỹ thuật, chất lượng nguồn nh

doc21 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các hình thức huy động vốn ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ân lực, thì điều kiện tiên quyết không thể thiếu đó là nguồn vốn dồi dào. Trong khi đó, thị trường chứng khoán Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển đầy tiềm năng và thách thức. Chúng ta đã cam kết mở cửa ngành ngân hàng tài chính và chứng khoán, vốn là một bước chuẩn bị nền tảng cho quá trình hội nhập. Đứng trước nhu cầu nghiên cứu và ứng dụng vấn đề thu hút nguồn vốn sao cho hiệu quả, phục vụ những kế hoạch tài chính trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của doanh nghiệp, em xin mạnh dạn chọn đề tài : Các hình thức huy động vốn ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng và giải pháp Bản đề án của em gồm 3 phần : Phần I : Các hình thức huy động vốn trong nền kinh tế thị trường Phần II : Các hình thức huy động vốn ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay Phần III : Một số giải pháp và kiến nghị Do trình độ còn hạn chế, đề án chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong được thầy cô và các bạn góp ý để bản đề án của em ngày càng tốt hơn và có giá trị lý thuyết cũng như thực tiễn. Em xin chân thành cám ơn thầy Vũ Duy Hào đã giúp em hoàn thành bản đề án này. Phần I Các hình thức huy động vốn trong nền kinh tế thị trường 1. Vốn và vai trò của vốn đối với doanh nghiệp 1.1.Khái niệm vốn Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức của một số người, có tài sản riêng, tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trên một lĩnh vực nào đó, với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, gọi là các doanh nghiệp. Như vậy, một trong những điều kiện tối thiểu để được công nhận là doanh nghiệp, đó là phải có tài sản riêng, và chịu trách nhiệm bằng những tài sản này. Cơ sở đầu tiên của doanh nghiệp là nguồn vốn. Vốn là giá trị của toàn bộ tài sản doanh nghiệp ứng ra để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn tồn tại dưới nhiều hình thức : Hình thái tồn tại đầu tiên của vốn, đó là hình thái giá trị, bao gồm tiền mặt, chứng khoán, các khoản đầu tư khác.Vốn cũng tồn tại dưới dạng hiện vật, được coi là vốn cố định, như máy móc thiết bị, nhà xưởng, cơ sở vật chất, nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm ... Một hình thái nữa của vốn đó là vốn vô hình. Đây là nguồn vốn đặc biệt tuy không thể nhìn thấy nhưng có vai trò ngày càng quan trọng trong suốt quá trình tồn tại của doanh nghiệp. Ví dụ như những lợi thế thương mại, thương hiệu, những mối quan hệ, những bằng phát minh sáng chế... Đây là nguồn mang lại giá trị thặng dư siêu ngạch cho doanh nghiệp, song không có cách thức đo lường định giá giá trị của vốn vô hình. 1.2.Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp Như đã phân tích, vốn là một trong những điều kiện tiên quyết để định nghĩa một doanh nghiệp. Vốn có vai trò đặc biệt quan trọng trong suốt quá trình tồn tại của doanh nghiệp, từ khi doanh nghiệp hình thành, sản xuất kinh doanh, phát triển, đến khi phá sản, hay bị mua lại... Trong bất kỳ thời điểm nào, vốn cũng là một yếu tố không thể thiếu khi đánh giá tình hình một doanh nghiệp, doanh nghiệp có phát triển đi lên, hay phải tuyên bố phá sản, đều thể hiện rõ ràng trong tình hình tài chính, mà tình hình nguồn vốn là một đóng góp quan trọng. Doanh nghiệp muốn thực hiện bất kỳ hoạt động gì đều cần có vốn. Khi doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô, mở rộng thị trường, sản xuất một sản phẩm mới,... thì vốn là nhân tố không thể thiếu. Trong quá trình tham gia vào thị trường, doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh để tồn tại, và những hướng tăng khả năng cạnh tranh sẽ không thể thực hiện nếu không có vốn. Đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, hạ giá thành, tăng chất lượng sản phẩm,... vốn là vấn đề đầu tiên cần giải quyết. Làm thế nào để đảm bảo khả năng chi trả, đảm bảo tình hình tài chính lành mạnh, đảm bảo khả năng cạnh tranh, đảm bảo nguồn vốn phục vụ cho đầu tư phát triển,... đó là một câu hỏi thường trực của bất kỳ doanh nghiệp nào. Và đó cũng là một trong những công việc quan trọng bậc nhất cho những nhà điều hành doanh nghiệp: Quản lý nguồn vốn. 2. Nguồn hình thành vốn trong doanh nghiệp 2.1.Các nguồn hình thành vốn trong doanh nghiệp Vốn hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, ở đây em chỉ xin đi sâu phân tích những nguồn cơ bản và quan trọng nhất. Thứ nhất, vốn chủ sở hữu, do chủ sở hữu của doanh nghiệp bỏ ra. Nguồn này bao gồm 3 loại chính Vốn góp ban đầu Vốn từ lợi nhuận để lại Vốn từ phát hành cổ phiếu mới * Vốn góp ban đầu của doanh nghiệp do chủ sở hữu – các cổ đông đóng góp. Nguồn này khác nhau tùy theo hình thức sở hữu của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp là DNNN, chủ sở hữu doanh nghiệp là Nhà nước, tương tự với các loại hình doanh nghiệp khác, chủ sở hữu có thể là một cá nhân, hay nhiều cá nhân, một tổ chức, hay nhiều tổ chức, hoặc do các bên tham gia liên doanh góp vốn... Đây là cơ sở đầu tiên để doanh nghiệp bắt đầu hoạt động. Do vậy, thời điểm duy nhất huy động nguồn này là khi doanh nghiệp bắt đầu sản xuất kinh doanh, nên ở đây, em không đi sâu phân tích nguồn này. * Nguồn vốn từ lợi nhuận để lại, theo kế hoạch trích lập lợi nhuận. Đây là một nguồn quan trọng phục vụ cho tái sản xuất mở rộng. Doanh nghiệp càng phát triển, vai trò của nguồn vốn này càng được khẳng định. Đây là nguồn có độ an toàn cao, hấp dẫn do doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn từ bên ngoài. Chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại thường được coi trọng vì khả năng tự đáp ứng nhu cầu vốn. Song, một điều đơn giản nhưng quan trọng, đó là doanh nghiệp chỉ có lợi nhuận để lại khi tình hình kinh doanh tốt, có lợi nhuận, vậy nên khi doanh nghiệp gặp khó khăn, việc huy động nguồn này hầu như bất khả thi. Đối với những doanh nghiệp cổ phần, nguồn vốn này lại có một khó khăn khác, mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là mang lại lợi ích tối đa cho nhà đầu tư, nên khi doanh nghiệp sử dụng nguồn này, cũng đồng nghĩa với việc không chia hết lợi nhuận cho cổ đông, tuy về danh nghĩa cổ đông vẫn sở hữu số vốn tăng lên của doanh nghiệp. Việc này sẽ làm cho tỷ lệ chi trả cổ tức thấp, ảnh hưởng giảm giá cổ phiếu trong ngắn hạn. Vấn đề này cần được dung hòa trong nội bộ doanh nghiệp, và có kế hoạch huy động dựa trên phân tích tình hình. Đó là tình hình hoạt động của doanh nghiệp, như số lãi ròng trong kỳ, tỷ lệ cổ tức những năm trước, tình hình thị trường chứng khoán và độ ổn định của thị giá cổ phiếu doanh nghiệp, cùng tâm lý và đánh giá của công chúng, và cuối cùng là hiệu quả của tái đầu tư. Doanh nghiệp cần cân nhắc những yếu tố này trước khi sử dụng nguồn vốn này. * Nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu mới Đây là một nguồn huy động vốn trung và dài hạn khá phổ biến. Khi thị trường tài chính lành mạnh và ổn định, môi trường đầu tư tốt, doanh nghiệp hoàn toàn có khả năng huy động vốn trung và dài hạn phục vụ các kế hoạch phát triển mở rộng doanh nghiệp bằng hoạt động tài trợ dài hạn, hay chính là phát hành cổ phiếu mới. Cổ phiếu có nhiều loại, dựa trên tình hình thị trường, yêu cầu của doanh nghiệp cũng như của nhà đầu tư mà doanh nghiệp nên lựa chọn sử dụng loại cổ phiếu phù hợp. Cổ phiếu thường (cổ phiếu thông thường) là loại cổ phiếu có tính thanh khoản cao, được mua bán trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu ưu tiên chiếm số lượng ít, có một số đặc quyền cũng như hạn chế, đó là được trả cổ tức cố định, song không có quyền bỏ phiếu. Hầu hết các nước trên thế giới sử dụng công cụ giới hạn phát hành để kiểm soát hạn chế rủi ro cho công chúng. Đây là một văn bản pháp lý quy định những điều kiện để được phát hành cổ phiếu tăng vốn, đặc biệt cũng có thể quy định lượng cổ phiếu được phép phát hành trong một thời kỳ nhất định. Doanh nghiệp cũng có một biện pháp hạn chế rủi ro của việc phát hành cổ phiếu, đó là sử dụng cổ phiếu ngân quỹ. Cổ phiếu trong ngân quỹ được mua bán khi doanh nghiệp muốn đầu tư tài chính ngắn hạn, ổn định thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp, trong trường hợp thị trường chứng khoán khủng hoảng hay điều chỉnh, hay trong trường hợp có sát nhập thôn tính giữa các doanh nghiệp. Nếu thị trường tài chính an toàn, doanh nghiệp hoạt động tốt, thì phát hành thêm cổ phiếu là một lựa chọn tốt. Đây là nguồn vốn trung và dài hạn với chi phí phụ thuộc tình hình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp không bị sức ép trả nợ và lãi vay. Nhưng, nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu có một số hạn chế. Hạn chế đầu tiên đó là phát hành thêm cổ phiếu gây ảnh hưởng quyền sở hữu doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể bị giảm quyền kiểm soát, thậm chí bị thôn tính. Hạn chế thứ hai đó là việc chi trả cổ tức dựa trên lợi nhuận sau thuế, còn chi phí lãi vay được tính trước khi tính thuế. Doanh nghiệp phải nộp thuế nhiều hơn so với đi vay trong trường hợp hoạt động hiệu quả. Nguồn thứ hai là vốn vay, vay từ nhiều nguồn khác nhau, tựu chung lại có 4 loại chính : tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại, tín dụng thuê mua, và cuối cùng là vay bằng việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp, tín phiếu doanh nghiệp... Tín dụng ngân hàng : Đây là một nguồn huy động vốn vô cùng quan trọng, thậm chí có thể khẳng định một doanh nghiệp có quan hệ tốt với ngân hàng, doanh nghiệp đó nhất định hoạt động tốt. Ngân hàng, với vai trò của một trung gian tài chính trên thị trường, có thể cung cấp đáp ứng hầu hết các nhu cầu về vốn của doanh nghiệp tại mọi thời điểm, từ vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc chặt chẽ với hoạt động của ngân hàng. Doanh nghiệp có lịch sử tín dụng tốt, trả nợ đúng hạn, là một khách hàng quen thuộc của ngân hàng, có kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ tốt, thì hoàn toàn có khả năng huy động vốn từ nguồn tín dụng này. Doanh nghiệp có thể đảm bảo khả năng thanh toán, cũng như có thể thực hiện các kế hoạch phát triển, đều ít nhiều có sự phụ thuộc vào ngân hàng. Song, tín dụng ngân hàng cũng có những điểm yếu của nó. Điểm yếu đầu tiên, chính là sự phụ thuộc quá lớn vào ngân hàng. Ngân hàng có những điều kiện tín dụng, những thông tin cần thiết, cơ sở bảo đảm tiền vay (tài sản thế chấp), sự kiểm soát của ngân hàng (quyền gửi giám sát để theo dõi tình hình doanh nghiệp, qua đó đánh giá tình trạng nợ và khả năng trả nợ). Vấn đề này rõ ràng đã xâm phạm quyền bảo mật của doanh nghiệp, cũng như các quyền khác như quyền quyết định... Một hạn chế nữa đó là vấn đề trả nợ cả gốc và lãi là một sức ép nặng nề lên tình hình tài chính của doanh nghiệp, dù rằng chi phí lãi vay được trừ trước thuế, song lãi được quyết định bởi thị trường, nên có những thời điểm lãi cao gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Loại tín dụng thứ hai đó là tín dụng thương mại. Loại tín dụng này rất phổ biến giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, đó là các quan hệ mua bán chịu, trả chậm hay trả góp. Nguồn tín dụng này có ảnh hưởng không nhỏ với hoạt động của doanh nghiệp, có thể chiếm tới 20-40% tỷ lệ nguồn vốn. Nguyên nhân của việc chiếm tỷ lệ cao, đó là do tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ khá rẻ, tiện dụng và linh hoạt. Bởi trên thực tế, có rất ít doanh nghiệp có thể lập tức trả tiền mua hàng. Như vậy, bằng tín dụng thuê mua, doanh nghiệp có thể mở rộng quan hệ với bạn hàng một cách chặt chẽ, tin cậy lẫn nhau. Chi phí của khoản vay này thường thấp, trong ngắn hạn, và được tính vào giá thành. Loại tín dụng này cũng có một nhược điểm cần chú ý. Đó là khi quy mô tài trợ của loại tín dụng này chiếm tỷ lệ lớn trong nguồn vốn, đó là khi mức độ rủi ro đã lên tới mức khó kiểm soát. Do vậy khi doanh nghiệp sử dụng nguồn này, doanh nghiệp cần chú ý vấn đề cơ cấu nguồn vốn cho hợp lý, đảm bảo quản lý tốt rủi ro. Loại thứ ba trong các hình thức vay nợ của doanh nghiệp, đó là tín dụng thuê mua. Các công ty tài chính cung cấp dịch vụ thuê mua như một kênh cung cấp vốn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp tạo vốn bằng việc thuê mua các thiết bị, cơ sở vật chất cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi doanh nghiệp khó khăn về tài chính, doanh nghiệp có thể bán lại tài sản, rồi sau đó thuê tài sản đó, hết hạn hợp đồng có thể mua lại hoặc không. Loại tín dụng này có ưu điểm là mang lại một kênh huy động vốn, cung cấp cho doanh nghiệp nhiều công cụ hơn. Trong nền kinh tế chưa phát triển, công cụ này dễ thực hiện hơn, khá linh hoạt. Nó thích hợp với các doanh nghiệp nhỏ khó thu hút vốn, không cần tài sản bảo lãnh, không làm tăng hệ số nợ của doanh nghiệp. Nhược điểm của loại tín dụng này cũng giống tín dụng thương mại, và tín dụng ngân hàng. Sức ép trả phí thuê, thường là rất đắt, ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận doanh nghiệp Loại tín dụng cuối cùng, còn khá mới mẻ, đó là vay bằng phát hành trái phiếu doanh nghiệp, tín phiếu doanh nghiệp. Trái phiếu là một phiếu vay nợ dài hạn thường với một lãi suất cố định (trừ trái phiếu biến đổi), rất phù hợp khi doanh nghiệp muốn huy động vốn dài hạn, có kế hoạch chi tiết kinh doanh và trả nợ. Tín phiếu ít sử dụng hơn, là phiếu vay nợ ngắn hạn. Trái phiếu có nhiều loại, khác nhau về chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn. Bao gồm Trái phiếu có lãi suất cố định, Trái phiếu có lãi suất biến đổi, trái phiếu có thể thu hồi và trái phiếu chuyển đổi... Trái phiếu thường được sử dụng đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, uy tín chưa có, vốn ít. Doanh nghiệp khó tiếp cận những nguồn vốn khác như phát hành cổ phiếu hay tín dụng ngân hàng... thì có thể dùng công cụ này để thu hút vốn dài hạn sản xuất kinh doanh. Công cụ này nhiều ưu điểm, giúp các doanh nghiệp huy động vốn, tăng lượng hàng hóa trên thị trường chứng khoán, nó có tính linh hoạt tương đối, khả năng thanh khoản cao. Trái phiếu chuyển đổi là một sự lựa chọn tốt khi doanh nghiệp đang tiến hành cổ phần hóa.Phát hành trái phiếu giúp doanh nghiệp sử dụng một nguồn vốn dài hạn ổn định, do nguồn vốn vay ngân hàng bị có thể bị hạn chế bởi nhiều lý do. Doanh nghiệp cũng không cần lo ngại khả năng bị thao túng do phát hành cổ phiếu, và chi phí thì đã được tính trước. Song tín dụng bằng trái phiếu cũng mắc một số nhược điểm như tín dụng ngân hàng, đó là sức ép trả nợ gốc và lãi, đặc biệt khi lãi trái phiếu thường cao hơn để cạnh tranh với các loại chứng khoán khác như trái phiếu Chính phủ. Như vậy, các nguồn hình thành vốn của doanh nghiệp khá phong phú, công việc còn lại là sử dụng công cụ nào cho hợp lý và hiệu quả, xây dựng cơ cấu vốn tối ưu. Công việc này cơ bản sẽ được giải quyết trong phần sau. 2.2. Các nhân tố ảnh hưởng việc lựa chọn nguồn vốn Mỗi doanh nghiệp khác nhau, trong những thời điểm khác nhau, sẽ có những cơ cấu vốn tối ưu khác nhau. Ở đây chỉ xin nêu qua một số nhân tố sẽ ảnh hưởng đến vấn đề lựa chọn nguồn đầu tư của doanh nghiệp. Đầu tiên đó là trạng thái nền kinh tế. Nền kinh tế đang trong giai đoạn nào, đang tăng trưởng, lên đỉnh điểm hay sa sút... Đây là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến khả năng huy động và cái giá phải trả cho nguồn vốn huy động được. Vấn đề thứ hai đó là ngành nghề kinh doanh hay lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có khả năng thu hút vốn từ dân cư, hay sẽ vay tín dụng từ ngân hàng, đây là sự lựa chọn dựa trên những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp. Quy mô và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp cũng là một yếu tố cần xét đến. Nếu như doanh nghiệp nhỏ, chỉ là một doanh nghiệp tư nhân, thì tất nhiên nguồn vốn từ dân cư sẽ không hề được quan tâm, mà quan hệ với các ngân hàng sẽ được đặt lên hàng đầu... Doanh nghiệp phát triển như thế nào, phụ thuộc phần lớn vào trình độ khoa học kỹ thuật và trình độ quản lý. Do vậy, đây cũng là yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn của doanh nghiệp. Chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư trong tương lai cũng sẽ ânh hưởng không nhỏ đến giá cổ phiếu cũng như đánh giá của các ngân hàng thương mại, qua đó quyết định nguồn tài trợ cho những dự án đó. Thái độ của chủ doanh nghiệp cũng như khuynh hướng của nhà quản lý tham gia vào những nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề lựa chọn nguồn vốn cần huy động. Các nhân tố khác thuộc phạm vi môi trường kinh doanh như chính sách thuế, tâm lý người dân... cũng tác động không nhỏ tới định hướng của doanh nghiệp. Phần II Thực trạng các hình thức huy động vốn ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay 1. Các hình thức huy động vốn chủ sở hữu ở các DN VN hiện nay 1.1. Vốn góp ban đầu Hiện hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều có quy mô nhỏ và vừa. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, thì có tới 96,81% số doanh nghiệp nước ta thuộc nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong đó xét về vốn chủ sở hữu, số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 41,80%, số doanh nghiệp có vốn từ 1 đến 5 tỷ chiếm 37,03% số doanh nghiệp vốn từ 5 đến 10 tỷ chỉ chiếm khoảng 8,15%, theo số liệu năm 2006 ta có 73% các doanh nghiệp có số vốn dưới 10 tỷ đồng; số doanh nghiệp có số vốn từ 50-200 tỷ đồng chiếm 8,5%.. Như vậy, quy mô vốn của các doanh nghiệp Việt Nam rất nhỏ lẻ, không thể đáp ứng yêu cầu phát triển và cạnh tranh trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam gia nhập WTO. Nhu cầu tăng vốn, thu hút vốn là rất lớn, khi mà năng lực tài chính lại quá yếu. Tính đến ngày 01/01/2004, cả nước có 72.012 doanh nghiệp hoạt động với tổng số vốn là 1.724.558 tỷ đồng, chỉ bằng một tập đoàn đa quốc gia cỡ trung bình trên thế giới. Trong đó, doanh nghiệp Nhà nước chiếm 59,0% tổng số vốn của các doanh nghiệp cả nước (1.018.615 tỷ đồng), doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 19,55% (337.155 tỷ đồng), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 21,44% (868.788 tỷ đồng). Trong 6 năm thi hành Luật Doanh nghiệp, cả nước có 160.752 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với số vốn ban đầu là 321,25 ngàn tỷ đồng, đồng thời các doanh nghiệp đăng ký bổ sung 103,47 ngàn tỷ đồng vốn. Riêng năm 2005, số vốn đăng ký bổ sung này là 38,34 ngàn tỷ đồng. Theo số liệu thống kê sơ bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong quý I năm 2006, có 7.775 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp với số vốn đăng ký 29.063 nghìn tỷ đồng. Tuy giảm 8% về số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh nhưng tăng 25% về số vốn đăng ký. Như vậy đã có chuyển biến tích cực trong cơ cấu nguồn vốn ban đầu, vốn góp ban đầu của các doanh nghiệp đã có sự tăng cường . 1.2.Vốn từ lợi nhuận để lại Hiện nay ở Việt Nam, nguồn vốn từ lợi nhuận để lại chưa được quan tâm đúng mức. Do trong khối các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp được bao cấp về tài chính, nên nhu cầu nguồn vốn là không nhiều. Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp đều hoạt động không hiệu quả, nên nguồn vốn từ lợi nhuận để lại là không có. Trong trường hợp các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, do mâu thuẫn giữa lợi tức cho cổ đông và lợi nhuận để lại tái sản xuất là từ cùng 1 nguồn lợi nhuận sau thuế. Các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ, uy tín chưa xây dựng ổn định, nên việc đảm bảo mức lợi tức cổ phần cao là thường thấy, như vậy, lợi nhuận để lại của các doanh nghiệp này rất nhỏ, không đủ phục vụ nhu cầu tái sản xuất mở rộng. 1.3.Vốn từ phát hành cổ phiếu mới Đây là kênh huy động vốn đặc biệt quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp cổ phần nào. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, thị trường chứng khoán đang trên đà phát triển, tuy chưa ổn định, nên việc thu hút nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu mới là rất cần thiết và hoàn toàn có khả năng thực hiện, doanh nghiệp cũng có thể xây dựng hình ảnh thương hiệu từ phương thức này, song cần thận trọng, chú ý đề phòng những rủi ro của thị trường. Theo số liệu của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, tính đến ngày 31/12/2006, trên TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh (HoSTC) có 106 công ty và 2 chứng chỉ quỹ, trên sàn GDCK Hà Nội (HaSTC) có 87 công ty, tổng giá trị cổ phiếu niêm yết là 221,156 tỷ, chiếm 22,7% tổng GDP 2006, và lớn gấp 20 lần năm 2005. Số lượng công ty niêm yết tăng mạnh vào cuối năm 2006, chỉ riêng tháng 12/2006 có tới 50 công ty niêm yết mới trên HoSTC, bình quân mỗi ngày gần 2 công ty. Nguyên nhân chính của tình trạng lên sàn ồ ạt là do từ 01/01/2007, Luật chứng khoán chính thức có hiệu lực, bãi bỏ ưu đãi thuế Thu nhập doanh nghiệp cho những doanh nghiệp niêm yết trên sàn sau ngày này. Như vậy, thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán đã có bước phát triển vượt bậc, tạo kênh huy động vốn mới cho doanh nghiệp, song, thực chất thị trường này còn rất nhiều bất cập. Đầu tiên, ta điểm qua tình hình phát triển của thị trường chứng khoán giai đoạn 2005-2007. Một số nét dễ nhận thấy đó là thị trường thường tăng trưởng nóng trong những tháng cuối năm và đầu năm, còn từ tháng 4 đến khoảng tháng 7-8 thị trường điều chỉnh giảm. Tình trạng này diễn ra liên tục cho thấy khả năng tăng trưởng bong bóng và sự mất ổn định của thị trường. Trong điều kiện tăng trưởng ồ ạt, việc các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu mới là một biện pháp giảm sốt hữu hiệu đối với thị trường, tăng cung thì thị trường sẽ cân bằng hơn. Song khi thị trường mất ổn định, đi xuống trong thời gian dài, kế hoạch tăng cung cho thị trường sẽ không khả thi. Đây là một trong những khó khăn trong việc tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp. Một vấn đề khác ta cần lưu tâm, đó là trong hoàn cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển với tốc độ chóng mặt như hiện nay, các doanh nghiệp sẽ rất dễ dàng phát hành cổ phiếu mới, và điều này nếu lạm dụng sẽ tạo ra sự mất cân đối trong cơ cấu tài chính của doanh nghiệp, gây ra những rủi ro khó lường.Nguyên nhân chính đó là các nhà đầu tư chứng khoán ở Việt Nam hiện nay còn thiếu tính chuyên nghiệp, họ ít quan tâm đến lợi nhuận và rủi ro của những kế hoạch đầu tư mà chủ yếu là mua bán cổ phiếu kiếm lời trong ngắn hạn, do vậy doanh nghiệp sẽ rất dễ gặp rủi ro. Khi doanh nghiệp đầu tư một dự án, hiệu quả chỉ diễn ra vài năm sau, nhưng cổ tức vẫn phải trả hàng năm. Nếu không đảm bảo cổ tức cho cổ đông, cổ phiếu công ty sẽ rớt giá không kìm được. Đây là một vấn đề cần được quan tâm đúng mức trong điều kiện tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. Thậm chí, có những doanh nghiệp Việt Nam đã lấy tiền từ phát hành cổ phiếu để trả nợ ngân hàng, đầu tư tài chính,.. tức nằm ngoài mục tiêu chính của nguồn vốn dài hạn này là phát triển sản xuất kinh doanh. Một hạn chế khác của vấn đề phát hành cổ phiếu mới của các doanh nghiệp đó là khả năng mất cân đối giữa vốn chủ sở hữu và vốn vay. Nếu doanh nghiệp không có kế hoạch thu hút vốn hợp lý, mà chỉ tập trung từ nguồn vốn cổ phần, doanh nghiệp sẽ khó đảm bảo cơ cấu vốn tối ưu, dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn thấp. Một vấn đề rất đáng quan tâm hiện nay là sự thiếu hụt thông tin tài chính của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp niêm yết trên TTGDCK hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, quy mô vốn yếu, và một tình hình chung là thông tin cung cấp cho các cổ đông và các nhà đầu tư thường thiếu, không kịp thời và không minh bạch, thậm chí có những thông tin nội gián, gây nhiều khó khăn trong việc đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, cũng như dự báo rủi ro kinh doanh cổ phiếu của các nhà đầu tư. Nguyên nhân tình trạng này là do các doanh nghiệp chưa có ý thức trong việc cung cấp thông tin. Bề ngoài, các nhà đầu tư phải được cung cấp những báo cáo tài chính thường kỳ của doanh nghiệp, bao gồm cả báo cáo kiểm toán của một công ty kiểm toán độc lập. Song, trên thực tế, doanh nghiệp chưa cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết. Lý do đó là doanh nghiệp mang tâm lý đề phòng với các cơ quan quản lý nhà nước như thuế vụ, công an, quản lý thị trường... và các doanh nghiệp phải dè chừng những đối thủ cạnh tranh, sợ lộ những kế hoạch tài chính của mình. Hệ thống khai báo và chính sách thuế của Việt Nam còn nhiều bất cập, làm cho doanh nghiệp luôn muốn khai thấp doanh thu, khai tăng chi phí để bảo toàn lợi nhuận. Hậu quả là tình hình tài chính của doanh nghiệp bị bóp méo, gây ảnh hưởng đến hình ảnh của doanh nghiệp, và khó khăn cho nhà đầu tư. Như vậy, vấn đề thu hút nguồn vốn chủ sở hữu ở Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế. Việc huy động và sử dụng nguồn vốn này như thế nào là một nhiệm vụ quan trọng của ban điều hành quản lý doanh nghiệp. 2.Các hình thức huy động vốn vay ở các DN VN hiện nay 2.1.Tín dụng ngân hàng Ngân hàng là các tổ chức tài chính trung gian có địa vị không thể thiếu trong bất cứ nền kinh tế nào. Đây là một kênh phân bổ nguồn lực xã hội hiệu quả cao. Đây là một nguồn vốn quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Doanh nghiệp luôn cần nguồn tín dụng ngân hàng để đảm bảo khả năng thanh toán trong ngắn hạn. Nguồn vay này cũng có thể sử dụng phục vụ cho những dự án đầu tư phát triển của doanh nghiệp trong trung và dài hạn. Hiện nay, các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng vẫn sử dụng các hoạt động vay và cho vay truyền thống như hoạt động chính của mình, chiếm 75-80% toàn bộ các hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của ngân hàng. Nguồn vốn này thường chiếm tỷ trọng lớn đối với mảng doanh nghiệp nhà nước, có khi lên đến 80%. Đây là một hạn chế lớn cần giải quyết. Các doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa thường gặp khó khăn trong đánh giá tài sản, đây là hậu quả của chính sách bảo hộ tài chính của nhà nước với các doanh nghiệp này diễn ra một thời gian dài trước đây, làm cho tình hình tài chính các doanh nghiệp này mất cân đối nghiêm trọng. Từ nay trở đi, vấn đề bao cấp này sẽ bị xóa bỏ hoàn toàn, do vậy các doanh nghiệp nhà nước cần có biện pháp cân đối nguồn vốn nợ vay này, tránh tình trạng sức ép trả nợ gây khó khăn cho doanh nghiệp. Một thực trạng khác đó là tín dụng ngân hàng chủ yếu phục vụ cho các doanh nghiệp nhà nước, chiếm đến 80% dư nợ cho vay, trong khi đó khối doanh nghiệp tư nhân chưa được quan tâm đúng mức, dù nó sản xuất được khối lượng hơn 42% GDP. Tình hình này đã được cải thiện đáng kể trong năm 2006. Khối ngân hàng thương mại hoạt động ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã tăng cường cho vay đối với khối doanh nghiệp tư nhân, coi đây là một đối tượng phục vụ chính, hiện nay đã lên đến 40% tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại ở đây. Thế nhưng mặt khác, thị trường tín dụng ngân hàng ở Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng thỏa đáng nhu cầu của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn chiếm hơn 96% tổng số doanh nghiệp VN hiện nay. Theo một điều tra về thực trạng các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Cục phát triển doanh nghiệp (thuộc Bộ Kế hoạnh và Đầu tư) công bố cho thấy chỉ có 32,38% các doanh nghiệp có khả năng tiếp cận vốn ngân hàng, 35,24% khó tiếp cận và 32,38% không tiếp cận được. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do doanh nghiệp không đủ tài sản thế chấp, và nếu có tài sản thế chấp thì cũng chỉ được vay tối đa 70% giá trị tài sản, theo cách định giá của ngân hàng cho vay. Không những vậy, kết quả của việc chạy đua thu hút vốn giữa các ngân hàng bằng lãi suất trong thời gian qua đã đẩy lãi suất cho vay lên quá cao, trung bình khoảng 12-13%. Điều đó làm cho doanh nghiệp càng khó có khả năng chạm tới nguồn vốn ngân hàng. Trong hoàn cảnh này, nhu cầu vốn của doanh nghiệp lại không ngừng tăng cao, sức ép hội nhập từ APTA, gần đây là WTO khiến cho doanh nghiệp phải tăng sức cạnh tranh, mở rộng thị trường. 2.2.Tín dụng thương mại Tín dụng thương mại, hay còn được biết tới như là những hoạt động mua bán chịu, trả chậm hay trả góp. Tín dụng thương mại là một kênh đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong ngắn hạn, giúp các doanh nghiệp tự chủ tài chính, giúp đỡ lẫn nhau. Các công cụ chủ yếu được sử dụng là thương phiếu, như hối phiếu nhận nợ, hối phiếu đòi nợ, các loại séc... Thời gian qua, các doanh nghiệp có giao dịch với nước ngoài đã sử dụng những công cụ này một cách thường xuyên, đặc biệt là hối phiếu, trong các hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu và vay nợ nước ngoài. Tuy còn nhiều bỡ ngỡ, song với kinh nghiệm tích lũy qua thời gian, các doanh nghiệp này đã sử dụng tốt công cụ này. Song, một thực trạng đáng buồn là các doanh nghiệp Việt Nam khi buôn bán trong nội địa chưa sử dụng phổ biến thương phiếu. Các ngân hàng cũng chưa thực hiện những nghiệp vụ như bảo lãnh, chiết khấu hay cầm cố thương phiếu. Trong khi các hoạt động như mua bán chịu, bán hàng gối đầu cho đại lý, giữa các tiểu thương là hoạt động diễn ra hàng ngày hàng giờ. Ở Việt Nam hiện nay 80,5% các hoạt động mua bán có sử dụng tới tín dụng thương mại, song những nghiệp vụ này chỉ được ghi sơ sài trên sổ nợ của người bán, hay sử dụng những văn bản thỏa thuận đơn giản, ít có giá trị pháp lý. Đây là nguyên nhân chính của những tranh chấp khó giải quyết. Từ 1/7/2006, thời điểm Luật các công cụ chuyển nhượng có hiệu lực, các hoạt động tín dụng thương mại mới được công nhận về mặt luật pháp. Song đến thời điểm này vẫn chưa có thay đổi gì đáng kể trong việc sử dụng các công cụ tín dụng thương mại ở Việt Nam. 2.3.Tín dụng thuê mua Tín dụng thuê mua tuy có vai trò quan trọng, đặc biệt với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, song vẫn còn khá mới mẻ trên thị trường Việt Nam. Nghiệp vụ cho thuê tài chính được Nhà nước quy định lần đầu tiên vào năm 1995. Đến 2/5/2001, Chính phủ ban hành nghị định 16 về tổ chức hoạt động của công ty cho thuê tài chính. Hiện nay cả nước có 9 công ty cho thuê tài chính, tất cả đều trực thuộc ngân hàng, cuối năm 2003, tổng vốn điều lệ của 9 công ty này lên tới 785,6 tỷ đồng. Trong đó có 6 công ty từ nguồn vốn trong nước, 2 công ty 100% vốn nước ngoài, và 1 công ty liên doanh giữa 3 ngân hàng và 2 công ty tài chính, chỉ 1 ngân hàng thuộc Việt Nam. Đối tượng phục vụ của các công ty tài chính có sự phân biệt rõ rệt, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng tín dụng thuế mua với các công ty cho thuê tài chính nước ngoài, công ty trong nước thì phục vụ chủ yếu là các doanh nghiệp trong nước, gồm cả nhà nước và tư nhân. Các công ty tài chính phát triển nhanh chóng cả về quy mô và mạng lưới hoạt động, thực hiện nhiều nghiệp vụ phong phú, đa dạng các tài sản cho thuê, phương thức cho thuê và đối tượng khách hàng. Cùng với việc đầu tư chiều sâu, cải tiến kỹ thuật, các công ty cho thuê tài chính luôn có hoạt động kinh doanh lành mạnh, lợi nhuận cao, tỷ lệ nợ xấu thấp. Dư nợ gia tăng mạnh trong khoảng thời gian 1999-2004. Tỷ trọng dư nợ cho thuê tài chính trong tổng tài sản chiếm đa số và tăng liên tục từ 65% năm 1999 lên 91% năm 2004. Nguồn vốn từ các công ty này càng ngày càng có vai trò cao trong cơ cấu vốn của các doanh nghiệp, tuy còn nhiều hạn chế như chí phí thuê mua cao. 2.4.Tín dụng bằng trái phiếu tín phiếu Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay còn rất non trẻ, trong năm 2006 tuy đã có những phát triển vượt bậc song còn nhiều hạn chế cần giải quyết. Trong số những hạn chế ấy, vấn đề trái phiếu doanh nghiệp nổi l._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0062.doc
Tài liệu liên quan