Lời mở đầu
Việt Nam đang thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa không thể thành công nếu thiếu những tiền đề vững chắc. Một trong những tiền đề rất quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng là vốn.
Là một doanh nghiệp nhà nước, Công ty Gạch ốp lát Hà Nội có nhiệm vụ chính là sản xuất kinh doanh các loại gạch ốp tưòng và gạch lát nền phục vụ nghành xây dựng và nhu cầu tiêu dùng của dân cư và
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1310 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty Gạch ốp lát Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xã hội. Vốn đang là một vấn đề bức xúc trong hoạt động của Công ty. Thực tế cho thấy, mặc dầu các hình thức huy động vốn đã được đa dạng song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn ngày càng tăng cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Sở dĩ như vậy là do hoạt động thiết lập chiến lược vốn, cơ cấu vốn chưa đúng đắn. Hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn của công ty lại chưa cao. Do đó, việc tìm ra các giải pháp tạo lập vốn cho công ty là hết sức quan trọng tạo tiền đề thúc đẩy mọi hoạt động giúp công ty từng bước phát triển và đứng vững trên thị trường.
Từ những nhận thức về mặt lý luận ở trường và thực tế nghiên cứu, được sự hướng dẫn của thầy giáo Th.S Hoàng Văn Quỳnh và sự giúp đỡ của các anh chị phòng Tài vụ - Công ty Gạch ốp lát Hà Nội, em đã mạnh dạn chọn đề tài: "Các giải pháp tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh tại công ty Gạch ốp lát Hà Nội ".
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, luận văn tốt nghiệp gồm ba chương :
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về vốn và nguồn vốn kinh doanh của a doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng vốn kinh doanh và tạo lập vốn kinh doanh tại Công ty Gạch ốp lát Hà Nội
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu góp phần tạo lập vốn kinh doanh tại Công ty Gạch ốp lát Hà Nội
Em xin chân thành cảm ơn thạc sỹ Hoàng Văn Quỳnh và các anh chị phòng tài vụ Công ty Gạch ốp lát Hà Nội đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Chương 1: Vốn kinh doanh và sự cần thiết phải tạo vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1. Những vấn đề cơ bản về vốn kinh doanh và nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.1. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Như chúng ta đã biết muốn tiến hành một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng phải có vốn. Vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định với mọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Để nâng cao hiệu quả của đồng vốn trong sản xuất kinh doanh cần phải hiểu kỹ vốn và các đặc trưng của vốn để làm tiền đề cho việc tổ chức nguồn vốn trong doanh nghiệp.
Vậy vốn là gì?
Theo giáo trính Tài chính học của trường ĐHTCKT Hà Nội thì “vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp là một loại quỹ tiền tệ đặc biệt... ”
Tiền được gọi là vốn khi nó thoả mãn đồng thời các điều kiện sau:
- Một là tiền đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định hay nói cách khác tiền phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực.
- Hai là tiền phải được tích tụ và tập trung một lượng nhất định, đủ để tiến hành kinh doanh.
- Ba là tiền phải được vận động bằng mục đích sinh lời.
Từ cách định nghĩa này ta có thể thấy điều kiện 1,2 được coi là điều kiện ràng buộc điều kiện để trở thành vốn, điều kiện 3 được coi là đặc trưng cơ bản nhất của vốn. Chúng ta thử hình dung chúng ta có tiền nhưng lượng tiền lớn đó chỉ nằm một chỗ, không vận động quay vòng thì đó chỉ là những đồng tiền “ chết” . Theo Mác thì “tiền không tự đẻ ra tiền”
Mặt khác, nếu chúng ta có một lượng tiền nhất định cho nó vận động quay vòng (cho vay nhưng không lấy lãi) thì những đồng tiền ấy cũng không phải là vốn của chúng ta mà sử dụng tiền đó trở thành vốn thì nó phải được vận động và phải nhằm mục đích sinh lời, nói như trên tức là cho vay phải có lãi. Có thể khẳng định cách định nghĩa này đã dựa trên cơ sở lý luận của Các Mác trong “Bộ tư bản” . Các Mác đã khái quát hoá phạm trù vốn qua phạm trù tư bản “Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư” định nghĩa như vậy đã bao hàm đồng thời bản chất và tác dụng của vốn.
Từ những phân tích trên cho ta thấy trong nền kinh tế thị trường phạm trù vốn cần phải nhận thức cho phù hợp. Đây là những vấn đề có tính chất nguyên lý, là cơ sở cho việc hoạch định các chính sách quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp. Từ đây có thể nêu nên định nghĩa một cách tổng quát về vốn như sau:
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là giá trị ứng trước của toàn bộ tư liệu sản xuất của doanh nghiệp đưa vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
1.1.2. Những đặc trưng của vốn kinh doanh.
Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn. Trong thời kỳ bao cấp phần lớn vốn kinh doanh của doanh nghiệp được Nhà nước cấp phát hoặc cho vay với lãi suất ưu đãi nên người ta không quan tâm đến tính hàng hoá cũng như các đặc trưng của vốn.
Trong nền kinh tế thị trường vốn là yếu tố số 1 của mọi quá trình sản xuất kinh doanh, số vốn đó không tự nhiên mà có. Vốn của doanh nghiệp mang các đặc trưng sau:
- Vốn phải đại diện cho một lượng giá trị tài sản điều đó có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng những giá trị tài sản như: Nhà xưởng, đất đai, máy móc thiết bị...
- Vốn phải được vận động sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để tiền biến thành vốn thì đồng tiền đó phải được vận động sinh lời. Trong quá trình vận động đồng vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện, nhưng điểm suất phát và điểm kết thúc của vòng tuần hoàn phải là giá trị - là tiền, đồng tiền phải quay về giá trị suất phát với giá trị lớn hơn T - T, ( T, > T). Vì vậy một khi đồng vốn bị ứ đọng, TSCĐ không cần dùng, tài nguyên sức lao động không được sử dụng, tiền vàng cất trữ... chỉ là những đồng vốn chết. Mặt khác tiền có vận động nhưng bị thất tán không quay về vạch suất phát với giá trị lớn hơn ( T,< T) thì đồng vốn cũng không được đảm bảo. Chu kỳ vận động tiếp theo của nó bị ảnh hưởng.
- Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy được tác dụng. Để đầu tư vào sản xuất kinh doanh vốn phải được gom lại thành những món lớn. Do đó các doanh nghiệp không chỉ khai thác các tiềm năng về vốn của doanh nghiệp mà phải tìm cách thu hút nguồn vốn như góp vốn, hùn vốn, phát hành cổ phiếu...
- Vốn có giá trị về mặt thời gian, điều này cũng có nghĩa là phải xem xét yếu tố thời gian của đồng vốn bởi vì “đồng tiền có giá trị về mặt thời gian, đồng tiền ngày nay khác với đồng tiền ngày mai”.
- Vốn phải gắn với chủ sở hữu.
Mỗi một đồng vốn phải được gắn liền với một chủ sở hữu nhất định.Trong nền kinh tế thị trường không thể có những đồng vốn vô chủ. ở đâu, nơi nào có những đồng vốn vô chủ thì ở đó sẽ chi tiêu lãng phí, kém hiệu quả. Ngược lại xác định rõ nguồn vốn chủ thì mới quản lý và sử dụng có hiệu quả. Cũng cần phân biệt quyền sử dụng và quyền sở hữu vốn theo hình thức đầu tư mà người sở hữu vốn có thể đồng nhất với người sử dụng vốn hoặc người sở hữu vốn được tách khỏi người sử dụng vốn. Song trong trường hợp nào người sở hữu vốn cũng được ưu tiên đảm bảo quyền lợi và được tôn trọng quyền sở hữu vốn của mình. Đây là một nguyên tắc để huy động vốn có hiệu quả.
- Vốn phải được quan niệm là hàng hoá đặc biệt. Những người dư thừa vốn có thể đầu tư vốn vào thị trường , những người cần vốn tới thị trường vay nghĩa là được sử dụng vốn của người chủ nợ hay quyền sở hữu vốn không di chuyển nhưng quyền sử dụng vốn được chuyển nhượng qua sự vay nợ. Người vay phải trả một tỷ lệ lãi suất tức họ phải trả giá cho việc sử dụng vốn (giá - chi phí sử dụng vốn ). Như vậy là khác với hàng hoá thông thường, hàng hoá là vốn khi được bán đi sẽ không mất quyền sở hữu mà chỉ mất quyền sử dụng. Người mua được quyền sử dụng trong một thời gian nhất định, phải trả cho một khoản lãi nhất định cho chủ sở hữu đó là lãi suất. Việc mua bán vốn diễn ra trên thị trường tài chính, giá mua bán vốn ( lãi suất) tuân theo quan hệ cung cầu trên thị trường.
- Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của những tài sản hữu hình mà nó được biểu hiện bằng những tài sản vô hình như: bản quyền phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ, nhãn mác... cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự tiến bộ của khoa học công nghệ thì những tài sản vô hình ngày càng phong phú đa dạng và những tài sản này ngày càng giữ vai trò quan trọng, tạo khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Vì vậy tất cả các tài sản này phải được lượng hoá để quy về giá trị. Việc xác định chính xác giá trị của các tài sản nói chung và tài sản vô hình nói riêng là rất cần thiết khi góp vốn đầu tư liên doanh, khi đánh giá và định giá doanh nghiệp...
1.1.3. Phân loại vốn kinh doanh trong doanh nghiệp.
Căn cứ vào vai trò và đặc điểm chu trình giá trị của vốn khi tham gia vào quá trình kinh doanh có thể chia vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành 2 bộ phận: vốn cố định và vốn lưu động.
1.1.3.1. Vốn cố định của doanh nghiệp.
Vốn cố định của doanh nghiệp là giá trị ứng trước về tài sản cố định ( bao gồm cả tài sản cố định vô hình và tài sản cố định hữu hình). Hay nói cách khác vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp.
Đặc điểm của vốn cố định là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm giá trị được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất, hoàn thành vòng luân chuyển khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng.
Vốn cố định là một thành phần quan trọng của vốn kinh doanh. Để quản lý vốn cố định cần phải hiểu những đặc điểm về hiện vật của vốn cố định và các tài sản cố định của doanh nghiệp.
Tài sản cố định của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài, có chức năng là tư liệu lao động.
Trong khi tham gia vào quá trình sản xuất tài sản cố định được cụ thể hoá như sau:
Về mặt hiện vật: Tài sản cố định tham gia hoàn toàn và nhiều lần vào quá trình sản xuất nhưng giá trị thì giảm dần cho đến khi hư hỏng hoàn toàn phải loại khỏi quá trình sản xuất.
Về mặt giá trị: TSCĐ được biểu hiện dưới hai hình thái:
- Một bộ phận tồn tại dưới hình thái ban đầu gắn với hiện vật là tài sản cố định.
- Một bộ phận giá trị chuyển vào sản phẩm mà tài sản cố định sản xuất ra và bộ phận này sẽ chuyển hoá khi bán được sản phẩm.
Bộ phận thứ nhất ngày càng giảm, bộ phận thứ hai ngày càng tăng cho đến khi bằng giá trị ban đầu của tài sản cố định thì kết thúc quá trình vận động. Như vậy khi tham gia vào quá trình sản xuất nói chung tài sản cố định không bị thay đổi hình thái hiện vật nhưng tính năng công xuất thì bị giảm dần, tức là bị hao mòn và cùng với sự giám dần về giá trị sử dụng thì giá trị của nó cũng giảm đi. Bộ phận giá trị hao mòn đó đã chuyển vào giá trị sản phẩm sản xuất ra và được tính vào chi phí khấu hao. Quỹ khấu hao dùng để tái sản xuất tài sản cố định khi chúng bị hư hỏng hoàn toàn phải loại ra khỏi quá trình sản xuất đó nhằm duy trì năng lực sản xuất bình thường của doanh nghiệp.
Chính đặc điểm vận động về hiện vật và giá trị tài sản cố định đã quyết định đặc điểm lưu thông và chu chuyển của vốn cố định, đó là khi tham gia vào quá trình sản xuất, vốn cố định đã bao gồm hai bộ phận.
- Một bộ phận tương ứng với giá trị hao mòn sẽ ra nhập vào giá thành sản phẩm và được tích luỹ lại khi sản phẩm được tiêu thụ.
- Còn bộ phận thứ hai là phần giá trị còn lại của tài sản cố định chính từ đặc điểm này của vốn cố định cũng như tài sản cố định mà khi đánh giá tài sản cố định cần có các đại lượng như giá trị ban đầu ( nguyên giá), giá trị còn lại của tài sản cố định.
Quản trị vốn cố định là một nội dung quan trọng trong quản lý vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó không chỉ ở chỗ vốn cố định thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp, còn ý nghĩa quyết định tới năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn do việc sử dụng vốn cố định thường gắn liền với hoạt động đầu tư dài hạn, thu hồi vốn chậm và sẽ gặp rủi ro.
Trong một khoảng thời gian khá dài việc bảo toàn và làm tăng khả năng sinh lời của đồng vốn là rất khó khăn có thể chỉ ra những nguyên nhân làm thất thoát vốn kinh doanh:
- Do kinh doanh kém hiệu quả sản phẩm làm ra không tiêu thụ được do giá bán thấp hơn giá thành nên thu nhập không đủ bù đắp mức độ hao mòn của tài sản cố định
- Do lạm phát làm cho giá trị của đồng vốn khi quay về còn nhỏ hơn vốn cố định ở thời điểm xuất phát
- Do tiến bộ khoa học công nghệ làm cho mức độ hao mòn vô hình vượt quá mức dự kiến.
Để quản lý và sử dụng vốn cố định có hiệu quả cần nghiên cứu các phương pháp phân loại và kết cấu tài sản cố định. Thông thường có các cách phân loại sau:
- Phân loại tài sản cố định theo hình thức thái biểu hiện, theo phương pháp này toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được chia thành hai loại:
+ Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh cơ bản: Là những tài sản cố định vô hình và hữu hình trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và kinh doanh cơ bản cuả doanh nghiệp như, nhà xưởng, phương tiện vận tải, vật kiến trúc...
+ Tài sản cố định dùng ngoài sản xuất kinh doanh cơ bản: Là các tài sản dùng cho sản xuất kinh doanh phụ trợ, nhà cửa máy móc thiết bị phục vụ sản xuất phụ trợ và tài sản cố định cho thuê.
Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng: Theo phương pháp này, căn cứ vào tình hình sử dụng của từng thời kỳ, tài sản cố định phân thành các loại:
+ Tài sản cố định đang dùng
+ Tài sản cố định chưa cần dùng
+ Tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh toán
Tuỳ theo từng yêu cầu quản lý mà sử dụng từng phân cách phân loại tài sản cố định cho phù hợp, từ đó có các biện pháp quản lý và bảo toàn vốn cố định hiệu quả.
1.1.3.2. Vốn lưu động của doanh nghiệp
Vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn được ứng ra để hình thành các tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp được diễn ra liên tục thường xuyên. Vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất. Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất kinh doanh.
Vốn lưu động của doanh nghiệp dựa theo vai trò của nó trong quá trình tái sản xuất được chia làm ba loại:
- Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất, bao gồm, vốn nguyên vật liệu chính vật liệu phụ, phụ tùng thay thế công cụ nhỏ...
- Vốn lưu động nằm trong quá trình trực tiếp sản xuất, bao gồm: vốn sản phẩm đang chế tạo, vốn bán thành phẩm tự chế.
- Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông, bao gồm: Vốn tiền tệ vốn trong thanh toán...
Dựa vào hình thái biểu hiện và theo chức năng của các thành phần vốn lưu động có thể chia thành:
- Vốn vật tư hàng hoá, vốn nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ
- Vốn tiền tệ: Gồm vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán.
Trong quá trình tham gia vào sản xuất khác với tài sản cố định giá trị của tài sản lưu động được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá thành sản phẩm tiêu thụ. Đặc điểm này đã quyết định sự vận động của vốn lưu động. Hình thái giá trị của vốn lưu động là:
- Khởi đầu vòng tuần hoàn vốn lưu động được dùng để mua sắm các đối tượng lao động trong khâu dự trữ sản xuất. ở giai đoạn này vốn đã thay đổi hình thái từ vốn tiền tệ sang hình thái vốn đầu tư ( T- H)
- Đến giai đoạn sản xuất, các vật tư được đưa vào chế tạo thành thành phẩm ( H... SX...H ). Trong giai đoạn này vốn vật tư được chuyển hoá sang vốn sản phẩm dở dang và tiếp đó là vốn thành phẩm.
- Giai đoạn tiêu thụ, các sản phẩm được tiêu thụ từ hình thái vốn thành phẩm chuyển hoá sang vốn tiền tệ như điểm xuất phát ban đầu (H’ - T’) kết thúc vòng tuần hoàn vốn lưu động.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn lưu động của doanh nghiệp liên tục vận động, nên tại bất cứ thời điểm nào vốn lưu động của doanh nghiệp cũng thường xuyên có các bộ phận tồn tại ở 3 giai đoạn của quá trình chu chuyển.
1.1.4. Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Để tổ chức và lựa chọn hình thức huy động vốn một cách thích hợp và có hiệu quả cần có sự phân loại nguồn vốn. Dựa vào tiêu thức nhất định có thể chia nguồn vốn của doanh nghiệp thành những loại sau:
- Căn cứ vào nguồn vốn hình thành thì vốn của doanh nghiệp được chia làm hai loại:
+ Vốn chủ sở hữu: Bao gồm vốn điều lệ do chủ sở hữu đầu tư, vốn tự bổ sung từ lợi nhuận và từ các quỹ của doanh nghiệp, vốn tài trợ của Nhà nước (nếu có). Đó là phần còn lại trong tài sản của doanh nghiệp sau khi trả các khoản nợ phải trả.
+ Nợ: Là các khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm thanh toán cho các tác nhân kinh tế khác như: tiền vay ngân hàng và các tổ chức khác, tiền vay từ phát hành trái phiếu, các khoản phải nộp cho ngân sách Nhà nước, các khoản phải trả cho người bán...
Để đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh thông thường, một doanh nghiệp phải phối hợp giữa hai nguồn vốn riêng và vốn vay. Sự kết hợp giữa hai nguồn vốn phụ thuộc vào ngành mà doanh nghiệp hoạt động cũng như quyết định của người quản lý vốn trên cơ sở xem xét tình hình chung của nền kinh tế và tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Căn cứ vào thời gian hoạt động và sử dụng vốn có thể chia nguồn vốn của doanh nghiệp thành hai loại:
+ Nguồn vốn thường xuyên: là tổng thể các nguồn vốn có tính chất ổn định và dài hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Nguồn vốn này được dành cho việc hình thành các tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động tối thiểu cần thiết cho hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn thường xuyên bao gồm chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn.
+ Nguồn vốn tạm thời: là các nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) doanh nghiệp có thể sử dụng nhằm đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Các khoản nợ ngắn hạn.
Việc phân loại này giúp cho người quản lý xem xét huy động các nguồn vốn phù hợp với thời gian sử dụng của các yếu tố trong quá trình kinh doanh.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động có thể chia làm hai nguồn:
+ Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể huy động từ hoạt động của bản thân doanh nghiệp bao gồm tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận để lại và các khoản dự trữ dự phòng, các khoản thu từ nhượng bán thanh lý tài sản cố định.
+ Nguồn vốn bên ngoài: là nguồn vốn có thể huy động như vay vốn của ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, phát hành trái phiếu nợ người cung cấp và các khoản nợ khác. Cách phân loại này chủ yếu giúp cho sự xem xét huy động nguồn vốn của doanh nghiệp đang hoạt động.
Tóm lại trong hai nguồn thì nguồn vốn bên trong doanh nghiệp có tính chất quan trọng và quyết định hơn cả.
1.2 Sự cần thiết và các hình thức chủ yếu tạo vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.1 Sự cần thiết phải tạo vốn kinh doanh của doanh nghiệp:
Hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một lượng vốn nhất định đủ lớn như là một tiền đề quyết định, không có vốn sẽ không có bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Vốn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tiền đề đối với mọi hoạt động kinh tế.
Sự cạnh tranh trên thị trường và sự tiến bộ trong khoa học công nghệ là những nhân tố có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp phải có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, hợp thị hiếu người tiêu dùng và giá cả phải chăng so với doanh nghiệp khác trên thị trường. Ngoài ra doanh nghiệp phải tính đến thành tựu của khoa học công nghệ để kịp thời đổi mới đầu tư thiết bị công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm. Có như vậy mới tránh khỏi làm ăn thua lỗ do sản phẩm bị loại ra khỏi thị trường. Trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển chỉ bằng cách là không ngừng tự cải tiến và hoàn thiện mình như vậy doanh nghiệp rất cần có vốn để thực hiện mục tiêu đề ra.
Tuy nhiên, để đi đến quyết định đầu tư doanh nghiệp không thể không tính đến khả năng tài chính để thực hiện. Mỗi doanh nghiệp chỉ có nguồn tài chính để đầu tư có giới hạn nhất định bao gồm vốn tự có và vốn có khả năng huy động. Doanh nghiệp không thể quyết định đầu tư những dự án vượt quá khả năng tài chính của mình. Do vậy các nguồn vốn riêng lẻ trên thị trường đã được tập trung lại để hình thành một thế lực tiền vốn nhằm tạo điều kiện cho lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh lớn, tập trung đầu tư chiều sâu đáp ứng kịp thời sự thay đổi cũng như quy luật cạnh tranh gay gắt trên thị trường.
Trong cơ chế bao cấp, mọi nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước đều được bao cấp qua nguồn cấp phát của ngân sách Nhà nước và qua nguồn tín dụng lãi suất thấp của ngân hàng. Có thể nói trong thời bao cấp vốn của doanh nghiệp Nhà nước hầu như được bao cấp “ cho không”. Khi sử dụng đồng vốn doanh nghiệp chỉ lo sao cho làm được kế hoạch Nhà nước giao còn thực tế lãi lỗ không cần quan tâm. Thiếu Nhà nước bù lỗ, chính vì vậy vấn đề khai thác thu hút vốn không được định ra như một yêu cầu cấp bách, có tính sống còn đối với doanh nghiệp. Việc khai thác đảm bảo vốn kinh doanh của doanh nghiệp trở lên hết sức thụ động. Điều này đã một mặt thủ tiêu tính chủ động của một doanh nghiệp, mặt khác tạo ra sự cân đối giả tạo về cung cầu vốn trong nền kinh tế. Đây là lý do chủ yếu để giải thích tại sao trong thời kỳ bao cấp lại vắng mặt và không cần thiết có thị trường vốn.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các khoản bao cấp về vốn qua cấp phát của ngân sách Nhà nước không còn nữa, doanh nghiệp Nhà nước phải tự trang trải mọi chi phí và đảm bảo kinh doanh có lãi, phải tổ chức và sử dụng đồng vốn có hiệu quả. Mặt khác doanh nghiệp phải bảo toàn số vốn được giao kể cả khi có trượt giá, phải chủ động tìm kiếm bạn hàng, đầu tư đổi mới trong hoạt động kinh doanh. Nếu không làm cho vốn sinh sôi nảy nở, không bảo toàn và phát triển vốn tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nguy cơ phá sản là khó tránh khỏi.
Cũng phải nói thêm rằng một thực tế hiện nay là các doanh nghiệp Nhà nước đều trong tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng. Do đó, để đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh doanh nghiệp phải chủ động đi tìm các nguồn vốn bên ngoài. Một điều đáng lưu ý là để huy động và đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng là một vấn đề lớn. Song vấn đề quan tâm hơn cả là hiệu quả của đồng vốn được sử dụng như thế nào, việc thất thoát tham ô, lãng phí vốn cũng đang là vấn đề lớn mà xã hội cần quan tâm.
1.2.2 Các hình thức chủ yếu tạo vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Hoạt động sản xuất của doanh nghiệp có thể liên tục và nhịp nhàng được chính là nhờ có vốn. Doanh nghiệp có thể huy động từ nhiều nguồn khác nhau (nguồn bên trong và nguồn bên ngoài). Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước một nguồn vốn quan trọng không thể không nói tới đó là nguồn ngân sách Nhà nước cấp. Ngoài ra còn một số nguồn khác, chúng ta đi xem xét cụ thể từng nguồn:
1.2.2.1 Vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước.
Theo chế độ hiện hành, khi doanh nghiệp Nhà nước mới được thành lập, Nhà nước sẽ đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ ban đầu, số vốn này không nhỏ hơn tổng mức vốn pháp định của các ngành nghề mà doanh nghiệp đó hoạt động kinh doanh. Trong điều kiện bình thường thì việc đầu tư này chỉ xảy ra lần đầu, tức là doanh nghiệp Nhà nước được phép thành lập và bước vào hoạt động. Trong quá trình sản xuất kinh doanh khi cần thiết Nhà nước có thể xem xét tình hình thực tế để đầu tư thêm vốn cho doanh nghiệp.
1.2.2.2 Vốn tự huy động của doanh nghiệp
Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài vốn điều lệ được Nhà nước đầu tư lần đầu, các doanh nghiệp phải tự huy động vốn và chịu trách nhiệm về việc sử dụng đồng vốn đó. Các doanh nghiệp có thể huy động vốn dưới nhiều hình thức khác nhau:
* Nguồn vốn bên trong:
Bao gồm tất cả những nguồn vốn có thể huy động được từ nội bộ doanh nghiệp, đó là các nguồn lợi nhuận để lại, quỹ khấu hao và một số quỹ dự trữ...
- Nguồn thứ nhất: Lợi nhuận để tái đầu tư. Đây là nguồn giữ vị trí và vai trò quan trọng trong các nguồn vốn bên trong doanh nghiệp.
Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp đó bỏ ra trong một khoảng thời gian nhất định. Số lợi nhuận được để lại là số lợi nhuận còn lại sau khi đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho Nhà nước. Phần lợi nhuận để lại này được doanh nghiệp sử dụng vào để bù đắp và bảo toàn vốn trích lập các quỹ đó là: quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng thất nghiệp, quỹ ĐTPT... Trong các quỹ trên thì quỹ đầu tư phát triển phục vụ cho sản xuất cải tạo đổi mới máy móc thiết bị của doanh nghiệp và bổ sung vốn lưu động cần tăng thêm.
Xét về tầm quan trọng của quỹ này đối với sự tồn tại phát triển lâu dài của doanh nghiệp Nhà nước đã có quy định trong nghị định 27/CP, số tối thiểu trong tổng số lợi nhuận còn lại sau khi trừ đi các khoản tiền sử dụng vốn của ngân sách Nhà nước, chia lãi cho các đối tác góp vốn. Các khoản lỗ không được trừ vào lợi tức trước thuế phải trích cho quỹ đầu tư phát triển 50% số còn lại mới được trích cho quỹ khác.
Phần lợi nhuận để lại được trích cho quỹ đầu tư phát triển là một nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp có thể huy động để phục vụ cho các mục tiêu phát triển của mình. Tuy nhiên đối với từng doanh nghiệp mức độ quan tâm và mức cấp bách đối với vấn đề này là khác nhau. Có doanh nghiệp chỉ trích 50% tổng số lợi nhuận để lại cho quỹ đầu tư phát triển đúng bằng mức tối thiểu do Nhà nước quy định, có doanh nghiệp lại trích nhiều hơn nữa. Điều này phụ thuộc vào nhu cầu đầu tư phát triển lâu dài của doanh nghiệp trong tương lai.
Nguồn thứ hai: Quỹ khấu hao cơ bản.
Như đã trình bày ở trên, tài sản cố định trong khi tham gia vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp sẽ bị hao mòn dưới hai hình thức: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Giá trị hao mòn được tính chuyển vào giá trị sản phẩm được tiêu thụ, số tiền này được trích lại và tích luỹ thành quỹ khấu hao tài sản cố định. Quỹ này phục vụ cho mục đích tái sản xuất giản đơn tài sản cố định của doanh nghiệp nên được gọi là quỹ khấu hao cơ bản.
Trước đây đa số các doanh nghiệp ở nước ta là doanh nghiệp Nhà nước và hầu như toàn bộ tài sản cố định đều do Nhà nước cấp. Cũng theo quy định của Nhà nước thì tiền khấu hao tài sản hàng năm của các tài sản cố định do Nhà nước cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước phải được trích nộp lại ngân sách Nhà nước, doanh nghiệp chỉ có thể để lại số tiền khấu hao của các tài sản cố định không thuộc loại trên. Do vậy con số khấu hao cơ bản để lại doanh nghiệp trước đây là rất nhỏ.
Từ năm 1994 chính sách trên của Nhà nước đã được thay đổi. Nhà nước cho phép doanh nghiệp Nhà nước để lại toàn bộ số khấu hao cơ bản hàng năm để phục vụ cho việc trả lãi suất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp có thêm nguồn vốn đổi mới thiết bị mở rộng thị trường sản xuất kinh doanh.
Số tiền hấu hao tài sản cố định có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước để lại hàng năm còn rất lớn. Do vậy quỹ này đã trở thành nguồn quan trọng trong việc huy động vốn. Ngoài ra doanh nghiệp còn có thể khai thác nguồn vốn do thanh lý, nhượng bán tài sản cố định. Thực tế trong các doanh nghiệp hiện nay nhất là những doanh nghiệp Nhà nước, trong tổng số tài sản được trang bị thì có một bộ phận không nhỏ tài sản đã bị hư hỏng nhiều không sử dụng được chờ thanh lý và tài sản cố định không sử dụng đến. Số tài sản này không những không góp phần vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn góp phần gây khó khăn thêm như: bảo quản, sửa chữa, phải làm phát sinh thêm chi phí cho doanh nghiệp. ý thức được vấn đề này việc thanh lý chuyển nhượng các tài sản cố định chưa cần dùng và không cần dùng tháo gỡ phần nào khó khăn nhằm tăng khả năng nguồn vốn cho doanh nghiệp.
Trong việc huy động vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh và đáp ứng nhu cầu về đầu tư thì nguồn vốn bên trong (nguồn nội lực) là vô cùng quan trọng. Nó giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại của các doanh nghiệp.
Một điều dễ hiểu là, nếu muốn tăng sức sản xuất đổi mới công nghệ thì nguồn nội lực được sử dụng đúng mục đích nguyên thủy của nó. Đồng thời khi sử dụng nó doanh nghiệp sẽ không phải bỏ ra chi phí sử dụng vốn như đối với các nguồn vốn vay. Huy động tối cao nguồn vốn trong doanh nghiệp, phục vụ đầu tư dài hạn tức là doanh nghiệp đã giảm bớt chi phí đầu tư đến tối thiểu. Mặt khác doanh nghiệp rất chủ động khi khai thác sử dụng các nguồn này.
* Nguồn vốn bên ngoài.
Nguồn vốn bên ngoài mà doanh nghiệp có thể huy động được để tài trợ cho việc đầu tư phát triển bao gồm nhiều nguồn khác nhau.
- Vay dài hạn ngân hàng.
Khi doanh nghiệp đi vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp phải trả lãi cho ngân hàng và các tổ chức tín dụng đó. Có thể gọi đây là chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp song trên thực tế việc vay ngân hàng được đầu tư dài hạn không phải là dễ dàng và lúc nào cũng thực hiện được. Hiện nay các ngân hàng thương mại cho vay ngắn hạn là chủ yếu, cho vay dài hạn ở mức hạn chế. Bởi vì ngân hàng thương mại cũng là người đi vay để cho vay mặt khác các thủ tục vay mượn là rất phức tạp. Việc thế chấp, tín chấp và thời gian được duyệt nhiều khi gây khó khăn và làm lỡ cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên dù sao đây cũng là nguồn vốn quan trọng trong việc đầu tư của doanh nghiệp.
Hiện nay các ngân hàng thương mại ở Việt Nam có số vốn chưa phải là nhiều nên số vốn cho vay dài hạn còn chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn so với số vốn cho vay ngắn hạn. Tuy nhiên khi nền kinh tế ngày càng phát triển tích luỹ ngày một tăng thì số vốn dành cho đầu tư dài hạn ở ngân hàng chắc chắn sẽ tăng lên.
- Huy động vốn qua phát hành chứng khoán.
Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp có thể huy động vốn từ việc phát hành chứng khoán. ở các nước có nền kinh tế phát triển, phát hành chứng khoán là một phương pháp quan trọng để thu hút vốn kinh doanh. ở nước ta nghị định số 72/CP ngày 26/07/1994 của chính phủ cho phép các doanh nghiệp Nhà nước phát hành trái phiếu để huy động vốn. Và năm vừa qua chính phủ đã ban hành nghị định 48/1998/NH/ CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán, trong đó cho phép các doanh nghiệp đủ các điều kiện theo quy định thì được phát hành chứng khoán ra công chúng để huy động vốn. Hai loại chứng khoán thường được sử dụng là trái phiếu là cổ phiếu.
Trái phiếu doanh nghiệp là chứng chỉnh vay nợ có kỳ hạn và lãi suất do doanh nghiệp phát hành nhằm vay vốn để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh và đổi mới sản xuất thiết bị công nghệ của doanh nghiệp. Trên mỗi tờ trái phiếu có ghi vốn vay nhất định, kỳ trả lãi và thanh toán nợ. Đến kỳ trả lãi các doanh nghiệp phải tiến hành trả lãi cho người cầm trái phiếu theo tỷ lệ đã thoả thuận. Đến kỳ thanh toán nợ doanh nghiệp phải hoàn lại số vốn như trên trái phiếu cho người vay. Trái phiếu doanh nghiệp có thể mua bán chuyển nhượng, làm thẻ thế chấp cầm cố. ._.Ngoài phát hành trái phiếu thì phát hành cổ phiếu là một cách làm tăng thêm cổ phần của công ty cổ phần nhằm tăng thêm vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
Cổ phiếu là giấy chứng nhận góp cổ phần để tạo lập vốn của công ty cổ phần và người nắm giữ cổ phần được nhận thu nhập từ doanh nghiệp.
Có thể nói việc Nhà nước ta chính thức đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động (tháng 7/2000) đã khẳng định phần nào được chuẩn bị tiến trình hội nhập khu vực và trên thế giới cũng như làm tăng khả năng thu hút và huy động vốn cho doanh nghiệp. Đây cũng là thời cơ nhưng cũng là thách thức lớn với doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường đầy mới mẻ này.
- Huy động vốn liên doanh liên kết.
Để có vốn sử dụng trong đầu tư phát triển thì góp vốn liên doanh cũng là một hướng để thu hút vốn. Khi doanh nghiệp thực hiện một dự án kinh doanh có tính chất dài hạn nhưng không dư vốn đầu tư, doanh nghiệp có thể mời các đơn vị kinh tế và cá nhân khác trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư theo một thoả thuận nhất định và cùng hưởng những khoản lợi nhuận do việc đầu tư để lại. Các bên có thể góp vốn bằng nhiều cách : nhà cửa đất đai, bằng phát minh sáng chế, tiền...
Do vậy huy động vốn liên doanh cũng là một phương pháp huy động vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp. Hiện nay xu hướng chính của các doanh nghiệp trong nước là hợp tác liên doanh với nước ngoài, những ưu việt của nền kinh tế mở đã giúp doanh nghiệp tháo gỡ phần nào khó khăn về vốn và sử dụng tiềm năng, lợi thế sẵn có để khai thác, sử dụng tốt nguồn này. Trong tổng số tiền góp các bên liên doanh Việt Nam thường góp vốn bằng đất đai nhà cửa là chủ yếu, bên nước ngoài thường góp bằng thiết bị máy móc công nghệ hoặc bằng tiền với tỷ lệ thường từ 50% trong tổng số vốn góp. Điều này cũng tạo cho doanh nghiệp trong nước những lợi thế, bởi khi liên doanh vốn bằng tiền của doanh nghiệp là rất ít chỉ tính giá trị bất động sản là đáng kể, trong khi đó bên nước ngoài có lợi thế về vốn máy móc thiết bị nhưng lại không có thị trường tiêu thụ.
Xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá ngày một diễn ra nhanh chóng, việc sát nhập giữa các tập đoàn, các công ty trong khu vực và trên thế giới đã diễn ra rộng khắp. Trong những năm gần đây nước ta đã thu được những kết quả đáng mừng từ việc liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài.
Tuy nhiên có một số khó khăn mà các doanh nghiệp Việt Nam hay gặp phải khi tham gia liên doanh đó là: Việc xác định giá trị vốn góp và việc phân chia lợi nhuận cũng như tiến hành kinh doanh. Khi vốn góp xác định sai giá trị tất yếu lợi nhuận phân chia không tương xứng thường thì phía Việt Nam bị chịu thiệt thòi. Ta tin tưởng trong tương lai rằng với tiềm năng và vị thế chúng ta sẽ ngày một làm chủ trong nhiều mặt.
- Nguồn vốn trong thanh toán.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh đương nhiên sẽ nẩy sinh các quan hệ thanh toán giữa doanh nghiệp với Nhà nước, giữa các doanh nghiệp với nhau và giữa doanh nghiệp với cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
Với Nhà nước là quan hệ cấp phát vốn của Nhà nước cho các doanh nghiệp theo chế độ tài chính hiện hành và việc thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp đối vơí Nhà nước trong đó chủ yếu là nộp thuế, bảo hiểm xã hội. Giữa các doanh nghiệp với nhau là việc thanh toán công nợ ( Vì doanh nghiệp cũng là người bán cũng là nguời mua ). Với cán bộ công nhân viên là việc thanh toán lương bảo hiểm xã hội và các khoản tạm ứng khác. Các quan hệ thanh toán trên thường xuyên phát sinh do đó chúng làm phát sinh vốn đi chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng hợp pháp. Nếu vốn đi chiếm dụng lớn hơn vốn bị chiếm dụng thì doanh nghiệp có một lượng vốn nhất định phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Ngược lại doanh nghiệp sẽ phải ứng thêm một khoản vốn. Đương nhiên các doanh nghiệp không phải trông chờ vào khoản vốn trên nhưng không thể không tính đến trên thực tế. Nếu các khoản phải thanh toán còn trong thời hạn hợp đồng hoặc thời hạn kế hoạch thì vốn đi chiếm dụng là hợp pháp và được coi là một khoản vốn đương nhiên của doanh nghiệp.
- Thuê tài chính.
Trong hoạt động kinh doanh thuê tài chính là một phương thức giúp cho các doanh nghiệp nếu thiếu vốn có thể huy động bình thường. Thuê tài chính hay còn được gọi là thuê vốn, là một phương thức tín dụng chung và dài hạn. Theo phương thức này người cho thuê cam kết mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn đã được thoả thuận và không được cắt ngang hợp đồng. Khi kết thúc thời hạn cho thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo thoả thuận trong hợp đồng thuê.
Trên phương diện doanh nghiệp, người quản lý cần nhận biết các phương thức thuê tài sản để tận dụng các ưu thế của phương thức thuê thật phù hợp với tình hình của doanh nghiệp và có biện pháp quản lý phù hợp, thích ứng với đặc điểm và quy chế của Nhà nước đối với mỗi phương thức thuê như để áp dụng chế độ kế toán thích hợp hoặc hưởng các ưu đãi do chính sách Nhà nước quy định.
Huy động vay vốn người lao động trong doanh nghiệp.
Trong những năm gần đây cùng với nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế thì đời sống cán bộ công nhân viên Nhà nước ngày càng cải thiện và đang có dấu hiệu đáng mừng. Thu nhập bình quân ngày một cao, một bộ phận không nhỏ của cán bộ công nhân viên trong các doanh nghiệp đã đi vào tích lũy tiền vốn và của cải. Trong cơ chế thị trường bên cạnh thuận lợi là hàng loạt những khó khăn mà doanh nghiệp phải đối mặt. Muốn có một đội ngũ gắn bó lâu dài với doanh nghiệp tất nhiên sẽ có nhiều biện pháp song một công cụ rất quan trọng vừa làm tăng sức mạnh của doanh nghiệp vừa tạo khả năng gắn kết chặt chẽ của người lao động với doanh nghiệp đó là việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong cán bộ công nhân viên và người lao động trong doanh nghiệp. Với nguồn vốn này được trang trải nhu cầu vốn lưu động đã được giải quyết phần nào.
Tóm lại khi có nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển doanh nghiệp có thể huy động từ nhiều nguồn, tuỳ theo điều kiện thực tế cụ thể mà doanh nghiệp áp dụng công cụ phù hợp với khả năng của mình. Song một yêu cầu phải nhấn mạnh rằng nguồn nội lực luôn luôn giữ một vai trò nhất định hơn cả. Bởi vì mục tiêu nguyên thuỷ của nguồn vốn này là phục vụ cho sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định của doanh nghiệp.Huy động tối đa nguồn vốn bên trong tức là doanh nghiệp đã giảm được chi phí sử dụng một cách tối thiểu.
Việc ra đời thị trường chứng khoán là một thời cơ và thuận lợi cho việc huy động nguồn vốn bên ngoài song rủi ro và những điều bất cập trong việc sử dụng công cụ này cũng là điều đáng chú ý cho các doanh nghiệp.
1.3. Vai trò của tài chính trong việc tạo vốn kinh doanh ở các doanh nghiệp.
Tiền tệ ra đời là một trong những phát minh vĩ đại của loài người và làm thay đổi bộ máy của nền kinh tế xã hội. Mọi sự vận động sản xuất và tiêu dùng liên quan mật thiết đến sự vận động của tiền tệ và tác động qua lại. Đồng tiền trở thành thước đo chung cho tất cả các hoạt động của nền kinh tế. Khái niệm vốn xuất hiện và vai trò của vốn trong nền kinh tế ngày càng quan trọng. Vốn trở thành yếu tố quan trọng của sản xuất. Tuy nhiên nền kinh tế còn mang tính tự cung tự cấp người ta ít quan tâm đến vốn. Từ khi cách mạng công nghiệp, vấn đề vốn ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Vốn theo khái niệm rộng không chỉ là tiền tệ mà còn là các nguồn lực, tài nguyên lao động, đất đai và trí tuệ khi hệ thống ngân hàng và các tổ chức phi ngân hàng ra đời và phát triển, vốn đồng nghĩa với tiền và được gọi là vốn tài chính.
Vai trò của tài chính đối với các doanh nghiệp trong việc tạo vốn kinh doanh. Muốn tiến hành một quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải có yếu tố tiền đề đó là vốn. Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn được vận động một cách liên tục và có những đặc điểm rất khác nhau. Sau mỗi quá trình sản xuất kinh doanh số vốn bỏ ra vừa phải được bảo toàn vừa phải sinh sôi nảy nở. Đây chính là vấn đề liên quan đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì thế để tổ chức và sử dụng vốn có hiệu quả cũng như việc làm thế nào để tạo vốn cho doanh nghiệp là điều hết sức quan trọng. Cụ thể hơn tài chính đóng vai trò to lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như :
Huy động đảm bảo đẩy đủ kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong qúa trình hoạt động của doanh nghiệp những nảy sinh nhu cầu vốn ngắn hạn và dài hạn cho hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp cũng như cho đầu tư phát triển. Vai trò tài chính trong doanh nghiệp trước hết thể hiện ở chỗ xác định đúng đắn các nhu cầu cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ, và tiếp đó phải lựa chọn các phương pháp và hình thức thích hợp huy động nguồn vốn bên trong và bên ngoài đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động của doanh nghiệp. Ngày nay cùng với sự phát triển kinh tế đã nảy sinh nhiều hình thức mới cho phép các doanh nghiệp huy động các nguồn vốn từ bên ngoài ( thị trường chứng khoán). Do vậy, vai trò của tài chính doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng trong việc chủ động lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động nhịp nhàng và liên tục với chi phí huy động là thấp nhất.
Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp rất lớn phụ thuộc vào việc tổ chức sử dụng vốn. Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng vào việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư trên cơ sở phân tích khả năng sinh lời và mức độ rủi ro của dự án từ đó góp phần chọn ra dự án đầu tư tối ưu . Việc huy động các nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng để doanh nghiệp có thể chớp được cơ hội kinh doanh. Hình thành và sử dụng tốt các quỹ của doanh nghiệp, cùng với việc sử dụng các hình thức hiệu quả hợp lý sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy sự gắn bó lòng nhiệt tình của cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp, góp phần cải tiến sản xuất kinh doanh nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Giám sát kiểm tra các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông qua tình hình thu chi tiền tệ hàng ngày, tình hình tài chính và thực hiện các chỉ tiêu tài chính người lãnh đạo và các nhà quản lý doanh nghiệp có thể đánh giá khái quát và kiểm soát được các mặt hoạt động của doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những tồn tại, vướng mắc trong kinh doanh từ đó có thể đưa ra các quyết định điều chỉnh các hoạt động phù hợp với tình hình thực tế.
Trên đây là những vai trò cơ bản của quản trị tài chính nhằm giúp cho doanh nghiệp thấy được tầm quan trọng cuả việc tạo lập nguồn vốn cũng như việc sử dụng chúng sao cho hiệu quả nhất. Trong thực tế tuỳ thuộc đặc điểm từng doanh nghiệp để có những biện pháp cụ thể thích hợp trong quá trình huy động các nguồn vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chương 2
Thực trạng vốn kinh doanh và tạo lập vốn kinh doanh tại Công ty gạch ốp lát Hà Nội
2.1. Tình hình hoạt động và đặc điểm kinh doanh của Công ty.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Gạch ốp lát Hà Nội.
Công ty Gạch ốp lát Hà Nội là một đơn vị thành viên của Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng.
Công ty gạch ốp lát Hà Nội trước đây là một xí nghiệp công nghiệp trực thuộc công ty gốm xây dựng Hữu Hưng. Công ty gốm xây dựng Hữu Hưng (tên cũ là xí nghiệp gạch ngói Hữu Hưng), được thành lập vào tháng 06/1959 theo NQ/094A BXD – TCLĐ của bộ trưởng bộ xây dựng. Nhiệm vụ của công ty là chuyên sản xuất và kinh doanh gạch xây dựng.
Trước nhu cầu ngày càng tăng về các sản phẩm của gạch, tháng 02/1994 Công ty gốm xây dựng Hữu Hưng đã mở rộng sản xuất, sản xuất thêm sẩn phẩm gạch lát nền. Công ty đã đầu tư 70 tỷ đồng xây dựng dây chuyền sản xuất gạch lát nền có công suất 1.015.000 m2/năm, toàn bộ thiết bị tự động hoá được nhập từ ITALIA. Tháng 11/1994 dây chuyền đã chính thức đi vào hoạt động, sản phẩm gạch lát nền với nhãn hiệu VICERA được bán rộng rãi trên cả nước, được khách hàng đánh giá cao. Lần đầu tiên tại Việt Nam có một dây chuyền sản xuất gạch lát nền tiến nhất châu âu. Sản phẩm gạch lát nền của công ty đã đạt được tiêu chuẩn châu âu cho gạch lát nền (CNT \ CT78).
Mặc dù vậy, sự ra đời của dây chuyền một với công suất hơn 1 triệu m2/năm vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu xây dựng ngày càng tăng ở Việt Nam. Dưới sự chỉ đạo trược tiếp của Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng, tháng 04/1996, công ty đã mạnh dạn đầu tư hơn 60 tỷ đồng xây dựng dây chuyền hai cũng với thiết bị nhập từ ITALIA. Dây chuyền sản xuất này với công suất hơn 2 triệu m2/năm đã nâng tổng công suất của toàn bộ Công ty lên hơn 3 triệu m2/năm.
Để tạo điệu kiện thuận lợi hơn trong công tác hạch toán và để tăng điều kiện tự chủ trong sản xuất kinh doanh, ngày 19/05/1998 Bộ trưởng bộ xây dựng đã ra QĐ/284/QĐ/BXD tách Công ty gốm xây dựng Hữu Hưng thành Công ty gạch ốp lát Hà Nội và nhà máy gạch Hữu Hưng. Từ đây Công ty gạch ốp lát Hà Nội là một đơn vị độc lập, thuộc Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng.
Tên Công ty: Công ty gạch ốp lát Hà Nội.
Địa chỉ: Trung Hòa-Cầu Giấy Hà Nội
Nhiệm vụ: Chuyên sản xuất gạch lát nền, gạch ốp tường.
Tính đến ngày 31/12/2000, tổng số công nhân viên của Công ty là 446 người.
Công ty có tổng diện tích: 22600 m2.
Trong đó:
+ Nhà xưởng sản xuất 12000 m2.
+ Nhà làm việc 2000m2.
+ Nhà kho và bến bãi 8000 m2.
+ Vườn hoa cây cảnh 600 m2.
Quy mô vốn kinh doanh của Công ty năm 2001.
Tổng vốn kinh doanh: 157.427.252 (NĐ) trong đó:
+ VCĐ: 86.644.226 (NĐ)
+ VLĐ: 70.783.026 (NĐ)
Nhằm tạo sự thống nhất về tên gọi với các sản phẩm khác của Tổng công ty thủy tinh và gốm xây dựng, từ 01/01/1999, nhãn hiệu sản phẩm VICERA của Công ty gạch ốp lát Hà Nội được thay bằng nhãn hiệu VIGLACERA.
Điểm nổi bật đánh giá sự thành công của Công ty là ngày 05/10/2000 Công ty đã được cơ quan chứng nhận BVQL – Vương quốc Anh cấp giấy chứng nhận số 72803 về hệ thống tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9002 cho các sản phẩm gạch lát nền và gạch ốp tường của Công ty.
Hiện nay, Công ty gạch ốp lát Hà Nội đã có rất nhiều đại lý và các cửa hàng phân phối sản phẩm trên các tỉnh và TP trong nước. Sản phẩm của công ty có chất lượng tốt, bến, đa dạng về chủng loại, phong phú về mào sắc ngày càng chiếm được lòng tin của người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Công ty gạch ốp lát Hà Nỗi với chính sách sản phẩm “chỉ cung ứng ra thị trường những sản phẩm phù hợp, đồng thời cũng không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm để thoả mãn nhu cầu khách hàng” đã và đang là địa chỉ tin cậy của người tiêu dùng.
2.1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty.
2.1.2.1. Đặc điểm tổ chức quản lý.
Là một doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, trực thuộc Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng, Công ty gạch ốp lát Hà Nội tổ chức theo kiểu trực tuyến chức năng: GĐ trực tiếp chỉ đạo mọi hoạt động của Công ty. Các phòng ban tham mưu cho GĐ và theo chức năng và nhiệm vụ của mình. (Tham khảo sơ đồ 01)
Hiện nay ở Công ty có một phân xưởng sản xuất và một phân xưởng cơ điện phục vụ sản xuất. Phân xưởng sản xuất được chia làm các tổ tương ứng với các giai đoạn công nghệ của quy trình sản xuất.
2.1.2.2. Đặc điểm tổ chức sản xuất.
Công ty gạch ốp lát Hà Nội có các sản phẩm sản xuất chính và tiêu thụ gạch lát nền và gạch ốp tường có kích thước và màu sắc khác nhau mang nhãn hiệu VIGLACERA: gạch men lát nền (400x400x9mm, 300x300x8mm, 200x200x6mm), gạch men ốp tường (250x200x6mm).
Quy trình sản xuất trên dây chuyền hiện đại theo công nghệ mới đạt tiêu chuẩn châu Âu. Dây chuyền sản xuất tự động với chu trình sản xuất ngắn (từ khi bắt đầu đưa nguyên liệu vào chế biến đến khi sản phẩm hoàn thành chỉ hết một thời gian ngắn là 45 phút).
Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất gạch ốp lát.
Chứa nguyên liệu
Chến biến nguên vật liệu
để làm xương
Chế tạo dự trữ bột
ép sản phẩm
Sấy gạch mộc
Tráng men
Nung
Phân loại sản phẩm
Quy trình hoạt động:
(1). Chứa nguyên vật liệu: nguyên liệu được đưa vào ngăn chứa bằng phương tiện cơ giới (gồm đất sét, cao lanh, feldspar…)
(2). Chế biến nguyên liệu để làm xương:
nguyên liệu được nạp vào phễu định lượng rồi chuyển đến bộ phận ngiền, tiếp tục được trộn với nước để có được hồ với độ ẩm thích hợp, sau đó được đưa dần đến các bể chứa và bể chờ.
(3). Chế tạo và dự trữ bột: hồ được bơm từ các bể chờ vào các vòi phun của máy sấy bơm. ở đây diễn ra quá trình bốc hơi nước và tạo bột. Bột thu được có độ ẩm theo yêu cầu, sau đó được đưa vào các silô chứa và được ủ tử 2-3 ngày.
(4). ép sản phẩm: bột sau khi ủ được đưa đến bộ phận sàng lọc rồi được chuyển đến các phên của máy ép, cấp cho các máy ép, may tạo ra sản phẩm mộc, sản phẩm mộc được tập hợp và chuyển đến máy sấy.
(5). Sấy gạch mộc: gạch mộc được tự động dẫn vào máy sấy đứng. Máy sấy đứng được cấp nhiệt tự động và nạp rỡ gạch mộc tự động. độ ẩm còn lại của gạch sấy phải đạt từ 0 – 1% để đưa vào dây chuyền tráng men. Hiện nay Công ty đang sử dụng 3 lò sấy đứng.
(6). Tráng men: dây chuyền tráng men dài từ 60 m- 90m tương ứng với hệ thống lò WELKO và NASSETTI. Gạch được tráng men bởi hệ thống tráng chuông, đĩa văng và sau đó đi vào các thiết bị in hoa (gọi là thiết bị in lưới). Một dây chuyền tráng men được bố trí từ 3 –5 máy in lưới tuỳ theo mức độ yêu cầu trang trí. Hiện tại Công ty đang sử dụng 3 dây chuyền tráng men.
(7). Nung: gạch sau khi tráng mem được đưa lên các máy chất tải để xếp vào các xe goòng. Việc chất và xếp tải hoàn toàn tự động, gạch ở các toa xe goòng chứa được dẫn đến các máy dỡ tải và được làm sạch để đi vào lò nung. Hiện nay Công ty đang sử dụng hệ thống hai lò nung, đó là:
-Lò nung WELKO với năng suất 3900 m2/ngày.
-Lò nung NASSETTI với năng suất 7000 m2/ngày.
Lò nung được hoạt động theo chương trình được cài đặt sẵng tuỳ theo từng loại sản phẩm và gạch mộc được nung trong lò với thời gian thích hợp theo yêu cầu công nghệ của từng loại sản phẩm.
(8).Phân loại sản phẩm: gạch sau khi đi qua lò với thời gian khoảng 30 phút đã được nung chín, sau đó băng chuyền tự động đưa qua bộ phận lựa trọn sản phẩm có cùng kích thứơc và màu sắc giống nhau. Sau đó gạch được đóng vào hộp và ghi rõ: ngày sản xuất, ca sản xuất, quy cách chất lượng… trước khi nhập kho thành phẩm và bán ra thị trường.
.2.1.3. Những thuận lợi và khó khăn cơ bản trong sản xuất kinh doanh của Công ty Gạch ốp lát Hà Nội.
* Những thuận lợi.
- Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương tích cực và kịp thời đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt từ cuối năm 1998, Nhà nước có chủ trương gián tem hàng sứ nhập khẩu.
- Dán tem hàng Ceranic nhập khẩu nên sức ép cạnh tranh giữa sản phẩm nội địa với hàng ngoại đã giảm, có thể nói đây là một chủ trương đúng đắn nhằm bảo vệ sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh quá mạnh của hàng ngoại nhập và đó cũng là cơ hội lớn cho công ty đẩy mạnh sản xuất để chiếm lĩnh thị trường nội địa. Đến thời điểm này, sản phẩm của công ty Gạch ốp lát Hà Nội với nhãn hiệu Viglacera là nhà sản xuất và cung cấp hàng đầu về các mặt hàng gạch ốp tường và gạch lát nền ở Việt Nam.
- Tình hình kinh tế chính trị trong nước và khu vực có xu hướng ổn định, nền kinh tế nước ta đang có dấu hiệu tăng trưởng tốt. Theo số liệu của Tổng cục Thống kế, tổng sản phẩm quốc nội GDP năm 2001 tăng 76,7% so với năm 2000 trong đó xây dựng tăng 10,1%, đưa nước ta vào hàng các nước có nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng tương đối cao trong khu vực. Điều này cho thấy nhu cầu đầu tư xây dựng sẽ tiếp tục tăng trong năm tới.
- Công ty Gạch ốp lát Hà Nội có hệ thống dây chuyền công nghệ hiện đại, lực lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên trẻ, lành nghề, có trình độ cao. Những điều kiện đó sẽ đảm bảo cho công ty ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.
- Sau 4 năm hoạt động, Công ty đã tạo dựng được uy tín với khách hàng, nhà cung ứng và các ngân hàng… đây là điều kiện thuận lợi đối với công ty.
* Những khó khăn
- Quá trình đổi mới nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước còn chậm, nhiều cơ chế chính sách chưa được đổi mới kịp thời để khai thác tối đa nguồn ngoại lực, nội lực cho công cuộc phát triển.
- Công suất thiết kế của các nhà máy trong nước kể cả liên doanh sản phẩm sứ vệ sinh, gạch ốp lát đều vượt nhu cầu tiêu dùng. Mặc dù Nhà nước đã có biện pháp ngăn chặn hàng nhập lậu song số lượng hàng nhập lậu qua các năm vẫn lớn, việc bán phá giá các mặt hàng gây sức ép cạnh tranh lớn đến hàng sản xuất của công ty.
2.1.4. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong các năm 2000 - 2001.
Từ khi tách khỏi Công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng (1998). Công ty gạch ốp lát Hà Nội được tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh. Công ty đã mạnh dạn đầu tư vốn kinh doanh, đổi mới thiết bị công nghệ sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất và bước đầu đã đem l ại hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
Nhìn vào kết quả sản xuất kinh doanh trong năm 2000 và 2001 ta thấ tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty là tương đối khả quan. Hầu hết các chỉ tiêu trong năm 2001 so với năm 2000 tăng 5.059.647 (đ) tương ứng với tỷ lệ tăng là 2,36%.
Các khoản nộp ngân sách Nhà nước trong năm 2001 cũng tăng lên so với năm 2000 cụ thể là tăng 411.286 nghìn đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng là 5,29%.
Về mức thu nhập bình quân đầu người/tháng năm 2001 so với năm 2000 tăng 5.800 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 0,67%. Tuy mức tăng chưa đáng kể, nhưng cho thấy đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty đã được cải thiện. Đây cũng là một cố gắng rất lớn của công ty trong thời gian vừa qua.
Tuy nhiên, trong năm 2001 lợi nhuận đạt được lại giảm so với năm 2000. Với mức giảm về số tuyệt đối là 161.089.000đ tương ứng với tỷ lệ giảm là 4,19%. Nguyên nhân chủ yếu là do công ty đã tăng chi phí bán hàng lên. So với năm 2000, năm 2001 chi phí bán hàng tăng lên với số tuyệt đối là 6.185.882.000đ tương ứng với tỷ lệ tăng là 18,09%. Đây là một chiến lược phát triển của Công ty Gạch ốp lát Hà Nội. Công ty đã và đang mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Để chiến lĩnh thị trường, công ty cần phải có chính sách giá cả hợp lý, chất lượng sản phẩm tốt, sản phẩm phải được giới thiệu rộng rãi cho người tiêu dùng. Công ty Gạch ốp lát Hà Nội mới được thành lập vào tháng 5 - 1998, tuy sản phẩm của công ty đã tạo được uy tín lớn trên thị trường, song vẫn còn nhiều mới mẻ đối với người tiêu dùng, đặc biệt là các tỉnh miền Trung và miền Nam. Hiện nay công ty đang mở rộng hệ thống đại lý, các cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm. Công tác quảng cáo, chào hàng đang được áp dụng mạnh mẽ ở công ty.
Những phân tích ở trên cho thấy, trong năm 2001, lợi nhuận tuy có giảm so với năm 2000 nhưng sự giảm này lại đem lại cho công ty nhiều kết quả khả quan trong thời gian tới.
Có thể nói, những chỉ tiêu kinh tế mà công ty đã đạt được trong năm 2001 về sản xuất kinh doanh và đầu tư xây dựng là đáng khích lệ, bởi đó là kết quả của sự cố gắng đồng bộ các mặt côgn tác của cán bộ công nhân viên toàn công ty để thực hiện mục tiêu "đột phá về tổ chức sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển" được hội đồng quản trị công ty đề ra trong nghị quyết đầu năm. Khẳng định sự quan tâm giúp đỡ của Tổng công ty Thuỷ tinh gốm xây dựng, sự chỉ đạo điều hành nhạy bẽn, cương quyết có hiệu quả của lãnh đạo công ty Gạch ốp lát Hà Nội trong việc điều hành sản xuất, tổ chức quản lý công nghệ, chất lượng sản phẩm và công tác thị trường.
Năm 2002, thời cơ để tăng tốc phát triển với phía trước còn không ít khó khăn, thách thức và sự ảnh hưởng chung của nền kinh tế xã hội. Có thể tin tưởng vào khả năng nội lực, sự đoàn kết nhất trí, tập trung quyết đoán của toàn công ty nhất định năm 2001 công ty sẽ hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu kế hoạch, tạo đà phát triển cho những năm tiếp theo
2.2. Thực trạng về vốn kinh doanh của Công ty Gạch ốp lát Hà Nội năm 2000 - 2001
2.2.1. Vốn và nguồn vốn kinh doanh của công ty.
2.2.1.1. Vốn kinh doanh của công ty
Ngay từ khi mới thành lập theo quyết định số QĐ/284/QĐ/BXD của Bộ trưởng Bộ Xây Dựng năm 1998. Để tăng khả năng cạnh tranh đối với các sản phẩm của các doanh nghiệp khác trong nước, các sản phẩm nước ngoài, cũng như tạo uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng… Công ty đã không ngừng đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm.. Vì thế quy mô vốn kinh doanh của công ty cũng không ngừng tăng lên. Năm 1998 tổng số vốn kinh doanh của công ty là 126.308.410.000đồng. Nhưng đến năm 2000 tổng số vốn kinh doanh của công ty đã lên tới 172.770.118.000 đồng. Tuy nhiên, đến năm 2001 vốn kinh doanh của công ty có giảm so với năm 2000. Để thấy được điều này ta xem xét bảng 2:
Bảng 02: Vốn kinh doanh trong năm 2000 - 20001
Đơn vị: nghìn đồng
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Tăng (giảm)
Số tiền
Tỷ lệ (%)
Vốn kinh doanh
172.770.118
157.427.252
- 15.342.866
- 8,88
Qua bảng 2 ta thấy tổng số vốn kinh doanh của công ty năm 2001 là 157.427.252.000 đồng giảm 15.342.8666.000 đồng so với năm 2000 tương ứng với tỷ lệ giảm là 8,88%. Tuy nhiên, quy mô vốn kinh doanh năm 2001 giảm so với năm 2000 nhưng không gây ảnh hưởng nhiều tới quá trình sản xuất kinh doanh của công ty. Nguyên nhân của việc giảm quy mô vốn kinh doanh là do trong năm 2001 công ty đã bố trí lại cơ cấu vốn kinh doanh nhằm tạo ra một cơ cấu vốn hợp lý và nâng cao hiệu quả sử dụng của các loại vốn.
Về cơ cấu vốn kinh doanh của công ty trong năm 2000 và 2001 có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng tăng tỷ trọng vốn lưu động và giảm tỷ trọng vốn cố định. Số liệu trong bảng 03 sẽ minh hoạ cụ thể điều này.
Bảng 03: Bảng cơ cấu vốn kinh doanh qua các năm
Đơn vị tính: 1000 đồng
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Chênh lệch
Số tiền
Tỷ lệ (%)
Số tiền
Tỷ lệ (%)
STĐ
Tỷ lệ (%)
Vốn lưu động
Vốn cố định
66.808.793
105.961.325
38,67
61,33
70.783.026
86.644.226
44,96
55,04
+3.974.223
-19.317.099
+5,95
-18,23
Cộng:
172.770.118
100
157.427.252
100
-15.342.866
-8,88
Qua bảng 03 ta nhận thấy trong năm 2000, tỷ trọng vốn lưu động chiếm 38,67% trong tổng số vốn kinh doanh của công ty. Nhưng sang tới năm 2001 tỷ trọng vốn lưu động tăng lên tới 44,96%. Mức tăng vốn lưu động năm 2001 so với năm 2000 về số tuyệt đối là 3.974.233 (NĐ) tương ứng với tỷ lệ tăng là 5,95%.
Đối với vốn cố dịnh thì năm 2001 so với năm 2000 lại giảm xuống. Năm 2000 tỷ trọng vốn cố định chiếm trong tổng số vốn kinh doanh của công ty là 61,33% nhưng sang năm 200 tỷ trọng này chỉ còn ở mức 55,04% với mức giảm vốn cố định về số tuyệt đối là 19.317.099.000đ tương ứng với tỷ lệ giảm vốn cố định 18,23%. Từ số liệu phân tích ở trên cho thấy mức giảm về vốn cố định năm 2001 so với năm 2000 lớn hơn rất nhiều so với mức tăng vốn lưu động. Điều này đã làm cho vốn kinh doanh của công ty nhìn chung giảm, về số tuyệt đối là 15. 342.866 (NĐ) tương ứng với tỷ lệ giảm là 8,88%. Với cơ cấu vốn như trên là chưa được hợp lý, theo kinh nghiệm của một số đối tác của Đức, Italia và một số nước trong khu vực, với ngành sản xuất vật liệu xây dựng ở một số doanh nghiệp này thường có cơ cấu vốn tối ưu là mức vốn cố định chiếm khoảng 80% và vốn lưu động chiếm khoảng 20% trên tổng vốn kinh doanh. Nhưng đối với Công ty Gạch ốp lát Hà Nội thì vốn lưu động không ngừng chiếm tỷ trọng lớn mà còn tăng lên trong năm 2001. Hơn nữa số vốn này lại chủ yếu nằm trong các khoản phải thu và hàng hoá tồn kho… Đây là một vấn đề mà công ty cần phải xem xét, nhằm bố trí lại cơ cấu vốn kinh doanh của mình, tạo ra một cơ cấu vốn hợp lý, tối ưu hơn cho những năm tới.
2.2.1.2. Nguồn vốn kinh doanh của Công ty Gạch ốp lát Hà Nội.
Là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng công ty Gốm thuỷ tinh và gốm xây dựng. Khi được thành lập năm 1998 Công ty được Nhà nước đầu tư một nguồn vốn khoảng gần 10 tỷ đồng. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nhân thức được răng trong điều kiện mới của nền kinh tế, công ty phải tự chủ động trong việc tìm kiếm nguồn vốn để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới trang thiết bị công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm ... Thực tế trong những năm qua, công ty đã không thụ động trông chờ vào nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước cấp mà chủ động và linh hoạt trong việc huy động vốn các nguồn vốn để đáp ứng được yêu cầu về vốn kinh doanh của mình. Bên cạnh việc tận dụng các nguồn vốn huy động có tính chất truyền thống bên trong như bổ sung vốn từ lợi nhuận để lại, huy động vốn từ các quỹ chuyên dùng ... Công ty đã mạnh dạn huy động vốn từ bên ngoài như: vay ngắn hạn, dài hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, huy động vốn liên doanh, liên kết ... Với các hình thức huy động vốn đa dạng và phong phú Công ty đã tạo lập được một nguồn vốn kinh doanh rất lớn. Tính đến 31/12/2001 tổng nguồn vốn kinh doanh của công ty là 157.427.252 (NĐ). Tuy nhiên trong thời gian hoạt động, cơ cấu nguồn vốn của công ty luôn có sự thay đổi giữa các năm. Để thấy rõ được điều này ta xem xét bảng 04:
Bảng 04: Bảng cơ cấu nguồn vốn của công ty gạch ốp lát Hà nội năm 2000 - 2001
Đơn vị tính: 1000 đồng
Nguồn vốn
Năm 2000
Năm 2001
So sánh
Số tiền
Tỷ lệ (%)
Số tiền
Tỷ lệ (%)
STĐ
Tỷ lệ (%)
I. Vốn chủ sở hữu
- Vốn NSNN cấp
- Vốn tự bổ sung
II. Nợ phải trả
- Nợ ngắn hạn
- Nợ dài hạn
- Nợ khác
13.286.989
10.453.987
2.833.002
159.483.129
50.379.375
103.964.988
5.138.766
7,69
6,05
1,64
92,31
29,16
60,18
2,97
15.575.448
11.984.253
3.591.195
141.851.804
55.064.309
80.907.839
5.979.656
9,89
7,61
2,28
90,11
34,98
51,39
3,74
+ 2.228.459
+ 1.530.266
+ 758.193
- 17.631.325
+ 4.684.934
- 23.057.149
+ 740.890
+ 17,22
+ 14,64
+ 26,76
- 11,06
+ 9,30
- 22,18
+ 14,42
Cộng:
172.770.118
100
157.427.252
100
- 15.342.866
- 8,88
* Nguồn vốn chủ sở hữu: nguồn vốn này bao gồm vốn ngân sách Nhà nước cấp và vốn tự bổ sung. Nguồn vốn này không ngừng tăng lên qua các năm. Nếu năm 1999 tổng nguồn vốn chủ sở hữu mới chỉ khoảng trê 10 tỷ đồng thì đến năm 2000 con số này lên tới 13.286.989 (NĐ) và năm 2001 tăng lên 15.575.448 (NĐ) và tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn cũng tăng lên một mức đáng kể. Năm 2000 tỷ trọng nguồn vốn kinh doanh với mức tăng của năm 2001 so với năm 2000 là 17,22% tương ứng với số tuyệt đối tăng là 2.288.459 (NĐ).
- Trong đó: vốn ngân sách Nhà nước cấp tính đến năm 2000 là 10.453.987 NĐ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29832.doc