Các giải pháp tăng cường khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng thương Mại Việt Nam - Tham gia Hội nhập kinh tế tài chính khu vực & thế giới

Đề Tài: CáC GIảI PHáP TĂNG CƯờNG KHả NĂNG cạNH TRANH CủA CáC NGÂN HàNG THƯƠNG MạI VIệT NAM Để THAM GIA HộI NHậP KINH Tế TàI CHíNH KHU VựC Và THế GIớI. --------------------------------------------- Lời mở đầu Các tổ chức Ngân hàng(NH) là những doanh nghiệp, nhưng là doanh nghiệp "đặc biệt". Chúng hoạt động trong lĩnh vực tìên tệ-Tín dụng. Đặc trưng hoạt động của các doanh nghịêp NH là : -Kinh doanh trong lĩnh vực nhạy cảm nhất của nền kinh tế xã hội. -Hoạt động của các tổ chức ngân hàng

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1437 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp tăng cường khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng thương Mại Việt Nam - Tham gia Hội nhập kinh tế tài chính khu vực & thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đều liên quan hết thảy các tác nhân và thể nhân trong nền kinh tế. -Mỗi tổ chức ngân hàng là một đơn vị hữu cơ trong cả hệ thống; Trước đây, trong suốt một thời gian dài, chúng ta đã không đánh giá đầy đủ vai trò các quan hệ hàng hóa- tiền tệ. Từ đó dẫn đến cách tiếp cận không đúng đối với vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế. Quan niệm mới về chiến lược phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải thực hiện những biến đổi sâu sắc trong lĩnh vực NH, trong đó đổi mới mô hình hệ thống tổ chức và chính sách tiền tệ là những vấn đề cốt lõi. Hiện nay, sự phát triển của hệ thống tài chính đóng vai trò như một yếu tố đầu vào đối vứi sự tăng trưởng kinh tế. Một hệ thống tài chính hoạt động có hiệu qủa thực hiện chức năng kinh tế nòng cốt trong việc dẫn vốn từ những người có tiết kịêm tới những người có nhu cầu về vốn. Trong hệ thống tài chính, các NH là mạch máu vô cùng quan trọng. Không thể nói đến một nền kinh tế mạnh với hệ thống NH yếu kém và ngược lại. Qua nhiều thập kỷ nhiều nước công nghiệp, phát triển và đang phát triển đã từng vấp phải nhiều vấn đề liên quan đến hệ thống NH. Những vấn đề này thường gắn với cuộc khủng hoảng kinh tế vĩ mô, gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, mà một trong những nguyên nhân cơ bản là do hệ thống NH yếu kém và mắc nhiều sai lầm. Trong vòng xoáy đó, hệ thống NH Việt Nam không bị ảnh hưởng trực tiếp song cũng bộc lộ những nhược điểm cần điều chỉnh. Ngày 13 tháng 7 năm 2000 vừa qua hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ được ký kết. Đặt dấu ấn cho mối quan hệ kinh tế giữa hai nước Việt-Mỹ. Theo lộ trình này : Sau 9 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực các NH Mỹ được phép lập NH 100% vốn Mỹ tại Việt Nam. Trong thời gian 9 năm đó cho phép các NH Mỹ liên doanh đối tác với Việt Nam, trong đó tỷ lệ góp vốn là 30% đến 40% vốn pháp định. Các NH Mỹ được phép huy động vốn dần đến mức không hạn chế. Sau 3 năm các NH Mỹ còn được thực hiện các nghiệp vụ NH về chiết khấu, mua bán ngoại tệ có kỳ hạn như các NH trong nước, sau 8 năm được phép phát hành thẻ tín dụng, được caid đặt máy rút tiền tự động ATM..v.v... Đứng trước những thực tế đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải cải cách hệ thống NH. Việt Nam cần xem xét và giải quyết những vấn đề có liên quan để tạo lập một hệ thống NH vững mạnh, có được khả năng huy động vốn cao và nhất là có sức cạnh tranh với hệ thống ngân hàng các nước đặc biệt là Mỹ. Trong quá trình học tập, nghiên cứu môn học lý thuyết tiền tệ, và được sự hướng dẫn của thầy giáo THS Nguyễn Văn Lộc. Từ đó mà em có cơ sở để tìm hiểu về vấn đề cạnh tranh của các NHTM Việt Nam trước xu thế hội nhập kinh tế-tài chính khu vực, và thế giớí thông qua đề tài;"NHTM với quá trình hội nhập kinh tế- tài chính khu vực và thế giới".Tuy nhiên do trình độ còn hạn chế, và cùng với sự biến đổi thường xuyên của nền kinh tế thị trường, nên trong bài viết không tránh khỏỉ thiếu sót, về thông tin, số liệu ,cập nhật mới nhất cho bài viết. Vì vậy em rất mong được sự góp ý của quý thầy cô và bạn đọc để giúp em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô và các bạn! Nội dung đề tài gồm 3 chương: -Chương I: NHTM với quá trình hội nhập kinh tế-tài chính quốc tế . -ChươngII: Thực trạng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam hiện nay. -Chương III: Các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng sự cạnh tranh của các NHTM Việt Nam khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Hà Nội, ngày 14 tháng 2 năm 2003 Sinh Viên: Đường Minh Tiến. Lớp : K38-11.06 - Chương I Ngân hàng thương mại với quá trình hội nhập kinh tế- tài chính quốc tế 1. Ngân hàng thương mại và vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. 1.1 Khái niệm về ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại (NHTM) là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ-tín dụng. Ngân hàng thương mại còn định nghĩa như là một trung gian tài chính đi vay để cho vay. Như vậy, qua định nghĩa trên, NHTM đã thể hiện như là một doanh nghiệp thực sự. Song đó là loại hình doanh nghiệp dịch vụ tài chính. Dịch vụ được thể hiện ở chỗ NHTM đi vay tiền của xã hội và rồi lại cho chính xã hội vay lại, qua đó mà thu lời. 1.2 Các loại hình NHTM. Có thể phân chia ngân hàng (NH) theo các tiêu thức khác nhau tuỳ theo yêu cầu của người quản lý. -Dựa trên tiêu thức sở hữu, người ta phân biệt NHTM công và ngân hàng thương mại tư +NHTM công là loại NH do Nhà nước cấp toàn bộ vốn điều lệ và bộ máylãnh đạo do Nhà nước bổ nhiệm. +NHTM tư là loại hình NHTM do cá nhân thành lập bằng vốn của cá nhân hoặc do sự hùn vốn của các cá nhân dưới hình thức đóng góp cổ phần. +NHTM liên doanh là NH hình thành dựa trên góp vốn của hai hoặc nhiều bên, thường là giữa NH trong nước với NH nước ngoài để tận dụng các ưu thế của nhau -Căn cứ vào tiêu thức tính chất hoạt động người ta chia ra; +Ngân hàng chuyên doanh ,ngân hàng đa năng, NH bán buôn, ngân hàng bán lẻ Ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên doanh: Loại ngân hàng này chỉ chuyên cung cấp một số dich vụ ngân hàng ,ví dụ như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ bản, hoặc đối với ngân hàng nông nghiệp, hoặc chỉ cho vay (không bảo lãnh hoặc cho thuê)...Tính chuyên môn hoá cao cho phép NH có được đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ.Loại ngân hàng này thường gặp rủi ro lớn khi ngành hoặc lĩnh vực mà ngân hàng phục vụ sa sút. Ngân hàng đa năng :Là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ NH cho mọi đối tượng Ngân hàng bán buôn là ngân hàng chủ yếu cung cấp các dịch vụ cho các ngân hàng, các công ty tài chính, cho Nhà nước, cho các doanh nghiệp lớn -Căn cứ vào tiêu thức cơ cấu tổ chức,NHTM được chia ra: +Ngân hàng thuộc sở hữu công ty và ngân hàng không sở hữu công ty: Ngân hàng sở hữu công ty là NH nắm giữ phần lớn vốn của công ty, cho phép NH được tham gia quyết định các hoạt động cơ bản của công ty +Các NH không sở hữu công ty có thể do vốn nhỏ, hoặc quy định của luật pháp không cho phép 1.3 Các chức năng của ngân hàng thương mại: 1.3.1.Trung gian tài chính Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân trong nền kinh tế:(1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; và(2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm (2) sang nhóm (1) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm . Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng . Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát vốn hoặc hùn vốn. Lấy quan hệ tín dụng làm ví dụ. Người có tiền tiết kiệm đòi 1% cho chi phí giao dịch, 2% phòng rủi ro và 3% là thu nhập ròng từ số tiền tiết kiệm mà anh ta đang phải tạm thời từ bỏ quyền sử dụng . Tổng cộng anh ta đòi 6% trên số tiền cho vay. Người vay phải chi 1% cho chi phí giao dịch, 6% trả cho người có tiền, tổng cộng phí tổn tín dụng là 7% . Nếu việc sử dụng tiền vay có thể tạo ra cho anh ta một tỷ suất thu nhập lớn hơn 7% (giả sử là 10%) thì quan hệ tín dụng sẽ được thiết lập. Quan hệ tín dụng trực tiếp (quan hệ tài chính trực tiếp) đã có từ rất lâu và tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do không phù hợp về quy mô, thời gian ...Điều này cản trở quan hệ tài chính trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hoá, trung gian tài chính có thể làm chi phí giao dịch ví dụ từ 2% xuống còn 1% ở ví dụ trên, chi phí rủi ro từ 2% xuống còn 1% . Trung gian có thể trả cho người tiết kiệm 3,5% với cam kết không có rủi ro (lớn hơn 3% thu nhập trước đó). Chênh lệc 6,5%- 3,5% =3% chính là thu nhập của trung gian. Như vậy trung gian tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà làm khuyến khích tiết kiệm,đồng thời giảm chi phí tín dụng cho người đầu tư (tăng thu nhập cho người đầu tư) từ đó mà khuyến khích đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp những người tiết kiệm và đàu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch. Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng bằng sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính.Chẳng hạn những khoản tín dụng và chứng khoá không thể chia thành những khoản nhỏ mà mọi người đều có thể mua. Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị trong việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ hơn (dưới dạng tiền gửi) phục vụ chop hàng triệu người. Trong các ví dụ này,hệ thống tài chính kém hoàn hảo tạo ra vai trò cho các ngân hàng trong việc phục vụ những người tiết kiệm. Một đóng góp khác của ngân hàng là do họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền.Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thoả mãn nhu cầu thanh toán của nhiều khách hàng. Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển thịnh vượng làkhả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng " thông tin không cân xứng" làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với yếu tố rủi ro-lợi nhuận hấp dẫn. 1.3.2 Chức năng trung gian thanh toán. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàngthực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu các loại thẻ... cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và thanh toán tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện việc thanh toán bù trừ cho nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc cacs trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua NH càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả,phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu. 1.3.3 Chức năng tạo phương tiện thanh toán Những hoạt động mà ngân hàng thương mại đã làm hình thành nên một cơ chế tạo tiền trong toàn bộ hệ thống ngân hàng.Ban đầu, các ngân hàng tạo các phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ, nó trở thành tiền giấy. Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực ophát hanh (in) tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ Tài Chính hoặc là Ngân hàng Trung ương. Từ đó chấm dứt việc các ngân hàng thương mại taọ ra các giấy bạc riêng của mình. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán,họ có thể chi trả để có được hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại,đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông(Mo), thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của khách hàng tại các ngân hàng, thứ ba lầ tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn.... Khi ngân hàng cho vay, số dư tren tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên,khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán(tham gia tạo ra M1). Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu(tức làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoật động cho vay (tạo tín dụng). Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống ngân hàng tạo ra chịu tác đọng trực tiếp như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt bắt buộc, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt qua ngân hàng, tỷ kệ tiền gửi không phải là tiền gửi thanh toán.... Qua chức năng này,ngân hàng thương mại cũng đã góp phần giám sát kỷ luật tài chính, giữ gìn kỷ cương phép nước trong toàn xã hội. 1.4 Một số hoạt động chủ yếu của ngân hàng. 1.4.1 Hoạt động tạo lập nguồn vốn -Huy động vốn nhàn rỗi của xã hội: Huy động vốn nhàn rỗi của xã hội là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu của NHTM. Nó tạo ra nguồn vốn chủ đạo trong kinh doanh của bất kỳ ngân hàng thương mại nào . Ngân hàng thương mại thường huy động vốn nhàn rỗi của xã hội qua các phương thức nhận tiền gửi, phát hành trái phiếu ngân hàng. Huy động tiền gửi là hình thức huy động vốn chủ yếu của ngân hàng thương mại . Xã hội ngày nay phát triển rất nhanh, các nguồn vốn tiền gửi ngày càng phong phú và phức tạp. Song về mặt kỹ thuật ngân hàng, các khoản tiền gửi có thể được chia thành các khoản tiển gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào, nó có thể là tiền gửi thanh toán hoặc tiền gửi thuần tuý. Đặc trưng của loại nguồn vốn này đối với ngân hàng thương mại là biến động thường xuyên. Tuy nhiên, đây là nguồn vốn quan trọng đối với kinh doanh ngân hàng. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi được uỷ thác vào ngân hàng mà có sự thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Như vậy về mặt nguyên tắc, khách hàng gửi tiền chỉ được rút ra khi đén hạn thoả thuận. Do đó, đây là nguồn vốn tương đối ổn định, phù hợp với yêu cầu cho vay của ngân hàng thương mại. Huy động vốn thông qua các chứng từ có giá là việc các ngân hàng thương mại phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu, trái phiếu ngân hàng để huy động . Trong hình thức huy động này, ngân hàng chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội nhằm bổ sung nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng. -Nguồn vốn đi vay của ngân hàng khác. Nguồn vốn đi vay bởi các ngân hàng khác là nguồn vốn được hình thành bởi các mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau, hoặc giữa các tổ chức tín dụng với ngân hàng trung ương. Phương thức huy động vốn này thường chỉ mang tính tạm thời, hơn nữa có thể làm cho các ngân hàng thương mại phải chịu chi phí lớn . Vì vậy hiệu quả kinh tế mang lại từ nguồn vốn này không cao.Trong thực tế nguồn vốn này cũng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại. -Vốn tự có: Vốn tự có của ngân hàng bao gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số tài sản nợ khác theo quy định của ngân hàng trung ương. Xét về đặc điểm, nguồn vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số `nguồn vốn kinh doanh của một ngân hàng, vì nó là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác, là vốn khởi đầu tạo uy tín với khách hàng . Đồng thời vốn tự có còn là cơ sở xác định hệ số an toàn trong kinh doanh ngân hàng. 1.4.2 Sử dụng và khai thác các nguồn vốn Sử dụng và khai thác các nguồn vốn là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của ngân hàng thương maị. Hướng cơ bản trong sư dụng và khai thác các nguồn vốn của ngân hàng thương mại gồm có cho vay ngắn hạn , trung hạn và dài hạn. Cho vay ngắn hạn là loại cho vay dưới 12 tháng. Đây là loại cho vay chủ yếu nhất của ngân hàng thương mại, nhằm bổ sung vốn tạm thời thiếu hụt của doanh nghiệp và dân cư. Cho vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại là loại cho vay được thực hiện đối với những chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội từ 12 tháng trở lên. Loại cho vay này ngày càng được các ngân hàng thương mại quan tâm. Một mặt chúng đáp ứng yêu cầu vốn trung và dài hạn của xã hội để mở mang ngành nghề sản xuất- kinh doanh, đầu tư xây dựng cơ bản...Mặt khác chúng cũng phù hợp với khả năng huy động vốn ngày một nhiều của các ngân hàng thương mại. Hoạt động đầu tư hay còn gọi là hoạt động chứng khoán, giúp ngân hàng thương mại sử dụng và khai thác tối đa nguồn vốn đã huy động. Tăng cường khả năng thanh khoản cho dự trữ của ngân hàng thương mại.Đồng thời nó cũng mang lại nguồn thu nhập ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư chứng khoán ở mức độ nào còn tuỳ thuộc vào mô hình tổ chức ngân hàng thương mại ở mỗi nước. Nhưng xu thế chung đều không có sự cách biệt giữa hoạt động kinh doanh tiền tệ và kinh doanh chưng khoán. -Hoạt động ngân quỹ là hoạt động phục vụ cho việc chi trả đối với khách hàng, nó bao gồm nghiệp vụ quỹ tiền mặt, tiền gửi ở các nngân hàng khác và ngân hàng trung ương , tiền trong quá trình thu nhận. Mặc dù hoạt động ngân quỹ là hoạt động không sinh lời, nhưng lại rất quan trọng đối với các ngân hàng thương mại bởi nó góp phần tăng cường khả năng thanh toán và chi trả đối vơ khách hàng. 1.4.3 Các hoạt động uỷ thác: Đây là những hoạt động được thực hiện theo sự uỉy thác của khách hàng:Thanh toán hộ tiền hàng , dịch vụ quản lý tài sản, cung cấp thống tin và tư vấn về kinh doanh, đầu tư và quản trị doanh nghiệp. Những hoạt động này có ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng hoạt động tạo lập nguồn vốn kinh doanh, nâng cao hiệu quả của việc khai thác và sử dụng vốn. 1.5 Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường: +Ngân hàng thương mại giúp các doanh nghiệp có vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh: Trong nền kinh tế thị trường để mở rộng được quy mô sản suất đòi hỏi doanh nghiệp phải có lượng vốn lớn để đổi mới thiết bị và công nghệ lạc hậu, áp dụng những tiến bộ khoa học hiện đại. Trong điều kiện đó, NHTM một mặt đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn thiếu hụt, cung cấp dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện tốt kế hoạch sản xuất kinh doanh. Mặt khác, thông qua các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán ,tiền tệ, các NHTM hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. +Các NHTM góp phần phân bổ hợp lý cácnguồn lực giữa các vùng trong quốc gia, tạo điều kiện phát triển cân đối nền kinh tế. Trong điều kiện của nền kinh tế thị ,các ngân hàng thương mại một mặt góp phần hình thành duy trì và phát triển theo một cơ cấu ngành và khu vực nhất định. Mặt khác, các NHTM góp phần điều chỉnh ngành, khu vực khi xuất hiện sự phát triển mất cân đối hoặc khi cần có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. +NHTM tạo ra môi trường cho việc thực hiện chính sách tiền tệ của NH trung Ương. Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về NH trung Ương. Để thực thi chính sách tiền tệ phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dữ trữ bắt buộc, thị trường mở vv...chính các NHTM là chủ thể chịu sự tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế. Bởi vì hoạt động kinh doanh của NHTM gắn chặt với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế. Mặt khác cũng qua NHTM và các định chế tài chính trung gian khác, tình hình sản lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt, lãi suất, tỷ giá vv...của nền kinh tế được phản hồi về cho NH trung ương, để Chính Phủ và NH trung ương có những chính sách điều tiết thích hợp với từng tình hình cụ thể. +NHTM là cầu nối cho việc phát triển kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia. Với xu hướng phát triển của nền kinh tế là hướng hội nhập vào cộng đồng và nền kinh tế thế giới, nên việc mở rộng giao lưu kinh tế là một tất yếu, nó giúp cho mỗi quốc gia phát huy được lợi thế của mình, giữa các nước có sự giúp đỡ thân thiện với nhau để hỗ trợ đắc lực cho các hoạt động kinh tếnày đạt được hiệu quả cao, góp phần khẳng địnhvị trí và tăng sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp trên trường quốc tế thì vai trò của NHTM là không thể thiếu được thông qua các nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu, quan hệ thanh toán với các tổ chức tài chính, NH và doanh nghiệp quốc tế, giúp cho việc thanh toán trao đổi mua bán được diễn ra nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và có hiệu quả. 2.Hội nhập kinh tế quốc tế và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của các NHTM trong quá trình hội nhập. 2.1 Hội nhập kinh tế quốc tế. Những năm gần đây xuất hiện thuật ngữ hội nhập kinh tế quốc tế. Thực chất hội nhập kinh tế quốc tế là các nước tìm kiếm một số điều kiện nào đó mà họ có thể thống nhất được với nhau kể cả dành cho nhau những ưu đãi, tạo ra sự công bằng cho nhau trong sự hợp tác kinh tế nhằm khai thác các khả năng của nhau phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế. ở phạm vi một quốc gia, hội nhập kinh tế quốc tế là thực hiện mở cửa kinh tế quốc gia, phát triển kinh tế quốc gia gắn liền với kinh tế khu vực và thế giới, là tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động kinh tế quốc tế, vào hệ thống thương mại đa phương. 2.2 Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của các NHTM khi tham gia hội nhập kinh tế- tài chính quốc tế. Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là quá trình phát triển tất yếu trong thời đại hiện nay. Đảng và Nhà nước ta đã có quan điểm rõ ràng về vấn đề này khi thực hịện chính sách "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại"; đã gia nhập ASEAN, gia nhập APEC, có quan hệ tốt với WB, IMF, ADB, đã phê chuẩn hiệp định thưong mại Việt-Mỹ (có hiệu lực từ 10/12/2001) và đang đàm phán để có thể gia nhập WTO trong khoảng thời gian hai năm tới vv...những đổi mới trong đường lối phát triển kinh tế trên đã góp phần làm cho Việt Nam trở thành một trong số ít các quốc gia có độ tăng trưởng kinh tế cao trên toàn cầu ở suất thập niên 90. Tuy nhiên, quá trình hội nhập không phải là một con đường bằng phẳng, ít rủi ro tổn thất mà là một quá trình cạnh tranh gay gắt xâm nhập thị trường lẫn nhau giữa các nền kinh tế, các công ty đa quốc gia các tập đoàn tài chính quốc vv...vì thế để chủ động hội nhập, và phát triển đang là một vấn đề bức thiết hiện nay đối với mọi doanh nghiệp, trong đó có các NHTM Việt Nam (NHTMVN). 2.2.1 Những cơ hội và thách thức: Những lợi thế cơ bản mà NHTM có được trong quá trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam đối với nền kinh tế thế giới là: -Hội nhập sẽ mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế về các vấn đề tài chính, tiền tệ, qua đó nâng cao được uy tín của NHTM trên thị trường tài chính quốc tế. NHTM thuận lợi trong việc thiết lập, các quan hệ song phương và đa phương với các NH nước ngoài, từ đó sử dụng tốt hơn nguồn tiền gửi ngoại tệ đang có ở nước ngoài cũng như hỗ trợ một cách có hiệu quả hơn nữa cho các doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập vào các thị trường mới. (VD: Thị trường Mỹ). -Có điều kiện chia sẻ thông tin, trao đổi nghiệp vụ, tiếp cận thị trường mới cũng như tranh thủ được công nghệ NH, trình độ quản lý tiên tiến từ các quốc gia có nền kinh tế phát triển. -Thông qua việc hợp tác mà dành cho nhau những ưu đãi trong tín dụng, trong mức phí dịch vụ NH, trong đào tạo nguồn nhân lực. -NHTM sẽ thuận lợi hơn trong việc tiếp cận các nguồn vốn quốc tế nhất là các nguồn vốn dài hạn và các trợ giúp kỹ thuật quốc tế cần thiết khác. -Hội nhập quốc tế còn là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống NHTM phải tiến hành nhanh hơn, quyết liệt hơn,từ đó nâng cao được sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động, nâng cao được năng lực quản trị điều hành tương xứng với chuẩn mực của hệ thống NH quốc tế. Bên cạnh những thuận lợi trên NHTM cũng đang phải đối mặt với những thách thức hết sức lớn cần phải giải quyết cấp bách như: -Thực trạng tài chính yếu kém thể hịên ở vốn tự có thấp, vốn tự có trên tài sản có có điều chỉnh theo tỷ lệ rủi ro trong giai đoạn 1996-2001 thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn quốc tế là 8% nên hạn chế khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh-đầu tư, nợ xấu phát sinh từ thời bao cấp và những năm đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường đã lên tới hàng ngàn tỷ đồng mà NHTM không thể tự bản thân mình giải quyết xong trong một thời gian ngắn; trong khi đó lộ trình mở cửa trị trường tài chính-tiền tệ theo các hiệp định quốc tế đã đựoc Chính Phủ thông qua và theo thời gian, các "rào cản"trong lĩnh vực tài chính-NH sẽ dần được dỡ bỏ. Tiềm lực tài chính yếu kém là đặc điểm chung của hệ thống NHTM Việt Nam nhưng đây lại là thế mạnh của hệ thống NH nước ngoài nhất là với các NH Mỹ. -Nguồn vốn trung, dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn nên hạn chế việc tham gia đầu tư vào các công trình trọng điểm của quốc gia, của ngành và địa phương; trong khi thực tiễn cho thấy rằng việc đầu tư vào các lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích thì rủỉ ro sẽ thấp hơn đầu tư thông thường, bởi lẽ các dự án đầu tư này thường có sự hỗ trợ và ưu đãi của Chính Phủ về thuế và vốn, về kỹ thuật, tiền thuê đất,vv.. -NHTM có nguồn vốn tiền gửi ngoại tệ lớn và chủ yếu bằng USD, nhưng vốn để đầu tư trong nước chiếm tỷ trọng nhỏ, còn đa số là gửi ở NH nước ngoài nên dễ bị tác động bởi các yếu tố về chính sách tiền tệ tỷ giá hối đoái của nước ngoài mà đặc biệt là của Mỹ. Nguồn tiền gửi ngoại tệ lớn nhưng chưa linh hoạt trong chuyển đổi sử dụng nên đã có nhiều lúc xảy ra nghịch lý"vốn ngoại tệ thừa" trong khi "tiền đồng Việt Nam " đã làm hạn chế hoạt động kinh doanh. -Trình độ công nghệ NH còn thấp, việc ứng dụng còn nhiều bất cập, cơ cấu sản phẩm dịch vụ NH chưa đa dạng. -Trình độ quản trị điều hành chung về các mặt chỉ mới ở mức trung bình nếu so với hệ thống NH quốc tế. -NHTM chưa có chi nhánh ở nước ngoài trong khi đó nhiều NH nước ngoài đã có chi nhánh và đang ngày một mở rộng hoạt động tại Việt Nam. 2.3 Những nội dung chủ yếu trong cạnh tranh của các NHTM khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tháng 12 năm 1986 Đảng ta có chủ trương đổi mới kinh tế ,phát triển kinh tế thị trường có định hướng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đảng ta động viên toàn dân cố gắng phát riển sức mạnh nội lực sẵn có trong nước và đẩy mạnh các quan hệ hợp tác kinh tế với bên ngoài , tham gia quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó nền kinh tế nước ta đã phát triển mạnh mẽ, nhất là trong thập niên 90. Đại hội ần thứ chín vừa qua lại một lần nữakhẳng định và nhấn mạnh hơn là phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế không phải là mục tiêu mà là phương tiện chúng ta lợi dụng các nguồn lực bên ngoài để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, đáp ứng yêu cầu của nước ta trong quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta thàh nước công nghiệp hiện đại giàu mạnh. Với chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong 10 năm tới của nước ta là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để năm 2010 nứoc ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp với mục tiêu là đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển , nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của nhân dân ta. Nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế phù hợp với ý tưởng của Đảng, với công cuộc đổi mới kinh tế của nước ta, toàn bộ hệ thống NH Việt Nam đã được đổi mới cơ cấu lại mạnh mẽ, chuyển từ hệ thống NH một cấp sang hệ thống NH hai cấp, mọi hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ NH phải tuân thủ luật NH và luật các tổ chức tín dụng cũng như các quy định khác của quốc tế.. Vậy nên hiểu những nội dung chủ yếu trong cạnh tranh của các ngân hàng thương mại là gì? Việc đầu cần làm là: Cơ cấu lại hệ thống NH Việt Nam nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động của NH. Đó là việc khôi phục lại khả năng trả nợ và khả năng thu lợi nhuận, nâng cao chức năng trung gian tài chính giữa các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế. Nói một cách đơn giản, việc cải cách hệ thống NH là cố gấng khôi phục tính cân đối giữa các danh mục của bảng cân đối tái sản của NH. Cố gắng từ nay đến năm 2005 giải quyết dứt điểm các khoản nợ bị rủi ro không đòi được và lhông để phát sinh nợ quá hạn.Bằng mọi phương pháp để nâng cao vốn điều lệ lên ngang tầm mức của ngân hàng khu vực và toàn cầu, muốn vậy phải có sự hỗ trợ của Nhà nước.Nâng cao năng lực tài chính, phấn đấu nâng chỉ số CAR đạy 6- 8% tổng tích sản vào năm 2005, với tốc độ tăng trưởng nguồn vốn bình quân trên 18% năm. Việc thứ hai là: Sắp xếp cơ cấu lại bộ máy tổ chức và nâng cao năng lực bộ máy quản trị điều hành ngân hàng. Phải đổi mới cơ chế điều hành tổ chức, các phòng ban bộ phận cho phù hợp với ý tưởng một ngân hàng hiện đại. Tiến hành từ hội sở chính đến các chi nhánh, nói một cách khác là kiện toàn cả hệ thống. Có như vậy mới đáp ứng được mục tiêu kinh doanh và hội nhập. Xây dựng mô hình quản lý từ trung ương đến cơ sở thoáng do phân cấp quản lý nhưng lại chặt chẽ theo các quy chế và pháp luật. Bên cạnh đó mở rộng các mạng lưới đến các tỉnh có tiềm năng phát triển kinh tế để cân đối được giữa hai nguồn vốn nội tệ và ngoại lệ. Việc thứ ba là: châm lo đội ngũ cán bộ, đào tạo cán bộ đủ trình độ một ncách kịp thời để hoàn thành các yêu cầu của nhiệm vụ. Bên cạnh những cán bộ đã có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng đáp ứng được yêu cầu, cần tiếp tục đào tạo mới và bổ trợ các kiến th._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0768.doc
Tài liệu liên quan