Lời nói đầu
Trong số những thành tích đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, trong thời gian qua, có thể nói nông nghiệp là một ngành đã có những bước đột phá ngoạn mục. Thu nhập của nông dân không ngừng tăng lên, bộ mặt nông thôn được cải thiện đáng kể. Sản xuất nông nghiệp đã đảm bảo an toàn lương thực cho đời sống xã hội.
Thế nhưng, sự phát triển ấy so với yêu cầu phát triển kinh tế chung trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong điều kiện hội nhập kinh tế
47 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2042 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp phát triển kinh tế trang trại vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quốc tế mạnh mẽ như hiện nay thì vẫn còn quá thấp và nhỏ bé. Cho đến bây giờ, nông nghiệp Việt Nam vẫn là một nền sản xuất kém hiệu quả và thiếu tính hợp lý. Cần phải hình thành và phát triển những hình thức sản xuất phù hợp hơn, mà trong đó, kinh tế trang trại là một mô hình tốt có thể áp dụng để đáp ứng yêu cầu này.
Đã manh nha từ rất lâu, nhưng chỉ trong khoảng chục năm trở lại đây, vai trò của kinh tế trang trại mới thực sự được công nhận và được quan tâm chú ý, đặc biệt là sau khi nghị quyết số 03/2000-CP của Chính phủ ngày 02/2/2000 về kinh tế trang trại ra đời, thì kinh tế trang trại mới có được một sự trợ giúp của Nhà nước về cơ chế, chính sách như là hỗ trợ cho các doanh nghiệp thông thường của nền kinh tế thị trường. Sự tăng nhanh về số lượng, gia tăng về giá trị sản lượng đã chứng tỏ đây là một mô hình tổ chức sản xuất nông nghiệp phù hợp với đặc thù kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta, giúp nông dân làm giàu, tăng thu nhập cho bản thân họ và cho xã hội.
Không có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại với quy mô đất đai lớn như ở vùng trung du miền núi phía Bắc hay vùng đồng bằng phía Nam, nhưng đồng bằng sông Hồng vốn là vùng có truyền thống sản xuất nông nghiệp lâu đời, trình độ thâm canh cao nhất cả nước. Nhưng để ngành nông nghiệp của vùng đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kì mới thì phải hợp lý hoá, hiệu quả hoá sản xuất nông nghiệp nhằm khai thác một cách triệt để tiềm năng về đất đai cũng như khả năng lao động của con người vùng châu thổ này, và mô hình kinh tế trang trại là phù hợp hơn cả. Những năm qua kinh tế trang trại vùng đồng bằng sông Hồng đã có nhiều thành tích đáng khích lệ, nhưng thật sự vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. Câu hỏi đặt ra là: khả năng phát triển kinh tế trang trại của vùng đến đâu? Làm sao để mô hình được áp dụng đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất? Trả lời cho câu hỏi này chính là mục đích của đề tài: “Các giải pháp phát triển kinh tế trang trại vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010”.
*Đối tượng nghiên cứu: các trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng
*Phạm vi nghiên cứu: thực trạng phát triển kinh tế trang trại và các yếu tố ảnh hưởng, cùng các biện pháp nhằm thúc đẩy qt phát triển của các trang trại.
*Phương pháp nghiên cứu:
+Phương pháp thống kê
+Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
+Phương pháp quan sát vĩ mô
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển kinh tế trang trại
I. Khái niệm, đặc trưng và tiêu chí phân loại
Xuất hiện cách đây khoảng hơn 200 năm, cho đến những năm cuối thế kỷ 20, kinh tế trang trại mà đặc biệt là trang trại gia đình đã trở thành mô hình sản xuất phổ biến nhất của nền nông nghiệp các nước phát triển, chiếm tỷ trọng lớn tuyệt đối về đất đai cũng như khối lượng nông sản, đặc biệt ở các nước Anh, Pháp, Nga- nơi bắt đầu cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đầu tiên của nhân loại.
Trải qua hàng mấy thế kỉ, đến nay, kinh tế trang trại tiếp tục phát triển ở những nước tư bản chủ nghĩa lâu đời cũng như các nước đang phát triển, các nước công nghiệp mới và đi vào những xã hội chủ nghĩa với cơ cấu và quy mô sản xuất khác nhau.
Tại Việt Nam, kinh tế trang trại phát triển muộn, chỉ từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận và đặc biệt là từ sau khi có nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4/98) về đổi mới quản lý kinh tế nhà nước, kinh tế hộ nông dân mới từng bước phục hồi và phát triển, phần lớn họ trở thành những chủ thể tự sản xuất. Cùng với các hộ gia đình công nhân viên chức làm nông nghiệp, lại có tích luỹ về vốn, kinh nghiệm sản xuất và kinh nghiệm quản lý, tiếp cận được với thị trường, thì sản xuất nông nghiệp mới thoát khỏi cái vỏ tự cấp tự túc và vươn tới nền sản xuất hàng hoá. Kinh tế trang trại ra đời.
Cho đến nay, quan điểm về kinh tế trang trại vẫn được trình bày theo nhiều khía cạnh khác nhau.
1. Khái niệm về kinh tế trang trại
Trang trại
Có thể hiểu trang trại là một đơn vị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp với quy mô lớn theo hướng sản xuất hàng hoá.
Kinh tế trang trại
PGS.PTS Lâm Quang Huyên, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp cho rằng: “Kinh tế trang trại là loại hình cơ sở sản xuất nông nghiệp, hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường từ khi phương thức này thay thế phương thức sản xuất phong kiến. Trang trại được hình thành từ các hộ tiểu nông sau khi phá bỏ cái vỏ tự cấp tự túc khép kín, vươn lên sản xuất nhiều nông sản hàng hoá tiếp cận với thị trường, từng bước thích nghi với nền kinh tế cạnh tranh”(1) Báo cáo chuyên đề: “Chính sách phát triển trang trại và tác động của nó đến việc làm và thu nhập của lao động nông thôn”, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, 2002.
Khái niệm này đã chỉ đúng bản chất sản xuất hàng hoá của kinh tế trang trại nhưng lại sailầm khi cho rằng nguồn gốc cuả các trang trại chỉ là xây dựng từ kinh tế của các hộ tiểu nông.
Trong nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về kinh tế trang trại. Chính phủ ta đã thống nhất nhận thức về kinh tế trang trại như sau: “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông- lâm- thuỷ sản”.
Khái niệm này khá đầy đủ, nêu ra được cơ sở, chức năng, hình thức sản xuất của trang trại nhưng chưa hướng đến tính chất hàng hoá hướng ra thị trường của trang trại.
Theo quan điểm của trường Đại học Kinh tế Quốc dân: “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông- lâm- ngư nghiệp, có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hay thuộc quyền sử dụng của một chủ thể độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn với cách tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ kĩ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường.
Đây là một khái niệm đầy đủ về kinh tế trang trại.
Tiêu chí xác định một trang trại.
Không phải nhà nước bỏ qua hình thức tổ chức sản xuất này, nhưng vì đến trước những năm 2000, do chưa có một sự thống nhất về khái niệm cũng như tiêu chí xác định trang trại nên mang đầy đủ đặc điểm của một đơn vị sản xuất kinh doanh nhưng chủ trang trại vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc xin hưởng các chế độ hỗ trợ của nhà nước. Thông thường các nhà thống kê vẫn sử dụng những chỉ tiêu định tính hoặc chỉ tiêu định lượng mà tính định lượng không cao, và các chỉ tiêu này không được thống nhất trong cả nước.
*Tiêu chí định tính:
Có thể dùng tiêu chí này để nhận dạng thế nào là một trang trại, tức là căn cứ vào mức độ sản xuất nông sản hàng hoá của trang trại để phân biệt kinh tế trang trại với kinh tế hộ gia đình.
*Tiêu chí định lượng:
Dùng để phân biệt rõ ràng trang trại và không phải trang trại, và để phân loại các trang trại khác nhau. Ngày 23/6/2000, Liên bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn- Tổng cục Thống kê đã ra thông tư số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK hướng dẫn tiêu chí để xác định kinh tế trang trại. Cụ thể như sau:
I.Các đối tượng và ngành sản xuất được xem xét để xác định là kinh tế trang trại
Hộ nông dân, hộ công nhân viên nhà nước và lực lượng vũ trang đã nghỉ hưu, các loại hộ thành thị và cá nhân chuyên sản xuất (bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản) hoặc sản xuất nông nghiệp là chính, có kiêm nhiệm các hoạt động dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn.
II.Tiêu chí định lượng để xác định là kinh tế trang trại:
Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được xác định là trang trại phải đạt được cả hai tiêu chí định lượng sau đây:
1.Giá trị sản lượng hàng hoá và dịchvụ bình quân 1 năm:
Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng trở lên.
Đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên từ 50 triệu đồng trở lên.
2.Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và với từng vùng kinh tế.
a.Đối với trang trại trồng trọt:
(1)Trang trại trồng cây hàng năm:
Từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung
Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên
(2)Trang trại trồng cây lâu năm:
Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung
Từ 5 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên
Trang trại trồng hồ tiêu từ 0,5 ha trở lên.
(3)Trang trại lâm nghiệp:
Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nước.
b.Đối với trang trại chăn nuôi:
(1)Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò,v.v...
Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở lên
Chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên
(2)Chăn nuôi gia súc: lợn, dê, v.v...
Chăn nuôi sinh sản có thường xuyên đối với lợn từ 20 con trở lên, đối với dê, cừu từ 100 con trở lên
Chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn sữa), dê thịt từ 200 con trở lên.
(3)Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, v.v... có thường xuyên từ 2000 con trở lên (không tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi).
c.Trang trại nuôi trồng thuỷ sản:
Diện tích mặt nước có để nuôi trồng thuỷ sản từ 2 ha trở lên (riêng đối với nuôi tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên).
d.Đối với các loại sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản có tính chất đặc thù như: trồng hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong, giống thủy sản và thuỷ đặc sản, thì tiêu chí xác định là sản lượng hàng hoá.
2. Đặc trưng của kinh tế trang trại
Hầu hết các ý kiến đều thống nhất về đặc trưng của kinh tế trang trại ở 3 điểm sau đây:
2.1.Mục đích sản xuất của kinh tế trang trại là sản xuất nông- lâm- thuỷ sản hàng hoá với quy mô lớn
Knh tế trang trại là kinh tế nông nghiệp sản xuất hàng hóa, khác với kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc. K.Marx đã phân biệt chủ trang trại với người tiểu nông như sau:
Chủ trang trại bán ra thị trường toàn bộ sản phẩm làm ra
Người tiểu nông dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và mua bán càng ít càng tốt.
Đây là điểm khác biệt lớn nhất của kinh tế trang trại so với kinh tế cá thể sản xuất nông nghiệp trước đây. Sản xuất hàng hoá đòi hỏi các trang trại phải có quy mô lớn để giảm chi phí đầu vào, tạo ra sản phẩm hàng hoá với giá thành cạnh tranh, chất lượng cao. Đến lượt nó, sản xuất quy mô lớn lại càng đòi hỏi phải làm ra sản phẩm hàng hoá để trao đổi trên thị trường vì rõ ràng ngươì chủ trang trại không thể tiêu dùng hết được.
Quy mô của trang trại lớn gấp nhiều lần quy mô của hộ gia đình hay kiểu tiểu nông. Nó được đánh giá bằng diện tích đất đai sử dụng, hay bằng giá trị sản lượng làm ra trong một năm hoặc đo bằng tỉ suất hàng hoá của trang trại.
2.2.Quá trình tích tụ ruộng đất và vốn đầu tư dẫn đến chuyên môn hoá và hình thành các vùng chuyên canh
Bất kì một hình thức sản xuất nông nghiệp nào cũng cần có sự tập trung đất đai và vốn ở mức độ nhất định. Do tính chất sản xuất hàng hoá quy mô lớn, quá trình phát triển kinh tế trang trại sẽ dần tạo ra những vùng, tiểu vùng sản xuất nông nghiệp với cơ cấu sản xuất khác nhau:
Cơ cấu sản xuất độc canh: là mức phát triển thấp của kinh tế trang trại. Trang trại chỉ sản xuất kinh doanh một loại cây (con) nhất định, tính chuyên nghiệp, chuyên môn và tính chất hàng hoá chưa cao.
Cơ cấu sản xuất đa dạng: trang trại kết hợp nhiều loại cây trồng vật nuôi để tận dụng mọi năng lực sản xuất của mình.
Cơ cấu sản xuất chuyên môn hoá: đây là giai đoạn trang trại đã tích luỹ đủ về đất đai, vốn, năng lực và kinh nghiệm quản lý để tham gia vào hệ thống phân công lao động xã hội. Khác với cơ cấu độc canh, sản xuất chuyên môn hoá đòi hỏi ứng dụng rộng rãi những tiến bộ khoa học kĩ thuật và đạt đến trình độ, tính chất sản xuất hàng hoá cao. Dần dần, nhiều trang trại cùng chuyên môn hoá một loại cây trồng, vật nuôi có thể hình thành nên những vùng chuyên canh rộng lớn.
2.3.Tổ chức và quản lý sản xuất theo phương thức tiến bộ
Dựa trên cơ sở thâm canh, chuyên môn hoá sản xuất, các trang trại phải có cơ chế tổ chức và quản lý sản xuất như là các đơn vị kinh doanh khác, tức là phải hạch toán, điều hành sản xuất hợp lý và thường xuyên tiếp cận với thị trường, khác với lối sản xuất “làm tới đâu thì tới” của kinh tế tiểu nông. ở đây hiệu quả kinh tế được đặt lên hàng đầu nên tất cả các hoạt động sản xuất đều phải tính toán lợi ích- chi phí bỏ ra.
Lao động trong trang trại có hai bộ phận: lao động quản lý (thường là chủ trang trại) và lao động trực tiếp (lao động gia đình và lao động làm thuê). Số lượng lao động thuê mướn thay đổi tuỳ loại hình trang trại và quy mô trang trại khác nhau.
Chủ trang trại là người có kiến thức và kinh nghiệm, trực tiếp điều hành sản xuất, biết áp dụng khoa học công nghệ. Thu nhập của trang trại vượt trội so với kinh tế hộ.
3. Phân loại kinh tế trang trại
3.1. Theo quy mô đất sử dụng, có thể chia 4 loại:
Trang trại nhỏ: dưới 2 ha
Trang trại vừa: 2-5 ha
Trang trại khá lớn: 5-10 ha
Trang trại lớn: trên 10 ha
3.2. Phân loại theo cơ cấu sản xuất, chia thành:
* Trang trại trồng trọt:
Trang trại trồng rừng: thường có quy mô lớn và được phát triển ở các vùng núi phía Bắc. Loại hình trang trại này không chỉ đòi hỏi lượng vốn lớn mà thời gian thu hồi vốn lại dài (5-10 năm hoặc hơn) cho nên để người kinh doanh trang trại có điều kiện nhận thì phải có cơ chế chính sách hỗ trợ về lâu dài.
Trang trại trồng cây ăn quả: Đây là loại hình trang trại phổ biến không chỉ ở miền núi mà còn rất thích hợp với vùng đồng bằng, đặc biệt là Đồng bằng Bắc Bộ và Đồng bằng Nam Bộ. Tuỳ điều kiện đất đai, khí hậu và ý tưởng kinh doanh mà chủ trang trại có thể lựa chọn trồng một hay nhiều loại cây ăn quả khác nhau.
Trang trại trồng cây công nghiệp: Loại hình này thường chỉ phù hợp với những vùng đất có tính chất đặc thù. Có lẽ đây là loại hình trang trại ra đời ở Việt Nam sớm nhất, bắt đầu từ những đồn điền cao sư của các ông chủ người Pháp. Đến nay, cây công nghiệp được trang trại lựa chọn rất đa dạng, bao gồm cả cây công nghiệp dài ngày (cà phê, tiêu, điều...) và cây công nghịp ngắn ngày (đay...)
Trang trại trồng cây lương thực, thực phẩm: quy mô đất nhỏ. Rất phù hợp với điều kiện đất đai và khí hậu vùng đồng bằng. Trong nhóm này, cây lúa chiếm một vị trí đáng kể.
Trang trại kinh doanh đặc thù: đó là các trang trại trồng hoa cảnh, cây cảnh, hoặc nuôi vật cảnh, cung cấp giống cho nông dân... Loại này không đòi hỏi diện tích đất đai lớn, vốn lớn nhỏ tuỳ loại sản phẩm nhưng phải có trình độ khoa học kĩ thuật. Rất phù hợp với các vùng đồng bằng vốn đất đai hạn chế.
*Trang trại chăn nuôi:
Loại hình trang trại này cũng rất đa dạng. Nếu là vùng núi trung du rộng lớn, thường chăn nuôi các loại đại gia súc (bò, dê...) còn ở vùng đồng bằng là các loại gia súc nhỏ (lợn, đà điểu,...) và gia cầm.
*Trang trại thuỷ sản: loại hình trang trại này rất đặc thù, nhất thiết phải có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản với một diện tích nhất định. Ven biển Đồng bằng Sông Hồng có rất nhiều yếu tố để phát triển ngành này. Tuy nhiên, các trang trại thủy sản cũng rất thường xuyên phải đối mặt với những rủi ro về khí hậu do những đặc trưng riêng của ngành.
*Trang trại kinh doanh tổng hợp: chủ trang trại có thể kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, trồng trọt với nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất với dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp hoặc thậm chí tất cả các hình thức miễn sao có lợi.
3.3. Phân loại trang trại theo chủ thể kinh doanh
Chủ trang trại có thể sở hữu hoặc đi thuê tư liệu sản xuất. Trường hợp phổ biến là chủ trang trại sở hữu quyền sử dụng đất nhưng phải đi thuê máy móc, thiết bị, chuồng trại, kho tàng. ở Việt Nam, người chủ trang trại chỉ có quyền sử dụng đất (tư liệu sản xuất chủ yếu) chứ không có quyền sở hữu nên tốt nhất không phân loại theo loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất.
Theo chủ thể kinh doanh, có thể chia kinh tế trang trại thành:
-Trang trại nhà nước: như nông trường quốc doanh, công ty nông nghiệp nhà nước, thường có quy mô lớn nên hình thành nên nhiều cấp trung gian. Các nông trường các công ty này lại khoán cho gia đình công nhân lập trang trại gia đình.
-Các hợp tác xã nông nghiệp: sau khi luật hợp tác xã ra đời, nhiều hợp tác xã nông nghiệp chuyển thành hợp tác xã dịch vụ đầu vào, đầu ra cho các hộ gia đình nông dân. Hợp tác xã nông nghiệp cũng có thể hình thành nhờ sự hợp tác sản xuất của các xã viên. Hình thức này ngày nay rất ít tồn tại.
-Trang trại của công ty hợp doanh: Là loại hình kinh doanh nông nghiệp quy mô lớn theo hướng sản xuất hàng hoá của các công ty hợp doanh. Họ có thể trực tiếp sản xuất hoặcgiao cho các hộ gia đình hay một đơn vị kinh tế khác làm, hùn vốn hay góp phần lớn vốn góp.
-Trang trại gia đình: Đây là loại hình phổ biến nhất của kinh tế trang trại trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Loại hình này thực chất là các hộ nông dân từ kinh tế tiểu nông sản xuất tự túc, tiến lên kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá với các mức độ khác nhau. Trang trại gia đình rất đa dạng về quy mô, về sở hữu và sử dụng ruộng đất, về chủng loại và số lượng lao động với số lượng khác nhau, về nguồn vốn và khoa học công nghệ, về ngành nghề, mặt hàng sản xuất.Trong hình thức này, mỗi gia đình là một chủ thể kinh tế, họ bỏ vốn và sức lao động để sản xuất, tự lo cả đầu vào và đầu ra cho sản phẩm.
-Trang trại tư nhân kinh doanh nông nghiệp: là loại trang trại của cá nhân các nhà tư bản, công thương gia, hoặc công ty cổ phần , hoặc thuê đất đai, thuê lao động sản xuất kinh doanh nông nghiệp nghĩa là họ hoàn toàn sử dụng lao động làm thuê như các doanh nghiệp tư nhân kinh doanh công nghiệp, dịch vụ khác của nền kinh tế.
II. Vai trò của kinh tế trang trại đối với phát triển kinh tế-xã hội vùng
Bất kì một hình thức sản xuất nào cũng gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội nói chung. Là một thực thể kinh tế, các trang trại hình thành và phát triển đã có những đóng góp không nhỏ cả về mặt tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp- nông thôn.
1. Phát triển kinh tế trang trại là một tất yếu của quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp- nông thôn
Các ngành sản xuất đều có xu hướng tích luỹ về vốn và các yếu tố sản xuất khác: tư liệu, lao động, kinh nghiệm, trình độ quản lý... Trong nông nghiệp cũng vậy. Những năm cuối thế kỷ 17 ở các nước bắt đầu công nghiệp hoá, đã có chủ trương thúc đẩy các quá trình tập trung ruộng đất, xây dựng các xí nghiệp nông nghiệp tư bản quy mô lớn với hi vọng mô hình này sẽ tạo ra nhiều nông sản tập trung với giá rẻ hơn sản xuất gia đình phân tán. Lúc đầu Marx cũng cho rằng đây là điều tất yếu trong qúa trình công nghiệp hoá nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa nhưng trong tác phẩm cuối cùng của mình, ông đã viết: “Ngay ở nước Anh nền công nghiệp phát triển, hình thức sản xuất có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không dùng lao động làm thuê”.(2) K.Marx, Toàn tập, tập 25, phần 2.
Sở dĩ như vậy là vì sản xuất nông nghiệp có đặc trưng khác với công nghiệp ở chỗ là phải tác động vào những vật sống (cây trồng, vật nuôi) nên không phù hợp với hình thức tổ chức sản xuất tập trung quy mô quá lớn.
Công cuộc đổi mới kinh tế và đổi mới nông nghiệp của Việt Nam mới bắt đầu cách đây gần hai chục năm. Cơ chế thị trường không chỉ tác động mạnh mẽ đến hoạt động của các ngành công nghiệp, dịch vụ mà còn làm thay đổi căn bản mục đích và do đó thay đổi cả phương thức sản xuất trong nông nghiệp. Sự phát triển của trao đổi hàng hoá đặt ra yêu cầu làm ra sản phẩm phải là hàng hoá với giá cả hợp lý và chất lượng đảm bảo hơn. Không chỉ là các nông trại lớn, ngay cả các đơn vị sản xuất nhỏ như hộ gia đình cũng hiểu rõ mục đích sản xuất của mình: sản phẩm để bán chứ không phải để tiêu dùng.
Khi nông nghiệp đã có một bước chuyển mình đáng kể, nhiều hộ nông dân đã giàu lên, nhận thức và hiểu biết về khoa học kĩ thuật ngày càng sâu sắc, kinh nghiệm và khả năng quản lý, tổ chức sản xuất ngày càng được nâng cao, vốn tích luỹ đạt đến một mức độ nhất định, thì cũng là lúc người kinh doanh nông nghiệp phải nghĩ đến một hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp mới, có quy mô lớn hơn, tỉ suất lợi nhuận cao hơn. Thế là họ bỏ vốn, lập nên các trang trại, thuê nhân công và hoạt động như một nhà kinh doanh thật sự.
Nhận thức được vai trò quan trọng của kinh tế trang trại trong phát triển kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp- nông thôn nói riêng, Chính phủ đã có khá nhiều văn bản quan trọng về các vấn đề: đất đai cho trang trại, vốn sản xuất cho trang trại, hỗ trợ khâu cung ứng đầu vào, đầu ra... Có thể nói, chưa bao giờ kinh tế trang trại được quan tâm đúng mức như những năm gần đây.
Tuy vậy, kinh tế nước ta đang trong qúa trình chuyển từ một nền kinh tế tự cung tự cấp sang một nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, sự quá độ của nền kinh tế lại quy định tính đa dạng của nó, về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, về sở hữu tư liệu sản xuất... Tính không đồng đều về trình độ sản xuất, một mặt dẫn tới những hình thức tổ chức sản xuất khác nhau, mặt khác, dẫn tới sự không thống nhất của mỗi hình thức tổ chức sản xuất. Do vậy trang trại nước ta cũng không thể thuần nhất khi mà kinh tế còn trong thời gian quá độ. Đó cũng là một quy luật phát triển như quy luật phát triển của các mô hình sản xuất khác mà thôi.
Như vậy, kinh tế trang trại là một thực thể khách quan, xuất hiện như là kết quả của quá trình tích luỹ về vốn, kinh nghiệm, năng lực của người chủ sản xuất, do tác động của cơ chế thị trường, mà trong đó, trang trại gia đình (với một số ưu thế riêng sẽ được xem xét ở phần sau) là mô hình được lựa chọn số 1.
2. Tác động của kinh tế trang trại đến sự phát triển của ngành sản xuất nông nghiệp
2.1. Góp phần chuyên môn hoá sản xuất và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp- nông thôn, phát triển kinh tế hàng hoá
Như đã nói, đặc trưng của kinh tế trang trại là mức độ tập trung cao về đất đai và tích luỹ lâu dài về vốn, đã dần tạo nên một quy mô vượt trội so với sản xuất của hộ gia đình. Với riêng mỗi trang trại, trong giai đoạn đầu do còn thiếu vốn và khả năng sản xuất cũng như kinh nghiệm quản lý, họ thường kết hợp sản xuất nhiều loại nông sản khác nhau nhưng sau đó, do sự tích luỹ về các yếu tố trên, trang trại sẽ hướng theo một vài loại sản phẩm dođó quy mô của loại sản phẩm này cũng lớn lên. Do ảnh hưởng của các lợi thế về quy mô, ta sẽ thấy các trang trại ở trong cùng một vùng có điều kiện tự nhiên giống nhau sẽ trồng hay nuôi cùng một loại cây, con như nhau, xây dựng các mô hình thâm canh, chuyên canh, tiếp cận các biện pháp canh tác hiện đại, từ đấy các vùng chuyên canh, vùng chuyên môn hoá hình thành, trở thành vùng cung cấp nguyên liệu rộng lớn cho các cơ sở chế biến.
Đến lúc này, sản xuất quy mô lớn lại đòi hỏi áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất để làm ra sản phẩm với chi phí thấp, chất lượng cao và đồng đều. Vì mục đích của kinh tế trang trại là thị trường: sản xuất cái gì, khối lượng bao nhiêu, chất lượng ở mức độ nào,... đều phải bắt kịp các tín hiệu của thị trường. Và vì xu hướng của trang trại là ngày càng đòi hỏi sản phẩm có chất lượng cao hơn, nên cơ cấu sản xuất của trang trại cũng thay đổi, hàm lượng khoa học kĩ thuật trong sản phẩm nông nghiệp thậm chí tăng lên. Nhìn chung, kinh tế trang trại sẽ tăng tỉ lệ chăn nuôi, giảm tỉ lệ trồng trọt, một số tiểu ngành như sản xuất thực phẩm cao cấp, hoa kiểng... ngày càng phát triển, đem lại nguồn thu lớn.
2.2. Góp phần làm tăng giá trị sản xuất nông nghiệp
Lợi thế về quy mô của các trang trại (quy mô đất đai, quy mô lao động...) giúp các trang trại tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn. Trang trại có điều kiện thuận lợi trong cả việc giảm giá thành các yếu tố đầu vào và cả trong quản lý, tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là dễ dàng hơn khi áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, sử dụng máy móc, trang thiết bị hiện đại trong hoạt động sản xuất. Với các hộ gia đình, chi phí cho các thiết bị này chiếm tỉ lệ quá lớn so với thu nhập và giá trị sản phẩm làm ra, nên thông thường họ phải đi thuê, tỉ suất lợi nhuận vì thế cũng thấp, khiến cho giá trị của cả ngành nông nghiệp giảm theo.
Cũng nhờ quy mô lớn, chuyên môn hoá cao, cùng với tính chất sản xuất hàng hoá mà sản phẩm của trang trại là những sản phẩm có giá trị cao. Thông thường thì người làm trang trại hiểu rõ mục đích sản xuất của mình là cung cấp cho thị trường, nên họ chỉ chọn kinh doanh những loại cây, con sao cho có hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng đúng yêu cầu mà thị trường đòi hỏi. Hơn thế nữa, sản phẩm làm ra thường có giá thành cạnh tranh, chất lượng đồng đều, có khả năng cung cấp với khối lượng lớn nên thường dễ được các cơ sở chế biến và người tiêu dùng chấp nhận. Giá trị sản phẩm cao không chỉ đem lại thu nhập cho chủ trang trại mà trong phạm vi toàn ngành, nó sẽ là phần đóng góp đáng kể để gia tăng giá trị ngành sản xuất nông nghiệp.
2.3. Góp phần vào sự phát triển của các ngành công nghiệp, dịch vụ, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp- nông thôn
Sản phẩm nông nghiệp là đầu vào quan trọng của các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Rõ ràng là khối lượng, chất lượng, giá cả nông sản cung cấp cho một nhà máy chế biến thực phẩm nào đó sẽ quyết định tính cạnh tranh của sản phẩm nhà máy này. Không những thế, sản phẩm của trang trại sẽ góp phần thúc đẩy các ngành công nghiệp cơ khí, công nghiệp năng lượng trong các mối liên hệ ngược với các ngành này. Để làm ra sản phẩm, các trang trại cần sử dụng máy móc, cần tiêu dùng năng lượng, cần được cung cấp giống, phân bón, thuốc trừ sâu... Đó là không kể những trang trại kinh doanh tổng hợp còn tự sơ chế, chế biến ngay tại chỗ. Yêu cầu này cần được sự giúp đỡ của ngành công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm... Mối quan hệ qua lại này chỉ ra rằng: sự phát triển của ngành này là động lực phát triển của ngành kia.
Mặt khác, khi kinh tế trang trại phát triển nó sẽ đem lại thu nhập cho một bộ phận nông dân, tiêu dùng của khu vực nông nghiệp- nông thôn tăng lên kéo theo sự khởi sắc của ngành dịch vụ theo đúng quy luật của nền kinh tế thị trường.
Như vậy, kinh tế trang trại không chỉ là lực lượng xung kích đi đầu trong lĩnh vực sản xuất nông sản hàng hoá, mà còn là lực lượng đi đầu trong ứng dụng khoa học công nghệ nông nghiệp, do đó là nhân tố cơ bản cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp- nông thôn nước ta. Điểm yếu của công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn là tính chất lạc hậu, manh mún, phân tán của sản xuất nông nghiệp nước ta nói chung và vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng (cho dù vùng Đồng bằng sông Hồng vẫn là vùng có trình độ thâm canh cao nhất cả nước) nên đã hạn chế khả năng thay đổi cách thức sản xuất từ thủ công sang lao động bằng máy móc hiện đại. Quy mô đất đai và vốn lớn của các trang trại sẽ khắc phục nhược điểm này.
Nói chung, trong điều kiện kinh tế thị trường, với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mô hình kinh tế trang trại là một hướng đi đầy triển vọng cho nông nghiệp Việt Nam. Chắc chắn trong tương lai, sự phát triển của nông nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng phải bao gồm cả sự phát triển của mô hình kinh tế trang trại.
3. Tác động về mặt xã hội và môi trường
3.1. Góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
Cho đến nay Đồng bằng Sông Hồng vẫn còn đến hơn 70% lao động là ở nông thôn. Tính chất mùa vụ của hoạt động sản xuất nông nghiệp cùng với việc mở rộng dần phạm vi ứng dụng của máy móc hiện đại càng làm tăng tỉ USD lệ thất nghiệp trá hình. Theo ước tính, lao động ở khu vực nông thôn mới chỉ sử dụng hết khoảng 3/4 thời gian lao động nông nghiệp, như vậy là đã lãng phí một lượng lớn lao động nông thôn. Trong số đó thậm chí nhiều người thậm chí còn hoàn toàn không có cả việc làm. Một phần lao động dư thừa ấy sẽ được giải quyết khi các trang trại hình thành vì trang trại không chỉ giải quyết việc làm cho bản thân chủ trang trại cũng như người nhà của họ mà còn thu hút được một lực lượng đáng kể lao động làm thuê.
3.2. Phát triển lựclượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Tác động của kinh tế trang trại tới sự phát triển của lực lượng sản xuất xét ở 3 khía cạnh:
Một là, nhờ cách làm ăn hiệu quả hơn, kinh tế trang trại đem lại nguồn thu nhập cao hơn cho người lao động tham gia sản xuất và trong thực tế, rất nhiều nông dân đã giàu lên thực sự bằng con đường này. Không những thế, những lao động làm thuê cũng được hưởng một mức thu nhập cao hơn trước đây, nhờ đó đời sống được cải thiện cả về mặt vật chất và tinh thần.
Hai là, dựa vào ưu thế của kinh tế trang trại trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật mà trình độ kĩ thuật, trình độ thâm canh, chuyên môn hoá nông nghiệp của vùng nói chung được nâng lên rõ rệt. Trong thời đại này, máy móc là bộ phận vô cùng quan trọng của lực lượng sản xuất nông nghiệp, và sự phát triển của máy móc (xét cả về số lượng và chất lượng) chính là sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Ba là, kinh tế trang trại phát triển kéo theo sự phát triển của các mối quan hệ giữa nông dân- nông dân trong việc hợp tác, hỗ trợ sản xuất, thuê nhân công, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ giữa các khâu sản xuất- chế biến- tiêu thụ của quy trình sản xuất hàng hoá. Tiếp theo đó là mối liên hệ giữa các chủ trang trại và nhà cung cấp, cũng đượcnâng lên thông qua các loại hình dịch vụ và chuyển giao kĩ thuật.
3.3. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn
Rõ ràng là để đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hoá của mình, các trang trại cần phải được đảm bảo bằng một hệ thống cơ sở hạ tầng đầy đủ và hiện đại. Nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, các trang trại có thể kết hợp với các địa phương, cùng các doanh nghiệp khác để giải quyết những vấn đề chung này (giao thông, điện, nước, thuỷ lợi, hệ thống tiêu thụ sản phẩm...), các công trình giao thông, kho tàng, bến bãi, các phương tiện vận tải được mở rộng và xây dựng mới để phục vụ cho sản xuất hàng hoá của các trang trại. Và vì không phải trang trại nào cũng có khả năng tự xây dựng hệ thống này nên cần có những sự giúp đỡ của nhà nước.
Đi đôi với việc phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất là hệ thống cơ sở phục vụ đời sống nhân dân, hệ thống trường học, trạm xá, chợ, các công trình văn hoá, thể thao... Một số thị tứ đã hình thành cùng với sự phát triển của kinh tế trang trại.
Đồng ._.bằng Sông Hồng, đóng góp của kinh tế trang trại sẽ là góp phần xây dựng mới, tu sửa va mở rộng mạng lưới thuỷ lợi, hệ thống đường sá nối khu vực nông thôn với thành thị và các khu vực nông thôn với nhau, nhất là các vùng ngoại thành xa trung tâm đô thị, thúc đẩy sự ra đời và hoạt động của các trung tâm nghiên cứu khoa học.
3.4.Khai thác hiệu quả các nguồn lực
Thực tế cho thấy trong các mô hình kinh tế trang trại các yếu tố nguồn lực thường được sử dụng hiệu quả hơn so với kinh tế hộ. Không còn mang tính chất tự sản tự tiêu, cơ chế thị trường buộc các “doanh nghiệp trang trại” phải hạch toán kinh doanh do đó vì lợi nhuận, các yếu tố đầu vào như đất đai, chi phí mua giống, phân bón, trang thiết bị máy móc, thuê mướn nhân công,... đều được tính toán sao cho đem lại tỉ suất lợi nhuận cao. Rộng hơn, kinh tế trang trại còn góp phần tích cực vào việc huy động tiền vốn đọng trong một bộ phận lớn nông dân lâu nay vào sản xuất nông nghiệp.
3.5. Những lợi ích về môi trường:
Đối với vùng Đồng bằng Sông Hồng, các trang trại trồng rừng gần như không đáng kể, nhưng số lượng số lượng các trang trại còn lại đã góp phần đáng kể vào công cuộc xây dựng một nền nông nghiệp đa dạng, sinh thái, bền vững.
Tóm lại, mô hình kinh tế trang trại không chỉ là một mô hình thích hợp với sản xuất nông nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng mà nó còn phù hợp với cơ chế thị trường và đem lại những lợi ích to lớn cả về kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, nhận thức về vai trò của nó chưa đủ để chúng ta xây dựng được hệ thống các giải pháp hiệu quả, bởi vì ta còn phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại nữa.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng
1. Nhóm các nhân tố tài nguyên thiên nhiên
1.1. Đất đai
Quan trọng nhất đối với sản xuất nông nghiệp là yếu tố đất đai. Dù áp dụng bất cứ hình thức sản xuất nào, kinh doanh bất cứ loại nông sản nào, chủ trang trại cũng phải phát triển trêncơ sở một diện tích đất đai nhất định. ảnh hưởng của đất đai đến phát triển kinh tế trang trại quyết định bởi:
- Quy mô đất đai: tức là diện tích cần thiết để tạo ra một khối lượng nhất định sản phẩm. Nói chung, một quy mô đất sản xuất rộng lớn là một điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại.
- Đặc điểm của đất đai: Đây là một yếu tố đặc biệt quan trọng cần phải tính đến khi tiến hành sản xuất, nhất là với các trang trại trồng trọt. Như ta đã biết, Đồng bằng Sông Hồng vốn là một vùng châu thổ, đất phù sa bồi lắng hàng nghìn năm màu mỡ, nhưng theo tiến trình khai thác mộtcách lạc hậu và không tính đến hậu quả lâu dài cho nên đến nay, nhiều vùng đất đã trở nên bạc màu, muốn trồng trọt phải chi phí cải thiện đất rất tốn kém. Bên cạnh đó còn các vùng đất mặn, đất phèn, đất nhiều khoáng sản,... rất khó canh tác, nhưng cũng còn nhiều đất màu thuận lợi chocác loại cây trồng phát triển. Nếu là một trang trại chăn nuôi thì đất đai chưa phải là một yếu tố quan trọng lắm.
Tuy rằng một trang trại phát triển trên vùng đất đai rộng lớn thì thường có khả năng phát đạt nhanh, nhưng thực tế, vẫn có những trang trại nhỏ mà hiệu quả kinh doanh lại lớn. Vấn đề là ở chỗ chủ trang trại biết và vận dụng những sự hiểu biết về khoa học kĩ thuật, sử dụngmáy móc để tiến hành thâm canh, chuyên canh sao cho thật hiệu quả, nhất là trong điều kiện đất đai ngày càng trở nên khan hiếm, khi đó kinh tế trang trại mới thực sự chứng tỏ tính ưu việt của mình so với kinh tế hộ gia đình.
1.2. Thời tiết, khí hậu
Yếu tố thời tiết ảnh hưởng mạnh mẽ đến cơ cấu sản xuất của cả trang trại chăn nuôi và trang trại trồng trọt, bởi lẽ chúng là những “đối tượng sống” được đặt trong một “môi trường sống” ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh trưởng và sinh sản. So với các vùng trong cả nước, khí hậu của vùng Đồng bằng Sông Hồng có thể xếp vào bậc nhất về mức độ thuận lợi và đa dạng, thích hợp với rất nhiều loài động, thực vật khác nhau. Nhờ số giờ nắng cao, tính chất nóng ẩm của mùa hè và không khí lạnh của mùa đông, vùng Đồng bằng Sông Hồng có điều kiện để đa dạng hoá cơ cấu cây trồng của mình, cả các loài cây nhiệt đới và cây ôn đới. Không những thế, sự phong phú của khí hậu ở các vùng, miền khác nhau, ở các độ cao khác nhau cũng tạo điều kiện để có một cơ cấu chăn nuôi đa dạng cho cả vùng.
2. Các nhân tố kinh tế xã hội
2.1. Lao động của trang trại
Bao gồm lao động quản lý và lao động sản xuất trực tiếp, xét trên 2 khía cạnh: số lượng và chất lượng.
-Số lượng lao động tuỳ thuộc vào: quy mô sản xuất của trang trại, trình độ cơ giới hoá, yêu cầu về nhân công do đặc trưng của ngành sản xuất, và khả năng thuê mướn lao động của chủ trang trại. Chắc chắn, so với kinh tế hộ, số lao động của trang trại sẽ nhỏ hơn, nhưng đó là điều cần thiết để có hiệu quả kinh doanh cao, tạo ra động lực cho cả ngành nông nghiệp phát triển. Hiện nay, do có sự dư thừa lao động nông thôn mà các chủ trang trại có thể dễ dàng thuê lao động với chi phí thấp.
-Chất lượng lao động phụ thuộc: tuổi, giới tính, trình độ học vấn, kinh nghiệm, tay nghề, mức độ tận tuỵ của người lao động. Nhìn chung, lao động cung cấp cho các trang trại thường là nông dân (ngay cả bản thân chủ trang trại cũng thường xuất thân như vậy) nên mức độ linh hoạt để thích ứng với cơ chế thị trường còn thấp. Phần vốn lớn nhất mà họ có là kinh nghiệm và những hiểu biết truyền thống về sản xuất nông nghiệp. Dù sao, Đồng bằng Sông Hồng cũng là vùng mà nông nghiệp được cơ giới hoá nhanh và sớm nhất cả nước, tiếp cận với sản xuất hàng hoá sớm nhất nên ít nhiều khả năng đáp ứng của người lao động cũng có phần nhỉnh hơn những vùng khác.
Sự phát triển của kinh tế trang trại còn phụ thuộc vào trình độ tổ chức và quản lý của chủ trang trại. Họ là những người có kinh nghiệm hoặc ít ra cũng là những người mạnh dạn, có hiểu biết về thị trường, về kinh tế hàng hoá, về cách thức sản xuất hiện đại.
Trong điều hiện hiện nay, có rất nhiều lao động có kinh nghiệm, có trình độ, am hiểu khoa họckĩ thuật, và lựclượng này cung cấp cho trang trại một đội ngũ nhà nghiên cứu, những kĩ sư nông nghiệp... chính họ bằng lao động chất xám của mình sẽ góp phần nâng cao sản lượng và chất lượng của nông phẩm.
2.2. Sự tích tụ vốn sản xuất:
Đây là điều kiện cần thiết để kinh tế hộ chuyển thành kinh tế trang trại. Kinh tế trang trại là một mô hình sản xuất lớn có tỉ suất hàng hoá cao, chấp nhận cạnh tranh ngày càng gay gắt và đặc biệt là luôn vận động theo các quy luật khách quan của cơ chế thị trường, nên ngày càng cần phải được tăng nguồn vốn đầu tư cho phát triển.
Nguồn vốn cung cấp cho các trang trại bao gồm: sự hỗ trợ từ ngân sách địa phương, từ phía nhà nước, vốn tự có của chủ trang trại, vốn vay, vốn tín dụng, trong đó chủ yếu là vốn của chủ trang trại, phần hỗ trợ từ phía nhà nước là rất hạn hẹp, vì thế khả năng tích luỹ vốn để mở rộng kinh doanh, đầu tư trang trại thiết bị công nghệ tiên tiến là rất khó khăn.
2.3. Những tác động của thị trường
Cùng với vốn, thị trường, là vấn đề sống còn của kinh tế trang trại, bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra, đặcbiệt là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Chúng tác động một cách mạnh mẽ tới tư duy và cáchthức hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại, đẩy nhanh phát triển sản xuất kinh doanh hàng hoá ở nông thôn, nhờ đó dân cư thoát khỏi tư duy kinh tế theo lối tiểu nông.
Vì là sản xuất hàng hoá nên vấn đề cung ứng vật tư (thị trường đầu vào) là rất quan trọng. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của trang trại, và rõ ràng là một thị trường đầu vào có sự độc quyền sẽ gây ra rất nhiều điều bất lợi, chủ trang trại sẽ phải mua vật tư với giá cao mà chất lượng không đảm bảo. Vì vậy cũng cần có sự quan tâm của nhà nước trong lĩnh vực này.
Còn thị trường sản phẩm đầu ra là một trong những vấn đề các trang trại quan tâm nhất, nó phát đi các tín hiệu định hướng cho các thị trường nên sản xuất loại nông sản nào, khối lượng, chất lượng ra sao, sản xuất như thế nào thì hiệu quả... Tuy vậy, hiện nay có một hạn chế rất lớn là cho đến nay, hầu hết các trang trại là hình thành tự phát, hoạt động chủ yếu mới ở khâu sản xuất và mới chỉ tạo ra sản phẩm nguyên liệu nên thường xuyên rơi vào tình trạng không có đầu ra hoặc tiêu thụ chậm, bị ép giá sản phẩm (nhất là các sản phẩm tươi sống) làm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh.
2.4. Tiến bộ khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất của trang trại vò đâu là một hình thức sản xuất ứng dụng rộng rãi những thành tựu của nó, từ máy móc thiết bị, đến kĩ thuật canh tác, tạo ra nhiều giống mới có năng suất, chất lượng cao cung cấp cho thị trường, đặc biệt là trong khâu chế biến nông sản. Công nghệ phù hợp, không chỉ giải quyết hết nhu cầu chế biến sản phẩm, mà còn là một trong những biện pháp để giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh.
2.5. Cơ sở hạ tầng nông thôn
Đây chính là “bầu không khí sống” của kinh tế trang trại, là yếu tố hỗ trợ cho kinh tế trang trại và trong nhiều trường hợp, nó mang tính quyết định. Một hệ thống thuỷ lợi tốt, một nạng lưới điện và thông tin liên lạc đồng bộ, đầy đủ, giáo dục đào tạo và một hệ thống thương mại đáp ứng đúng nhu cầu, là điều kiện thuận lợi như là sự thuận lợi với các yếu tố đầu vào khác. Một hệ thống đường giao thông hoàn chỉnh nối vùng sản xuất- chế biến- tiêu thụ là một trong những điều kiện cần thiết để tạo ra một cơ chế sản xuất liên hoàn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại.
Những tác động phức tạp của các yếu tố kinh tế- xã hội sẽ được đơn giản hoá và có lợi nếu các chủ trang trại linh hoạt, khéo léo tận dụng những thời cơ mà chúng đem lại, có phương án phòng tránh rủi ro, đồng thời phải có sự can thiệp của một chủ thể mà nhờ đó, mục tiêu kinh doanh của trang trại mới trở nên hoàn chỉnh: đó là Nhà nước.
3. Vai trò của Nhà nước.
Trong một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như nền kinh tế nước ta, những chính sách, thể chế mà nhà nước ban hành luôn là yếu tố ảnh hưởng trưc tiếp và mạnh mẽ đến các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, cũng như đến sự phát triển của kinh tế trang trại. ảnh hưởng này thể hiện ở các điểm sau đây:
Quy hoạch đất đai và các quy hoạch vùng chuyên môn hoá
Các chính sách về đất đai
Các chính sách về vốn đầu tư, tín dụng và thuế
Chính sách lao động
Chính sách thị trường
Chính sách khoa học- công nghệ- môi trường
Chính sách bảo hộ tài sản đã đầu tư cho trang trại
Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
Môi trường pháp lý.
Những chính sách này đã khuyến khích kinh tế trang trại phát triển đúng hướng, phát huy được các mặt mạnh và thuận lợi, hạn chế khắc phục khó khăn và trở ngại trong điều kiện các mối quan hệ phát sinh trong quá trình hình thành và phát triển của kinh tế trang trại vốn rất đa dạng, tinh tế và phức tạp.
IV. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở một số nước châu á
1. Đặc điểm kinh tế trang trại ở các nước châu á
Qua khảo sát tình hình phát triển kinh tế trang trại của các nước ở khu vực Châu á, có những đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội gần gũi với nước ta, chúng ta có thể rút ra những nhận xét, kinh nghiệm thực tế, bổ ích để tham khảo và vận dụng có chọn lọc vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Từ khi bắt đầu công nghiệp hoá, kinh tế trang trại ở các nước Châu á đã hình thành và phát triển và đến khi đạt trình độ công nghiệp hoá cao, kinh tế trang trại vẫn tồn tại, và đóng vai trò của lực trong nền công nghiệp sản xuất nông sản hàng hoá, giống như ở các nước công nghiệp phát triển Âu Mĩ. Thực tế đã chứng minh kinh tế trang trại là loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, là lực lượng xung kích sản xuất nông sản hàng hoá.
Đặc điểm của kinh tế trang trại các nước Châu á là quy mô nhỏ bé, phổ biến quy mô bình quân trên dưới 1 ha chỉ bằng 1/20- 1/10 của các nước Tây Âu và bằng 1/200- 1/100 của các nước Bắc Mĩ. Nhưng các trang trại quy mô nhỏ Châu á vẫn còn những tính chất cơ bản của kinh tế trang trại, như đảm bảo tỉ suất hàng hoá cao, khối lượng nông sản nhiều (khi các trang trại sản xuất chuyên môn hoá từng mặt hàng ở vùng tập trung) vẫn dung nạp được các trình độ khoa học công nghệ nông nghiệp từ các trang trại nhỏ tren dưới 1 ha đã có cơ giới liên hoàn, đồng bộ các khâu sản xuất lúa, và nhiều cây khác... Tất nhiên, quy mô đất đai của các trang trại lớn hay nhỏ không phải là điều kiện quyết định năng lực sản xuất nông sản hàng hoá và áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến.
Kinh tế trang trại ở các nước Châu á đến nay vẫn có nhiều quy mô cực nhỏ (dưới 0,5 ha), nhỏ (trên dưới 1 ha), vừa (3-5 ha) và lớn (8-10ha), cơ cấu quy mô khác nhau nay tiếp tục tồn tại lâu dài.
Tiêu chí phân biệt kinh tế trang trại với kinh tế tiểu nông chủ yếu là dựa vào tiêu chí sản xuất hàng hoá tỉ suất cao, khối lượng và giá trị sản lượng nhiều, không phải dựa vào quy mô lớn, vốn đầu tư nhiều, số lượng lao động sử dụng nhiều...
Kinh tế trang trại ở Châu á có hai loại hình phổ biến: trang trại sản xuất theo phương thức gia đình và trang trại sản xuất theo phương thức tư bản chủ nghĩa.
Trang trại gia đình là loại trang trại phổ biến nhất ở các nước Châu á cũng như ở các nước Âu Mĩ. Còn trang trại tư bản tư nhân chiếm số lượng và tỉ USD trọng không lớn trong tổng số trang trại, vì sản xuất kinh doanh nông nghiệp trực tiếp, thành phần đầu tư vốn nhiều, dài hạn, thu hồi chậm, lợi nhuận thấp, không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư tư bản tư nhân.
Kinh tế trang trại ở các nước Châu á phát triển ở tất cả các vùng kinh tế: đồi núi, đồng bằng, ven biển, nhưng ở mỗi nước có bước đi cỵthể riêng, tuỳ thuộc vào đặc điểm tự nhiên- kinh tế- xã hội. ở Nhật Bản đồi núi và đồng bằng đan xen nhau, nên ltr phát triển đồng thời ở các vùng trong cả nước. ậ Thái Lan, phát triển trang trại trồng lúa và chăn nuôi lợn gà, xuất khẩu tập trung ở đồng bằng trung tâm, trang trại trồng sắn xuất khẩu vùng đồi núi và trang trại nuôi tôm xuất khẩu ở vùng ven biển. Malaysia, Indonesia thì tập trung phát triển kinh tế trang trại ở vùng đồi núi trước là vùng sản xuất cao su, cọ dầu, hồ tiêu, ca cao, là những nông sản xuất khẩu có giá trị còn ở đồng bằng thì trồng lúa, kinh tế trang trại phát triển chậm phát triển hơn vì ở đây quỹ đất hạn chế, sản lượng hàng hoá ít.
2. Bài học kinh nghiệm cho phát triển kinh tế trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng
-Trước hết cần xoá bỏ ngay quan niệm về kinh tế trang trại là phải sản xuất trên những diện tích đất đai rộng lớn nhất là khi mà ở vùng Đồng bằng Sông Hồng, điều kiện này không dễ đáp ứng. Chúng ta nên nhận định trang trại từ tính chất sản xuất hàng hoá của nó.
-Phải nhanh chóng nâng cao trình độ cơ giới hoá trong các trang trại để sản xuất không bị lạc hậu.
-Trong giai đoạn đầu, cơ cấu sản xuất của các trang trại còn hỗn tạp để tận dụng mọi năng lực sản xuất hiện có, nhưng sau dần chuyển sang cơ cấu mang tính chuyên canh và một loại nông, lâm, hải sản nhất định.
-Mô hình trang trại gia đình đang và sẽ là loại hình trang trại phổ biến và thích hợp. Nó bao gồm trang trại gia đình tiểu chủ vừa sử dụng lao động gia đình vừa thuê thêm lao động thời vụ và thường xuyên với số lượng khác nhau, được nhà nước chủ trương khuyến khích. Chính loại lao động tiểu chủ là lực lượng lao động có nhiều tiềm năng sản xuất nông sản hàng hóa hiện nay. Mô hình này có nhiều ưu điểm nổi bật:
+ Có khả năng dung nạp những trình độ sản xuất nông nghiệp khác nhau
+ Có khả năng dung nạp các quy mô sản xuất khác nhau
+ Có khả năng dung nạp các cấp độ công nghệ khác nhau
+ Có khả năng liên kết các loại hình kinh tế khác nhau: kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác, kinh tế nhà nước.
Các chính sách phát triển kinh tế trang trại của nhà nước sẽ phải tạo điều kiện thuận lợi để các hộ gia đình nông dân có thể sản xuất theo mô hình này.
-Xuất phát từ đặcđiểm tự nhiên, kinhtế xã hội của vùng, từ yêu cầu đặt ra của công nghiệp hoá, chúng ta có thể vận dụng một cách sáng tạo những bài học của các nước bạn, phát triển trang trại chăn nuôi lợn, gia cầm, sản xuất thóc gạo hàng hoá ở những nơi có điều kiện xuất khẩu, trang trại trồng cây con cần ít đất, trồng hoa, cây cảnh, nuôi cá cảnh, trăn rắn, baba... có thể đạt hiệu quả kinh tế cao.
-Về vấn đề phân hoá thu nhập: có nhiều ý kiến cho răngf kinh tế trang trại là “lối làm ăn của người giàu”, bởi những nông dân nghèo thì khó mà có đủ vốn để làm trang trại, đồng thời cho rằng không nên khuyến khích loại hình trang trại tư bản tư nhân vì nó có thể dẫn đến sự tư bản hoá sản xuất nông nghiệp. Đúng là nhờ kinh tế trang trại, một bộ phận dân cư đã có mức thu nhập cao hơn hẳn và cũng làm phân hoá giàu nghèo, nhưng thực tế là nó không làm cho những người nghèo nghèo đi và cũng không làm tăng số người nghèo, trái lại còn giải quyết việc làm cho một phần đáng kể lực lượng lao dộng nữa. Hơn thế, nông nghiệp Việt Nam còn quá lạc hậu, thu nhập của người nông dân Việt Nam thấp so với thu nhập của nông dân các nước trong khu vực và trên thế giới, vì thế để đuổi kịp họ về trình độ sản xuất, về mức sống dân cư, về khả năng cạnh tranh của nông sản, thì kinh tế trang trại là sự lựa chọn số một, sự lựa chọn đúng đắn và hiệu quả.
Chương II: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại Đồng bằng Sông Hồng thời gian qua
I. Khái quát những thành tựu đạt được
1. Kinh tế trang trại phát triển nhanh, đa ngành và đạt hiệu quả kinh tế cao
Do trước đây chưa có sự thống nhất về tiêu chí xác định kinh tế trang trại nên các địa phương thống kê số lượng các trang trại theo hệ thống tiêu chí riêng, tính định lượng còn thấp, nên số liệu thống kê trước và nay chênh lệch nhau đáng kể. Tuy nhiên, có thể đánh giá sự phát triển của kinh tế trang trại bằng hiệu quả sản xuất kinh doanh của các trang trại.
Tính đến năm 2001, Đồng bằng Sông Hồng đã có khoảng 1829 trang trại (theo tiêu chí mới), trong đó các địa phương có số lượng trang trại nhiều nhất là Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình; tổng diện tích đất nông nghiệp, lâm nghiệp, mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 19.201 ha, chiếm 1,52% diện tích của toàn vùng, và bằng 2,67%diện tích đất nông nghiệp. Bình quân mỗi trang trại khoảng 10,5 ha. Số trang trại của vùng Đồng bằng Sông Hồng chỉ chiếm 3% tổng số trang trại của cả nước nhưng hiệu quả lại cao hơn.
Về cơ cấu sản xuất, phần lớn các trang trại mới ở mức độ kinh doanh tổng hợp, tức là kinh doanh nhiều loại cây, con cùng một lúc. Các trang trại chăn nuôi phát triển mạnh mẽ và là một thế mạnh của vùng (chiếm tới 82,7% trong cơ cấu sản xuất trang trại năm 2000), trong đó chăn nuôi gia súc nhỏ và gia cầm chiếm ưu thế vì các loại này không đòi hỏi đất nhiều, thậm chí bắt đầu xuất hiện hình thức các hộ nông dân chăn nuôi gia công theo mô hình kinh tế trang trại. Trang trại trại chăn nuôi đã hình thành ở tất cả các ngnàh sản xuất sản phẩm chăn nuôi hàng hoá: thịt lợn, thịt gia cầm, thịt trâu bò... một số mặt hàng đặc sản... Trang trại chăn nuôi thường có quymô vừa và nhỏ, chẳng hạn, với gà: 1000- 5000 con; lợn: 50- 100 con; 300- 500 con; các trang trại chăn nuôi đặc sản, sử dụng từ 500- 1000 m2 nhưng đầu tư nhiều vốn và chất xám tạo thu nhập cao. Đây là một ngành chăn nuôi chú trọng đến thị trường tiêu thụ sản phẩm và có rất nhiều tiềm năng phát triển.
Ngoài ra còn có các trang trại trồng cây công nghiệp ngắn ngày, trồng cây lương thực, thực phẩm (ngô, lạc, mía...) cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến rau quả và các sản phẩm xuất khẩu khác.
Biểu1: Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2000 của trang trại
Đơn vị: triệu đồng
Tỉnh, thành phố
Số trang trại
Tổng thu
Giá trị hàng hoá và dịch vụ bán ra
Tỉ suất giá trị hàng hóa(%)
Giá trị hàng hoá và dvụ bình quân 1 trang trại
Thu nhập
Thu nhập bình quân 1 trang trại
Cả nước
60757
5.306.992
4.965.894
92,6
81.7
1.905.849
31.4
ĐB SH
1829
260.393
246.084
94,5
134.5
85.782
46.9
Hà Nội
139
28.755
27.699
31.4
10.264
73.8
Hải Phòng
344
81.677
79.372
46.9
26.185
76.1
Vĩnh Phúc
124
6.984
6.374
73.8
3.414
27.5
Hà Tây
181
26.123
24.173
76.1
6.642
36.7
Bắc Ninh
33
5.040
4.351
27.5
1.333
40.4
Hải Dương
171
12.894
11.992
36.7
5.165
30.2
Hưng Yên
59
12.290
10.879
40.4
2.310
39.2
Hà Nam
39
3.580
3.322
30.2
1.685
43.2
Nam Định
344
50.714
49.437
39.2
18.903
55
Thái Bình
101
19.016
16.178
43.2
4.780
47.3
Ninh Bình
294
13.320
12.307
55
5.101
17.4
Đông Bắc
2987
149.741
128.008
75,5
42.9
79.986
26.8
Tây Bắc
134
8.418
6.924
82,2
49.8
3.872
27.9
BTB
3026
186.671
166.382
89,1
55
76.785
25.4
Duyên hải NTB
2910
388.499
376.856
97
129.5
125.241
43.1
Tây Nguyên
6029
465.347
426.432
91,6
70.7
143.099
23.7
ĐNB
12700
1.249.836
1.191.153
95,3
93.8
461.253
36.3
ĐB SCL
31142
2.652.087
2.242.055
92,3
77.8
929.831
29.9
Nguồn: Thống kê các ngành sản xuất......
2. Thu nhập của trang trại
Tổng thu nhập của trang trại là phần thu nhập sau khi lấy tổng thu trừ chi phí vật chất, trừ tiền công thuê lao động và trừ các chi phí khác. Như vậy phần thu nhập của trang trại bao hàm : tiền công của chủ trang trại (tiền công quản lý và tiền công lao động trực tiếp), tiền công của các thành viên và tiền lãi ròng của các trang trại. Đây là một chỉ tiêu phù hợp, vừa phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh vừa là hiệu quả hoạt động kinh doanh của trang trại.
Xem biểu 1 có thể thẩyrằng thu nhập bình quân 1 trang trại của vùng Đồng bằng Sông Hồng là cao nhất cả nước (46,9 triệu đồng/trang trại/năm, cao hơn mức trung bình chung 1,49 lần và bỏ xa những vùng khác (trừ duyên hải Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ) từ 17-23 triệu/trang trại. Tổng thu của 1.829 trang trại năm 2000 là 260.393 triệu đồng, chiếm 4,85% tổng thu cả nước từ kinh tế trang trại (Diện tích trang trại của vùng bằng 3,18% diện tích trang trại cả nước), trong đó giá trị hàng hoá và dịch vụ bán ra là 246.048 triệu đồng, đạt mức tỉ USD suất giá trị hàng hoá là 94,5%, cao hơn mức trung bình của cả nước. Nhờ thu nhập trang trại tương đối cao nên chi tiêu cho đời sống vật chất và tinh thần của trang trại tương đối cao so với nông dân trong vùng.
3. Tạo việc làm cho người lao động
Tổng số lao động tham gia sản xuất trong các trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng chiếm 4,1% tổng số lao động trang trại của cả nước, và bằng 0,03%lao động nông nghiệp của vùng. So với lượng lao động dư thừa ở nông thôn, thì tỉ lệ này vẫn còn nhỏ.
4. Đóng góp vào tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự gia tăng giá trị sản xuất hàng hoá của kinh tế trang trại trực tiếp tác động đến sự gia tăng giá trị của cả ngành sản xuất nông nghiệp và do đó đóng góp vào tăng trưởng của cả nền kinh tế nói chung. Nhờ trang trại, giá trị sản xuất hàng hoá của ngành nông nghiệp được cải thiện rõ rệt. Năm 2000, GDP của ngành tính theo giá so sánh năm 1994 là 63717 tỉ đồng(2) Niên giám thống kê.
, thì trong đó phần đóng góp của kinh tế trang trại là 710,4%, của vùng Đồng bằng Sông Hồng là 0,4%.
Trong bối cảnh nông nghiệp nước ta đang tích cực chuyển đổi cơ cấu vật nuôi cây trồng cho phù hợp với những nhu cầu của thị trường và cải thiện cuộc sống dân cư, thì các sản phẩm của trang trại cũng là một nhân tố tích cực, tuy sự đóng góp chưa nhiều lắm. Nhưng có thể nói rằng, nhờ tính chất sản xuất hàng hoá, các trang trại đã tự chọn lọc hướng đi thích hợp, không kể những trang trại tiến hành sản xuất kinh doanh theo đúng quy hoạch của nhà nước có gắn liền với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu, mà nông nghiệp vung Đồng bằng Sông Hồng đã dần dần có những sự chuyển biến tích cực: tỉ lệ trồng trọt giảm xuống, chăn nuôi tăng dần, năng suất ngày càng cao. Các loại giống có chất lượng cao ngày càng được đưa vào sản xuất đại trà (lúa, ngô, lợn nạc, cây công nghiệp, rau xanh...) Tuy nhiên để có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa thì bản thân hoạt động sản xuất tựphát của các chủ trang trại không làm được, mà cần có quy hoạch lâu dài trên diện rộng, chủ trương và các phương án khả thi của nhà nước.
Có thể nói, kinh tế trang trại là bước phát triển mới của kinh tế hộ gắn với mục tiêu sản xuất hàng hoá quy mô lớn, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng nhanh tỉ trọng hàng hoá tạo ra các vùng sản xuất tập trung, làm tiền đề cho công nghiệp chế biến nông lâm sản, đưa công nghiệp và các ngành nghề dịch vụ vào nông thôn, tăng độ phủ xanh đất trống đồi trọc, cải thiện môi trường sinh thái.
II. Đánh giá tình hình sử dụng các yếu tố nguồn lực
1. Đất đai
Bởi đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu của trang trại nên kinh tế trang trại trước hết được phát triển ở các vùng trung du, miền núi, ven biển, những nơi mà quỹ đất có khả năng khai phá còn lớn để phát triển kinh tế nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá lớn. Vùng Đồng bằng Sông Hồnglà vùng hạn chế về đất sản xuất nông nghiệp do nhu cầu phát triển công nghiệp ngày càng tăng mạnh. Hiện nay, vùng mới sử dụng khoảng gần 90% quỹ đất, phần còn lại vì nhiều lý do mà chưa được đưa vào sử dụng.
Qua biểu 2 có thể thấy, phần lớn diện tích đất làm kinh tế trang trại của vùng là mặt nước nuôi trồng thuỷ sản (52,3%), trong đó Hải Phòng 39,4%, Nam Định 22,8%; các tỉnh có quỹ đất lớn để phát triển kinh tế trang trại là Hải Phòng (4980ha), Ninh Bình (3198ha), Vĩnh Phúc (1897ha), Nam Định (2449ha), Hải Dương (2125ha).
Tuy vậy vẫn còn một diện tích đáng kể đất chưa được giao, chưa sử dụng. Cho đến năm 2000, cả nước vẫn còn khoảng 30% sốhộ làm kinh tế trang trại chưa được giao đất. Diện tích đất chưa sử dụng còn lớn (12%), trong đó có cả phần đất dành cho các hoạt động phi nông nghiệp như xây dựng nhà máy, cơ sở hạ tầng, nhà ở... nhưng dù sao trong điều kiện thiếu đất như hiện nay thì đó là một sự lãng phí đáng kể.
Biểu2: Hiện trạng sử dụng đất năm 2000
Đơn vị: ha
Tỉnh, vùng
Tổng diện tích SD
Chia ra
đất nn
Trồng cây hàng năm
Trồng cây lâu năm
Lâm nghiệp
Nuôi trồng thuỷ sản
Cả nước
603363
233814
137715
96081
69295
66458
ĐBSH
19201
3209
1510
1703
2735
10044
Hà Nội
988
99
35
68
146
640
Hải Phòng
4980
381
305
77
169
3958
Vĩnh Phúc
1897
469
184
285
505
454
Hà Tây
1281
466
291
175
427
822
Bắc Ninh
257
54
52
1
0
150
Hải Dương
2125
545
56
490
980
54
Hưng Yên
122
29
8
20
0
65
Hà Nam
448
115
98
17
64
154
Nam Định
2449
72
70
2
10
2295
Thái Bình
646
65
45
20
6
510
Ninh Bình
3198
914
366
548
428
942
Nguồn: Báo cáo chuyên đề: Chính sách phát triển kinh tế trang trại và tác động của nó đến việc làm và thu nhập của lao động nông thôn, Viện Quy hoạch và Thiết kê nông nghiệp, 2002.
Quỹ đất giữa các nhóm chủ trang trại có sự chênh lệch nhau đáng kể (xem biểu3). Phần lớn các trang trại chỉ có quy mô dưới 2 ha (51%).
Biểu 3: Phân loại trang trại theo quy mô sử dụng đất
Đơn vị: ha
Tỉnh, tp
Tổng số trang trại
Chia ra
<2 ha
2-5 ha
5-10 ha
10-30 ha
>30 ha
Cả nước
96181
49051
23765
935
4498
559
ĐBSH
8511
5230
2520
517
198
46
Hà Nội
1623
1373
185
55
7
3
Hải Phòng
633
191
249
95
58
40
Hà Tây
430
238
91
101
1
Hải Dương
814
158
584
52
19
2
Hưng Yên
74
39
23
2
8
Hà Nam
135
85
34
13
3
Thái Bình
528
296
90
99
43
Ninh Bình
4274
2850
1264
100
60
Nguồn: Báo cáo “Điều tra, tổng kết thựchiệnchủ trương phát triển kinh tế trang trại”, Vụ NôNG NGHIệP-PTNT, 2000.
Cơ cấu đất rất đa dạng, bao gồm đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản và đất thổ cư, trong đó đất nuôi trồng thuỷ sản chiếm tới 52,3%. Phần đất lâm nghiệp chiếm 14,24% như vậy không phải là nhiều vì các trang trại lâm nghiệp thường đòi hỏi quy mô lớn. Nhìn chung các tỉnh vùng Đồng bằng Sông Hồng thường có xu hướng sản xuất lương thực, thực phẩm, chăn nuôi là chính.
Có thể nói, hiện trạng sử dụng đất vùng Đồng bằng Sông Hồng đã gần ở mức tối đa và hướng khai thác ngày càng hợp lý hơn. Chỉ có điều, sau một thời gian dài khai thác, thâm canh không chú ý “bồi dưỡng” cho nguồn đất, mà ở nhiều nơi đất có hiện tượng bạc màu, bất lợi cho trồng trọt. Hơn nữa, nhu cầu phát triển công nghiệp và xây dựng các công trình công cộng, làm nhà ở... càng ngày càng làm thu hẹp đi một phần lớn đất đai màu mỡ, làm hạn chế khả năng sản xuất nông nghiệp. Cho nên khai thác theo chiều sâu sẽ là hướng chính trong những năm tới đây.
2. Lao động
Theo tổng điều tra ngày 1.4.1999, dân số vùng Đồng bằng Sông Hồng là 14,8 triệu người, chiếm 19,39% số dân cả nước. Cả vùng có khoảng 8,5 triệu lao động trong độ tuổi, trong đó tới 79% là lao động nông thôn, làm việcngoài khu vựcnhà nước do địa phương quản lý.
Phần lớn các trang trại sử dụng lao động của gia đình là chính, một số có thuê thêm lao động thời vụ và lao động thường xuyên, tiên công thoả thuận giữa hai bên. Tiền công thời vụ thường dao động từ 10-15 ngàn đồng/ngày công; còn đối với lao động thường xuyên , khoảng 300000đ/tháng (chung cho cả miền Bắc)(3) Báo cáo tóm tắt Tình hình kinh tế trang trại nước ta những năm vừa qua và tổ chức triển khai nghị quyết của Chính phủ về kinh tế trang trại”, Bộ Nng nghiệp&Phát triển nông thôn, 2000.
Bình quân mỗi trang trại có khoảng 8 lao động, trong đó lao động của chủ trang trại bình quân là 2,4 người/trang trại (ĐB Sông Cửu Long là 3.1, trung bình cả nước là 2,5), lao động thuê mướn thường xuyên chiếm 29,2%. Các tỉnh có tỉ USD lệ này cao là Hải Phòng (31,9%), Vĩnh Phúc (35,6%), Hà Nam (51,4%),...; lao động thuê mướn thời vụ quy đổi chiếm 42,32%,bình quân mỗi trang trại khoảng 2,4 người.
Biểu 4:Tình hình sử dụng lao động của các trang trại
Đơn vị: người
Tỉnh, vùng
Tổng số lđ tham gia sản xuất của trang trại
Số LĐ bình quân một trang trại
LĐ của hộ chủ trang trại
LĐ của hộ chủ bình quân 1 trang trại
Cả nước
374.701
6
168.634
2.5
ĐBSH
15.210
8
4.330
2.4
Hà Nội
1.134
8
375
2.7
Hải Phòng
3.488
10
766
2.2
Vĩnh Phúc
978
8
326
2.6
Hà Tây
1.704
9
485
2.7
Bắc Ninh
249
8
84
2.5
Hải Dương
1.469
9
433
2.5
Hưng Yên
411
7
147
2.5
Hà Nam
436
11
106
2.7
Nam Định
2.170
6
752
2.2
Thái Bình
1.414
14
223
2.2
Ninh Bình
1.757
6
633
2.2
Nguồn:
Biểu 5:Tình hình thuê mướn lao động của các trang trại năm 2001
Đơn vị: người
Tỉnh, vùng
LĐ thuê mướn thường xuyên
LĐ thuê mướn thường xuyên BQ 1 TT
LĐ thuê mướn thời vụ quy đổi
LĐ thuê mướn thời vụ quy đổi 1TT
Cả nước
60.880
1
145.187
2.4
ĐBSH
4.442
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0006.doc