Tài liệu Các giải pháp TDNH đối với việc phát triển DNNVV góp phần thúc đẩy quá trình CNH – HĐH ở Đồng Nai: ... Ebook Các giải pháp TDNH đối với việc phát triển DNNVV góp phần thúc đẩy quá trình CNH – HĐH ở Đồng Nai
59 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1533 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp TDNH đối với việc phát triển DNNVV góp phần thúc đẩy quá trình CNH – HĐH ở Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
-1-
CHÖÔNG 1
1.1. Lý luận về tín dụng.
1.1.1. Sự ra đời và bản chất của tín dụng:
Quan hệ tín dụng đã có từ lâu trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Lúc
đầu, các quan hệ tín dụng hầu hết đều là tín dụng bằng hiện vật và một phần nhỏ là tín
dụng hiện kim. Cùng với sự phát triển của xã hội, hình thức biểu hiện của tín dụng
ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, do vậy có rất nhiều quan điểm khác nhau về tín
dụng. Tuy nhiên, dù dưới hình thức nào và tính phức tạp bao nhiêu thì quan hệ tín dụng
vẫn có chung một bản chất và có thể hiểu tín dụng một cách tổng quát như sau:
Tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế liên quan đến các giao dịch về tài sản giữa
bên cho vay và bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử
dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả
vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.2. Các hình thức của tín dụng:
Dựa vào các chủ thể của quan hệ tín dụng, trong nền kinh tế xã hội tồn tại các
hình thức tín dụng sau đây:
1.1.2.1. Tín dụng thương mại (Commercial credit):
Tín dụng thương mại (TDTM) là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh với nhau, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá cho
nhau.
Đối tượng của TDTM là hàng hoá thông thường, chứ không phải tiền tệ. TDTM
đều có lợi cho cả hai phía và cả cho nền kinh tế. Đối với người bán, TDTM giúp họ
đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hoá, chiếm lĩnh thị trường… Đối với người mua,
TDTM giúp họ có được hàng để tiến hành sản xuất kinh doanh, bảo đảm cho quá trình
sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục.
-2-
Công cụ của TDTM là thương phiếu để đảm bảo cho hành vi mua bán chịu được
tiến hành và việc thực hiện thanh toán tiền hàng mua chịu được thực hiện chắc chắn.
Thương phiếu bao gồm lệnh phiếu (Promissory note) và hối phiếu (Bill of exchange).
1.1.2.2. Tín dụng Ngân hàng:
Tín dụng Ngân hàng (TDNH) là quan hệ tín dụng, trong đó bên cho vay là các
TCTD và bên đi vay là các chủ thể trong nền kinh tế xã hội.
Đối tượng của TDNH là cho vay chủ yếu dưới hình thức vốn bằng tiền và là
hình thức tín dụng quan trọng nhất đối với nền kinh tế.
TDNH vừa là tín dụng mang tính chất sản xuất kinh doanh gắn với hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vừa là tín dụng tiêu dùng, không gắn với
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vì vậy quá trình vận động và phát
triển của TDNH không hoàn toàn phù hợp với quá trình phát triển của sản xuất và lưu
thông hàng hoá.
Công cụ của hoạt động TDNH trong lĩnh vực huy động như kỳ phiếu, chứng chỉ
tiền gửi, sổ tiết kiệm… và trong lĩnh vực tín dụng như hợp đồng tín dụng, giấy nhận
nợ…
Tác dụng của TDNH có những ưu thế hơn so với TDTM:
- TDTM chỉ bó hẹp giữa những nhà sản xuất kinh doanh quen biết nhau hoặc có
mối liên hệ với nhau về cung ứng hàng hoá và dịch vụ. Trái lại, TDNH có thể mở rộng
cho mọi đối tượng trong xã hội.
- TDTM thường bị giới hạn về số lượng và quy mô hoạt động thì trái lại TDNH
không bị giới hạn về quy mô, có nghĩa là TDNH có thể cung ứng vốn cho nền kinh tế
với số lượng rất lớn.
- Hoạt động của TDNH còn có tác động và ảnh hưởng lớn đối với tình hình lưu
thông tiền tệ của đất nước. Nhờ hoạt động TDNH mà vốn tiền tệ của xã hội được huy
động và sử dụng tối đa cho nhu cầu phát triển kinh tế, đẩy mạnh chu chuyển vốn, tập
trung qua hệ thống ngân hàng.
-3-
1.1.2.3. Tín dụng Nhà nước:
Tín dụng Nhà nước (TDNN) là quan hệ vay mượn giữa Nhà nước và các đơn vị,
cá nhân trong xã hội, trong đó, Nhà nước chủ yếu đứng ra huy động vốn của các Tổ
chức, cá nhân. Khi Nhà nước phát hành và bán các trái phiếu, lúc đó đóng vai trò là
người đi vay, ngược lại, khi Nhà nước mua trái phiếu từ dân chúng, các TCKT, khi đó
Nhà nước là người cho vay. Người sở hữu trái phiếu có thể đem chiết khấu, cầm cố vay
ngân hàng hoặc bán trên thị trường chứng khoán.
1.1.2.4. Tín dụng Quốc tế:
Ngoài các hình thức tín dụng nói trên, còn có loại hình tín dụng quốc tế. Đây là
quan hệ tín dụng giữa Chính phủ, giữa các tổ chức tiền tệ được thực hiện bằng nhiều
phương thức khác nhau nhằm trợ giúp lẫn nhau để phát triển kinh tế, xã hội của một
nước.
1.1.3. Vai trò của TDNH đối với sự nghiệp CNH - HĐH:
1.1.3.1. Sự nghiệp CNH - HĐH là sự phát triển khách quan và đúng quy luật:
CNH - HĐH nền kinh tế đất nước, trước hết chúng ta cần nắm bắt những thành
tựu khoa học, công nghệ vừa hiện đại, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển của nước ta để
áp dụng vào việc quản lý: Sản xuất, tổ chức lưu thông, phân phối … của nền kinh tế.
Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, nghề trên cơ sở lợi thế từng
vùng, mỗi ngành, đồng thời kết hợp với những công nghệ mới tham gia vào quá trình
hợp tác trong nước và quốc tế.
Cùng với quá trình CNH - HĐH là xây dựng một hệ thống các doanh nghiệp có
quy mô và trình độ sản xuất, quản lý khác nhau. Trong đó, cần chú ý xây dựng các
DNNVV, vì các DNNVV đáp ứng được yêu cầu về tình hình cụ thể ở nước ta hiện nay,
đó là: cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ quản lý còn thấp, trình độ kỹ
thuật và tay nghề của người lao động chưa cao…
-4-
Mặt khác, DNNVV có ưu thế trong cơ chế thị trường, đó là: Tính thích ứng,
năng động cao, vốn đầu tư không lớn, có khả năng ứng dụng công nghệ mới nhanh, tổ
chức quản lý gọn, nhẹ nhưng mang lại hiệu quả cao và trong trường hợp cần thiết có
thể nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu, thay thế công nghệ và chuyển hướng mặt hàng sản
xuất kinh doanh.
1.1.3.2. Vai trò của TDNH đối với quá trình thực hiện CNH - HĐH nền kinh tế:
Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, TDNH đối với sự nghiệp CNH-HĐH có vai
trò quan trọng, được thể hiện trên một số mặt sau đây:
- Trong nền kinh tế, đại đa số nguồn vốn nhàn rỗi đều được tập trung vào hệ
thống ngân hàng qua hoạt động huy động vốn. Sau đó, TDNH sẽ làm tốt vai trò cung
ứng vốn cho các doanh nghiệp dưới các hình thức nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất và
lưu thông hàng hoá được thực hiện nhanh hơn.
- TDNH nhờ làm tốt chức năng tích tụ và tập trung vốn, đầu tư vào các thành
phần kinh tế đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch
vụ và nông nghiệp.
- TDNH đầu tư vào cơ sở hạ tầng cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nhằm tạo
điều kiện cho quá trình CNH - HĐH đạt kết quả cao, đặc biệt đối với kinh tế hộ gia
đình và HTX nông thôn.
- TDNH là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất hiện nay của một ngân
hàng, nó quyết định sự phát triển hay không của hệ thống ngân hàng. TDNH sẽ góp
phần làm cho hoạt động thanh toán phát triển, điển hình như TDNH cho người mua
vay để áp dụng các biện pháp thanh toán không dùng tiền mặt như séc, thư tín
dụng…Trong việc thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt khi khách hàng vay vốn
hay gửi tiền, TDNH tạo ra tiện ích cho khách hàng.
Tóm lại, TDNH có vai trò rất quan trọng cho sự nghiệp CNH - HĐH. Để thực
hiện được CNH - HĐH trước hết cần phải có vốn, bởi lẽ khi thiếu vốn thì doanh nghiệp
nói riêng và nền kinh tế nói chung không thể tiến hành hoạt động được, nền kinh tế sẽ
-5-
vận hành kém. Chúng ta phải biết khai thác một cách có hiệu quả nguồn vốn còn rất
lớn đang tiềm ẩn trong dân cư, các doanh nghiệp…để tạo nguồn vốn tập trung cho đầu
tư phát triển, sản xuất kinh doanh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp.
1.2. Doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.2.1. Khái niệm DNNVV:
1.2.1.1. Một số quan điểm và khái niệm về DNNVV của các nước:
Cho đến nay các nước trên thế giới chưa có một khái niệm chung về loại hình
DNNVV mà tuỳ thuộc đặc điểm của từng Quốc gia, từng giai đoạn phát triển kinh tế
mà đưa ra những quy định về DNNVV. Khi định nghĩa về DNNVV, các nước thường
căn cứ vào quy mô về vốn của doanh nghiệp, số lao động thường xuyên tại doanh
nghiệp, tổng doanh thu, tổng tài sản… của doanh nghiệp. Chung quy lại mỗi quốc gia
sử dụng những tiêu thức hay có cách kết hợp các tiêu thức trên khác nhau mà đưa ra
định nghĩa riêng về DNNVV.
Trên thế giới, không chỉ tiêu chuẩn để phân loại các doanh nghiệp khác nhau mà
ngay cả cách phân loại doanh nghiệp cũng khác nhau. Có nước phân ra bốn loại doanh
nghiệp như: Doanh nghiệp nhỏ; doanh nghiệp vừa; doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp
cực lớn. Có nước phân loại doanh nghiệp thành: Doanh nghiệp cực nhỏ (thường là kinh
tế hộ gia đình); doanh nghiệp nhỏ; doanh nghiệp vừa; doanh nghiệp lớn và doanh
nghiệp cực lớn. Có nước (như Mỹ), chỉ những DNNVV độc lập thì mới là DNNVV,
nhưng cũng có nước tính cả DNNVV là thành viên của các công ty lớn cũng là
DNNVV.
Nhìn chung trên thế giới, hai tiêu chuẩn được sử dụng phổ biến để phân loại
doanh nghiệp là số lao động sử dụng và số vốn. Trong hai tiêu chuẩn ấy, khá nhiều
nước coi tiêu chuẩn về số lao động sử dụng là quan trọng hơn.
-6-
Bảng 1.1: Một số khái niệm về DNNVV một số nước:
Quốc gia Ngành, nghề Số lao động Số vốn Doanh thu
Mỹ Tất cả các ngành 0 - 500 Không Không
Nhật bản Chế tác
Bán buôn
Bán lẻ
Dịch vụ
1 - 300
1 - 100
1 - 50
1 - 100
300 triệu Y
0 - 100
0 - 50
0 - 50
Không
Đài loan Chế tác
Nông, lâm, ngư
nghiệp và dịch vụ
0 - 200
0 - 50
80 triệu NT$
không
Không
100 triệu
NT$
Thái lan Sản xuất
- Doanh nghiệp nhỏ
- Doanh nghiệp vừa
Bán buôn
- Doanh nghiệp nhỏ
- Doanh nghiệp vừa
Bán lẻ
- Doanh nghiệp nhỏ.
- Doanh nghiệp vừa.
không
0 - 50 bath
50 – 200
bath
0 – 50 bath
0 – 100 bath
0 – 30 bath
30 – 60 bath
không
Nga Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp vừa
1 – 249
249 – 999
không Không
Trung
Quốc
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp vừa
50 – 100
101 - 500
không Không
(Nguồn số liệu: Vũ Quốc Tuấn - Hoàng Thu Hoa, 2001, Phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa: kinh nghiệm nước ngoài và phát triển DNNVV ở Việt Nam).
-7-
Như vậy, điều đáng lưu ý là tiêu chuẩn về trình độ công nghệ, phạm vi quan hệ,
khả năng quản lý và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không được tính đến khi
phân loại doanh nghiệp.
Tiêu chuẩn phân định DNNVV là không cố định và không những khác nhau
giữa các nước mà còn thay đổi trong một nước. Đó là sự thay đổi theo ngành, nghề và
theo thời gian. Thông thường ở nhiều nước, người ta phân biệt DNNVV qua ba ngành
nghề: doanh nghiệp chế tác, doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp dịch vụ.
1.2.1.2. Khái niệm về DNNVV ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, trải qua các thời kỳ và tuỳ thuộc vào mục đích xác định đối tượng
đặt quan hệ của từng cơ quan, đơn vị có liên quan mà đưa ra những tiêu thức xác định
DNNVV khác nhau. Một số khái niệm như sau:
Theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 23/11/2001 về trợ giúp
phát triển DNNVV, định nghĩa “DNNVV là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng
hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Trong luận văn này số
liệu được thu thập theo tiêu chí này.
Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá
trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời
cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên.
Đối tượng DNNVV bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật DNNN.
- Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định 02/2000/NĐ-CP ngày
03/2/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.
Một số TCTD quy ước DNNVV như sau:
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam:
-8-
+ Đối với ngành công nghiệp: DNNVV là doanh nghiệp có số vốn dưới năm (5)
tỷ VNĐ, lao động thường xuyên dưới 300 công nhân.
+ Đối với ngành thương mại, dịch vụ: DNNVV là doanh nghiệp có số vốn dưới
hai tỷ VNĐ, lao động thường xuyên dưới 200 công nhân.
Ngân hàng Công thương Việt Nam, coi DNNVV là các doanh nghiệp có dưới
500 lao động, vốn cố định dưới 10 tỷ đồng…
1.2.2. Vai trò của TDNH đối với sự phát triển DNNVV:
Để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, các DNNVV cần phải sử dụng
vốn, trong đó bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn huy động từ bên ngoài. Trong các kênh
huy động vốn từ bên ngoài thì kênh TDNH là quan trọng nhất, bởi vì ngoài TDNH còn
có TDTM với quy mô và khả năng đáp ứng thấp. TDNH có ưu điểm là hiện nay có rất
nhiều các TCTD với nhiều chi nhánh rộng khắp, cung ứng vốn dồi dào hơn, lãi suất
hấp dẫn, thời hạn vay tương đối dài hơn, được tư vấn đầu tư…Vì vậy TDNH ngày
càng có vai trò quan trọng đặc biệt đối với các doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói
riêng, đó là:
- Có khả năng cung cấp vốn đáp ứng nhu cầu về vốn cho các DNNVV để mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ…Vốn bao gồm vốn trung dài
hạn phục vụ đầu tư máy móc thiết bị, nhà xưởng và vốn lưu động thường xuyên.
- Với tỷ lệ lãi suất thoả thuận thì DNNVV có thể đàm phán, lựa chọn các TCTD
có lãi suất cho vay thấp để đặt quan hệ tín dụng, qua đó mang lại hiệu quả kinh doanh
cao cho doanh nghiệp. Tạo ra giá trị doanh nghiệp cao hơn, tích luỹ vốn nhiều hơn.
- Trong quá trình cung ứng vốn cho các DNNVV, do trình độ có hạn mà đa số
có trình độ thấp của các chủ doanh nghiệp, các TCTD còn phải kiêm thêm chức năng
tư vấn, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp. Một mặt, để giúp doanh nghiệp lập
phương án kinh doanh, hoạch định chiến lược kinh doanh. Mặt khác, trong khi tiếp
-9-
cận, hướng dẫn doanh nghiệp lập kế hoạch vay vốn, qua đó tạo cho TCTD có thêm
luồng thông tin để quyết định cho vay hay không, nhằm tránh rủi ro.
1.2.3 Vai trò của các DNNVV đối với nền kinh tế, góp phần thúc đẩy quá trình
CNH – HĐH đất nước:
Từ Đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam xác định khi định hướng phát
triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH như sau: “ Trong phát
triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi
vốn nhanh”.
Trong thời kỳ CNH-HĐH của Việt Nam, nhất là Công nghiệp hoá nông nghiệp
và nông thôn thì các DNNVV càng có vai trò quan trọng trong việc khai thác mọi tiềm
năng và nguồn lực đất nước.
Trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay, vai trò của DNNVV có vị trí đặc biệt
quan trọng, thể hiện như sau:
- Góp phần tạo việc làm cho người lao động: Giải quyết công ăn việc làm luôn
là vấn đề bức xúc đối với hầu hết các nước trên thế giới. Đây là thế mạnh rõ rệt của
DNNVV và là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta phải đặc biệt chú trọng phát triển
DNNVV ở nước ta hiện nay. Việc phát triển DNNVV tạo thêm công ăn việc làm cho
người lao động trong doanh nghiệp và kể cả ngoài doanh nghiệp. Trải khắp đất nước,
đâu đâu cũng có DNNVV, số lượng lao động được phân tán tuỳ theo mức độ và quy
mô doanh nghiệp từng vùng, điều dễ thấy nhất là lực lượng lao động của Việt Nam
ngày càng dồi dào, nhưng tỷ lệ thất nghiệp ngày càng giảm.
- Đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế: Mỗi năm DNNVV đóng góp
khoảng 25%-30% GDP của cả nước. Giá trị hàng hoá và dịch vụ được tạo ra hàng năm
của khu vực DNNVV ngày càng tăng cao. Nhiều làng nghề truyền thống đã ra đời,
phát huy hiệu quả, được nhiều nơi biết đến cả trong và ngoài nước đã tạo thu nhập lớn
cho quốc gia. Điều quan trọng là DNNVV có nhiều thuận lợi trong việc khai thác các
-10-
tiềm năng rất phong phú trong dân, từ trí tuệ, tay nghề tinh xảo, vốn liếng, các bí quyết
nghề nghiệp, các quan hệ huyết thống, làng nghề truyền thống…
- Tăng thu nhập cho dân cư: Thu nhập dân cư nước ta hiện nay còn thấp. Ngay
trong lĩnh vực nông nghiệp, dù sản lượng hàng năm tăng cao nhưng dân vẫn chỉ đủ ăn,
đủ mặc do chưa có ngành công nghiệp chế biến nên giá cả bán ra rất thấp. Do vậy phát
triển DNNVV ở nông thôn là biện pháp chủ yếu để tăng thu nhập, đa dạng hoá thu
nhập của dân cư. Việc phát triển DNNVV chế biến rộng khắp ở nông thôn sẽ tạo nên
bộ mặt mới cho nông thôn, cả về kinh tế, văn hoá và xã hội, góp phần rất quan trọng
thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn.
- Góp phần thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH:
Xét về các loại cơ cấu, như cơ cấu theo thành phần kinh tế, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu
lãnh thổ, phân bố dân cư, việc phát triển DNNVV sẽ tạo ra những chuyển biến hết sức
quan trọng về cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế. Chính sự phát triển DNNVV góp phần
quan trọng trong việc tạo lập sự cân đối trong phát triển giữa các vùng. Nó giúp cho
vùng sâu, vùng xa, các vùng nông thôn có thể khai thác được tiềm năng của vùng, địa
phương để phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo vùng, lãnh thổ. Đây cũng là vấn đề có ý nghĩa để thực hiện CNH - HĐH Nông
nghiệp, Nông thôn.
- Làm cơ sở vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn: Các DNNVV, với tư cách là bên
cung cấp nguyên liệu, dịch vụ đầu vào, gia công một số công đoạn hay làm trung gian
tiêu thụ sản phẩm đầu ra đã hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp lớn, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp lớn dễ dàng mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo ra
giá trị hàng hoá và dịch vụ tăng cao.
- Góp phần quan trọng thu hút vốn đầu tư trong dân và sử dụng tối ưu các nguồn
lực địa phương: Do đặc điểm DNNVV là dễ khởi sự nên đa số dân cư có thể tham gia
đầu tư. Mặt khác, trong quá trình hoạt động, các DNNVV có thể huy động vốn dựa trên
quan hệ họ hàng, bạn bè thân thuộc. Chính vì vậy, việc huy động vốn, sử dụng các
-11-
khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư và biến nó thành các khoản vốn đầu tư của các
DNNVV rất hiệu quả.
Với quy mô nhỏ và vừa, lại được phân bố phân tán ở hầu hết các địa phương,
các vùng lãnh thổ nên DNNVV có khả năng tận dụng các tiềm năng về lao động, về
nguyên vật liệu…sẵn có ở địa phương.
- Góp phần gia tăng nguồn hàng xuất khẩu, tăng thu cho ngân sách Nhà nước:
Ngày nay, cùng với quan hệ giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia phát triển rộng
rãi đã làm cho các sản phẩm truyền thống trở thành một nguồn xuất khẩu quan trọng.
Việc phát triển DNNVV đã tạo ra khả năng thúc đẩy khai thác tiềm năng của ngành
nghề truyền thống ở các địa phương mỗi nước như các ngành nghề thủ công, mỹ nghệ.
Bên cạnh đó, do sự tạo lập và phát triển DNNVV dễ dàng làm cho số lượng
doanh nghiệp tăng nhanh và gia tăng khả năng cung ứng sản phẩm cho xã hội, làm tăng
thu cho ngân sách Nhà nước.
Tóm lại, Tuy mỗi nước đều có đặc điểm và mức độ phát triển khác nhau, nhưng
các DNNVV đều đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội, tạo
ra nhiều việc làm, ổn định xã hội, duy trì các làng nghề truyền thống, tăng kim ngạch
xuất khẩu cho đất nước. Chính vì vậy, sự phát triển của các DNNVV là một tất yếu
khách quan và cần thiết trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia.
1.3. Kinh nghiệm của các nước về TDNH đối với DNNVV và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam.
1.3.1. Kinh nghiệm của các nước về TDNH đối với các DNNVV:
1.3.1.1. Trung Quốc:
Trung Quốc có “ Vườn ươm DNNVV” là nơi mà hầu như tất cả các doanh
nghiệp đều được sự hỗ trợ từ Chính phủ. Thông thường các DNNVV trong vườn ươm
được hỗ trợ từ 3-5 năm. Tại đây, các DNNVV có thể được giúp để tìm kiếm các nhà tài
-12-
trợ hoặc các TCTD để có thể tăng nguồn vốn kinh doanh. Gíup các doanh nghiệp tăng
vốn ban đầu lên 5-6 lần bằng cách hỗ trợ ngay từ đầu trong vườn ươm.
1.3.1.2. Hàn Quốc:
Ở Hàn Quốc có hệ thống nhà thầu phụ nhằm giúp phát triển các DNNVV.
Chính phủ Hàn Quốc bắt buộc các doanh nghiệp lớn phải thanh toán bằng tiền mặt cho
DNNVV trong trường hợp ký hợp đồng sản xuất hay mua sản phẩm của DNNVV. Đối
với các DN tiêu thụ sản phẩm của DNNVV sẽ được vay 50% vốn. Nếu các tổ chức nào
cung cấp dịch vụ hỗ trợ sự phát triển về công nghệ mới cho các DNNVV, Chính phủ sẽ
đảm bảo cho họ nhận được 70% vốn vay ngân hàng.
Ngoài ra, để hỗ trợ vốn cho các DNNVV, Chính phủ bắt buộc các Ngân hàng
dành 35% toàn bộ vốn vay của mình cho các DNNVV. Còn đối với ngân hàng nước
ngoài và các tổ chức bảo hiểm là 25%.
Hỗ trợ tín dụng thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng, tạo điều kiện cho các
DNNVV có điều kiện vay vốn với lãi suất ưu đãi. Đặc biệt, Ngân hàng Hàn Quốc đảm
bảo cung cấp khoảng 90% tổng số vốn vay trong các lĩnh vực nhập khẩu công nghệ,
hoạt động nghiên cứu và phát triển, nhập máy móc để sản xuất nguyên vật liệu, phụ
tùng.
1.3.1.3. Philippine:
Luật của Philippine quy định: Ngân hàng phải dành ít nhất 10% trong tổng số
các khoản cho vay cho DNNVV. Chính phủ cho phép các Ngân hàng lập chi nhánh bất
cứ chỗ nào họ muốn, nhiều chi nhánh đã mọc lên khắp các tỉnh và vùng nông thôn, nơi
có nhiều DNNVV đang cần vốn, đã tạo điều kiện cho họ có khả năng tiếp cận nguồn
vốn ngân hàng với lãi suất cạnh tranh và hấp dẫn.
1.3.1.4. Đài Loan:
Thành lập “Quỹ phát triển xí nghiệp vừa và nhỏ” nhằm mục đích giúp các
DNNVV cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp
-13-
và cấp tín dụng với lãi suất thấp hơn lãi suất ngân hàng. Thành lập ngân hàng chuyên
cho các DNNVV vay vốn.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc cấp TDNH cho DNNVV:
Từ những kinh nghiệm thực tế ở các nước, có thể thấy rằng:
- Đa số các DNNVV trước tiên phải tự hoàn thiện, phát triển dựa trên chính
mình, tranh thủ sự trợ giúp từ Chính phủ.
- Chính phủ thiết lập những cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp như: dành
một tỷ lệ vốn huy động nhất định để cho vay DNNVV, thành lập quỹ bảo lãnh tín
dụng, các trung tâm trợ giúp, tư vấn cho DNNVV.
- Nhà nước quan tâm đặc biệt đến khu vực này, có thể đưa những quy định đối
với DNNVV vào trong Luật.
Với những kinh nghiệm nêu trên, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam như sau:
- Trong việc cấp TDNH cho các DNNVV, Nhà nước giữ vai trò hỗ trợ, giúp đỡ
chứ không bao cấp. Phải để cho các DNNVV tự nâng cao sức cạnh tranh trên thị
trường, tìm kiếm nhà đầu tư vốn hiệu quả.
- Có thể nghiên cứu thành lập ngân hàng chuyên cho vay đối với DNNVV trực
thuộc các TCTD.
- Thành lập và tổ chức Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV để bảo lãnh vay
vốn ngân hàng khi họ không đủ tài sản đảm bảo.
-14-
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, vai trò đóng góp của các thành phần
kinh tế là rất quan trọng. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mà đại bộ phận có quy
mô nhỏ và vừa. DNNVV có những vai trò to lớn mà chúng ta phải thừa nhận trong việc
đóng góp vào sự phát triển nền kinh tế đất nước. Để có được lực lượng các DNNVV đủ
mạnh về quy mô, năng lực hoạt động, có khả năng cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi
các DNNVV phải cần đến lượng vốn đầu tư phù hợp.
Trong chương này, chúng ta phân tích vai trò của TDNH đối với DNNVV, cũng
như đối với sự nghiệp CNH – HĐH. Qua đó, thấy được vai trò to lớn của DNNVV đối
với nền kinh tế. Bài học kinh nghiệm từ các nước về phát triển DNNVV, đòi hỏi Việt
Nam cần nghiên cứu vận dụng.
Để nắm rõ về tình hình hoạt động tín dụng của các TCTD đối với các DNNVV
như thế nào? Thực trạng hoạt động của các DNNVV trên địa bàn Đồng Nai ra sao?
Đặc biệt là một số khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của nó trong cấp tín dụng cho
đối tượng DNNVV trong cả nước nói chung và tại Đồng Nai nói riêng. Chúng ta sẽ
nghiên cứu ở chương 2 dưới đây.
-15-
CHÖÔNG 2
2.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Đồng Nai:
2.1.1. Vị trí địa lý, dân số, nguồn lao động:
Đến nay, Đồng Nai có mười một đơn vị hành chính, gồm chín Huyện, một Thị xã
và Thành phố Biên Hoà là trung tâm hành chính, kinh tế, văn hoá của tỉnh. Chín
Huyện gồm: Tân Phú, Định Quán, Xuân Lộc, Vĩnh Cửu, Long Thành, Nhơn Trạch,
Thống Nhất, Cẩm Mỹ và Trảng Bom (Cẩm Mỹ và Trảng Bom là 2 huyện mới thành
lập năm 2003), và một Thị xã là Thịxã Long Khánh.
Tỉnh Đồng Nai nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam: Đông giáp tỉnh
Bình Thuận, đông bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, Tây bắc giáp tỉnh Bình Dương và Bình
Phước, Nam giáp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Tây giáp TP.HCM.
Có vị trí hết sức quan trọng do nằm ngang cửa ngõ thành phố Hồ Chí Minh, một
trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, là cửa ngõ của trục động lực kinh tế trọng điểm
phía nam: Thành Phố Hồ Chí Minh, Biên Hoà, Bà Rịa – Vũng Tàu, giữ vai trò trọng
yếu trong vùng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng.
Về dân số: Đến cuối năm 2003, dân số Đồng Nai có quy mô 2.207 ngàn người,
tốc độ tăng bình quân khoảng 2,4%/năm. Tỷ lệ dân cư sống ở thành thị chiếm 40%,
còn lại sống ở nông thôn. Số người trong độ tuổi lao động 123 ngàn người, tăng bình
quân 3,5%/năm.
Diện tích tự nhiên của tỉnh Đồng Nai khoảng 5.862,37 km2. Quỹ đất khá phong
phú, phì nhiêu và đa dạng, được chia thành các loại đất: 2.984 km2 đất nông nghiệp,
1.758 km2 đất lâm nghiệp, 690 km2 đất chuyên dùng, 106 km2 đất ở và 324 km2 đất
chưa sử dụng.
Lao động trên địa bàn được phân bố như sau:
• Lao động trong các ngành nông, lâm, thủy chiếm 46%.
• Lao động trong các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 33%.
-16-
• Các ngành dịch vụ chiếm: 21%.
2.1.2. Một số kết quả về Kinh tế - Xã hội, góp phần thúc đẩy quá trình CNH –
HĐH ở tỉnh Đồng Nai.
Theo báo cáo đánh giá tình hình chín tháng và nhiệm vụ công tác quý IV của
Tỉnh Uỷ Đồng Nai và báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng chín tháng
đầu năm 2004 và nhiệm vụ chủ yếu quý IV năm 2004 của Uỷ ban nhân dân Tỉnh Đồng
Nai cho thấy:
Năm 2004, cùng với những khó khăn chung của cả nước như: Giá vật tư hàng hoá
tăng cao, đặc biệt là giá thép, xăng dầu, gas và dịch cúm gia cầm đã làm cho việc thực
hiện mục tiêu kinh tế của Tỉnh gặp nhiều khó khăn.
¾ Về sản xuất công nghiệp: Chín tháng đầu năm 2004, giá trị sản xuất công
nghiệp đạt 24.667 tỷ đồng, bằng 73,9% kế hoạch năm, tăng 18,5% so cùng kỳ. Đã tập
trung đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị, công nghệ, thực hiện các chính sách ưu đãi đầu
tư, tháo gỡ kịp thời khó khăn của doanh nghiệp. Gía trị sản xuất công nghiệp quốc
doanh Trung ương tăng 11,7%, địa phương tăng 16%, công nghiệp ngoài quốc doanh
tăng 22,4%, công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,9% so cùng kỳ.
¾ Về hoạt động thương mại - dịch vụ: Lưu thông hàng hoá trên thị trường nội địa
ổn định, hàng hoá phong phú, đa dạng đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá tăng 17,7%, chỉ số giá tiêu dùng chín tháng tăng 9,1%.
Ngành thương mại đã tổ chức tốt các hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư
trong, ngoài nước, tăng cường quản lý thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại,
sắp xếp và phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ người lao động tại các khu công
nghiệp. Kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu đạt 2,3 tỷ USD,
chủ yếu nhập vật tư, máy móc thiết bị.
-17-
¾ Về sản xuất nông nghiệp: Nhìn chung là phát triển thuận lợi, giá trị sản xuất
nông nghiệp tăng 4,8% so cùng kỳ, đạt giá trị 3.417 tỷ đồng.
¾ Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Chín tháng thu hút thêm 791 triệu USD, có
70 dự án mới chủ yếu là dự án sản xuất công nghiệp, phục vụ xuất khẩu với số vốn 439
triệu USD. Các dự án tăng vốn có 69 dự án, với số vốn gần 352 triệu USD.
Đến nay, toàn tỉnh có 570 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký 6,99 tỷ USD, trong đó
có 300 dự án đi vào hoạt động, 117 dự án đang xây dựng, vốn thực hiện trên 3,3 tỷ
USD, tỷ lệ cho thuê đất bình quân chiếm 55% số diện tích đất dành cho thuê trong tổng
số 15 Khu công nghiệp đã được Chính phủ phê duyệt.
2.2. Thực trạng hoạt động của các DNNVV ở Đồng Nai:
2.2.1. Số lượng và quy mô vốn DNNVV ở tỉnh Đồng Nai.
Bảng số 2.1: Tình hình DNNVV ở tỉnh Đồng Nai.
Đơn vị: Triệu đồng.
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Hình thức
doanh nghiệp
Số doanh
nghiệp
Số
vốn
Số doanh
nghiệp
Số
vốn
Số doanh
nghiệp
Số
vốn
DNTN
CT TNHH
CT CP
Hộ cá thể
Tổng cộng
1.180
452
33
17.400
19.065
653.707
1.149.690
614.880
1.480.000
3.898.277
1300
650
54
22.500
24.504
795.600
1.540.320
750.000
2.230.000
5.315.920
1.552
893
70
26.000
28.515
976.398
2.083.904
981.393
3.120.000
7.161.695
(Nguồn : Báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện NQ 14 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX
trên địa bàn Đồng Nai).
Nhờ vào sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp, kể từ năm 2000, số lượng và
vốn đăng ký của doanh nghiệp mà hầu hết là DNNVV không ngừng tăng so với các
năm trước.
-18-
Năm 2003 có 2.515 DNNVV (chưa kể hộ kinh doanh cá thể), tăng 34% về số
doanh nghiệp so với năm 2002 và tăng 51,5% so với năm 2001.
Biểu đồ số 2.1
Biểu đồ so sánh số DNNVV qua các năm
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
DNTN CT
TNHH
CTCP Hộ cá
thể
Số
D
N
N
VV 2001
2002
2003
Tổng vốn đăng ký của các DNNVV (chưa kể hộ kinh doanh cá thể) trên địa bàn
đến cuối năm 2003 là 4.041 tỷ đồng, tăng so với năm 2002 khoảng 31%, bình quân một
doanh nghiệp khoảng 1,6 tỷ đồng. Tổng vốn đăng ký của 26.000 hộ kinh doanh cá thể
đạt 3.120 tỷ đồng, bình quân một hộ cá thể đạt 120 triệu đồng. Như vậy nhìn chung,
quy mô doanh nghiệp ở Đồng Nai còn nhỏ cả về số lượng và quy mô vốn.
Như vậy, tổng vốn đăng ký đến cuối năm 2003 đạt 7.161 tỷ đồng, tăng 34,7% so
với đầu năm và tăng 83,7% so với cuối năm 2001.
-19-
Biểu đồ số 2.2: Tình hình vốn đăng ký của DNNVV ở Đồng Nai.
0
1000
2000
3000
4000
DNTN CT TNHH CTCP Hộ cá thể
2001 2002 2003
Xu thế góp vốn chủ yếu của doanh nghiệp bằng tiền mặt, chiếm khoảng 70%, số
còn lại góp bằng tài sản như nhà, đất, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải.
Chín tháng đầu năm 2004, toàn tỉnh có 470 DNNVV thành lập mới (không kể hộ
kinh doanh cá thể), với tổng vốn đăng ký là 1.050 tỷ đồng. Trong đó có 200 DNTN,
vốn đăng ký 150 tỷ đồng; 242 Công ty TNHH, vốn đăng ký 420 tỷ đồng; 28 CTCP,
vốn đăng ký 480 tỷ đồng. Ngoài ra, trong 9 tháng đầu năm có 150 doanh nghiệp đăng
ký bổ sung 650 tỷ vốn kinh doanh. Như vậy, trong 9 tháng năm 2004, tổng vốn đăng
ký mới và bổ sung là 1700 tỷ đồng.
Tính đến cuối 9/2004, tổng số DNNVV (chưa kể hộ cá thể) trên toàn Tỉnh có
khoảng 3.000 doanh nghiệp, vốn đăng ký hơn 8.861 tỷ đồng.
2.2.2. Những đóng góp của DNNVV đối với nền kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Nai:
Trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Nai năm 2002 và 2003. Các
DNNVV cũng đạt được sự phát triển đáng khích lệ kể cả số lượng doanh nghiệp và
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
._.Do các DNNVV được hình thành và hoạt động trên một diện rộng từ thành phố,
thị xã, thị trấn đến các vùng nông thôn và sản xuất, kinh doanh rất nhiều ngành nghề.
Các doanh nghiệp thương mại dịch vụ làm nhiệm vụ thu mua nông sản, thực phẩm cho
các doanh nghiệp lớn, làm đại lý tiêu thụ sản phẩm cung ứng cho người tiêu dùng. Đây
thực sự là cầu nối hai chiều giữa người sản xuất với người tiêu dùng mà chủ yếu là các
-20-
hộ nông dân. Đây chính là những đóng góp to lớn của các DNNVV vào sự nghiệp phát
triển kinh tế của tỉnh Đồng Nai.
Nếu tính riêng lẻ từng doanh nghiệp về vốn đăng ký, số lượng lao động sử dụng,
tổng giá trị sản lượng, mức đóng góp vào ngân sách là nhỏ. Nhưng với lợi thế là khối
lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn rất lớn nên trên thực tế các DNNVV đã có
những đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của nền kinh tế tỉnh Đồng Nai.
Theo báo cáo tổng kết 2 năm thực hiện Nghị quyết 14/ NQ-TW của Tỉnh uỷ
Đồng Nai thì:
- Năm 2002 GDP kinh tế tư nhân mà hầu hết là DNNVV là 6.926 tỷ, chiếm
39,9% GDP trên địa bàn, tăng 10,1% so với năm 2001. Năm 2003 là 8.098 tỷ đồng
chiếm 40,28% GDP toàn tỉnh, tăng 11,9% so với năm 2002.
- Đóng góp vào ngân sách năm 2003 là 399,7 tỷ đồng, chiếm 14,33% tổng thu
ngân sách của tỉnh Đồng Nai.
- Có 55 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu đạt 42,4 triệu
USD chiếm tỷ trọng 33,65% kim ngạch xuất khẩu của địa phương .
- Giải quyết việc làm cho 72.695 người, mức thu nhập bình quân cho một lao
động là 817.000 đồng.
- Xây dựng 1.373 căn nhà tình thương và 27 căn nhà tình nghĩa. Đóng góp vào
Quỹ từ thiện 1.233 triệu đồng và Quỹ đền ơn đáp nghĩa 2.999 triệu đồng.
Qua tình hình trên đây cho thấy sự đóng góp của các DNNVV là rất đáng kể, góp
phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo tại địa phương.
2.2.3. Một số tồn tại và nguyên nhân tồn tại đối với việc phát triển DNNVV tại
Đồng Nai.
Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, xoá bỏ cơ chế
quản lý tập trung, quan liêu bao cấp. Phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
-21-
xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Cùng với việc ban hành Luật Doanh
nghiệp và các chính sách hỗ trợ khác. Đã tạo điều kiện cho hàng loạt DNNVV ra đời.
Sự ra đời của các DNNVV trong thời gian qua đã góp phần đáng kể vào sự phát
triển của nền kinh tế đất nước nói chung và kinh tế Đồng Nai nói riêng.
Tuy vậy trong quá trình hoạt động của các DNNVV đã bộc lộ một số tồn tại:
- Cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ bé, máy móc thiết bị cũ kỹ, lạc hậu: Các
DNNVV ra đời từ điểm xuất phát của một nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển, khả
năng tài chính hạn hẹp, không có điều kiện đầu tư trang thiết bị mới. Theo báo cáo của
Cục Thống kê năm 2003, cho thấy: “Trình độ kỹ thuật công nghệ của khu vực
DNNVV chủ yếu là trung bình và lạc hậu, chỉ 6,82% có công nghệ tiên tiến, còn lại
61,7% có công nghệ trung bình và 31,45% có trình độ công nghệ lạc hậu. Hầu hết các
DNNVV có trình độ thủ công hoặc cơ khí, bán cơ khí, chỉ có một bộ phận nhỏ có
trình độ tự động hoá. Cụ thể: 10,70% tự động hoá và bán tự động hoá, 47,49% cơ khí
và bán cơ khí, 41,81% thủ công. Do đó năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành
cao, không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, thiếu khả năng cạnh tranh trên thị
trường.
- Đại bộ phận doanh nghiệp thiếu vốn, chưa nhận được sự trợ giúp của Chính phủ,
khó tiếp cận nguồn vốn TDNH. Vốn là một điều kiện cần thiết và quan trọng trong quá
trình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện tại các DNNVV chẳng những
thiếu vốn cố định mà vốn lưu động cũng thiếu trầm trọng. Mặc dù Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 90/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển DNNVV, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20/12/2001 về ban
hành qui chế bảo lãnh tín dụng cho DNNVV, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số
42/2002/TT-BTC ngày 7/5/2002 hướng dẫn thi hành Quyết định 193/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ, NHNN ban hành Thông tư 06/2003/TT-NHNN ngày 10/4/2003
hướng dẫn một số nội dung về góp vốn thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng. Nhưng đến
-22-
nay Quỹ bảo lãnh chưa hình thành và hoạt động nên các DNNVV chưa nhận được sự
trợ giúp nào từ các chủ trương trên.
- Đa số trình độ quản trị, điều hành của những người đứng đầu DNNVV còn thấp:
Đội ngũ những người đứng đầu DNNVV hiện nay đại bộ phận chưa được đào tạo
hay được đào tạo chưa theo kịp với xu hướng phát triển đòi hỏi của nền kinh tế. Theo
điều tra mới đây của Cục Thống kê tỉnh Đồng Nai thì có tới 65% chủ doanh nghiệp
không có bằng cấp chuyên môn, họ điều hành quản lý doanh nghiệp bằng kinh nghiệm
thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh và theo truyền thống cha truyền con nối.
Thêm vào đó Luật Doanh nghiệp mới ra đời tạo ra một môi trường hết sức thông
thoáng, không đòi hỏi trình độ của chủ doanh nghiệp cho nên số lượng DNNVV tăng
nhanh.
- Chất lượng nguồn nhân lực trong các DNNVV rất thấp: Nhu cầu lao động cho
các DNNVV ngày càng lớn trong khi khả năng đào tạo của các Trung tâm dạy nghề thì
có hạn. Theo báo cáo của Cục Thống kê tỉnh Đồng Nai chỉ có 29% trong tổng số lao
động đang sự dụng được đào tạo nghề mà số lao động này lại bị các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài thu hút và tâm lý người lao động cũng không muốn làm việc tại
các DNTN, mà muốn làm việc tại các doanh nghiệp lớn ở các khu vực công nghiệp tập
trung. Vì vậy DNNVV chỉ có khả năng thu nhận từ nguồn lao động phổ thông.
- Chưa chấp hành tốt chế độ kế toán, thống kê: DNNVV trên thực tế đại bộ phận
mang tính chất gia đình cho nên họ không quan tâm đến công tác kế toán, thống kê.
Hiện tại nhiều doanh nghiệp thuê kế toán viên theo từng công việc, từng thời gian mà
chủ yếu phục vụ cho việc báo cáo, quyết toán với cơ quan thuế. Vì vậy có hiện tượng
một kế toán viên nhận làm kế toán cho nhiều doanh nghiệp.
- Hoạt động riêng lẻ thiếu mối liên kết: Các DNNVV hoạt động sản xuất kinh
doanh theo nhiều ngành nghề với qui mô nhỏ ở rải rác trên địa bàn rộng. Họ thường
hoạt động độc lập với nhau không có mối liên kết nên thiếu sức mạnh tập thể, để tạo
điều kiện giúp nhau phát triển, chống cạnh tranh tiêu cực.
-23-
- Điều kiện, khả năng tiếp nhận và phân tích thông tin bị hạn chế: Hiện tại các
DNNVV sản xuất, kinh doanh đang chạy theo thị trường trước mắt. Cái gì có lợi là sản
xuất kinh doanh cho nên việc lãi ít ngày hôm nay, lỗ nhiều vào ngày mai là việc
thường xuyên xảy ra. Họ không có điều kiện và khả năng tiếp nhận, phân tích thông tin
trong nền kinh tế thị trường mà hoàn toàn dự báo theo kinh nghiệm của từng cá nhân
cho nên rủi ro xảy ra lớn, nhiều doanh nghiệp thua lỗ, công nợ lớn hoặc phải giải thể.
- Bản thân doanh nghiệp thì tự ty, các cơ quan liên quan thì có tư tuởng phân biệt
đối xử.
Do còn rơi rớt tư tưởng từ thời kinh tế tập trung quan liêu bao cấp nên hiện tượng
phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, gây khó dễ trong quan hệ công tác, thiếu
sự hỗ trợ cần thiết khi doanh nghiệp cần giúp đỡ. Bản thân doanh nghiệp còn mang tư
tưởng tự ty nên thiếu mạnh dạn tiếp cận với các cơ quan khi có nhu cầu.
2.3. Thực trạng hoạt động TDNH đối với các DNNVV trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
2.3.1. Vài nét về hoạt động Ngân hàng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thời gian qua.
Năm 1976 Chi nhánh NHNN Tỉnh Đồng Nai được thành lập cùng với chín chi
nhánh cấp huyện, thực hiện hai chức năng vừa quản lý nhà nước về hoạt động Ngân
hàng trên địa bàn, vừa trực tiếp quan hệ với khách hàng để thực hiện chức năng kinh
doanh.
Năm 1989 thực hiện công cuộc đổi mới, Ngân hàng được tách làm hai cấp.
NHNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng. Các Ngân hàng
chuyên doanh thực hiện chức năng kinh doanh. Sau đó lần lượt hai Pháp lệnh và hai
Luật về NHNN và Luật các TCTD ra đời đã tạo điều kiện cho ngành Ngân hàng Đồng
Nai phát triển không ngừng, góp phần rất lớn đến sự phát triển nền kinh tế tỉnh nhà.
2.3.1.1. Hệ thống các TCTD trên địa bàn:
Để duy trì và giữ vững nhịp độ tăng trưởng, mở rộng kinh doanh chiếm lĩnh thị
phần, thời gian qua tất cả các TCTD trên địa bàn đều tập trung phát triển xây dựng
-24-
thêm nhiều cơ sở giao dịch mới ở các khu vực trọng điểm, kinh tế tập trung như các
khu công nghiệp, các thị trấn thuộc các huyện trong tỉnh.
Tính đến 31/12/2004 trên địa bàn toàn tỉnh có tất cả 104 cơ sở giao dịch của các
TCTD bao gồm: 12 chi nhánh cấp tỉnh, 24 chi nhánh cấp II, 53 chi nhánh cấp III và
phòng giao dịch, và 19 QTD ND cơ sở.
Đồng Nai là một trong những địa phương trong cả nước có hệ thống các TCTD
khá hoàn chỉnh, hiện diện đầy đủ các chi nhánh của 5 NHTM Nhà Nước (Ngân hàng
Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông
Cửu Long) với đủ loại hình Chi nhánh Ngân hàng cấp I, Cấp II, phòng giao dịch, đủ
thành phần Nhà nước, Cổ phần, Liên doanh, Quỹ tín dụng. Địa bàn hoạt động rộng, đủ
thành phần như vậy là cơ sở thuận lợi cho công tác huy động vốn trong dân cư, có điều
kiện chuyển tải vốn tín dụng đến với khách hàng, cung cấp các tiện ích của Ngân hàng
đến với số đông dân chúng, trong đó có các DNNVV.
Bảng 2.2. Hệ thống các TCTD trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
TÊN CÁC TCTD
Chi
nhánh
cấp I
Chi
nhánh
cấp II
CN cấp III,
phòng giao
dịch, QTDND
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn 1 10 30
Ngân hàng Ngoại thương 1 2 1
Ngân hàng Đầu tư và phát triển 1 2 1
Ngân hàng Công thương Đồng Nai 1 2 1
Ngân hàng Công thương Khu công nghiệp Biên Hoà 1 2 2
Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông cửu long 1 4
Ngân hàng Chính sách - Xã hội 1 10
Ngân hàng Sài gòn Thương tín 1 2 2
Ngân hàng Liên doanh Việt Thái 1
Ngân hàng Cổ phần Á Châu 1
Ngân hàng Cổ phần Nông thôn Đại Á 1 4 2
Chi nhánh Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương 1
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 19
Tổng số 12 24 72
(Nguồn: Báo cáo của NHNN tỉnh Đồng Nai tổng kết 30 năm hoạt động ngân hàng).
-25-
2.3.1.2. Về hoạt động tín dụng của hệ thống các TCTD trên địa bàn thời gian
qua.
Trong thời gian qua, các TCTD trên địa bàn đã hoạt động ngày càng tăng về quy
mô và chất lượng hoạt động.
Bảng 2.3. Tổng hợp tình hình hoạt động ngân hàng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai:
§¬n vị tÝnh: Tû ®ång
Chỉ Tiêu N¨m 2000 N¨m 2001 N¨m 2002 N¨m 2003 N¨m
2004
1. Tæng nguån vèn 4.397 6.501 8.520 10.429 12.444
T.®ã: Huy ®éng t¹i chæ 2.609 3.248 5.112 6.829 8.187
- TiÒn göi d©n c− 1.414 1.806 2.572 3.680 4.010
- TiÒn göi TCKT 1.195 1.442 2.540 3.149 4.177
2. Tæng DSCV 7.303 7.935 12.064 15.499 19.083
T.®ã: - DSCV ng¾n h¹n 6.602 6.897 10.298 12.999 15.643
- DSCV trung, dμi h¹n 701 1.038 1.766 2.500 3.440
3. Tæng d− nî 4.062 5.877 7.643 9.147 11.070
Tr.®ã: - D− nî ng¾n h¹n 2.908 3.943 4.938 5.631 6.813
- D− nî trung, dμi h¹n 1.154 1.934 2.705 3.516 4.257
- Tû träng d− nî trung,
dμi h¹n/tæng d− nî(%)
28,41 32,91 35,39 38,44 38,4
4. D− nî qu¸ h¹n 91 113 199 170 111
- Tû träng D− nî qu¸
h¹n/ Tæng D− nî
2,24% 1,92% 2,60% 1,86% 1,00%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động ngân hàng của NHNN tỉnh Đồng Nai qua các năm)
- Về huy động vốn: Đến cuối năm 2004, tổng nguồn vốn đạt 12.444 tỷ đồng,
tăng 19,3% so với năm 2003, tăng gần gấp 3 lần so với cuối năm 2000. Trong đó vốn
huy động tại chỗ đạt 8.187 tỷ đồng, tăng 19,9% so với đầu năm, chiếm 65,8% trên tổng
nguồn vốn và chiếm 74% trên tổng dư nợ.
-26-
Các TCTD trên địa bàn đã tích cực đẩy mạnh huy động vốn tại chỗ, cải tiến thủ
tục gửi rút tiền, phương thức trả lãi linh hoạt, cung cấp nhiều sản phẩm huy động mới.
Ngoài ra, các TCTD trên địa bàn còn thu hút khách hàng thông qua các chương trình
quảng cáo, tiếp thị, mở rộng mạng lưới giao dịch, phát triển sản phẩm mới, cung ứng
dịch vụ hiện đại. Thực hiện chương trình công nghệ hoá ngân hàng, các TCTD đã trang
bị máy rút tiền tự động (ATM), hệ thống mạng có thể gửi một nơi, rút ở nhiều nơi,
thanh toán điện tử liên ngân hàng…
Đến cuối năm 2004, nguồn vốn để cho vay trung, dài hạn bao gồm: Vốn huy
động tại chỗ trung, dài hạn và một phần nguồn vốn ngắn hạn được cho vay trung, dài
hạn chiếm 68,35% (2.910 triệu đồng /4.257 triệu đồng) so với dư nợ trung, dài hạn
toàn địa bàn Tỉnh. Do đó, các TCTD trên địa bàn phải nhận vốn điều hoà từ cấp trên để
đáp ứng nhu cầu vốn trung, dài hạn cho các doanh nghiệp.
Biểu đồ số 2.3:
Tình hình nguồn vốn của các TCTD trên địa
bàn qua các năm
0
5000
10000
15000
2000 2001 2002 2003 2004
Tổ
ng
n
gu
ồn
v
ốn
:
tỷ
đ
ồn
g. Tổng nguồn vốn
Huy động tại
chỗ
Tiền gửi dân cư
Tiền gửi các
TCKT
- Doanh số cho vay:
-27-
Biểu đồ số 2.4:
Tình hình doanh số cho vay của các
TCTD trên địa bàn
0
5000
10000
15000
20000
25000
2000 2001 2002 2003 2004
D
oa
nh
s
ố
ch
o
va
y
: t
ỷ
đồ
ng
Doanh số cho
vay
Doanh số cho
vay ngắn hạn
Doanh số cho
vay trung, dài
hạn
Tổng doanh số cho vay năm 2004 đạt 19.083 tỷ đồng, tăng 23,1% so với cùng kỳ
năm 2003. Trong đó doanh số cho vay trung, dài hạn là 3.440 tỷ đồng, chiếm 18% so
với tổng doanh số cho vay.
- Dư nợ cho vay :
Tổng dư nợ cho vay của các TCTD trên địa bàn tỉnh đến cuối năm 2004 đạt
11.070 tỷ đồng, tăng 21% so với cuối năm 2003, bằng 87,5% kế hoạch. Trong đó, dư
nợ trung, dài hạn là 4.257 tỷ đồng, tăng 21,1% so với năm 2003 và chiếm tỷ trọng
38,5% trên tổng dư nợ.
Biểu đồ số 2.5: Tình hình dư nợ của các TCTD trên địa bàn:
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
2000 2001 2002 2003 2004
D
ư
n
ợ
c
ho
v
ay
:
tỷ
đ
ồn
g
Tổng dư nợ
Dư nợ ngắn hạn
Dư nợ trung, dài
hạn
-28-
Phân tích kết cấu dư nợ đến cuối năm 2004, như sau:
Dư nợ theo thành phần kinh tế:
Biểu đồ số 2.7: Cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế.
DN ngoài
quốc doanh
39%
DN Nhà
Nước
29%
DN có vốn
đầu tư
nước ngoài
32%
DN có vốn đầu
tư nước ngoài
DN Nhà Nước
DN ngoài quốc
doanh
• Dư nợ các DNĐTNN: 3.542 tỷ, chiếm 32% trên tổng dư nợ.
• Dư nợ các TCKT nhà nước 3.210 tỷ đồng chiếm 29% trên tổng dư nợ.
• Dư nợ các thành phần ngoài quốc doanh 4.318 tỷ đồng chiếm 39% trên tổng dư
nợ.
Theo ngành kinh tế:
Biểu đồ số 2.8: Cơ cấu dư nợ theo ngành kinh tế:
Nông, lâm,
ngư nghiệp
16%
Thương
mại, dịch vụ
42%
Công
nghiệp -
xây dựng
42%
Công nghiệp -
xây dựng
Thương mại,
dịch vụ
Nông, lâm, ngư
nghiệp
• Dư nợ ngành Công nghiệp - xây dựng: 4.650 tỷ, chiếm 42% tổng dư nợ.
-29-
• Dư nợ ngành Thương mại - dịch vụ : 4.649 tỷ đồng chiếm 42% tổng dư nợ.
• Dư nợ ngành Nông, lâm, ngư nghiệp 1.771 tỷ, chiếm 16% tổng dư nợ.
Biểu đồ số 2.6: Tỷ trọng dư nợ của các TCTD trên địa bàn:
NH Ngoại Thương
25%
NHCS XH
1%
NH PT nhà
1%
NH Á Châu
1%
QTD ND
2%
NH Đại Á
3%
NH Sài Gòn Thương
Tín
2%
NH CT Đồng Nai
9%
NH Đầu Tư
10%
NH Nông nghiệp
28%
NHCT Khu Công
Nghiệp
18%
NH LD Việt Thái
0%
NH Nông nghiệp NH Ngoại Thương NHCT Khu Công Nghiệp NH Đầu Tư
NH CT Đồng Nai NH Đại Á QTD ND NH Sài Gòn Thương Tín
NHCS XH NH PT nhà NH Á Châu NH LD Việt Thái
Tổng dư nợ quá hạn đến 31/12/2004 là 111 tỷ (tính cả nợ khoanh và nợ chờ xử
lý), chiếm tỷ trọng 1,0% trên tổng dư nợ. Nếu chỉ tính riêng nợ quá hạn bình thường là
86 tỷ đồng và tỷ trọng là 0,78% trên tổng dư nợ.
Nói tóm lại, hoạt động tín dụng của các TCTD trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thời
gian vừa qua là khá tốt. Chính từ sự tăng trưởng các chỉ tiêu này đã đẩy mạnh sự đóng
góp to lớn của các TCTD đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh Đồng Nai. Việc
thay đổi cơ cấu đầu tư của các TCTD đã góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế tỉnh
-30-
nhà theo hướng Công nghiệp - Nông nghiệp - Thương mại, Dịch vụ, góp phần thực
hiện thắng lợi sự nghiệp CNH – HĐH nền kinh tế Tỉnh nhà.
2.3.2. Nguồn vốn cho các DNNVV.
Vốn là yếu tố cơ bản quyết định sự thành bại trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng. Doanh nghiệp càng lớn nhu
cầu vốn càng lớn, thông thường vốn của DNNVV được hình thành như sau:
+ Vốn tự có và xem như tự có.
+ Vốn đi vay.
2.3.2.1 Vốn tự có của các DNNVV: Là vốn riêng của chủ doanh nghiệp, vốn góp
của các cổ đông. Nguồn vốn này thường chiếm tỷ trọng thấp trong tổng nguồn vốn,
chiếm từ 15 - 20% nguồn vốn của doanh nghiệp.
- Vốn coi như tự có là vốn góp của bạn bè, người thân, chiếm dụng vốn hợp pháp,
như tiền mua hàng chưa thanh toán cho người bán, tiền bán hàng ký gửi…
2.3.2.2. Vốn vay : Bao gồm vay ngắn hạn và vay trung, dài hạn, nguồn vốn này chủ
yếu từ các TCTD. Ngoài ra, một số doanh nghiệp sản xuất một số mặt hàng mang tính
đặc thù, có quan hệ tốt với một tổ chức Phi Chính phủ có thể nhận được nguồn vốn tài
trợ từ tổ chức đó. Hiện nay có nhiều tổ chức quốc tế rất quan tâm tới sự phát triển của
các DNNVV ở Việt Nam, Dự án VIE/98 MO2/SID giữa Chính phủ Việt Nam (qua
VCCI - Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam) và Chính phủ Thụy Điển – ILO
có trị giá 1,7 triệu USD dành cho các DNNVV, chương trình hỗ trợ phát triển dự án
MeKong (MPDF) do Công ty tài chính quốc tế (IFC) quản lý và hỗ trợ thành lập, phát
triển DNNVV.
Ngày 9 tháng 11 năm 2004, Thống đốc NHNN và đại diện Ngân hàng Phát triển
Châu Á (ADB) đã ký kết khoản vay 60 triệu USD nhằm cải thiện môi trường kinh
doanh cho các DNNVV, dự án hỗ trợ việc đăng ký doanh nghiệp với chi phí thấp, xây
dựng hệ thống qui trình cấp phép, đơn giản hoá hệ thống kế toán cho DNNVV. Tăng
-31-
cường việc sử dụng đăng ký đất đai và phát triển hệ thống tiêu chuẩn công nghiệp và
kỹ thuật ở Việt Nam.
2.3.3. Tình hình đầu tư TDNH trong thời gian qua đối với các DNNVV trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai.
Khi thực hiện nghiên cứu đề tài này, tác giả đã điều tra một số chỉ tiêu liên quan
đến DNNVV đối với các TCTD trên địa bàn, hình thức điều tra là gửi bảng mẫu đến
các TCTD trên địa bàn và tổng hợp, kết quả như sau:
2.3.3.1. Tình hình số DNNVV quan hệ tín dụng với các TCTD:
Bảng số 2.4: Số DNNVV đang quan hệ tín dụng với các TCTD trên địa bàn qua các
năm:
Loại hình doanh nghiệp Năm 2002 Năm 2003 Quí I/ 2004
1. DNNN 42 59 36
2. DNĐTNN 5 10 10
3. CTCP 9 14 17
4. TNHH 87 150 186
5. DNTN 235 380 467
6. HTX 4 6 5
7. Cá thể 5.753 6.885 6.417
(Nguồn: Thống kê từ báo cáo của các TCTD trên địa bàn tỉnh Đồng Nai)
Qua bảng tổng hợp trên, tổng số doanh nghiệp có quan hệ tín dụng và hiện còn dư
nợ tại các TCTD như sau:
Năm 2002: 6.135 doanh nghiệp chiếm 22,23% tổng số doanh nghiệp
Năm 2003: 7.484 doanh nghiệp chiếm 27,12% tổng số doanh nghiệp
Quí I/2004: 7.138 doanh nghiệp chiếm 25,86% tổng số doanh nghiệp.
-32-
Biểu đồ số 2.9: Tình hình DNNVV (chưa kể hộ kinh doanh cá thể) quan hệ tín
dụng với các TCTD qua các năm:
42
59
36
5 1010 9 14 17
87
150
186
235
380
467
4 6 50
100
200
300
400
500
DNNN DNĐTNN CT CP CT THHH DNTN HTX
2002
2003
Q1/2004
2.3.3.2. Nhu cầu về vốn đầu tư của các DNNVV trên địa bàn tỉnh Đồng Nai:
Theo số liệu điều tra, trong năm 2004 nhu cầu vốn vay của 7.138 doanh nghiệp
đang quan hệ tín dụng với các TCTD trên địa bàn là 1.789.802 triệu đồng, tăng 59% so
với dư nợ của DNNVV tại các TCTD cuối năm 2003 trên toàn địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Trong đó, loại hình DNNN và hộ kinh doanh cá thể có nhu cầu vốn vay cao nhất,
chiếm 68% tổng nhu cầu vốn của các DNNVV.
Nhu cầu về vốn là rất lớn và ngày càng tăng, trong khi khả năng cung ứng vốn
của các TCTD trên địa bàn gặp nhiều khó khăn, khó khăn đến từ chính các TCTD, từ
bản thân các DNNVV và chính sách của Nhà nước. Vì vậy, điều cấp thiết là phải tìm
những khó khăn và nguyên nhân gây ra để từ đó có các giải pháp phù hợp và khả thi
nhằm tháo gỡ những khó khăn về vốn tín dụng cho các DNNVV.
2.3.3.3. Tình hình về cho vay DNNVV trên địa bàn:
Năm 2002: 1.172 tỷ đồng, chiếm 9,71% tổng DSCV trên địa bàn.
Năm 2003: 1.948 tỷ đồng, chiếm 12,56 % tổng DSCV trên địa bàn.
Quí I/2004: 609 tỷ đồng, chiếm 6,62 % tổng DSCV trên địa bàn.
-33-
Bảng số 2.5: DSCV đối với DNNVV của các TCTD trên địa bàn qua các năm:
Đơn vị: Triệu VND.
Loại hình DN Năm 2002 Năm 2003 Quí I/ 2004
1. DNNN 571.580 664.555 132.485
2. DNCVĐTNN 17.125 63.371 6.669
3. CTCP 24.348 314.214 58.433
4. TNHH 129.460 190.044 80.623
5. DNTN 93.815 217.891 130.866
6. HTX 22.611 26.768 5.035
7. Cá thể 313.601 471.966 195.652
(Nguồn: Thống kê từ báo cáo của các TCTD trên địa bàn tỉnh Đồng Nai)
2.3.3.4. Tình hình dư nợ tín dụng các DNNVV trên địa bàn:
Bảng 2.6: Dư nợ cho vay của các TCTD đối với DNNVV trên địa bàn qua các năm:
Đơn vị: Triệu VND.
Loại hình DN Năm 2002 Năm 2003 Quí I/ 2004
1. DNNN 326.351 338.053 363.510
2. DNCVĐTNN 13.633 43.509 47.952
3. CTCP 13.144 78.647 83.559
4. TNHH 73.186 181.037 201.794
5. DNTN 60.236 146.235 172.169
6. HTX 5.829 6.955 7.327
7. Cá thể 209.829 330.060 373.403
Tổng 702.208 1.124.496 1.249.714
(Nguồn: Thống kê từ báo cáo của các TCTD trên địa bàn tỉnh Đồng Nai)
Qua bảng tổng hợp trên, dư nợ cho vay các DNNVV của các TCTD như sau:
-34-
Đến cuối năm 2002 là: Dư nợ đạt 702 tỷ đồng, chiếm 9,18% tổng dư nợ trên địa
bàn.
Đến cuối năm 2003 là : Dư nợ đạt 1.124 tỷ đồng, chiếm 12,28% tổng dư nợ trên
địa bàn.
Quý I/2004: Dư nợ 1.249,7 tỷ đồng, chiếm 12,34% tổng dư nợ đến cuối quý
I/2004 trên địa bàn.
Biểu đồ 2.10: Tình hình dư nợ của DNNVV tại các TCTD qua các năm.
Tình hình dư nợ DNNVV tại các TCTD trên địa bàn
7379
181
201
172
373
6
209
326
13
14
60
7
330
338
44
146
7
363
83
48
0
50
100
150
200
250
300
350
400
DNNN DNĐTNN CT CP CT THHH DNTN HTX Hộ cá thể
D
ư
n
ợ
: t
ỷ
đồ
ng
2002
2003
Q1/2004
2.3.3.5. Chất lượng của các khoản vay đối với các DNNVV, biểu hiện qua:
• Nợ quá hạn đến cuối năm 2002: 2.796 triệu đồng, chiếm 0,3% dư nợ của
DNNVV
• Nợ quá hạn đến cuối năm 2003: 8.223 triệu đồng, chiếm 0,7% dư nợ của
DNNVV
• Nợ quá hạn đến cuối quý I/2004: 16.645 triệu đồng, chiếm 1,3% dư nợ của
DNNVV.
-35-
2.3.4. Một số khó khăn tồn tại trong việc cấp TDNH đối với các DNNVV tại
Đồng Nai.
Khó khăn liên quan đến việc cấp TDNH cho các DNNVV tại Đồng Nai, có thể
chia thành ba loại:
2.3.4.1. Những khó khăn từ phía doanh nghiệp:
- Đa số doanh nghiệp thiếu tài sản để làm đảm bảo vay vốn ngân hàng, chưa đủ
uy tín để ngân hàng cho vay không có tài sản bảo đảm.
- Vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh thấp, nên
hạn chế khả năng tiếp cận vốn vay tại các TCTD.
- Một số doanh nghiệp có đất đai nhưng do chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nên không có cơ sở pháp lý để nhận làm tài sản bảo đảm. Có doanh
nghiệp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng giá trị tính toán làm cơ sở đảm
bảo không cao, các TCTD thông thường cho vay số tiền khoảng 70% giá trị tài sản
đảm bảo theo thoả thuận, nên tổng số tiền được vay thấp, không đáp ứng nhu cầu vay
của khách hàng.
- Một số doanh nghiệp dùng vốn tự có đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà xưởng
… nhưng do quá trình xây dựng không theo đúng thủ tục xây dựng cơ bản nên không
làm được thủ tục hoàn công để cấp giấy chứng nhận sở hữu công trình, do đó cũng
không có cơ sở làm tài sản thế chấp.
- Nhiều doanh nghiệp không thực hiện việc mua bảo hiểm cho tài sản theo yêu
cầu của TCTD đối với nhà xưởng, máy móc thiết bị, công trình xây dựng …nên không
được các TCTD nhận làm tài sản bảo đảm.
- Đa số DNNVV chưa chấp hành tốt chế độ kế toán, thống kê, làm giảm độ tin
cậy đối với các TCTD khi thẩm định dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh để
đầu tư vốn.
-36-
- Nhiều doanh nghiệp ngại tiếp xúc với các cơ quan chức năng cũng như các
TCTD vì cho rằng kinh tế tư nhân mà đa số có quy mô vừa và nhỏ sẽ bị phân biệt đối
xử và gây khó dễ khi vay vốn.
- Đại đa số DNNVV sản xuất, kinh doanh mang tính thương vụ hoặc ngắn hạn,
không có định hướng lâu dài nên không lập được các kế hoạch đầu tư, sản xuất kinh
doanh.
- Mặc dù nhu cầu vay vốn cao, nhưng khả năng lập các dự án, phương án sản xuất
kinh doanh, chứng minh tính khả thi và hiệu quả của dự án hoặc phương án của nhiều
DNNVV còn yếu và thiếu sức thuyết phục trước các TCTD.
2.3.4.2. Những khó khăn từ phía các TCTD:
- Các TCTD đã và đang khan hiếm nguồn vốn trung, dài hạn, trong lúc đó các
DNNVV lại có nhu cầu lớn về loại vốn này để mua máy móc thiết bị, đổi mới công
nghệ, xây dựng nhà xưởng sản xuất.
- Vốn ngoại tệ khan hiếm, do đó khi có dự án vay vốn bằng ngoại tệ, ngoài việc
phải trực tiếp làm công tác thẩm định dự án, lại phải liên hệ với ngân hàng cấp trên
hoặc Ngân hàng khác để mua ngoại tệ, sau đó mới quyết định cho vay hay không.
- Tài sản đảm bảo trong trường hợp các bên không thỏa thuận để xử lý được, mặc
dù đã được các cấp Toà án xét xử, bản án có hiệu lực pháp luật nhưng chậm được thi
hành án, nên các TCTD không thể thu hồi nguồn vốn cho vay được.
- Công tác thẩm định dự án của CBTD còn bất cập, nhiều CBTD với năng lực hạn
chế, thiếu kinh nghiệm trong việc thẩm định các dự án, đặc biệt là các dự án đầu tư mới
về máy móc thiết bị, các dây chuyền sản xuất…dẫn đến tiềm ẩn nhiều rủi ro tín dụng.
- Áp lực từ khối lượng công việc do số lượng DNNVV lớn, nên nhiều cán bộ tín
dụng có tâm lý ngại cho vay.
- Các Chi nhánh TCTD trên địa bàn chưa được phân cấp, uỷ quyền đúng mức,
mức phán quyết giao cho các chi nhánh rất thấp. Vì vậy, các hồ sơ tín dụng vượt mức
phán quyết phải trình ngân hàng cấp trên xem xét, kéo dài thời gian xét duyệt, dẫn đến
-37-
khách hàng phải mất nhiều thời gian chờ đợi, kết quả là cơ hội kinh doanh cho khách
hàng lẫn các TCTD bị bỏ nhỡ.
- Thiếu thông tin tin cậy về DNNVV, thông tin về năng lực pháp lý, về tình hình
tài chính, quan hệ tín dụng với các TCTD khác…do đó các TCTD rất khó khăn để đưa
ra quyết định cho vay.
2.3.4.3 Khó khăn từ các cơ quan quản lý, các Ban, ngành, địa phương:
- Tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm, do đó, các DNNVV
thiếu tài sản đảm bảo vay vốn ngân hàng.
- Thực hiện đăng ký giao dịch đảm bảo theo Thông tư liên tịch 03/2003/TTLT-
BTP-BTNMT, theo đó, các pháp nhân khi thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản là đất hoặc
tài sản gắn liền với đất thì phải đăng ký tại Sở Tài nguyên môi trường. Thời gian từ khi
khách hàng gửi đầy đủ hồ sơ đến khi khách hàng nhận lại hồ sơ là đúng bảy ngày làm
việc. Như vậy là quá chậm, đó là chưa kể những hồ sơ còn sai sót, chính vì vậy làm
nhỡ cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.
- Mặc dù toàn tỉnh có 21 cụm công nghiệp được quy hoạch dành cho các
DNNVV, nhưng số doanh nghiệp thuê đất còn ít, đến nay chỉ có khoảng 119 doanh
nghiệp.
- Việc xử lý tài sản đảm bảo cho các TCTD chậm, thậm chí đã có bản án hiệu lực
của Toà án nhưng công tác thi hành án còn chậm. Một trong những lý do là số lượng
hồ sơ phải thi hành án lớn, trong khi số lượng cán bộ thi hành án ít.
2.3.5. Nguyên nhân của những tồn tại trên là:
Trong hoạt động TDNH, có nhiều vướng mắc, khó khăn gây cản trở quá trình đầu
tư tín dụng của các TCTD trên cả nước nói chung và tại Đồng Nai nói riêng, những
khó khăn ấy bắt nguồn từ nhiều khía cạnh, đối tượng khác nhau. Có thể phân chia
thành các nhóm đối tượng sau đây:
-38-
2.3.5.1. Nguyên nhân từ phía DNNVV:
- Do đại đa số DNNVV hiện nay, với quy mô nhỏ và vừa nên giá trị tài sản của
doanh nghiệp thấp, tỷ lệ vốn tự có tham gia vào dự án thấp, đặc biệt là các dự án đổi
mới máy móc thiết bị, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ. Mặt khác, tài sản đảm bảo
chưa đủ giấy tờ pháp lý để các TCTD nhận làm tài sản đảm bảo.
- Do phần lớn các DNNVV chưa có tầm nhìn xa trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, kể cả về đào tạo nguồn nhân lực nên khó có khả năng thích ứng kịp với thị
trường, chất lượng đội ngũ quản lý và nhân viên của DNNVV thấp.
- Có doanh nghiệp khi tiến hành xây dựng công trình, nhà xưởng đã không quan
tâm đến việc xin giấy phép xây dựng, nên khi muốn làm thủ tục hoàn công để có được
giấy chủ sở hữu công trình gặp nhiều khó khăn.
- Do chính sách thuế chưa chặt chẽ đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp, dẫn
đến tình trạng các doanh nghiệp mua bán hoá đơn để hoàn thuế hay kê khai không
đúng giá trị đầu vào, đầu ra theo hướng có lợi cho doanh nghiệp để giảm thuế. Điều
này đã làm khó khăn cho TCTD khi thẩm định tình hình tài chính của doanh nghiệp.
- Do DNNVV chưa có nhiều kinh nghiệm trong quan hệ tín dụng với ngân hàng,
nên còn lúng túng, thiếu sự chuẩn bị cần thiết.
2.3.5.2. Nguyên nhân từ phía các TCTD trên địa bàn:
- Nguồn vốn còn hạn chế, phần lớn các TCTD trên địa bàn còn phải nhận vốn
điều hoà từ cấp trên. Khả năng huy động vốn của các TCTD khó khăn vì trên địa bàn
hiện nay ngoài hệ thống các NHTM, còn có nhiều tổ chức khác được phép huy động
vốn như: Quỹ Tín dụng Nhân dân, Công ty bảo hiểm, Bưu điện, Quỹ hỗ trợ Phát triển.
Mặt khác, các TCTD chưa có chiến lược kế hoạch về nguồn vốn, khi khách hàng
rút vốn đột ngột dẫn đến có thời điểm phải ngưng cho vay, không thể đáp ứng nhu cầu
vốn vay cho doanh nghiệp.
- Các TCTD còn tâm lý e ngại khi quan hệ tín dụng với các DNNVV. Do tâm lý
cho rằng, đầu tư vốn vào DNNVV sẽ chịu nhiều rủi ro, vì tình hình tài chính, uy tín và
-39-
khả năng trả nợ của doanh nghiệp thấp. Mặt khác, các TCTD còn có sự phân biệt giữa
các thành phần kinh tế, xem DNNN là “điểm đến” an toàn vì cho rằng, khi doanh
nghiệp bị phá sản sẽ được Nhà nước bảo hộ, trong khi cho DNNVV vay, nếu gặp rủi
ro sẽ khó xử lý và dễ bị mất vốn.
- Các TCTD còn xem nặng vấn đề tài sản đảm bảo trong các điều kiện vay vốn,
trong khi các DNNVV không đủ tài sản đảm bảo để vay vốn ngân hàng.
- Trình độ của CBTD chưa tương xứng với yêu cầu công việc, nguyên nhân chính
bắt nguồn từ công tác tuyển dụng, bố trí, đào tạo của các TCTD và tiếp cận công việc
của từng cán bộ.
- Các TCTD chưa linh hoạt trong việc xem xét các điều kiện vay vốn của doanh
nghiệp, đặc biệt là điều ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA0785.pdf