Các hình thức diễn xướng chầu văn ở Nam Định

Số 8 - Tháng 6 - 201472 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Nam Định được coi là cái nôi của hát chầu văn. Đây là loại hình dân ca nghi lễ, được diễn xướng trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian thờ Mẫu. Ở Nam Định có hai lễ hội lớn nổi tiếng trong cả nước, đó là lễ hội Phủ Giầy (tháng 3 âm lịch) và lễ hội Đền Trần (tháng 8 âm lịch). Trong hai lễ hội này và trong sinh hoạt tín ngưỡng của các đền, phủ ở Nam Định, hát chầu văn là thành tố không thể thiếu của nghi lễ hầu đồng. Vì thế, hát chầu văn lo

pdf6 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 438 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các hình thức diễn xướng chầu văn ở Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại này còn được gọi là chầu văn hầu đồng hay chầu văn hầu bóng. Ngoài hình thức này, hát chầu văn ở Nam Định còn được thực hiện trong nghi lễ thờ Thành hoàng làng, thờ tổ dòng họ và trong hát thi. 1. Hát chầu văn trong nghi lễ hầu đồng Các cuộc lên đồng được diễn ra ở các đền, miếu, phủ trước bệ thờ Thánh. Trên bàn thờ (trong hậu cung) có ngai đặt bài vị hoặc tượng Thánh. Phía trên có treo những vật thờ như nón, lẵng hoa và thường có hai con rắn bằng vải quấn trên xà. CÁC HÌNH THỨC DIỄN XƯỚNG CHẦU VĂN Ở NAM ĐỊNH TRẦN HẢI MINH Tóm tắt Trong quá trình hình thành và phát triển, diễn xướng chầu văn ở Nam Định đã tồn tại dưới 4 hình thức truyền thống cơ bản là: hát chầu văn trong nghi lễ hầu đồng (hay hầu bóng), hát chầu văn trong nghi lễ giỗ tổ dòng họ, hát chầu văn trong nghi lễ thờ Thành hoàng làng, thi hát chầu văn. Hát chầu văn trong nghi lễ hầu đồng là hình thức phổ biến nhất của hát văn (còn gọi là hát chầu thờ). Hình thức này chủ yếu được thực hiện trong các đền, phủ, nơi thờ tự các thánh trong điện Tứ phủ. Hình thức thi hát chầu văn có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của hát văn. Vì thế, hình thức này có những quy định rất chặt chẽ, bài bản. Hát văn trong nghi lễ giỗ tổ dòng họ và trong nghi lễ thờ cúng Thành hoàng làng là hai hình thức phái sinh của hát văn hầu đồng. Từ khóa: Chầu văn, diễn xướng chầu văn Abstract In the process of formation and development, “chau van” performation in Nam Dinh existed under the four traditional basic forms are: “Chau van” singing in “Hau Dong” rituals (or mediumship ritual), “Chau van” singing in rituals of family death anniversary , “chau van” singing in rituals of tutelary god worship and “chau van” singing competition. “Chau van” singing in “Hau Dong” rituals is the most common form of Van singing (also called worship singing). This form is mainly performed in the temple, palace, place of worship of Saints in sanctuary of Tu phu. “Chau van” singing competition form have special significance for the development of Van singing. Therefore, this form is stipulated with strict rules, basically. Van singing in rituals of family death anniversary, in rituals of tutelary god worship are the two derivative forms of Hau Dong singing. Keyword: “Chau van”, “Chau van” performation 73Số 8 - Tháng 6 - 2014 NGHỆ THUẬT NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Phía ngoài hậu cung, ở gian giữa ngôi nhà chính, có hương án, trên bày các đồ tế tự như đỉnh, bình hương, giá nến... hai bên là các giá để cờ quạt, binh khí, theo mỗi chư vị được thờ. Trước hương án là một bệ xây rộng hơn chiếc chiếu hoa lớn, cao khoảng 40cm, nơi diễn ra các cuộc hành lễ, trong đó có lên đồng và hát văn. Người lên đồng ngồi trên bệ xây, mặt hướng vào hương án. Từ ngoài cửa trông vào, bên trái (có nơi là bên phải) bệ thờ là chỗ dành cho cung văn và những người phụ họa. Họ ngồi trên chiếu trải lên nền gạch. Phía bên phải bệ thờ là chỗ của những người giúp việc hầu bóng, của tín chủ, của các con nhang đệ tử. Còn xung quanh là những người đứng xem. Mỗi cuộc hầu đồng dài hay ngắn, không có một quy định nào bó buộc mà phụ thuộc vào việc con đồng của tín chủ cầu xin ông Hoàng, bà Chúa hay vị Thần Thánh nào đó, và được chư vị phán bảo những vấn đề hệ trọng hay bình thường. Mỗi cuộc lên đồng, có thể bao gồm từ một, hai hay ba giá đồng. Mỗi giá đồng, tương ứng với sự hiện diện của một chư vị Thánh. Có con đồng chỉ lên một vài giá rồi lại đến người khác. Nhưng thông thường họ cũng phải ngồi tới ba giá đồng, bởi vì, khi đã nhập cuộc, họ bị kích động (điều mà ta quen gọi là máu đồng bóng), nên không thể dừng lại ở một hay hai giá đồng. Trong thực tế, có trường hợp diễn ra những cuộc ngồi đồng mà không có tín chủ. Khi ấy, lên đồng được xem là nhu cầu tự thân của con đồng. Họ ý thức rằng, việc lên đồng là hoàn toàn cần thiết, vì đã là con cái nhà Thánh thì phải lên đồng hầu Thánh. Mặt khác, khi ngồi đồng, họ tìm thấy những giờ phút siêu thoát khỏi trần tục. Tham gia cuộc hầu đồng, trước hết, phải kể đến con đồng chính, là người trần đại diện cho Thánh. Khi Thánh nhập vào họ thì họ trở thành Thánh để phán bảo người trần. Người làm mối liên hệ, giới thiệu giữa người trần với Thánh và thỉnh Thánh về trần chính là cung văn. Trong suốt quá trình Thánh đồng giáng hạ thì người cung văn, bằng tiếng đàn, giọng hát của mình, sẽ giới thiệu lý lịch, tài thần thông biến hoá của chư vị Thánh. Cung văn cũng hát kể về Thánh xuống trần làm việc quan chấm đồng bắt lính, ban tài, phát lộc hay chèo đò du ngoạn, múa hát vui chơi... Khi vào cuộc lên đồng, “thông thường cung văn sẽ hát bài văn chầu Tứ phủ Công đồng, tụng ca và thỉnh mời chư vị Thần Thánh về dự cuộc lễ” (3, tr.48). Khi lên đồng, bà đồng ngồi khoanh chân (xếp bằng tròn), đầu trùm khăn đỏ (gọi là khăn phủ diện), hai tay đặt trên đầu gối giữ hai mép khăn. Sau khi đảo đồng, là giai đoạn Thánh ốp, bà đồng sẽ bỏ khăn phủ diện và tay đặt trên trán, miệng hú để ra hiệu vị nào nhập đồng. Nếu Tứ phủ nhập đồng thì bà đồng dùng tay phải để ra hiệu: một ngón trỏ là Mẫu Thượng Thiên, hai ngón là Mẫu Thượng Ngàn. Nếu các quan Hoàng nhập đồng thì bà đồng ra hiệu bằng tay trái, một ngón trỏ là ông Hoàng Cả, ba ngón là ông Hoàng Ba... Khi đã biết là vị nào nhập đồng thì cung văn sẽ hát giá văn phù hợp và người phụ đồng sẽ dâng khăn chầu, áo ngự của vị ấy. Thánh sẽ lấy hương viết thư phù rồi đội khăn, mặc áo (có người hầu phụ giúp). Thư phù là bà đồng cầm một vài nén hương đốt sẵn, hướng vào đồ vật được dâng lên, vẽ vào khoảng không những vòng tròn hoặc số tám, như kiểu viết chữ. Tiếp theo là Thánh ngự đồng, làm việc: ban truyền, phán bảo; hoặc múa mồi, múa kiếm (tuỳ tính cách từng vị); hoặc du ngoạn vui chơi; rồi đến ban tài phát lộc. Sau đó, Thánh sẽ thăng đồng bằng cách đặt tay lên trán, ngả đầu ra sau, có thể hú hoặc không, có khi ngã ra để báo hiệu sự tỉnh lại rồi vái tạ. Trong quá trình ấy, mọi người sẽ xúm lại thỉnh, tấu, và cung văn sẽ vê đàn, trống phách dồn dập, hát câu Thánh giá hồi cung. Mỗi cuộc lên đồng tuy có cả một hệ thống chư vị như Tứ phủ chầu bà, Ngũ vị tôn ông, các quan Hoàng, các Thánh cô, Thánh cậu, nhưng không phải cứ lên đồng là phải hầu đủ mấy mục các bóng thánh. Mặt khác, mỗi con đồng do vận số mà chỉ ứng với một vài vị nào đó, chứ không phải là tất cả. “Riêng Đức Thánh Trần và Liễu Hạnh công chúa, do được thờ phổ biến Số 8 - Tháng 6 - 201474 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA ở nhiều nơi, nên các cuộc hầu đều có giá văn này, còn các chư vị khác thì tuỳ từng đền, từng nơi cũng có hầu” (4, tr.168). Như vậy, thông qua nghiên cứu diễn xướng chầu văn trong quan hệ với nghi lễ hầu đồng, ta thấy: Hát văn hầu Thánh Tứ phủ, chỉ được tổ chức tại các đền phủ của cộng đồng - gọi là hát chầu thờ. Đây là hình thức hát hầu Thánh trực tiếp, dâng văn, vọng bái thần điện, làm trung gian kết nối Thánh với người hầu đồng. Hình thức sinh hoạt này được cố định trong những ngày lễ tiết quan trọng của tín ngưỡng Tứ Phủ. Tuỳ theo từng đền phủ, vào lễ giao thừa, lễ thượng nguyên hay ngày tiệc của Thánh, thủ nhang đền và cung văn phải sắm sửa lễ vật để dâng văn chầu thờ. Theo quy định, hát chầu thờ là trách nhiệm của người trưởng cung văn các khu vực đền, phủ. Điều đó thể hiện rằng, chất lượng âm nhạc hát chầu thờ luôn được coi trọng bởi cung văn bao giờ cũng là người có năng lực nghệ thuật cao nhất trong cộng đồng. Đây là hình thức sinh hoạt phổ biến nhất của hát văn. Tất nhiên nơi tổ chức phải là điện thần Tứ phủ trong các đền, phủ của cộng đồng hoặc các điện thờ tại tư gia. So với những hình thức sinh hoạt hát văn khác, hát văn hầu đồng có một số điểm khác biệt quan trọng: Thứ nhất, trong hát văn, mỗi bản văn được thể hiện bằng nhiều làn điệu âm nhạc khác nhau. Do vậy, mỗi bản văn là một liên khúc. Trong các hình thức sinh hoạt khác của hát văn, người ta chỉ dâng một bản văn. Riêng trong sinh hoạt hát hầu đồng, người ta phải lần lượt dâng nhiều bản văn khác nhau ứng với các vị Thánh trong điện thần Tứ phủ theo thứ tự từ cao xuống thấp. Mỗi bản văn ứng với một vị Thánh - gọi là giá đồng. Mỗi cuộc hầu đồng (gọi là văn hầu) bao giờ cũng gồm nhiều giá đồng. Trong đó, một văn hầu bao gồm những giá đồng nào, hoàn toàn tuỳ thuộc vào căn số của chân đồng. Giữa các giá đồng, âm nhạc luôn được kết nối liên tục không ngừng nghỉ. Giá trước vừa kết thúc, giá sau phải bắt vào ngay lập tức với giai điệu Kiều bóng - gọi bóng của vị Thánh tiếp theo. Nếu Ngài không giáng, chân đồng xua tay ra hiệu, cung văn lại hát điệu Kiều bóng để mời vị Thánh kế tiếp. Cứ thế cho đến khi gặp giá nào thánh giáng, chân đồng tung khăn phủ diện, cung văn sẽ bắt đầu diễn tấu bản văn mới. Để chuẩn bị cho văn hầu, từ ngày hôm trước, ông Thống (thày cúng bản đền) phải làm lễ Phát tấu, tụng kinh thỉnh mời chư vị Thánh về chứng giám cho người bắc ghế hầu. Mở đầu văn hầu, ông Thống phải làm lễ Khao thỉnh mời công đồng, sơn trang về chứng lễ trước khi hầu. Tuỳ theo từng điều kiện, người ta có thể thay lễ Khao thỉnh bằng việc diễn tấu bản Văn công đồng. Thời xưa, kết thúc một cuộc hầu đồng, cung văn thường phải dâng văn chầu để thủ đền lễ tạ. “Như thế, có thể nói, hát hầu đồng thực sự là một tác phẩm liên văn - liên khúc, một cuộc diễn xướng trường thiên của nghệ thuật hát văn” (2, tr.316). Và, do chuyển tải nhiều bản văn khác nhau nên đây là hình thức diễn xướng có số lượng làn điệu lớn nhất. Bên cạnh đó, cũng có thể nói đây là hình thức diễn xướng mang tính tổng hợp nhất của nghệ thuật hát văn. Lúc này, nghệ thuật múa, nghệ thuật sân khấu (hoá thân nhập đồng) trong sự giao đãi giữa cung văn với chân đồng, giữa chân đồng với đám đông con nhang đệ tử được bộc lộ toàn vẹn. Thứ hai, nếu như trong các hình thức diễn xướng hát văn khác, cung văn phải hát trọn vẹn một bản văn thì trong hát văn hầu đồng, họ thường không nhất thiết phải hát đầy đủ các văn bản của từng giá đồng. Ở đây, việc ứng diễn giữa cung văn và chân đồng được đề cao lên hàng đầu. Tuỳ theo sự hứng khởi tại chỗ của chân đồng, người cung văn sẽ co giãn bản văn theo tình huống diễn xướng, thậm chí việc bỏ hẳn một phần cũng được chấp nhận. Tính khuôn thước của bài bản và làn điệu thường bị phá vỡ hoặc cắt đứt. Chẳng hạn, cung văn có thể điệp câu, điệp từ kéo dài câu văn khi chân đồng hứng khởi nghe văn; hay có trường hợp Thánh nấn ná mãi chưa chịu thăng thì cung văn phải hát thêm văn (có thể hát lại một đoạn nào đó hoặc ứng tác tại chỗ); hay 75Số 8 - Tháng 6 - 2014 NGHỆ THUẬT NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA trường hợp chưa hát hết bản văn mà Ngài đã thăng thì cung văn cũng phải tức thời hát câu kết thúc mỗi giá đồng “Xe loan thánh giá hồi cung” và diễn tấu phân đoạn chuyển tiếp. Đây là trường hợp của đa số những ông đồng, bà đồng không biết nghe văn. Nhưng dù thế nào thì cung văn cũng phải theo họ. Đó là nguyên tắc của lễ hầu đồng. Nhìn chung, diễn xướng chầu văn hầu đồng ở Nam Định có những đặc điểm sau: + Diễn xướng chầu văn hầu đồng ở Nam Định mang tính quy phạm, bố cục chặt chẽ, mang tính cổ điển, nặng về tín ngưỡng hơn là sinh hoạt nghệ thuật. + Hình thức hoạt động phong phú, đa dạng, phát triển cả trong lễ hội ở đền, phủ và trong lễ thờ Thánh ở tư gia. + Diễn xướng chầu văn ở Nam Định đã tiếp thu ảnh hưởng của dân ca Bắc bộ như cò lả, trống quân, ca trù, hát xẩm... và của âm nhạc chèo. 2. Hát chầu văn trong nghi lễ giỗ tổ dòng họ Trong nghi lễ giỗ tổ dòng họ, hát văn được dùng để ca ngợi cụ tổ. Hình thức sinh hoạt này không nằm trong nghi thức của tín ngưỡng Tứ phủ. Thông thường, khi một dòng họ nào đó có nhu cầu, họ mời cung văn đến để sửa soạn một bản văn phù hợp với điển tích của cụ tổ. Người cung văn sẽ phải nắn vần, sắp điệu để có được một bản văn hoàn chỉnh. Tiếp đó, trong ngày giỗ tổ dòng họ, cung văn sẽ đến nhà thờ tổ họ, dâng bản văn đó dưới hình thức hát thờ. Tất nhiên, hình thức sinh hoạt này thường chỉ diễn ra ở những dòng tộc mà con cháu có đời sống khá giả, đủ điều kiện vật chất để biện lễ. Bởi lẽ, mỗi bản văn đó trên thực tế đều là một tác phẩm mới, nằm ngoài hệ thống chầu văn Tứ phủ. Nó thực sự là một đơn đặt hàng cho những sáng tạo riêng của người cung văn. 3. Hát chầu văn trong lễ cúng Thành hoàng làng Trong hình thức này, hát văn được dùng để ca ngợi đức Thành hoàng làng. Đây cũng là điểm đáng chú ý bởi nói chung, thành hoàng làng không thuộc diện Tứ Phủ. Trong dịp lễ cúng đình, thường người ta tổ chức tế lễ Thành hoàng trước, sau đó mới dâng bản văn chầu, ca ngợi ngài. Đây cũng là dịp để người cung văn sáng tạo một tác phẩm riêng ngoài hệ thống văn chầu Tứ phủ. Cũng cần nói thêm rằng, hát văn không bao giờ được dùng trong nghi thức Phật giáo. Nếu có chăng thì hát văn chỉ được dùng trong trường hợp khu biệt tại gian thờ Mẫu riêng. Đó là những ngôi chùa có cấu trúc bồi ghép thêm hệ thống thần điện Tứ phủ kiểu dạng tiền Phật, hậu Mẫu. 4. Thi hát chầu văn Hình thức hát chầu văn thi được coi là điểm nhấn quan trọng, biểu hiện tính tổ chức nghề nghiệp ở tầng bậc cao của nghệ thuật hát văn. Thi hát văn xưa chỉ được tổ chức ở Hà Nội và Hải Phòng. Đây được coi là hai trung tâm quy tụ nhiều bậc tài danh của giới cung văn nhà nghề. Nam Định là trung tâm lớn của tín ngưỡng Tứ phủ. Song, hát văn vốn là nghề kiếm sống của các cung văn. Do đó, đời sống kinh tế của họ phụ thuộc vào giới con nhang đệ tử - các ông đồng, bà đồng. Đây là mối quan hệ hữu cơ in đậm tính thị trường giữa cung văn và chân đồng - tức mối quan hệ giữa cung và cầu. Từ bao đời nay, thành phần chủ yếu của giới các chân đồng thường là tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ - tầng lớp có đời sống kinh tế cao và khá ổn định trong xã hội. Theo đó việc ban tài phát lộc của những ông đồng, bà đồng ở các đô thị lớn bao giờ cũng đạt mức cao nhất trong các trung tâm tín ngưỡng Tứ phủ. Trong các cuộc thi ở Hà Nội, Hải Phòng khi đó, giới cung văn Nam Định tham dự rất đông. Từ sau cách mạng Tháng Tám (1945), thi hát văn được tổ chức thường niên ở Phủ Giầy (Nam Định). Có một quy định bất thành văn trong nghề, ai tài giỏi thì được giữ nhiều đền. Các vị chủ nhang đồng ở các đền phải chiêu mộ những cung văn tài giỏi về làm bởi lẽ “hát hay, đàn ngọt, phách giòn” luôn là một yếu tố quan trọng để thu hút các chân đồng. Thông thường họ lựa chọn những đền phủ nào có cung văn nổi tiếng để bắc ghế hầu Thánh. Mà cung văn muốn nổi tiếng thì phải cố chiếm lấy nhiều giải thi hát văn. Giải thi luôn được coi là Số 8 - Tháng 6 - 201476 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA “chứng chỉ” danh giá của các nghệ sĩ. Do vậy, ngày xưa các cuộc thi hát văn thường được tổ chức hàng năm tại nhiều đền phủ khác nhau. Các thí sinh có thể thi mỗi năm một lần tại một đền. Bên cạnh đó, có nhiều thí sinh đã được giải ở đền này rồi, lại sang đền khác thi tiếp. Các cụ kể rằng xưa nếu cung văn không thi thì rất khó hành nghề, ít được mọi người mời vì không biết tới. Ban giám khảo cuộc thi hát văn thường gồm có ba vị, thông thường, đền nào tổ chức thi thì cung văn trưởng đền ấy phải đứng ra cầm trịch. Giám khảo là những người am hiểu Nho học, tinh thông nghề nghiệp. Họ nhất thiết phải biết lề luật hát văn để soạn thảo những bản văn thi, trong đó sắp đặt các điệu hát để sao cho thuận ngón đàn, câu hát và phù hợp với tính chất từng đoạn văn. Bản văn thi được viết bằng chữ Hán hoặc Nôm trên giấy bản, đóng thành nhiều quyển cho các thí sinh bốc thăm. Phần làn điệu âm nhạc của bản văn được giám khảo tự sắp đặt sao cho mỗi quyển một kiểu. Tên làn điệu được ghi bằng mực son ở bên lề từng đoạn thơ. Có thể gọi đó là sơ đồ âm nhạc của bản văn thi. Trong ban giám khảo, thủ nhang đồng và trưởng cung văn của bản đền là hai vị giám khảo quan trọng nhất. Họ bao giờ cũng là người có uy tín, đứng đầu một tổ chức phường hội trong tín ngưỡng Tứ phủ. Cần phải thấy rằng người thủ nhang đồng ở đây tuy không phải là cung văn nhưng là người rất am tường, sành sỏi về nghệ thuật hát văn. Hai người chia nhau nhiệm vụ trong ban giám khảo. Một người chấp bút ghi điểm cho thí sinh, còn người kia theo dõi quyển văn thi, tay cầm dùi gõ vào cái kiểng đồng để bắt lỗi. Vị giám khảo thứ ba thường là một cụ tiên chỉ am hiểu Nho học tại địa phương. Với nhiệm vụ cầm trống chầu, vị giám khảo thứ ba này tất phải là người sành nghe chầu văn. Ông ta sẽ gõ “tùng” vào mặt trống để điểm câu kết, còn gõ “cắc” vào tang trống để tính điểm thưởng cho thí sinh. Điểm cho thí sinh được tính bằng một hình khuyên (vòng tròn nhỏ) do vị giám khảo chấp bút vẽ bằng mực son vào tờ bảng điểm. Mỗi tiếng “cắc” sẽ được một khuyên thưởng. Nếu thí sinh phạm lỗi, vị giám khảo giữ cái kiểng sẽ gõ “boong” một tiếng bắt lỗi, vị giám khảo chấp bút sẽ trừ đi từ ba tới sáu khuyên thưởng của thí sinh. Các nghệ nhân kể rằng: Khi nghe tiếng kiểng bắt lỗi, nhiều thí sinh giật mình toát mồ hôi hột, phải một lúc mới lấy lại được bình tĩnh. Qua đó chúng ta có thể thấy được cuộc thi hát văn xưa thật quy củ, chặt chẽ và nghiêm túc. Trước các cuộc thi, ban giám khảo dán bảng thông báo, niêm yết danh mục các tên huý của thánh bản đền và Thành hoàng làng sở tại. Theo đó, các thí sinh phải xem xét chuẩn bị trước. Các từ ngữ phạm húy, cần phải đọc trại đi. Tiếng đọc trại phải lơ lớ gần với tên húy. Ví dụ “Sòng Sơn” đọc thành “Sùng San”, “Liễu Hạnh” đọc thành “Lão Hiện”, “Hưng Đạo” thành “Hưng Điệu”, “Thuỷ cung” thành “Thoải quan”... Cách đọc trại tên huý như thế nào hoàn toàn do bản đền quy định theo một kiểu thống nhất. Các thí sinh buộc phải tuân thủ, không được phép sáng tạo theo cách riêng. Trong các cuộc thi hát văn, phạm huý bị coi là một lỗi rất nặng. Khi đó, thí sinh dù có hát hay đến mấy cũng sẽ bị đuổi ngay ra khỏi cuộc thi. Ở đây, điều đáng lưu ý là quy chuẩn cuộc thi bắt buộc thí sinh phải vừa đánh đàn nguyệt, vừa hát. Nó được coi là một trong những chuẩn mực của một cung văn có đẳng cấp. Còn việc đánh phách giữ nhịp thì nhờ người thân trong nghề hoặc cũng có khi nhờ một người bạn thi cùng giúp đỡ. Theo các nghệ nhân, trong cuộc thi, vai trò người đánh phách thực ra cũng rất quan trọng. Bởi thường thì người đánh phách tỉnh táo hơn thí sinh dự thi nên khi cùng ngồi nhìn vào bản văn thi, đễn chỗ nào sắp chuyển làn điệu, họ sẽ dằn tay phách to hơn, “dõng dạc” hơn nhằm nhắc nhở người hát rằng “sang lối đấy, sang lối đấy”. Người trong nghề gọi kỹ thuật đó là “kiệu” người đàn. Bên cạnh đó, người đánh phách giỏi còn có thể phụ trợ, kích hoạt, nâng đỡ tiếng đàn, câu hát một cách đồng điệu bằng nhịp độ và lối phách của 77Số 8 - Tháng 6 - 2014 NGHỆ THUẬT NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA mình. Nói chung, họ phải có được sự gắn kết với nhau như hình với bóng. Đặc biệt, “theo quy định, người đánh nhịp cho hát chầu văn thi chỉ dùng phách và cảnh mà không có trống ban. Bởi vai trò điểm câu kế trổ lúc này do cụ tiên chỉ cầm trống chầu đảm nhiệm” (3, tr. 29). Về mặt thời gian, các cuộc thi hát văn thường diễn ra vào buổi tối ở đền. Đây được coi là khoảng thời gian yên tĩnh trong ngày, tập trung được nhiều người đến xem hơn cả. Hơn nữa, thi hát văn buổi tối cốt để tạo điều kiện cho giọng hát của các thí sinh. Bởi đứng về mặt thời gian sinh học, tính từ chiều tối đến đêm là khoảng thời gian con người ta có thể phát huy tối đa chất giọng của mình. Còn về mặt thời gian trường quy, thường mỗi thí sinh chỉ được trình diễn bản văn thi trong một khoảng xác định. ở đây, tuỳ theo độ dài của từng bản văn mà ban giám khảo đề ra quy định. Ví dụ, văn Mẫu Thoải là một tiếng mười lăm phút. Thường cứ hai thí sinh thi là hết một buổi. Còn lại, tối hôm sau thi tiếp. Do vậy, một cuộc thi sẽ có thể kéo dài vài ngày. Thời xưa, người ta thắp hương để tính thời gian. Sau này có đồng hồ thì để trước mặt thí sinh để họ ước lượng được thời gian. Nếu thí sinh hát quá giờ chút ít thì sẽ bị bắt lỗi, còn nếu dôi quá nhiều thời gian thì bị đánh trượt. Cũng cần phải thấy rằng ở đây, nếu thí sinh hát nhanh hơn quy định thì cũng chẳng sao. Tuy nhiên, các thí sinh thường luôn có xu hướng diễn tấu dãn nhịp, kéo dài thời gian tối đa nhằm khoe ngón đàn, giọng hát của mình. Về mặt nguyên tắc, cứ hát một câu hay, được thưởng một khuyên, đàn một ngón hay, thêm một khuyên nữa. Khuyên thưởng được ban giám khảo tính chung cho cả ngón đàn và giọng hát. Cứ thế, ai được nhiều khuyên hơn là người chiến thắng. Có ba giải thưởng: nhất, nhì, ba. Giải thưởng thường là một đôi câu đối, một giải lụa điều hay một món quà tặng, hoặc đơn giản là một tờ giấy chứng nhận đóng dấu son của bản đền. Giá trị vật chất ở đây không đáng kể nhưng cái danh đạt được thì rất lớn, nó được coi như chứng chỉ hành nghề của các cung văn trong địa bàn. Mặt khác, cung văn nào đạt được nhiều giải thì càng được giữ nhiều đền. Điều đó đồng nghĩa với việc “đông khách”. Kết thúc mỗi cuộc thi, sau khi xong xuôi tất cả mọi việc, một vài ngày sau, trưởng cung văn và chủ nhang phải làm lễ dâng văn chầu để bái tạ Thánh bản đền. Có thể nói, không có nơi nào ở Việt Nam, diễn xướng chầu văn lại phát triển như ở Nam Định. Nó được phổ biến rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân dân và được đông đảo quần chúng đón nhận, coi đó là cái “riêng”, là niềm tự hào của văn hoá Nam Định. Ngày 27/12/2012, tại Quyết định số 5079/ QĐ-BVHTTDL, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận nghi lễ chầu văn của người Việt ở Nam Định và Hà Nam là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. T.H.M (ThS, Trường Trung cấp VHNT Nam Định) Tài liệu tham khảo 1. Ngô Đức Thịnh (2004), Đạo Mẫu và các hình thức Saman trong các tộc người Việt và châu Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 2. Bùi Đình Thảo, Nguyễn Quang Hải (1996), Hát chầu văn, Nxb Âm nhạc, Hà Nội. 3. Ngô Đức Thịnh, Phan Đăng Nhật, Phạm Văn Ty, Tô Đông Hải (1992), Hát văn, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 4. Hồ Đức Thọ (2000), Mẫu Liễu sử thi, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 5. Hồ Đức Thọ (2003), Huyền tích Thánh mẫu Liễu Hạnh và di sản văn hoá lễ hội Phủ Giầy, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. Ngày nhận bài: 3 - 1 - 2014 Ngày phản biện, đánh giá: 9 - 5 - 2014 Ngày chấp nhận đăng: 2 - 6 - 2014

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcac_hinh_thuc_dien_xuong_chau_van_o_nam_dinh.pdf
Tài liệu liên quan