lời nói đầu
Nhiều nước trên thế giới đang cải cách hoặc đã đổi mới nền kinh tế của mình theo mô hình kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, nhưng cũng còn có sự khác nhau ở mức độ điều tiết. Sự khác nhau đó do chế độ chính trị, kinh tế – xã hội và đặc điểm của mỗi nước quyết định. Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển theo hướng vừa coi trọng vai trò khách quan của các hoạt động kinh tế của mọi thành phần kinh tế, vừa phát huy vai trò quan trọng của Chíng phủ. Nói cách khác, là nền kin
36 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1454 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp và phương hướng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế nước ta đang được xây đựng theo mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Có thể khẳng định đây là mô hình kinh tế tối ưu ở Việt Nam hiện nay vì nó đảm bảo cho dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng – dân chủ – văn minh, sự bền vững của môi trường sinh thái và an ninh quốc gia.
Cho đến nay, kinh tế Việt Nam sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, nông nghiệp chiếm vị trí trọng yếu trong cơ cấu kinh tế quốc dân, thu hút hơn 80% dân số và 70% lực lượng lao động. Nhưng khu vực nông thôn nước ta vẫn đứng trước thực trạng: thu nhập thấp – sản xuất không phát triển – sức mua của thị trường thấp - đầu tư thấp. Chính vòng luẩn quẩn này ngày càng hạn chế quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta, ảnh hưởng tới tăng trưởng và phát triển kinh tế trong khu vực nông thôn nói riêng, của cả nước nói chung.Trong những điều kiện mới của thời đại, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu á đã có tác động tiêu cực đến thị trường Khu vực và trong nước. Lĩnh vực nông nghiệp được coi là một lĩnh vực ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nhất. Vì vậy, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp trong tình hình hiện nay có ý nghĩa vô cùng to lớn. Những năm gần đây, đặc biệt sau hơn 10 năm đổi mới; cùng với sự đổi mới và phát triển của nền kinh tế nói chung thì khu vực kinh tế nông nghiệp đã có những chuyển biến hết sức quan trọng. Thành tựu nổi bật là sản xuất lương thực: từ chỗ thiếu đói thường xuyên hàng năm phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã vươn lên không những tự túc được lương thực mà còn đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Một điểm nữa là sau khi Chỉ thị 100, Nghị Quyết 10 và Luật Đất Đai được ban hành thì Kinh tế Hộ nông dân đã trở thành đơn vị tự chủ, được phát triển mạnh, giá trị sản lượng nông nghiệp tăng đáng kể. ở nhiều nơi đã xuất hiện mô hình trang trại thuộc nhiều lĩnh vực như: lâm nghiệp, chăn nuôi, cây công nghiệp, thuỷ sản … và thực tế đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Việc nghiên cứu mô hình kinh tế mới trong nông nghiệp nói chung, mô hình kinh tế trang trại nói riêng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhằm rút ra những kết luận và bài học kinh nghiệm để phát triển một nền nông nghiệp hiện đại và bền vững, giầu có và văn minh mang đậm tính nhân văn, đủ sức đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu.
Tuy nhiên đó mới chỉ là thành quả bước đầu, thực tế còn nhiều vấn đề đặt ra hết sức gay gắt đòi hỏi nghiên cứu và có biện pháp cụ thể, mô hình kinh tế cụ thể có ưu điểm nổi trội thì mới có khả năng làm tiền đề thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn và nông nghiệp nước ta tiếp tục tiến lên.
Mô hình kinh tế trang trại đã đáp ứng phần nào những yêu cầu đặt ra và xem ra ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển ở nước ta hiện nay. Đây là một vấn đề khó và mới lạ, mặc dù đã có nhiều cố gắng song do có nhiều hạn chế nên bản đề án này không tránh khỏi được những thiếu sót, kính mong thày giáo góp ý và bổ sung để đề án hoàn thiện hơn. Đề án này được chia làm 3 phần:
Phần thứ nhất : Những vấn đề chung về kinh tế trang trại
Phần thứ hai : Các vấn đề còn tồn tại của kinh tế trang trại ở nước ta
Phần thứ ba : Các giải pháp và phương hướng phát triển kinh tế trang trại ở
nước ta
Qua bài viết này em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo: Nguyễn Mạnh Quân – giảng viên môn Quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Phần I: Những vân đề chung
về kinh tế trang trại
I. Tổng quan về kinh tế trang trại.
1. Vị trí và vai trò của nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng, tạo điều kiện cho các hình thức kinh tế mới phát triển, làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế – xã hội và ổn định đời sống nhân dân. Sau hơn 10 năm đổi mới, với việc thực thi hàng loạt chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể ở nhiều mặt: đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, tạo tiền đề bước vào giai đoạn phát triển mới; đẩy mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá (CNH – HĐH) đất nước, nâng cao vị thế của Việt nam trên trường quốc tế.
Vai trò
Nông nghiệp và nông thôn vẫn tiếp tục đóng vai trò là nền tảng cho sự phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam cả trước mắt cũng như lâu dài, nơi mà kinh tế nông nghiệp nông thôn đóng góp khoảng 40% GDP, gần 40% kim ngạch xuất khẩu, tạo việc làm và thu nhập cho khoảng 80% dân số và hơn 70% lao động hiện đang sống ở nông thôn. Mặt khác, phát triển nông nghiệp tuy sinh lời ít nhưng cực kỳ quan trọng chiến lược đối sự phát triển ổn định lâu dài và bền vững của đất nước. Có phát triển nông nghiệp toàn diện mới đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đáp ứng nhu cầu nguyên vật liệu cho công nghiệp chế biến ngày càng có nhiều sản phẩm xuất khẩu, sử dụng tương đối có hiệu quả các nguồn lực nhàn rỗi như vốn và lao động trong nông nghiệp.
Từ đó có thể khẳng định vị trí của nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong chính sách phát triển kinh tế – xã hội là rất quan trọng; nhằm đảm bảo an ninh, lương thực góp phần ổn định kinh tế – xã hội, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, phát huy tiềm năng đất đai trong nông nghiệp ngày càng hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn chúng ta sẽ giảm được sức ép của 2 vấn đề ngày càng gay gắt ở nông thôn hiện nay là thiếu vệc làm và sự chênh lệch giầu nghèo giữa nông thôn và thành thị. Do vậy, đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm công bằng, dân chủ trong xã hội và an ninh quốc gia.
Cùng với việc đổi mới, trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn hiện nay có thể thấy những chuyển biến tích cực, có những hiệu quả đáng kể: căn bản làm thay đổi hẳn bộ mặt nông nghiệp nông thôn ở nước ta và đang có những bước phát triển mới như giải quyết được cơ bản vấn đề lương thực, không chỉ nhu cầu lương thực thường xuyên và có dự trữ mà còn xuất khẩu hàng triệu tấn gạo mỗi năm. Sản xuất nông nghiệp có sự tăng trưởng liên tục cả về diện tích, năng suất và chất lượng. Cơ cấu ngành nghề nông nghiệp đã bắt đầu chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, cơ sở hạ tầng đã và đang được nâng cấp và xây mới; các chương trình xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm cho người lao động, vấn đề định canh định cư … đang được triển khai, từng bước tạo đà cho nông nghiệp nông thôn phát triển và đáp ứng nguyện vọng của đông đảo bà con nông dân.
Nhận xét
Nông nghiệp nước ta là khu vực kinh tế truyền thống, tập trung tuyệt đại đa số lao động của xã hội; nó chịu ảnh hưởng to lớn của điều kiện đất đai, khí hậu và là khu vực duy nhất sản xuất ra lương thực – thực phẩm. Do những đặc điểm nổi bật đó; kinh tế nông nghiệp có ý nghĩa to lớn với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, đồng thời bản thân nó cũng chịu ảnh hưởng của chính quá trình phát triển đó. Song phải thấy rằng, đề cao nông nghiệp cũng sai lầm như coi nhẹ nông nghiệp đều làm suy yếu nền kinh tế quốc dân.
Cũng cần khẳng định rằng: vùng nào, địa phương nào có thế mạnh gì ? (nông nghiệp, công nghiệp hay thương mại – dịch vụ) thì tập trung đầu tư khai thác, đẩy mạnh phát triển thế mạnh đó sao cho hiệu quả. Nếu không xác định rõ quan điểm đó sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng đầu tư tràn lan không hiệu quả, gây phân tán lãng phí vốn của xã hội và có thể tái diễn hội chứng “thừa, thiếu” trong cung cầu. Bởi lẽ, không có một chủ chương, chính sách kinh tế – xã hội nào có thể xác hợp đúng hết cho mọi vùng, mọi ngành, mọi lĩnh vực của đất nước. (. Nguyễn Sinh Cúc: Khảo sát kinh tế trang trại. Tạp chí NCKT: Viện kinh tế học – TT KHXH và Nhân Văn Quốc Gia. Số 1- 1999, trang 18
)
2. Khái quát quá trình hình thành hình thức kinh tế trang trại
2.1. Sơ lược quá trình hình thành văn minh kinh tế trang trại
Vào thế kỷ thứ XVIII, sau Đại cách mạng tư sản năm 1789 ở Pháp bắt đầu xuất hiện những chủ trại (Fermier) trong nông nghiệp. Họ thực sự là những nhà kinh doanh tiên tiến trong nông nghiệp theo lối kinh doanh kinh tế nông trại, chủ trại lớn chứ không kinh doanh kiểu khép kín – phát canh thu tô như địa chủ trước đó. Nhà nước Pháp thời đó cũng đã có những chính sách ủng hộ họ và khuyến khích họ phát triển … cụ thể như:
- Cho phép chủ trại được tự do lựa chọn ngành kinh doanh, lựa chọn vật nuôi, cây trồng và có ưu tiên về phân bón.
- Khuyến khích họ xuất khẩu nông sản đã tái chế, không nên xuất khẩu nghuyên liệu thô.
- Có chính sách đầu tư giúp cho việc vận chuyển, lưu thông hàng hoá nông sản được dễ dàng.
Sau nhiều năm tồn tại và điều chỉnh kinh tế trang trại là nguồn cung cấp nông sản hàng hoá chủ yếu cho nền kinh tế Pháp phát triển.
Sang thế kỷ thứ XIX, khi nghiên cứu Kinh tế –chính trị học Anh; C.Mác đã dự báo trong nông nghiệp nông thôn Anh rồi cũng sẽ phát triển theo hướng sản xuát hành hoá tập trung như công nghiệp. Mác viết: “ ở Anh đã hình thành nên một giai cấp những Fermier tư bản chủ nghĩa … hình thức lãnh canh đã nhanh chóng biến mất, nhường chỗ cho những Fermier chính cống ”.
Vào đầu thế kỷ thứ XX, khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản ở Nga, Lênin đã phân tích đời sống kinh tế – xã hội – chính trị của tầng lớp cư dân ở Nga đương thời và ông dự đoán: …“ Tính thuần nhất của kinh tế tự nhiên khuôn theo nếp cũ đã nhường chỗ cho tính muôn màu, muôn vẻ của những hình thức nông nghiệp thương phẩm.”
Đó chính là những hình thức kinh tế trang trại trong nông nghiệp nước Pháp, Anh và Nga đương thời được dựa trên một nền nông nghiệp có sự hỗ trợ đắc lực những tiến bộ khoa học – kỹ thuật – công nghệ tạo ra năng suất lao động cao, sản lượng hàng hoá nông sản lớn, đáp ứng ngày càng tốt hơn cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của kinh tế – xã hội. (. Trần Trác: “ Tìm hiểu về kinh tế trang trại ”. Tạp chí NCKT: Viện kinh tế học – TT KHXH và Nhân Văn Quốc Gia. Số 11- 1999, trang 41
)
2.2. Sự tồn tại của kinh tế trang trại
Sau gần hai thế kỷ tồn tại và phát triển vị trí của kinh tế trang trại gia đình đã được khẳng định trong thực tiễn. Đến cuối thế kỷ XX nó trở thành mô hình sản xuất phổ biến nhất trong nền nông nghiệp thế giới. Thời kỳ đầu, vấn đề nông trại gia đình vẫn là vấn đề gây ra nhiều tranh luận; người ta lo ngại rằng trang trại gia đình với quy mô nhỏ bé, phân tán sẽ không phù hợp với phương thức sản xuất tư bản và sớm muộn thế nào cũng bị các xí nghiệp tư bản nông nghiệp đào thải dưới sức ép của quy luật thị trường. Song cho đến nay không những kinh tế trang trại gia đình vẫn tồn tại mà nó còn trở thành lực lượng sản xuất nông nghiệp chủ yếu, ngay ở các nước công nghiệp phát triển.
Về sau, khi kinh tế trang trại gia đình phát triển theo hướng tăng quy mô tập trung hoá sản xuất, có một số quan điể m cho rằng nó sẽ phân cực, còn trang trại lớn sẽ tập trung ruộng đất để hình thành các xí nghiệp tư bản nông nghiệp chuyên sử dụng lao động làm thuê và đến lúc đó trang trại gia đình sẽ biến mất. Chính với lý do này mà hiện nay ở nước ta xuất hiện 2 chiều hướng trái ngược nhau: không tán thành phát triển (hay là quá đề cao) kinh tế trang trại, hoặc coi kinh tế trang trại là một giải pháp lớn, một đột phá mới cần được thúc đẩy phát triển mạnh.
+ Theo chiều hướng thứ nhất: một số ý kiến đặc biệt lo ngại về khía cạnh quan hệ sản xuất; cho rằng phát triển kinh tế trang trại sẽ mở đường cho sự phục hồi giai cấp bóc lột ở nông thôn, mở rộng phân hoá giầu nghèo, nông dân mất ruộng đất trở thành người làm thuê phong trào hợp tác hoá bị cản trở … Việc tập trung ruộng đất (quá mức) tạo ra lo ngại về tình trạng chuyển nhượng, cho thuê tràn lan việc sử dụng, làm tăng giá đất … Lại có ý kiến lo rằng nếu cán bộ đảng viên cũng trở thành những “ ông, bà chủ ” tức là cũng tham gia bóc lột hoặc để con cái làm chủ trang trại sẽ lợi dụng chức quyền để lấn chiếm, mua bán đất đai kiếm lợi bất chính. Tóm lại, như vậy là làm yếu quan hệ sản xuất và chế độ công hữu, trái với định hướng XHCN mà nước ta đang xây dựng.
+ Theo chiều hướng ngược lại: nhiều ý kiến cho rằng phát triển kinh tế trang trại sẽ tạo điều kiện cho nông nghiệp sớm đi lên sản xuất lớn, qua tích tụ tập trung ruộng đất mà sử dụng ruộng đất và lao động có hiệu quả cao, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá, đó là con đường cơ bản để xoá đói giảm nghèo, làm giầu ở nông thôn và là cơ sở cho công nghiệp chế biến phát triển, tăng cường xuất khẩu … Hơn nữa nó còn làm cơ cấu nền kinh tế và phân bố lại lao động theo hướng CNH – HĐH; phải chăng, đó là một đột phát của buớc phát triển mới cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, thể hiện đúng định hướng XHCN.
Có lẽ chính từ tình hình còn những ý kiến khác nhau đó mà gần đây có sự dè dặt nào đó trong việc trao đổi ý kiến về vấn đề này. Nhưng thực tiễn đã cho thấy quy mô của các trang trại gia đình đều tăng, cơ cấu trang trại với quy mô kết hợp lớn - vừa và nhỏ vẫn tồn tại lâu dài. Điều đó phù hợp với quy luật của thị trường cạnh tranh chống độc quyền vì lý do có sự tác động qua lại giữa các loại trang trại có quy mô khác nhau; vừa cạnh tranh nhau vừa hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau và thúc đẩy nhau cùng phát triển, bảo đảm sự tồn tại của kinh tế trang trại gia đình. Từ đó có thể nhận xét rằng: do có nhiều thế mạnh so với các tổ chức sản xuất nông nghiệp khác nên loại hình kinh tế này trước mắt vẫn tồn tại và phát triển lâu dài trên thế giới và cả ở nước ta.
2.3. Kinh tế trang trại (gia đình)
Có thể thấy trang trại gia đình được hình thành, phát triển từ các hộ tiểu nông. Một khi đã hội tụ đủ các điều kiện như vốn, lao động, kỹ thuật, thị trường, thì tiểu nông phá vỡ cái vỏ tự cấp - tự túc của mình để dần dần đi vào quỹ đạo của sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá chính là đặc điểm cơ bản đánh dấu sự khác biệt giữa trang trại với tiểu nông. Từ đây vấn đề được đặt ra là: giữa kinh tế trang trại và kinh tế hộ nông dân có gì giống và khác nhau ?. Để giải quyết vấn đề này chúng ta cần phải xem xét và nghiên cứu kinh tế hộ nông dân có đặc điểm gì.
2.3.1. Kinh tế hộ nông dân
Kinh tế hộ nông dân cũng giữ một vị trí không nhỏ trong việc góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Kinh tế hộ gia đình ở nông thôn (làm nông - lâm - ngư nghiệp, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp...) là loại hình tổ chức sản xuất tương đối có hiệu quả về kinh tế - xã hội, tồn tại, phát triển lâu dài, có vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. khuyến khích kinh tế hộ phát triển mạnh mẽ sẽ tạo ra lượng sản phẩm hàng hoá đa dạng có chất lượng, giá trị ngày càng cao, tăng thu nhập cho mỗi hộ nông dân, cải thiện đời sống mọi mặt ở nông thôn, cung cấp sản phẩm cho đô thị, công nghiệp và xuất khẩu đồng thời nó còn là đơn vị sản xuất chủ yếu của nông thôn vì tất cả các tác động của chương trình phát triển nông thôn đều phải thông qua hộ nông dân để thực hiện. Chính với lý do đó kinh tế hộ gia đình nông dân có những đặc trưng sau:
Một là: Những thành viên của tổ chức kinh tế hộ nông dân là những người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân với nhau.
Hai là: Nó là một tổ chức kinh tế có cấu trúc phức tạp, có thể tiến hành tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất (sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng) và hoạt động sản xuất kinh doanh trong mọi lĩnh vực của kinh tế nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, khai tác rừng...) kinh tế hộ còn thích ứng với mọi hình thức sở hữu tư liệu sản xuất (tư nhân, tập thể, nhà nước...) đồng thời cũng có khả năng kết hợp các hình thức sở hữu ấy trong một hình thức tổ chức kinh tế.
Ba là: Có khả năng tự điều chỉnh cao, khi sản xuất kinh doanh gặp khó khăn có thể chuyển một phần sản phẩm tất yếu thành sản phẩm thặng dư, lấy thu nhập của ngành này bù cho ngành khác. Nhờ vậy kinh tế hộ có sức sống dẻo dai và có khả năng cạnh tranh cao trong sản xuất kinh doanh.
Song kinh tế hộ cũng có những giới hạn: không có khả năng giải quyết những vấn đề như thuỷ lợi, phòng trừ sâu bệnh, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiêu thụ nông sản hàng hoá lớn, phòng trừ rủi ro trong sản xuất, thiên tai... Và cho đến nay kinh tế hộ cũng bắt đầu bộc lộ những hạn chế:
- Trước hết là sự phân hoá giầu nghèo trong nông dân, một số hộ bán đất, một số hộ không có đất trở thành lao động làm thuê, một số hộ có cơ hội tích tụ ruộng đất... dẫn đến xuất hiện những hộ nghèo đói, hộ trung bình và hộ giầu mà phần lớn là hộ nghèo khó.
- Sản xuất kém hiệu quả do thiếu vốn và các điều kiện phát triển trong cơ chế thị trường đưa đến sản phẩm kém khả năng cạnh tranh.
- Sản xuất mang tính chất sản xuất nhỏ.
- Sự kiểm tra, kiểm soát và định hướng Xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhà nước trong cơ chế thị trường khó thực hiện.
Từ đây, vấn đề đặt ra là cần phải có một mô hình kinh tế mới có thể khắc phục được những hạn chế trên đồng thời không làm giảm vị trí và vai trò của kinh tế nông nghiệp - nông thôn trong nền kinh tế quôc dân.
2.3.2. Nhận diện kinh tế trang trại (gia đình)
Từ việc thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, ruộng đất được giao cho hộ gia đình nhất là diện tích đồi rừng, thị trường ngày càng mở rộng, các tiến bộ kỹ thuật và lượng máy móc xâm nhập vào khu vực nông thôn tình hình đó làm xuất hiện và phát triển quy mô sản xuất của các hộ gia đình, khối lượng sản phẩm kinh hàng hoá lớn. Điều đó có nghĩa là kinh tế trang trại trước đây đã có ở nước ta và trong công cuộc đổi mới hiện nay kinh tế trang trại lại xuất hiện và phát triển ngày càng nhiều. Song đó là sự phát triển có tính chất tự nhiên, phù hợp với xu hướng tất yếu của Thế giới. Tất nhiên (không thể phủ nhận) là có phần quan trọng của các chính sách đổi mới, sự phát triển đó là hợp quy luật, là sự tiến bộ, văn minh, tích cực của nền kinh tế - xã hội. Đành rằng có những mặt cần quan tâm cả về nhận thức và thực tiễn.
Quả đúng như vậy, cho đến nay chúng ta mới bắt đầu đề cập một cách thực sự tới mô hình kinh tế có nhiều ưu việt này. Do đó, thực tế ở nước ta hiện nay chưa có tiêu chí thống nhất để cho việc xếp loại hình kinh tế hộ như thế nào thì được gọi là kinh tế trang trại. Song để đánh giá kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay thì Tổng cục Thống kê cho rằng một trang trại phải hội đủ 4 đặc trưng sau:
+ Có quy mô sản xuất tương đối lớn so với mức trung bình của kinh tế hộ tại địa phương, tương ứng với từng ngành sản xuất cụ thể (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản...) Chẳng hạn đối với các trang trại trồng các loại cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả phải có diện tích từ 3 - 5 ha trở lên, trang trại lâm nghiệp phải có 10 ha đất rừng trở lên, trang trại nuôi trồng thuỷ sản có từ 2 ha diện tích mặt nước trở lên...
+ Có sử dụng lao động làm thuê thường xuyên từ 2 lao động / năm (lao động gia đình là chủ yếu) nếu lao động thời vụ thì quy đổi thành lao động thường xuyên.
+ Chủ trang trại phải là người có kiến thức, kinh nghiệm về nông - lâm - ngư nghiệp và là người trực tiếp điều hành toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh tại trang trại.
+ Lấy sản xuất hàng hoá làm mục tiêu chính, có áp dụng khoa học kỹ thuật, thực hiện thâm canh, từng bước cơ giới hoá, có khối lượng sản phẩm lớn để tăng thu nhập vượt trội so với mức trung bình của kinh tế hộ tại địa phương (. Đào Đăng Kiên: “ Các giải pháp phát triển hình thức kinh tế trang trại trong nông nghiệp, nông thôn hiện nay ”. Tạp chí PTKT. Trường Đại Học KTQD, Số 100 – 1999, trang 25
).
Tuy nhiên các tiêu chuẩn này cũng chỉ có ý nghĩa tương đối, vì loại hình trang trại rất đa dạng lại phụ thuộc điều kiện đất đai, tính chất sản xuất của từng vùng, từng ngành, từng loại hình sản xuất, từng loại hình trang trại đặc thù sẽ có những yêu cầu cụ thể khác nhau.
Như vậy, với nền tảng từ kinh tế hộ gia đình sản xuất hàng hoá với quy mô sản xuất ngày càng tăng. Do đó kinh tế trang trại sẽ bao gồm đầy đủ những đặc trưng chủ yếu của kinh tế hộ nhưng với mục tiêu và quy mô sản xuất là điểm khác biệt chủ yếu.
- Đối với hộ nông dân mục tiêu sản xuất của họ chủ yếu là để tiêu dùng và đáp ứng các nhu cầu khác của gia đình. Số sản phẩm hàng hoá đưa ra bán trên thị trường là sản phẩm dư thừa sau khi đã dành cho tiêu dùng của gia đình. Số nông sản hàng hoá này một mặt chưa ổn định còn phụ thuộc vào kết quả sản xuất hàng năm và mức tiêu dùng của gia đình; mặt khác họ mới chỉ bán “ cái mà mình có chứ chưa bán cái mà thị trường cần ”. Như vậy, kinh tế hộ nông dân chủ yếu là sản xuất tự cung - tự cấp, trình độ phát triển cao nhất chỉ dừng lại ở sản xuất hàng hoá nhỏ. Ngược lại, mục tiêu của kinh tế trang trại là sản xuất hàng hoá lớn nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường về các loại nông - lâm - thuỷ sản. Có nghĩa là sản phẩm sản xuất ra là để bán, đáp ứng được một phần của quy luật thị trường: “ bán cái thị trường cần chứ không bán cái mình có ”.
Về điểm này C.Mác đã nhấn mạnh “ chủ trang trại bán toàn bộ sản phẩm mình sản xuất ra còn hộ nông dân tiêu dùng trực tiếp đại bộ phận sản phẩm được sản xuất ra, mua và bán càng ít càng tốt ”.
- Với điểm khác biệt về quy mô như đã trình bầy ở phần đặc trưng trên thì ở đây chúng ta cần chú ý hơn là không chỉ lớn hơn về quy mô sản xuất mà còn phải lớn hơn cả về quy mô giá trị hàng hoá so với kinh tế hộ. Nhưng việc định lượ ng quy mô giá trị sản lượng hàng hoá là bao nhiêu thì còn phải tuỳ thuộc vào quy định của ở từng thời kỳ nhưng cũng không nên ở một mức quá cao nhất là đối với nước ta khi kinh tế trang trại mới bắt đầu phát triển.
Từ phân tích trên chúng ta thấy việc xác định vị trí của từng tiêu thức và mối quan hệ của từng tiêu thức để nhận dạng kinh tế trang trại là cần thiết; đặc biệt kinh tế trang trại nước ta mới chỉ là bước đầu cần phải đi sâu nghiên cứu, có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của nó trong tổng thể mối quan hệ biện chứng, hữu cơ giữa các thành phần kinh tế khác (kinh tế hộ, kinh tế hợp tác, kinh tế quốc doanh …) nhằm kịp thời có chính sách và giải pháp để tạo môi trường pháp lý, tâm lý xã hội để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta trong thời kỳ CNH - HĐH hiện nay.
Kết luận:
“Kinh tế trang trại là một loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, phổ biến được hình thành và phát triển trên nền tảng kinh tế hộ và về cơ bản vẫn bao gồm các tính chất của kinh tế hộ. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại là quá trình nâng cao năng lực sản xuất dựa trên cơ sở tích tụ tập trung vốn và các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá với năng suất chất lượng và hiệu quả cao ”.
Qua đó có thể hiểu kinh tế trang trại là loại hình tổ chức nông kinh tế gắn với gia đình với nông nghiệp nông thôn
II. Điều kiện, phân loại và vai trò của kinh tế trang trại
1. Điều kiện hình thành kinh tế trang trại
Về nhận dạng chúng ta thấy kinh tế trang trại không đơn nhất về tổ chức mà đa dạng về loại hình, quy mô, nội dung, phương thức sản xuất, trình độ khoa học công nghệ, cơ cấu sản xuất và thu nhập. Một mặt kinh tế trang trại là sản phẩm tất yếu của quá trình công nghiệp hoá được hình thành ở các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển đi lên công nghiệp hoá; mặt khác kinh tế trang trại còn là đội quân chủ lực sản xuất nông sản hàng hoá, đi đầu trong thực hiện CNH – HĐH, xã hội hoá và thương phẩm hoá sản xuất nông nghiệp.
Nhưng để kinh tế trang trại ở một quốc gia được hình thành và phát triển cần phải hội tụ đủ những điều kiện khách quan:
- Điều kiện cần đối với kinh tế trang trại (điều kiện vĩ mô):
+ Có nền công nghiệp hoá đã và đang thực hiện công nghiệp hoá.
+ Có nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh hoặc đang trong quá trình tiến đến hoàn chỉnh, trong đó thị trường nông nghiệp đầu vào và đầu ra đều là hàng hoá.
+ Nhà nước công nhận và khuyến khích, tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển.
- Điều kiện đủ của kinh tế trang trại (điều kiện vi mô):
+ Có một bộ phận dân cư có nguyện vọng, sở thích hoạt động sản xuất nông sản hàng hoá, hoạt động kinh doanh bằng hình thức trang trại.
+ Có trình độ, kiến thức quản lý kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá.
+ Có tiềm năng về tư liệu sản xuất kinh doanh (vốn, lao động, đất đai, máy móc, thiết bị, tư liệu sản xuất …).
Những điều kiện trên đây không đòi hỏi nhất thiết phải thật đầy đủ, đồng bộ, hoàn chỉnh ngay từ đầu mà có sự biến động và phát triển qua từng giai đoạn.
2. Các loại hình trang trại
Các trang trại hiện nay trên thế giới rất đa dạng về hình thức cũng như cách thức hoạt động. Việc phân loại trang trại hiện nay phụ thuộc vào những đặc điểm và trình độ phát triển của từng nước; một số tiêu thức thường được sử dụng hiện nay là:
2.1. Theo cách thức tổ chức
- Trang trại gia đình: là một hình thức thường được sử dụng nhiều nhất hiện nay, là kiểu trang trại do một gia đình tổ chức hoạt động độc lập và có tư cách pháp nhân. Trong hình thức này người chủ gia đình (chủ trang trại) thường là người đứng ra tổ chức và quản lý mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại.
- Trang trại liên doanh: là hình thức nhiều trang trại gia đình liên doanh lại với nhau nhằm tạo ra một hình thức trang trại lớn để có thể huy động vốn liếng và khả năng sản xuất để có thể cạnh tranh với các trang trại khác có quy mô lớn cùng ngành, đồng thời lại có thể được hưởng các chính sách của nhà nước cho các trang trại có quy mô lớn trong phát triển. Tuy liên doanh với nhau nhưng quyền trong tự chủ kinh doanh điều hành sản xuất ở các trang trại thành viên vẫn không đổi, nó vẫn bảo đảm quyền lợi và quyền quyết định của các chủ trang trại thành viên.
- Trang trại hợp doanh: là loại hình trang trại được tổ chức như công ty cổ phần. Loại này thường có quy mô rất lớn và khả năng chuyên môn hoá rất cao. Lao động trong loại trang trại này thường là lao động làm thuê; tuy nhiên loại hình trang trại này chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ và chỉ có ở một số nước phát triển.
2.2. Theo cách thức điều hành trang trại
- Trang trại mà người chủ là những nông dân thực thụ, gắn liền lao động trực tiếp với sự quản lý hoạt động của trang trại. Loại trang trại này gắn liền với hộ gia đình nông nghiệp, hoạt động gắn bó với tập quán và đặc thù của địa phương, làng, xã.
- Trang trại mà người chủ không sống ở trang trại mà sống tại thành phố nhưng vẫn điều hành trực tiếp các hoạt động của trang trại thông qua việc tham gia lao động thường xuyên hay định kỳ tại các trang trại của mình. Loại hình trang trại này thường xuất hiện ở các vùng nông thôn xung quanh các thành phố hay thị trấn.
- Trang trại mà người chủ sống và làm việc tại nơi khác, thuê người quản lý trang trại, thực hiện như là đầu tư tư bản vào lĩnh vực nông nghiệp. Thông thường loại trang trại này có quy mô khá lớn và hoạt động quản lý rất chuyên nghiệp.
2.3. Theo cơ cấu sản xuất
- Trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp: kết hợp trồng trọt - chăn nuôi, nông nghiệp - lâm nghiệp … cũng có khi trang trại nông nghiệp thuần tuý nhưng kết hợp nhiều loại cây trồng nhằm hỗ trợ cho sản phẩm chính kinh doanh của trang trại mình.
- Trang trại sản xuất chuyên môn hoá: chỉ sản xuất kinh doanh một hay loại một nhóm loại sản phẩm chuyên môn hoá hẹp.
Ngoài ra trang trại còn có thể phân loại theo mức độ sở hữu tư liệu sản xuất như: sở hữu toàn bộ hay một phần tư liệu sản xuất; hay phân loại theo cơ cấu thu nhập như: thu nhập thuần tuý nông nghiệp hay thu nhập ngoài nông nghiệp … Tóm lại mỗi cách phân loại đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, tuỳ theo nhu cầu nghiên cứu mà chúng ta có thể lấy một hay nhiều tiêu thức để phân tích làm nổi bật vấn đề chứ không nên áp đặt một thước đo cố định để đánh giá toàn bộ các trang trại hiện nay.
3. Vai trò tích cực của kinh tế trang trại
Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với những đặc điểm của nông nghiệp, chính điều này đã làm cho loại hình tổ chức sản xuất này có ưu thế hơn các hình thức tổ chức kinh tế khác trong nông nghiệp. Qua bước đầu hình thành với thức lực còn yếu, chưa có cơ chế chính sách rõ ràng nhưng kinh tế trang trại cũng có những tác dụng tích cực khá rõ nét như;
+ Thứ nhất: Góp phần đáng kể vào việc phát huy nội lực qua khai thác một bộ phận tiềm năng về đất đai, lao động và vốn trong dân cư ở nông thôn để đầu tư phát triển sản xuất hàng hoá với khối lượng và giá trị tương đối lớn cho thị trường nội địa và xuất khẩu, đặc biệt là các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ hải sản … Bước đầu các trang trại đã huy đông được hơn 1000 tỷ đồng vốn đầu tư và trên 20 vạn lao động; đó là những con số không phải nhỏ.
+ Thứ hai: Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn theo hướng tập trung chuyên canh, sản xuất hàng hoá; làm tiền đề cho phát triển công nghiệp chế biến nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ hải sản; đưa công nghiệp và các hoạt động dịch vụ vào nông thôn; thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm có giá trị cao hơn. Sự chuyển dịch đó cũng góp phần cải thiện môi trường sinh thái, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, hạn chế nạn du canh du cư phá rừng bừa bãi, thúc đẩy việc lấn biển, mở mang diện tích canh tác …
+Thứ ba: Tạo thêm việc làm cho một số lao động dư thừa ở nông thôn; qua đó xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống văn hoá ở những vùng hẻo lánh thiếu ánh sáng văn minh, dân trí và ý thức dân chủ được nâng lên, tiếp cận dần với lối sống công nghiệp, giảm khoảng cách giầu nghèo giữa thành thị – nông thôn, giữa miền xuôi – vùng cao; Từ đó hình thành các khu dân cư, đô thị mới.
+ Thứ tư: Do phải cạnh tranh trên thị trường nên nảy sinh nhu cầu hợp tác, liên doanh các trang trại với nhau, với các đơn vị thuộc kinh tế nhà nước; cùng nhau giải quyết các nhu cầu về cơ sở hạ tầng chung và phúc lợi xã hội (như cầu đường, thuỷ lợi giáo dục …) Nhu cầu đó thúc đẩy sự hình thành các hợp tác xã kiểu mới, các hiệp hội công – nông nghiệp, các câu lạc bộ chủ trang trại … Qua đó nhà nước có thể có những chính sách đầu tư trợ giúp có hiệu quả hơn.
phần II: Các vấn đề còn tồn tại của kinh tế trang trại ở nước ta
I. Đặc điểm và sự xuất hiện kinh tế trang trại ở nước ta
1. Đặc điểm nông nghiệp nước ta
- Nước ta là một nước nông nghiệp, nguồn sống chính của cư dân ở nông thôn dựa vào nông nghiệp nhưng nông thôn nước ta còn nghèo, canh tác còn lạc hậu, công cụ thủ công vẫn còn phổ biến. Ruộng đất manh mún chưa tạo điều kiện thuận lợi để tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ khoa._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35171.doc