Lời nói đầu
Nước ta đang trên đà chuyển mạnh từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Các thành phần kinh tế nước ta đã phần nào thích ứng và phát triển. Trong đó Đảng và Nhà nước ta đang củng cố, xây dựng và hoàn thiện hệ thống các chính sách pháp luật với mọi loại hình kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên sự phát triển của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : chất lượng quản lý, định hướng phát triển
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính tại Công ty Điện lực Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của doanh nghiệp. Trong quản lý kinh doanh việc quản lý tài chính có vai trò quan trọng, có tính chất chiến lược cho doanh nghiệp như đầu tư, tài trợ...
Công tác phân tích tài chính là một hoạt động quan trọng của công tác quản lý tài chính, nó giúp cho các nhà tài chính có được hướng đi đúng đắn trong quá trình phát triển kinh doanh. Phân tích tài chính không chỉ giúp cho công tác quản lý của doanh nghiệp, mà nó còn giúp cơ quan quản lý vĩ mô có thể giám sát, kiểm tra, đánh giá tình hình phát triển sản xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp, triển vọng và rủi ro trong tương lai của doanh nghiệp. Ngoài ra nó có thể giúp cho các nhà đầu tư, các cổ đông của các chủ nợ, các nhà cho vay tín dụng... để đưa ra những quyết định chính xác, kịp thời và hiệu quả.
Do đó, phân tích tài chính là một công cụ hữu hiệu trong công tác quản lý tài chính. Công ty điện lực Hà nội đã coi việc phân tích tài chính là một trong những hoạt động thường xuyên của Công ty. Tuy nhiên, những khó khăn, vướng mắc về phương pháp phân tích, nội dung phân tích tài chính đã làm hạn chế hiệu quả phân tích của Công ty.
Trong thời gian đến thực tập tại Công ty, em đặc biệt quan tâm đến vấn đề này, bởi vậy em đã chọn đề tài : “Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính tại Công ty Điện lực Hà nội”.
Ngoài lời nói đầu và kết luận, nội dung chuyên đề chia làm ba chương :
Chương I : Lý luận chung về phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp
Chương II : Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty Điện lực Hà nội.
Chương III : Giải pháp hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác phân tích hoạt động tài chính tại Công ty Điện lực Hà nội.
Đề tài được hoàn thành với sự giúp đỡ của cô giáo Th.s Lê Phong Châu và chị Khúc Thị Lan Anh - kiểm toán viên, các cán bộ phòng Tài vụ thuộc Công ty Điện lực Hà nội. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Do kiến thức còn hạn hẹp, thời gian thâm nhập thực tế còn ngắn nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô và các cán bộ phòng Tài vụ thuộc Công ty Điện lực Hà nội để rút ra những bài học cho việc nghiên cứu, học tập và làm việc sau này.
Chương I
lý luận chung về phân tích hoạt động tài chính
I - Hoạt động tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1- Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm tăng giá trị sở hữu bằng cách sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ theo nhu cầu thị trường để đạt lợi nhuận tối đa và hiệu quả kinh tế cao nhất. Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề kinh doanh cũng như lĩnh vực kinh doanh .
Hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp bao gồm hoạt động sản xuất và hoạt động phân phối. Hoạt động kinh tế nhằm tạo ra hàng hoá đó là hoạt động sản xuất. Sản phẩm hàng hoá sản xuất ra được đưa đến tay người tiêu dùng đó là hoạt động phân phối. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sản xuất và phân phối đều được thực hiện theo kế hoạch. Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường xác định sản xuất và phân phối thông qua hệ thống cung và cầu.
Sự tương tác của cung - cầu dẫn đến sự hình thành giá cả và số lượng hàng hoá được trao đổi. Cung được thực hiện bởi các nhà sản xuất hoạt động một cách độc lập và mang tính cạnh tranh. Quyết định của cung bắt nguồn từ sự phát hiện ra nhu cầu thị trường, từ đó đưa ra các kế hoạch sản xuất hàng hoá và dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu đó phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng (khả năng mua của khách hàng). Cầu xuất phát từ khách hàng với mục đích thoả mãn nhu cầu của mình. Trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ khách hàng thường xuyên tiếp xúc với nhiều người bán hàng (doanh nghiệp), họ lựa chọn người bán nào cung ứng sản phẩm phù hợp với họ nhất về chất lượng cũng như giá cả để đưa ra quyết định mua hợp lý. Cầu cũng có thể xuất phát từ một doanh nghiệp, doanh nghiệp có mối quan hệ mật thiết với thị trường để tìm ra phương tiện sản xuất : đất đai, vốn, máy móc thiết bị, lao động... phù hợp với khả năng hiện có của doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu thị trường. Giá cả của hàng hoá được xác định từ quy luật cung cầu : giá tăng cầu giảm, cung tăng và ngược lại.
Như vậy trong nền kinh tế thị trường thì các nhà sản xuất tự ấn định các mục tiêu và tự xác định các phương tiện được sử dụng để thực hiện mục tiêu. Họ xác định ngành nghề kinh doanh, tính chất sản phẩm sẽ tạo ra, họ thương lượng về giá cả mà họ sẽ được trả hoặc nhận và tự tìm nguồn vốn mà họ cần. Các nhà sản xuất được tự do phát triển kinh doanh, đa dạng hoá kinh doanh cho nên kinh tế thị trường là kinh tế tự do. Nhưng trong thực tế các quyền tự do là không tuyệt đối và bị quy định bởi luật cung, thị trường lao động, thị trường vốn,... và pháp luật đòi hỏi người kinh doanh phải có ngành nghề chuyên môn nhằm bảo vệ người tiêu dùng. Độc quyền là một hiện tượng kinh tế ngày càng bị phản bác do không có cạnh tranh, dẫn đến doanh nghiệp không có sự cố gắng về chất lượng, giá cả, dịch vụ, thời hạn... vì thế pháp luật có những quy định hạn chế về cung nhằm đảm bảo sự cạnh tranh thật sự. Vậy các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường mặc dù tuân theo quy luật tự do cạnh tranh của thị trường nhưng cũng chịu sự chi phối của Nhà nước.
2 - Cơ sở hoạt động tài chính doanh nghiệp
Doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh trên lượng vốn nhất định mà doanh nghiệp có, được thể hiện toàn bộ giá trị của tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp, phản ánh trên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. Quá trìng hoạt động của các doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể về quy trình công nghệ, tính chất hoạt động và mục tiêu. Sự khác biệt này phần lớn do đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của mỗi doanh nghiệp quyết định. Nhưng cho dù có sự khác biệt này người ta vẫn có thể khái quát những nét chung nhất của doanh nghiệp thông qua đầu vào và đầu ra.
Một đầu vào là một sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ mà doanh nghiệp sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh, các đầu vào được kết hợp với nhau để tạo ra đầu ra đó là hàng loạt các sản phẩm hàng hoá dịch vụ đem ra tiêu dùng hoặc sử dụng cho quá trình sản xuất kinh doanh khác. Như vậy trong một thời kỳ nhất định, các doanh nghiệp đã chuyển hoá các đầu vào thành các đầu ra để bán trên thị trường.
Trong số các tài sản mà doanh nghiệp lắm giữ có một tài sản đặc biệt đó là tiền. Chính việc dự trữ tiền cho phép doanh nghiệp mua các hàng hoá, dịch vụ cần thiết để tạo ra những hàng hoá và dịch vụ phục vụ cho mục đích trao đổi. Từ đó mà khái niệm dòng vật chất và dòng tiền tệ phát sinh, nghĩa là sự dịch chuyển hàng hoá, dịch vụ và sự dịch chuyển tiền tệ giữa các đơn vị, các thành phần kinh tế.
Như vậy, ứng với dòng vật chất đi vào (hàng hoá, dịch vụ đầu vào) là dòng tiền tệ đi ra và ngược lại, tương ứng với dòng vật chất đi ra (hàng hoá, dịch vụ đầu ra) là dòng tiền tệ đi vào. Quy trình này được mô tả như sau:
Sản xuất - chuyển hoá
Dòng tiền đi ra
Dòng tiền đi vào
Dòng vật chất đi vào
Dòng vật chất đi ra
Sản xuất, chuyển hoá là một quy trình công nghệ, một mặt nó được đặc trưng bởi thời gian chuyển hoá hàng hoá, dịch vụ; mặt khác nó được đặc trưng bởi các yếu tố cần thiết cho sự vận hành, đó là tư liệu lao động và sức lao động.
Quy trình này có tác động quyết định tới cơ cấu vốn và hoạt động trao đổi của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thực hiện hoạt động trao đổi với thị trường cung cấp đầu vào hoặc với thị trường phân phối tiêu thụ đầu ra, cuộc đời tài chính của doanh nghiệp sinh ra từ quá trình trao đổi đó. Quá trình này quyết định sự vận hành của sản xuất và làm thay đổi cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Phân tích cuộc đời tài chính của doanh nghiệp cho phép làm rõ hai khái niệm cơ bản là dòng tài chính và dự trữ tài chính.
Dòng tài chính được thể hiện và phản ánh trong báo cáo kết quả kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Dự trữ tài chính được phản ánh trong bảng cân đối kế toán. dòng tài chính có ý nghĩa thời kỳ nhất định thì dự trữ có ý nghĩa tại một thời điểm nhất định. Sự chuyển hoá không ngừng giữa các dòng tài chính và dự trữ tài chính và ngược lại được thể hiện và phản ánh trong các báo cáo tài chính doanh nghiệp. Quan hệ giữa dòng và dự trữ là nền tảng của hoạt động tài chính doanh nghiệp.
3 - Các quan hệ tài chính doanh nghiệp
3.1 - Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước
Quan hệ này phát sinh trong qúa trình trao đổi hàng hoá, phân phối tổng sản phẩm quốc dân giữa Nhà nước với doanh nghiệp, các doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước theo luật định.
3.2 - Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính
Doanh nghiệp thực hiện quá trình trao đổi, mua bán sản phẩm tài chính nhằm thoả mãn nhu cầu về vốn của mình.
Đối với thị trường tiền tệ thông qua thị trường liên ngân hàng, các doanh nghiệp có thể tạo được nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh.
Đối với thị trường vốn : doanh nghiệp có thể tạo nguồn vốn dài hạn bằng cách phát hành các chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu hoặc tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán.
3.3 - Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các thị trường khác
Doanh nghiệp quan hệ với các doanh nghiệp khác, các tổ chức kinh tế thông qua thị trường với các tư cách là chủ thể hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp quan hệ với thị trường cung cấp đầu vào và thị trường phân phối tiêu thụ sản phẩm đầu ra (thị trường hàng hoá dịch vụ, thị trường sức lao động). Thông qua các thị trường này doanh nghiệp có thể xác định nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ, cung ứng, trên cơ sở đó doanh nghiệp hoạch định năng suất đầu tư, tìm nguồn vốn tài trợ kế hoạch sản xuất, marketing nhằm thoả mãn nhu cầu thị trường, không ngừng ổn định và phát triển doanh nghiệp.
3.4 - Quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp
Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp là sự luân chuyển vốn trong doanh nghiệp : quan hệ tài chính giữa các bộ phận sản xuất với nhau; giữa cổ đông với nhà quản lý, giữa cổ đông với chủ nợ, giữa quyển sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn. Các mối quan hệ này được thông qua hàng loạt các chính sách của doanh nghiệp như : chính sách phân phối thu nhập, chính sách đầu tư và cơ cấu đầu tư, chính sách về cơ cấu vốn...
4 - Hoạt động tài chính doanh nghiệp
Hoạt động tài chính doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp hay mục tiêu tăng trưởng, phát triển.
Ngoài ra hoạt động tài chính còn chứa đựng việc dự đoán các sự kiện trong tương lai cho quyết định tài chính liên quan đến tương lai. Do vậy hoạt động tài chính là phải nghiên cứu đầy đủ theo độ dài thời gian với giả thiết mạnh bạo, đồng thời phải cân nhắc giữa doanh lợi và rủi ro để xác định cơ cấu tối ưu. Nhà doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình phải trả lời được ba câu hỏi liên quan đên ba vấn đề sau :
4.1 - Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp
Đây chính là hoạt động đầu tư dài hạn trong doanh nghiệp, các quyết định đầu tư này liên quan đến việc mua sắm tài sản cố định hữu hình như : nhà cửa, đất đai, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, truyền dẫn ... và mua sắm tài sản cố định vô hình như mua bằng phát minh sáng chế, mua nhãn hiệu ... Các quyết định đầu tư có tầm quan trọng đặc biệt vì đầu tư là hoạt động chủ yếu quyết định sự tồn tại, tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp. Trên giản đồ về mặt tài chính quyết định đầu tư là quyết định tài chính dài hạn, có tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , nên đòi hỏi một lượng vốn lớn để thực hiện đầu tư và có thể phải huy động nguồn vốn bên ngoài. Vì vậy hiệu quả của vốn đầu tư phụ thuộc vào việc dự toán đúng đắn vốn đầu tư. Sai lầm trong việc dự toán vốn đầu tư sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho doanh nghiệp; nếu đầu tư vốn quá mức hoặc không đồng bộ sẽ dẫn tới tình trạng lãng phí vốn.
Như vậy quyết định đầu tư dài hạn là quyết định có tính chiến lược, do đó để đi đến một quyết đinh đầu tư đòi hỏi doanh nghiệp cần phải cân nhắc kỹ lưỡng. Mặt khác quyết định đầu tư còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau :
+Chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước : trên cơ sở luật pháp kinh tế và các biện pháp kinh tế Nhà nước tạo môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh và hướng các hoạt động đó theo kế hoạch vĩ mô. Chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước trong mỗi thời kỳ có sự định hướng khác nhau cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh; với các chính sách đòn bẩy, Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh những ngành nghề lĩnh vực có lợi cho nền kinh tế quốc dân. Vì vây để đi đến quyết định đầu tư các doanh nghiệp phải xem xét đến các chính sách của Đảng và Nhà nước.
+Thị trường và cạnh tranh : một vấn đề lớn đặt ra với doanh nghiệp là phải sản xuất sản phẩm thị trường cần, căn cứ vào nhu cầu sản phẩm hiện tại và trong tương lai. Trong quyết định đầu tư, khi xem xét thị trường thì không thể bỏ qua yếu tố cạnh tranh, cần phải xem xét thị trường hiện tại dự đoán tình hình trong tương lai để lựa chọn phương án thích hợp, tạo lợi thế của doanh nghiệp trên thị trường.
+Lãi suất tiền vay (nó phản ánh chi phí vốn vay hay giá vốn) và chính sách thuế ảnh hưởng đến chi phí đầu tư của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải tính đến hiệu quả của đầu tư và lãi suất tiền vay. Ngoài ra chính sách thuế có thể khuyến khích hay hạn chế hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
+Tiến bộ của khoa học công nghệ kỹ thuật hiện đại : nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
+Khả năng tài chính của doanh nghiệp : mỗi doanh nghiệp đều có khả năng tài chính giới hạn, bao gồm nguồn vốn tự có và nguồn vốn có khả năng huy động, đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của doanh nghiệp.
4.2 - Nguồn tài trợ cho đầu tư của doanh nghiệp
Để đầu tư vào tài sản, doanh nghiệp phải có nguồn tài trợ, có nghĩa là phải có tiền để trả cho hoạt động đầu tư. Các nguồn tài trợ đối với một doanh nghiệp được phản ánh bên phải của bảng cân đối kế toán. Một doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hoặc vay nợ (ngắn hạn hoặc dài hạn). Khi lựa chọn phương thức tài trợ, phải xem xét và cân nhắc nên sử dụng nguồn tài trợ nào để đạt được chi phí thấp nhất, có nên tiếp tục chính sách không sử dụng nợ hay nên bắt đầu sử dụng đòn bẩy tài chính và nếu sử dụng nợ vay thì nên thực hiện ở mức độ nào là tốt nhất. Tuy nhiên, cơ cấu vốn của doanh nghiệp có thể thay đổi theo thời gian khi những điều kiện khác thay đổi, nếu tỷ lệ lợi nhuận thực tế thấp hơn mục tiêu đề ra thì việc mở rộng vốn có thể thực hiện bằng hình thức tăng sử dụng nợ và ngược lại.
Các nhân tố tác động tới quyết định tài trợ cho đầu tư :
+ Rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp : là rủi ro cố hữu trong tài sản cho doanh nghiệp nếu doanh nghiệp không sử dụng nợ. Rủi ro càng lớn thì tỷ lệ nợ tối ưu càng thấp.
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp : lý do cơ bản cho việc sử dụng nợ là lãi suất được tính trong chi phí hợp lý hợp lệ khi tính thuế lợi tức, tuy nhiên lợi thế này hơn đối với các doanh nghiệp có thuế suất thu nhập lớn.
+ Khả năng linh hoạt tài chính hay khả năng tăng vốn một cách hợp lý trong điều kiện có tác động xấu. Những người quản lý tài chính biết rằng một sự cung cấp vốn vững chắc là cần thiết cho hoạt động ổn định, nó quyết định sự sống còn của doanh nghiệp trong dài hạn. Khi tiền tệ được thắt chặt trong nền kinh tế hoặc khi một doanh nghiệp đang trải qua khó khăn tài chính trong hoạt động , những nhà cung cấp vốn muốn tăng cường cung cấp lượng tiền cho những doanh nghiệp có bảng cân đối kế toán vững mạnh. Như vậy, nhu cầu về vốn trong tương lai và những hậu quả do thiếu vốn có những ảnh hưởng quan trọng trong quyết định đối với mục tiêu cơ cấu vốn.
Sự bảo thủ hay phóng khoáng của nhà quản lý : có thể một giám đốc doanh nghiệp sẵn sàng sử dụng nợ nhiều hơn để tăng lợi nhuận, nhân tố này không tác động tới cơ cấu vốn tối ưu nhưng nó tác động tới mục tiêu cơ cấu vốn mà doanh nghiệp thực tế thiết lập.
Tất cả các nhân tố trên quyết định rất lớn tới mục tiêu cơ cấu vốn, tới quyết định tài trợ bằng nguồn nào là thích hợp nhất đối với doanh nghiệp và tới cơ cấu vốn tối ưu.
4.3 - Quản lý hoạt động tài chính ngắn hạn
Mục tiêu quản lý hoạt động tài chính doanh nghiệp là làm thế nào đạt được hiệu quả tốt nhất trong việc sử dụng vốn lưu động. Để đạt được điều này thì các nhà quản trị tài chính cần phải trả lời một loạt các câu hỏi như : doanh nghiệp nên giữ một lượng tiền mặt và dự trữ bao nhiêu ? doanh nghiệp có nên bán chịu không? nếu doanh nghiệp bán chịu thì điều khoản của việc bán hàng, loại khách hàng nào? doanh nghiệp có nên mua chịu hay đi vay tiền để trả tiền ngay ? nếu đi vay thì vay như thế nào và vay ở đâu ?
Nhà quản lý tài chính chịu trách nhiệm phân tích, kế hoạch hoá tài chính, quản lý ngân quỹ, chi tiêu cho đầu tư và tiến hành kiểm soát. Nhà quản lý tài chính chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính và thường đưa ra các quyết định tài chính trên cơ sở các nghiệp vụ tài chính thường ngày do các nhân viên cấp dưới phụ trách. Các quyết định đó đều nhằm vào các mục tiêu tài chính doanh nghiệp : sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, khả năng cạnh tranh, chiếm giữ thị phần tối đa trên thị trường, tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận, tăng trưởng thu nhập... Mọi quyết định của doanh nghiệp để đưa ra một sản phẩm mới hoặc ngừng sản xuất kinh doanh một sản phẩm hiện có, hoặc mở rộng quy mô tài sản cố định, thay đổi cơ cấu tài sản cố định, phát hành cổ phiếu, trái phiếu... đều gián tiếp hay trực tiếp liên quan đến hoạt động tài chính doanh nghiệp. Trong các quyết định của doanh nghiệp, vấn đề cần được quan tâm giải quyết không chỉ là lợi ích của các cổ đông và nhà quản lý mà còn cả lợi ích của công nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp, chính phủ, nhóm người có nhu cầu tiềm năng về các dòng tiền của doanh nghiệp. Giải quyết vấn đề này liên quan đến các quyết định đối với các bộ phận trong doanh nghiệp và các đối tác ngoài doanh nghiệp. Do vậy, nhà quản lý tài chính không chỉ có trách nhiệm về hoạt động nội bộ của doanh nghiệp mà còn phải lưu ý đến sự nhìn nhận, đánh giá bên ngoài doanh nghiệp như : các chủ nợ, khách hàng, Nhà nước...
II - Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1 - Lịch sử của phân tích tài chính
1.1- Thời kỳ đầu của phân tích tài chính
Ngược dòng lịch sử phân tích tài chính từ cuối thế kỷ XIX thì phân tích tài chính hiện đại mới chỉ phát triển trong thời kỳ gần đây và đó là sự phát triển liên tục do nảy sinh nhu cầu về thông tin tài chính ngày càng mở rộng, với sự phát triển của công ty vô danh và vai trò quan trọng của ngân hàng và các tổ chức tài chính. Những cổ đông của công ty vô danh nhanh chóng nhận thấy sự cần thiết phải có thông tin đầy đủ về công ty. Nhưng thông tin này ở trạng thái không đầy đủ. Ngược lại, các ngân hàng, các công ty tài chính công bố rất sớm cho các khách hàng của họ các báo cáo tài chính của doanh nghiệp để đánh giá khả năng hoàn trả nợ vay.
Những phân tích tài chính đầu tiên rất nghèo nàn và có nhiều hạn chế trong việc điều chỉnh để đạt được sự cân đối tài chính. Tuy nhiên, những phân tích tài chính giản đơn này cũng đủ để các ngân hàng sẵn sàng buộc các điều kiện bảo đảm cho các khoản vay, được cam kết hoàn trả cho dù tình hình tài chính doanh nghiệp đi vay như thế nào đi nữa.
Tháng 3/1899, ở Mỹ, công trình nghiên cứu của A.Wall đã đề cập đến phân tích đồng thời 7 chỉ số đối với 981 doanh nghiệp sắp xếp theo ngành hoặc theo vùng địa lý. Lúc đầu là phân tích các chỉ số chung của các doanh nghiệp, sau đó tại Mỹ, Dun và Bradstreet đã công bố đều đặn các đánh giá định kỳ về tình hình tài chính của các doanh nghiệp và số liệu thống kê về chỉ số trung bình của từng ngành. Năm 1933 việc thành lập SEC (uỷ ban hối đoái và bảo hiểm) đã góp phần mở rộng nhu cầu thông tin tài chính. Tại Pháp lệnh ngày 3/1/1968 đã thành lập Uỷ ban nghiệp vụ chứng khoán (COB) để đảm bảo chất lượng thông tin, kiểm tra tính chính xác của các thông tin do các công ty công bố và đảm bảo mọi báo cáo theo luật và quy định được các công ty kiểm toán thực hiện thường xuyên.
1.2 - Sự tiếp cận phân tích tài chính hiện đại
Phân tích tài chính có xu hướng trở thành hệ thống xử lý thông tin nhằm cung cấp giữ liệu cho những người ra quyết định tài chính. Không bị giới hạn ở các dữ liệu tài chính nữa mà có thêm các dữ liệu kinh tế và thị trường chứng khoán.
Kết quả thu được từ phân tích tài chính đầy đủ hơn cho các nhà quản lý tài chính là do : sự nỗ lực tập trung của các doanh nghiệp, sự phát triển các dự án đầu tư lớn mà việc sinh lời của đầu tư thực hiện qua nhiều năm đã hướng vào các ngân hàng, các công ty tài chính xây dựng các phương pháp phân tích hoàn thiện nhất để chấp nhận hoặc từ chối việc cấp tín dụng; sự phát triển của các hình thức tài trợ mới đã thúc đẩy những suy nghĩ về sự kết hợp các hình thức tài trợ và chi phí sử dụng vốn; các ràng buộc của chính sách tín dụng, lạm phát, biến động của lãi suất và tỷ giá hối đoái càng làm nổi bật hơn vấn đề tài chính doanh nghiệp, sự xâm nhập của máy vi tính giúp việc sử dụng dễ dàng các phương pháp phức tạp và tính toán tài chính được nhanh chóng. Sự phát triển của phân tích tài chính sẽ còn tiếp tục theo khuynh hướng phù hợp với các mục tiêu của nó với nhu cầu của từng người sử dụng nó.
Do vậy, phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp, công cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp , đánh giá rủi ro, chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp. Các nhà quản lý tài chính phân tích hoạt động tài chính để đưa ra các quyết định cần phải cân nhắc tính toán tới các mức độ rủi ro và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Giữa hai yếu tố doanh lợi và rủi ro có mối tương quan nhất định là rủi ro càng cao thì doanh lợi kỳ vọng càng cao và ngược lại. Mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là đánh giá rủi ro phá sản sẽ tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Việc phân tích tài chính là cơ sở dự đoán tài chính.
2- Mục tiêu và ý nghĩa của việc phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu đặc trưng thông qua một hệ thống các phương pháp, công cụ kỹ thuật phân tích tài chính giúp cho người sử dụng thông tin từ các giác độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát, vừa lại xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp. Để nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra các quyết định tài chính, đầu tư và tài trợ cho phù hợp, phát huy điểm mạnh, hạn chế điểm yếu.
2.1 - Mục tiêu của phân tích tài chính
Mục tiêu tối cao và quan trọng nhất của việc phân tích tài chính là giúp người quản lý đưa ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá chính xác thực trạng tài chính và tiềm năng của doanh nghiệp.
Tuy nhiên bên cạnh những mục tiêu quan trọng hàng đầu này việc phân tích tài chính còn nhằm đạt một số mục tiêu khác :
- Cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác các thông tin kinh tế cần thiết cho chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư và những người sử dụng thông tin tài chính khác của doanh nghiệp.
-Cung cấp các thông tin về tình hình sử dụng vốn, khả năng khai thác vốn, khả năng thanh toán, hiệu quả sản xuất kinh doanh giúp cho doanh nghiệp khắc phục những thiếu sót còn tồn tại.
-Cung cấp các thông tin về tình hình công nợ, khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và khả năng sinh lời cũng như ảnh hưởng làm thay đổi những điều kiện sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp dự đoán chính xác tương lai của mình.
2.2 - ý nghĩa của việc phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu về tài chính của doanh nghiệp.
Những người sử dụng các báo cáo tài chính theo đuổi các mục tiêu khác nhau, nên việc phân tích được tiến hành theo nhiều cách khác nhau nó vừa tạo ra lợi ích vừa tạo ra sự phức tạp của phân tích. Những người sử dụng khác nhau sẽ đưa ra quyết định theo những mục đích khác nhau : quyết định quản lý doanh nghiệp, quyết định từ chối hay chấp nhận tín dụng...
Phân tích tài chính của các nhóm người sử dụng khác nhau sẽ phải đáp ứng các yêu cầu chuyên môn của mỗi nhóm. Bởi vậy, phân tích tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều phía.
+ Đối với doanh nghiệp và nhà quản trị doanh nghiệp :
Mối quan tâm hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Bên cạnh đó, các nhà quản trị doanh nghiệp còn phải quan tâm đến nhiều mục tiêu khác như: công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, cung cấp nhiều sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ với chi phí thấp, đóng phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường...
Các nhà phân tích tài chính có thể phân tích tài chính tốt nhất do có nhiều lợi thế : có hệ thống thông tin đầy đủ và hiểu rõ về doanh nghiệp một cách chi tiết do vậy nó giúp cho các nhà quản trị giải quyết nhiều vấn đề trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
-Trên cơ sở tính toán, nhà quản trị doanh nghiệp sẽ cân nhắc để đưa ra quyết định huy động vốn bằng cách gọi vốn cổ phần hay đi vay.
-Sử dụng vốn đầu tư vào đâu và bằng cách nào để thu được lợi nhuận cao mà lại bảo toàn được vốn.
-Tình hình kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả hay không, triển vọng trong tương lai có chiều hướng tăng lên hay xấu đi.
-Khả năng thanh toán của doanh nghiệp đối với các khoản nợ đến hạn thanh toán có được đảm bảo không.
+ Đối với chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng mối quan tâm của họ chủ yếu là khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ rất chú ý đến số lượng tiền và khả năng chuyển đổi thành tiền nhanh của tài sản, ngoài ra họ cũng quan tầm đến số lượng vốn chủ sở hữu vì vốn chủ sở hữu là bảo hiểm cho họ khi dn gặp rủi ro.
-Đối với các khoản vay ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm tới khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
-Đối với những khoản vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc hoàn trả gốc và lãi tuỳ thuộc vào khả năng sinh lời này.
-Người cho vay đặc biệt quan tâm tới cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ doanh nghiệp đi vay để thay đổi theo bản chất và theo thời hạn của khoản vaylà ngắn hạn hay dài hạn.
+ Đối với nhà cung cấp vật tư hàng hoá, dịch vụ họ phải quyết định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hàng hay không cho nên họ cũng quan tâm đến khả năng thanh toán của khách hàng.
+ Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm của họ hướng vào các yếu tố như sự rủi ro thời gian luân chuyển vốn, thời gian hoàn vốn, giá trị hiện tại ròng của vốn đầu tư, sức sinh lãi... do đó họ cần những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp và doanh nghiệp đã dành được những nguồn tiềm năng gì, thu nhập của doanh nghiệp để đánh giá xu hướng thu nhập, cơ cấu vốn của doanh nghiệp là gì, những rủi ro và thuận lợi nào của doanh nghiệp cần đảm bảo cho các nhà đầu tư cổ phần, doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính nào không.
+ Đối với cơ quan Nhà nước
Bao gồm các cơ quan cấp cao thuộc bộ, cơ quan thuế, thống kê, thanh tra tài chính... Các cơ quan này sử dụng các báo cáo tài chính do các doanh nghiệp gửi lên để phân tích tình hìnhtài chính doanh nghiệp với mục tiêu :
-Kiểm tra, giám sát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước và kinh doanh có đúng pháp luật không.
-Giúp cho các cơ quan chức năng có thẩm quyền hoạch định chính sách một cách phù hợp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
3 - Thông tin sử dụng và các phương pháp phân tích
3.1 - Nguồn thông tin sử dụng trong phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp
Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp được sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giải và thuyết minh thực trạng hoạt động tài chính doanh nghiệp. Nó phục vụ cho quá trình dự đoán tài chính bao gồm từ những thông tin nội bộ đền thông tin bên ngoài.
+Các thông tin nội bộ như : tính chất của sản phẩm, quy trình kỹ thuật áp dụng, cơ cấu sản xuất, cơ cấu tổ chức doanh nghiệp, khả năng tài trợ của doanh nghiệp, năng suất lao động...
+Các thông tin bên ngoài như : Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, tiến bộ của khoa học - kỹ thuật, chính sách tiền tệ, chính sách thuế...
Nhưng thông tin kế toán là nguồn thông tin đặc biệt quan trọng được phản ánh tập trung trong các báo cáo tài chính doanh nghiệp.
* Bảng cân đối kế toán : là báo cáo tổng hợp cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại những thời điểm nhất định, nó thể hiện tình trạng nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp , là cơ sở để đánh giá khái quát tình hình tài chính, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn... giúp doanh nghiệp và các nhà phân tích tài chính đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
Bảng cân đối kế toán được chia làm 2 phần : phần tài sản và phần nguồn vốn.
+Phần tài sản : Bao gồm các chỉ tiêu phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong quá trình hoạt động kinh doanh. Tài sản được phân chia như sau :
-Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn : là những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp mà thời gian sử dụng và thời gian luân chuyển thường dưới một năm.
-Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
+Phần nguồn vốn : là biểu hiện giá trị bằng tiền của tài sản, nó phản ánh nguồn hình thành tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Các chỉ tiêu nguồn vốn thể hiện trách._. nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với tài sản đang quản lý và sử dụng trong doanh nghiệp. Nguồn vốn được chia ra thành :
-Nợ phải trả bao gồm nợ ngắn hạn, nợ dài hạn
-Nguồn vốn chủ sở hữu : gồm có nguồn vốn kinh doanh, chênh lệch đánh giá tài sản và các quỹ.
*Báo cáo kết quả kinh doanh
Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tổng hợp cho bất cứ tình hình tài chính của doanh nghiệp trong thời kỳ nhất định. Cho biết kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh đó.
Báo cáo kết quả kinh doanh có kết cấu 2 phần :
+Phần I : phần này nó phản ánh các chỉ tiêu liên qua đến kết quả của toàn bộ hoạt động kinh doanh như : tổng doanh thu, doanh thu thuần giá vốn, chi phí hàng quản lý ... Qua phần I người sử dụng biết được kết quả của các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt động bất thường của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo đó.
+Phần II : phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Phần này phản ánh các khoản thuế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn và các khoản khác mà đơn vị phải nộp và đã nộp trong báo cáo.
*Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Ngoài hai loại báo cáo bắt buộc quan trọng trên thì doanh nghiệp còn phải sử dụng BCLCTT. Nếu bảng CĐKT cho bất cứ thu nhập và chi phí phát sinh để tính được kết quả bù lỗ trong kinh doanh thì BCLCTT được lập để trả lời các vấn đề liên quan đến luồng tiền vào ra trong doanh nghiệp, tình hình tài trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Những luồng tiền vào ra và các khoản coi như tiền được tổng hợp và chia thành 3 phần :
+Phần I : Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh phản ánh các khoản thu được và đã chi trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nguồn tiền cung cấp chủ yếu là tiền thu về bán hàng và cung cấp dịch vụ.
+Phần II : Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư : phản ánh các khoản tiền chi đầu tư vào các đơn vị khác dưới hình thức mua cổ phiếu trái phiếu, góp vốn liên doanh ... và tiền thu đầu tư do bán cố phiếu trái phiếu đã mua tiền thu từ các khoản đầu tư khác.
+Phần III : Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính phản ánh các khoản tiền thu được từ các chủ sở hữu, các nhà đầu tư, các khoản chi ra để mua lại cổ phiếu của chủ sở hữu, trả cổ tức cho cổ đông.
*Bản thuyết minh báo cáo tài chính : cung cấp thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh và một số chỉ tiêu tài chính chưa được trình bày hoặc trình bày chưa được cụ thể trong báo cáo trên.
Như vậy để phân tích tài chính của một doanh nghiệp thì các nhà nghiên cứu phải đọc và hiểu được các báo cáo tài chính có liên quan trực tiếp đến mục tiêu nghiên cứu của họ.
3.2 - Các phương pháp phân tích
Các phần trên chúng ta đã đi sâu vào nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp, đây là vấn đề chủ chốt trong công tác phân tích tài chính. Tuy nhiên trong thực tế còn tồn tại một số vấn đề có ý nghĩa bảo đảm chất lượng phân tích tài chính. Các vấn đề này bao gồm phương pháp phân tích tài chính, luật pháp, hệ thống chỉ tiêu trung bình của ngành, đội ngũ cán bộ...
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm hệ thống các công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong, bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết.
Các phương pháp thường được sử dụng như phương pháp tỷ lệ, phương pháp so sánh, phương pháp DUPONT. Nhưng điều quan trọng là các thông tin sử dụng trong phân tích tài chính phải trung thực, phải được các cơ quan kiểm toán xác nhận và cần có hệ thống chỉ tiêu tham chiếu trung bình ngành.
+Phương pháp phân tích tỷ lệ
Là phương pháp được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính, nó dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp. Đây là cơ sở hình thành những tham chiếu cho việc đánh giá tỷ lệ của một doanh nghiệp.
Các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, cơ cấu vốn và nguồn vốn, năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh và nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời.
Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ từng bộ phận của hoạt động tài chính. Trong môi trường khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, người phân tích lựa chọn các chỉ tiêu khác nhau để phục vụ cho mục tiêu phân tích của mình.
+Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp so sánh các báo cáo tài chính các năm liên tiếp để tìm ra được kết quả, cho thấy khuynh hướng phát triển hay suy thoái của doanh nghiệp.
Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện có thể so sánh được của các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tích chất và đơn vị tính toán) theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh.
Gốc so sánh được chọn về mặt không gian hoặc thời gian. Kỳ phân tích là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân. Các cách so sánh sau :
-So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp, đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
-So sánh số thực hiện với số kế hoạch để thấy được mức độ phấn đấu của doanh nghiệp.
-So sánh số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành.
-So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu để thấy được sự biến đổi cả về số lượng tương đối và tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.
+Phương pháp phân tích tài chính DUPONT
Phương pháp này được các nhà phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng để đánh giá tác động tương hỗ giữa các tỷ lệ tài chính . Đó là quan hệ hàm giữa doanh lợi và vốn, vòng quay toàn bộ vốn và doanh lợi tiêu thụ. Trong phương pháp này, trước hết ta phải xem xét mối quan hệ tương tác giữa hệ số sinh lợi doanh thu với hiệu suất sử dụng tổng tài sản và ký hiệu là Rr. Khi đó thì :
Rr=
Lợi nhuận sau thuế
x
Doanh thu thuần
=
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
Tổng tài sản
Tỷ số Rr cho biết tỷ suất sinh lợi của tài sản phụ thuộc vào 2 yếu tố :
+Thu nhập ròng của doanh nghiệp trên một đồng doanh thu
+Một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu
Phân tích Rr cho phép xác định và đánh giá chính xác nguồn gốc làm thay đổi lợi nhuận của doanh nghiệp trên cơ sở phân tích đó mà các nhà quản trị đưa ra các giải pháp nhằm tăng tiêu thụ và tiết kiệm chi phí.
Tỷ lệ thứ 2 phải phân tích là Re tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu :
Re = Rr x
Tổng tài sản
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn sở hữu
Vốn chủ sở hữu
Ta có :
Tổng tài sản
=
Tổng tài sản
Vốn sở hữu
Tổng tài sản - Nợ phải trả
=
1
=
1
1- Nợ phải trả/Tổng tài sản
1- Hệ số nợ (Rd)
Công thức này cho biết trong thành phần tạo nên Re khi hệ số nợ tăng lên thì Rr cũng tăng lên vì (1 - Rd) giảm. Do vậy tỷ lệ nợ cao sẽ khuyếch chương một hiệu quả về lợi nhuận: Nếu doanh nghiệp có lợi nhuận trong kỳ thì lợi nhuận sẽ càng cao và ngược lại
4 - Nội dung phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ phát sinh trong quá trình kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Nói cách khác, hoạt động tài chính doanh nghiệp là mối quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn kinh doanh.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định bao gồm vốn kinh doanh, các quỹ xí nghiệp, vốn đầu tư xây dựng cơ bản và các loại vốn khác. Doanh nghiệp có nhiệm vụ huy động vốn, tổ chức huy động các loại vốn cần thiết cho nhu cầu kinh doanh, đồng thời phân phối quản lý, sử dụng vốn hiện có một cách hợp lý, có hiệu quả cao trên cơ sở chấp hành chế độ, chính sách quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước.
Việc thường xuyên phân tích tài chính doanh nghiệp sẽ giúp cho người sử dụng thông tin nắm được thực trạng tài chính, xác định rõ nguyên nhân, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh. trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp hữu hiệu và ra quyết định cần thiết để nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh. việc phân tích bao gồm các nội dung chủ yếu sau :
4.1 - Các chỉ tiêu phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp
+ Phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp luôn sử dụng các khoản đi vay bao gồm : nợ ngắn hạn, nợ trung hạn và dài hạn. Trước khi thực hiện các khoản vay này, vấn đề mà doanh nghiệp và người cho vay quan tâm là khả năng thanh toán được các khoản vay hay không, điều này giúp cho doanh nghiệp có quyết định vay tiền hay không và ngược lại, các chủ nợ có quyền quyết định cho vay hay không. Khả năng này là yếu tố quan trọng để đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp trong hiện tại và tương lai.
Do đó khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh rõ nét chất lượng côngtác tài chính. Nếu hoạt động tài chính tốt, khả năng thanh toán dồi dào, ít bị chiếm dụng vốn cũng như ít đi chiếm dụng vốn. Ngược lại, hoạt động tài chính kém dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, các khoản công nợ dây dưa kéo dài.
Vì vậy, để đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp ta sử dụng một số chỉ tiêu sau đây :
Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
- Khả năng thanh toán hiện hành =
Khả năng này phản ánh mức độ đảm bảo của tài sản lưu động (TSLĐ) đối với nợ ngắn hạn. Hệ số này càng lớn thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn cáng cao và ngược lại. Tuy nhiên hệ số này quá cao không phải là tốt vì lúc đó có một số tiền (giá trị TSLĐ) được tồn giữ quá mức không tham gia hoạt động để sinh lời, tức là vốn không được sử dụng có hiệu quả. Hệ số này chấp nhân từ 1,2 - 2, nhưng điều này không phải là mối quan hệ đáng tin cậy cần thiết.
TSLĐ bao gồm : tiền, các chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu và hàng tồn kho.
Nợ ngắn hạn bao gồm : các khoản vay ngắn hạn ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả khác.
Khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ của các khoản nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển nhượng thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn các khoản nợ đó. Nó chỉ ra mức độ, phạm vi thanh toán nợ đối với các chủ nợ, các nhà tài trợ ngắn hạn để lựa chọn và ra quyết định đầu tư, Đồng thời giúp cho doanh nghiệp biết được khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền để trang trải nợ nần của dn.
Vì vậy, phải nghiên cứu hệ số này trong thời gian dài, mặt khác chỉ số này chứa đựng một tài sản (hàng tồn kho) không dễ dàng gì chuyển thành tiền ngay được (khó bán và dễ bị mất giá khi bán).
Khả năng thanh toán nhanh : chỉ tiêu này được tính bằng cách chia các tài sản quay vòng nhanh cho nợ ngắn hạn.
TSLĐ-hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
- Khả năng thanh toán nhanh =
Tài sản quay vòng nhanh là tài sản có khả năng nhanh chóng chuyển đổi thành tiền bao gồm : vốn bằng tiền và các khoản phải thu.
Như vậy, khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn, không phụ thuộc vào việc bán tài sản tồn kho. Chỉ tiêu khả năng thang toán nhanh là một tiêu chuẩn đánh giá khắt khe hơn về khả năng thanh toán những khoản nợ ngắn hạn so với khả năng thanh toán hiện hành. Nhìn chung hệ số này > 0,5 là đảm bảo được khả năng thanh toán. nếu hệ số này < 0,5 có nghĩa là doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ cho các khoản phải trả đến kỳ thanh toán còn thiếu. Tuy nhiên hệ số này quá cao cũng không tốt, thể hiên lượng tiền quá nhiều, gây hiện tượng sử dụng không có hiệu quả, thông thường hệ số này được chấp nhận là 0,5 - 1,2.
Vốn bằng tiền
Nợ đến hạn
- Khả năng thanh toán tức thời =
Nợ đến hạn bao gồm : các khoản nợ ngắn hạn, trung và dài hạn đến hạn trả.
Khả năng thanh toán
Nhu cầu thanh toán
- Hệ số khả năng thanh toán =
Nhu cầu thanh toán là các khoản nợ đến hạn và quá hạn. các khoản nợ quá hạn bao gồm : các loại thuế nộp ngân sách, nợ công nhân viên về lương, bảo hiểm xã hội, các khoản nợ người bán, nợ ngân hàng, nợ đối tác liên doanh, nợ khác.
Khả năng thanh toán là vốn bằng tiền và các khoản phải thu sẽ được thu trong quý tới.
Nếu hệ số khả năng thanh toán >1 thì doanh nghiệp có khả năng thanh toán nợ đến hạn và quá hạn. Ngược lại, hệ số khả năng thanh toán <1 thì tình hình tài chính của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và quá hạn.
4.2 - Phân tích khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp
Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Nguồn gốc và sự cấu thành hai loại vốn này xác định sự ổn định của tài chính, khả năng thanh toán dài hạn của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp hoạt động với mức độ rủi ro nhất định, mỗi doanh nghiệp có một cơ cấu vốn phù hợp với đặc điểm và tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó.
Cơ cấu vốn là việc doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn khác nhau với một tỷ lệ nào đó của mỗi nguồn để tài trợ cho tổng tài sản của nó. Do mỗi nguồn vốn huy động có chi phí khác nhau, nên cùng một lượng vốn được huy động nhưng tỷ lệ các nguồn khác nhau thì chi phí trung bình của vốn khác nhau. Hiếm có doanh nghiệp nào tài trợ đủ 100% bằng nguồn vốn tự có và cũng không có doanh nghiệp nào dựa vào nợ 100%.
Nếu nguồn vốn được hình thành từ chủ đầu tư chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn củadn thì rủi ro kinh doanh chủ yếu do người chủ nợ gánh chịu. Trong khi đó doanh nghiệp nắm phần lợi rõ rệt, doanh nghiệp chỉ cần bỏ ra một số vốn ít nhưng được quyền sử dụng một lượng tài sản lớn để kinh doanh mà không phải chia sẻ quyền kiểm soát. Đặc biệt khi mà hoạt động của doanh nghiệp đang phát triển, lãi thu trên tiền vay lớn hơn lãi suất tiền vay, lợi nhuận dành cho chủ doanh nghiệp tăng lên gấp bội, doanh nghiệp càng vay càng có hiệu quả.
Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu ứng đòn bẩy dương thì đó mới chính là điều quan tâm của chủ doanh nghiệp. Cần có cơ cấu vốn mục tiêu, cơ cấu vốn mục tiêu là một tỷ lệ giữa nợ, vốn cổ phần ưu tiên, cổ phần thường mà doanh nghiệp muốn duy trì và hướng tới trong quá trình quản lý và huy động vốn, nó làm cân bằng giữa rủi ro và lãi suất với chi phí vốn là nhỏ nhất. Còn về phía chủ nợ, họ quan tâm tới cơ cấu vốn để đảm bảo đầu tư vào doanh nghiệp được an toàn và sinh lời.
Tổng nợ phải trả
Tổng tài sản
Phân tích khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu sau:
- Hệ số nợ tổng tài sản =
Hệ số này cho biết nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Các chủ nợ cho rằng hệ số này càng thấp thì các khoản nợ càng được đảm bảo khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Ngược lại, chủ doanh nghiệp muốn sử dụng tỷ số vay cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Do vậy trong thực tế luôn có sự mâu thuẫn về mong muốn lợi ích giữa chủ đầu tư và các chủ nợ. Vấn đề được quan tâm là sự cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuân.
Nguồn vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn của doanh nghiệp
- Hệ số tự tài trợ =
Hệ số này cho biết số vốn của doanh nghiệp chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng số vốn mà doanh nghiệp đưa vào sản xuất kinh doanh. Tỷ số này càng cao biểu hiện sự độc lập tài chính của doanh nghiệp, càng có sự đảm bảo cao cho các khoản vay.
Lợi nhuận trước thuế + lãi vay
Lãi vay
- Khả năng thanh toán lãi vay =
Hệ số này cho biết khả năng thanh toán lãi vay của doanh nghiệp và mức độ an toàn với người cung cấp tín dụng. Nó nhấn mạnh tầm quan trọng của nghĩa vụ thanh toán tổng số lãi mà doanh nghiệp phải trả, đồng thời nó cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm.
Thông thường, khả năng thanh toán lãi vay được xem là hợp lý, an toàn nếu doanh nghiệp tạo ra khoản thu nhập gấp hơn hai lần khoản lãi cố định phải trả hàng năm. Như vậy, thông qua phân tích khả năng cân đối vốn để thấy được cơ cấu vốn đã hợp lý chưa.
4.3 - Phân tích khả năng hoạt động của doanh nghiệp
Nguồn vốn của doanh nghiệp dùng để đầu tư cho các loại tài sản như : TSLĐ, TSCĐ. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, người ta không chỉ quan tâm tới hiệu quả sử dụng tổng nguồn vốn mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp. Yêu cầu được đặt ra là phải so sánh doanh thu thuần với việc bỏ vốn vào các tài sản khác nhau, xem xét khả năng khai thác và sử dụng nguồn lực của doanh nghiệp để đánh giá chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó tìm ra các giải pháp đẩy nhanh vòng quay của chu kỳ vốn, đưa tài sản hiện hành nhanh chuyển đổi thành tiền mặt.
Để phân tích khả năng hoạt động ta dùng những chỉ tiêu sau đây :
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho
- Vòng quay hàng tồn kho =
Hệ số này là tỷ lệ luân chuyển hàng dự trữ thiết lập mối quan hệ giữa khối lượng hàng hoá đã bán và hàng tồn kho. Vòng quay hàng tồn kho phản ánh số vòng quay hàng tồn kho trong một năm, thể hiện hiệu quả của doanh nghiệp trong quản lý tồn kho. Vòng quay hàng tồn kho trong năm mà cao chứng tỏ có sự quản lý tốt : giảm bớt ứ đọng hàng tồn kho, giảm được chi phí cho hàng tồn kho. Nếu hệ số này quá cao có thể thấy rằng doanh nghiệp không có đủ hàng hoá dự trữ để bán nhằm đáp ứng yêu cầu khách hàng, dẫn tới tình trạng cạn, người tiêu dùng không được thoả mãn. Nếu hệ số này thấp thì có nghĩa là hàng hoá tồn kho nhiều, nguyên nhân có thể là do chất lượng hàng hoá kém, giá thành cao, mẫu mã không phù hợp với người tiêu dùng, điều này sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong tương lai.
Các khoản phải thu
Doanh thu bình quân ngày
Doanh thu cả năm
360
- Kỳ thu tiền bình quân =
- Doanh thu bình quân ngày =
Kỳ thu tiền bình quân được sử dung để đánh giákhả năng thu hồi vốn trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng và các khoản phải trả trước của doanh nghiệp. Nếu giá trị chỉ tiêu này càng lớn thì doanh nghiệp đã bị chiếm dụng vốn, ứ đọng vốn trong khâu thanh toán, khả năng thu hồi vốn trong khâu thanh toán chậm. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có những biện pháp nhanh chóng thu hồi nợ. Ngược lại, hệ số này thấp thì có lợi cho doanh nghiệp . Tuy nhiên, đánh giá tốt hay xấu còn tuỳ thuộc vào mục tiêu của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Doanh thu thuần
TSCĐ
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định (HTSCĐ)
- HTSCĐ =
Hiệu suất sử dụng TSCĐ cho biết 1 đồng TSCĐ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm. TSCĐ thường chiếm bộ phận lớn trong phần tài sản và quyết định năng lực sản xuất của doanh nghiệp, nếu HTSCĐ càng cao thì hiệu suất của máy móc thiết bị và năng suất lao động càng cao. Tuy nhiên, cần phải so sánh với các kỳ trước cũng như mức bình quân trong ngành.
Hiệu suất sử dụng tài sản lưu động (HTSLĐ).
HTSLĐ cho biết một đồng TSLĐ thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu được tính bằng:
Doanh thu thuần
TSLĐ
- HTSLĐ =
Nó đo đường hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp, hệ số càng lớn càng tốt.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản.
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
- HTS =
HTS cho biết 1 đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu, hệ số này cho biết khả năng tận dụng vốn triệt để và sản xuất kinh doanh, Doanh nghiệp muốn đạt được lợi nhuận cao, có thể tăng giá bán, hoặc tăng vòng quay kinh doanh. Như vậy tăng độ kinh doanh làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, mặt khác xem xét bản chất của ngành kinh doanh và đầu tư kinh doanh thì kết quả phân tích mới có tính thuyết phục cao.
4.4 Phân tích hiệu quả và khả năng sinh lời của quá trình sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng nguồn nhân tài, vật lực của doanh nghiệp. Đây chính là vấn đề phức tạp có quan hệ đến nhiều yếu tố trong quá trình `sản xuất kinh doanh như lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động... Vì vậy, khi phân tích cần phải xem xét quá trình chi tiêu như: hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh (gồm vốn cố định và vốn lưu động), sức sinh lời của vốn...
Tỷ lệ về khả năng sinh lời phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh va hiệu năng quản lý của doanh nghiệp. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp quyết định đầu tư của một nhà đầu tư hay quyết định cho vay của một ngân hàng, tổ chức tín dụng, nhà cung cấp thì mục đích cuối cùng là lợi nhuận.
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
- Tỷ suất sinh lời doanh thu = x 100
Chỉ tiêu này để giúp cho chủ doanh nghiệp và kế toán trưởng đánh giá hiệu quả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp đó.
Để đánh giá tỷ suất này tốt hay xấu, ngoài việc so sánh nó với tỷ suất năm trước hoặc tỷ suất dự kiến để thấy rõ chất lượng và xu hướng phát triển của doanh nghiệp, nhà quản lý cần xem xét tính chất kinh doanh mà doanh nghiệp hoạt động. Tỷ số này cho biết lợi nhuận sau thuế trong 100 đồng doanh thu. Giá trị của tỷ suất này càng cao càng tốt và ngược lại. Tuy nhiên có lợi nhuận cao phải đồng nhất với việc thu bằng tiền lớn, nếu thu bằng tiền nhỏ là doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn, hàng hoá bán chịu nhiều, khả năng thanh toán giảm, gây ứ đọng vốn, không thể đáp ứng nhu cầu thanh toán thường xuyên, có thể doanh nghiệp sẽ dẫn đến phá sản mặc dù có lợi nhuận cao vì khả năng tài chính không ổn định.
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu
Mặt khác, cần phải dựa trên chu kỳ sống của sản phẩm để dự đoán khả năng sinh lời trong thời gian tới, bởi vì có thể hiện tại đang sinh lời nhưng tương lai thì không do sản xuất đi vào giai đoạn cuối.
- Tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu =
Lợi nhuận sau thuế + tiền lãi phải trả
Tổng tài sản
Lợi nhuận sau thuế
Vốn sản xuất bình quân
Tỷ suất này phản ánh khả năng sinh lời của vốn tự có hay có một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế, nó cho biết kết quả hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư. Vì vậy, các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm tới chỉ tiêu này khi họ quyết định đầu tư vào doanh nghiệp. Nếu tỷ suấthương mại càng cao thì biểu thị khả năng độc lập và tình hình tài chính vững mạnh là một điều kiện tốt trong việc huy động vốn vay và huy động vốn bằng cổ phiếu.
- Tỷ suất sinh lời của tài sản =
Hoặc
- Tỷ suất sinh lời vốn sản xuất =
Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp, nó cho biết cứ một đồng vốn đầu tư cho sản xuất thì đem lại mấy đồng lợi nhuận. Trong vốn sản xuất bao gồm vốn cố định (TSCĐ)và vốn lưu động (TSLĐ). Tuy nhiên, để cho chính xác thì khi tính cần trừ đi phần tài sản không tham gia quá trình sản xuất kinh doanh như : tài sản thiếu chờ xử lý, các khoản ký cược, ký quỹ... vì phần này không đáng kể nên trong cách tính này đã coi toàn bộ tài sản của công ty được huy động tham gia vào sản xuất. Do vậy chỉ tiêu này có thể gọi là tỷ suất lợi tức thuần trên tài sản sử dụng.
4.5 - Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
Để tiến hành sản xuất kinh doanh cần phải có tài sản bao gồm : TSLĐ và đầu tư ngắn hạn, TSCĐ và đầu tư dài hạn. Để hình thành hai loại tài sản này cần phải có các nguồn tài trợ tương ứng bao gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn.
Nguồn vốn ngắn hạn bao gồm : nợ ngắn hạn, nợ quá hạn, nợ nhà cung cấp và nợ phải trả ngắn hạn khác.
Nguồn vốn dài hạn bao gồm : nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vay trung và dài hạn... Nguồn vốn dài hạn trước hết được đầu tư để hình thành TSCĐ, phần dư của nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn được đầu tư hình thành TSLĐ. Chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn và TSCĐ, hay giữa TSLĐ với nhuồn vốn ngắn hạn gọi là vốn lưu động thường xuyên.
Vốn lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, cho biết doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay không, TSCĐ có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không. Chỉ tiêu này được tính bằng :
- Vốn lưu động thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn - TSCĐ
= TSLĐ - Nguồn vốn ngắn hạn
Mức độ an toàn của tài sản ngắn hạn phụ thuộc vào mức độ của vốn lưu động thường xuyên. nếu vốn lưu động thường xuyên <0, tức là nguồn vốn dài hạn không đủ đầu tư cho TSCĐ, doanh nghiệp phải đầu tư vào TSCĐ bằng một phần nguồn vốn ngắn hạn, TSLĐ không đáp ứng được đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp bị mất cân bằng, doanh nghiệp phải dùng một phần TSCĐ để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả.
Nếu vốn lưu động thường xuyên >0, tức là nguồn vốn dài hạn >TSCĐ, TSLĐ > nguồn vốn ngắn hạn. Nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào TSCĐ, phần dư thừa đó đầu tư vào TSLĐ, đồng thời khả năng thanh toán của doanh nghiệp là khả quan.
Nếu vốn lưu động thường xuyên = 0, tức là nguồn vốn dài hạn tài trợ đủ cho TSCĐ, TSLĐ đủ để trả các khoản nợ ngằn hạn. Như vậy tình hình tài chính của doanh nghiệp là lành mạnh.
Ngoài ra, các nhà phân tích tài chính cần quan tâm đến nhu cầu vốn thường xuyên :
Tồn kho và các
khoản phải thu
Nhu cầu vốn lưu
động thường xuyên
Nợ ngắn
hạn
=
-
-
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần TSLĐ, đó là hàng tồn khovà các khoản phải thu.
Nếu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0 tức là hàng tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn, nó cho biết sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh lệch.
Nếu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên <0, nghĩa là nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn.
- Vốn bằng tiền = Vốn lưu động - Nhu cầu vốn lưuđộng
thường xuyên thường xuyên
Như vậy, để đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, trước tiên phải có vốn lưu động ³ 0. Nếu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0 thì phải tìm cách giảm hàng tồn kho, tăng thu từ các khoản phải thu từ khách hàng. Ngược lại, nếu nguồn vốn lưu động thường xuyên < 0 thì hạn chế vay nợ ngằn hạn từ bên ngoài.
Việc đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh khi phân tích cần lưu ý đến tình hình bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp. Bởi vì vốn là vấn đề cốt lõi của bất kỳ doanh nghiệp nào khi tiến hành sản xuất kinh doanh. Muốn tiến hành sản xuất kinh doanh cấn có vốn, nhưng muốn quá trình sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả thì cần phải bảo toàn và phát triển vốn.
Bảo toàn vốn là quy được giá trị hay sức mua của vốn, giữ được khả năng chuyển đổi so với các loại tiền khác tại thời điểm nhất định.
Phát triển vốn là vốn của doanh nghiệp được bổ sung thên cùng với việc tăng nhịp đọ sản xuất và hiệu quả kinh doanh.
Mục dích chính của việc bảo toàn và phát triển vốn là nhằm đảm bảo vốn của doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển, đồng thời doanh nghiệp có quyền tự chủ với số vốn của mình. Bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện ở nhiều góc độ. Xét về mặt tài chính : Bảo toàn vốn là bảo đảm công suất và năng suất hoạt động của doanh nghiệp.
4.5 - Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
Trong phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn người ta thường xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kỳ. Theo số liệu giữa hai thời kỳ lập một bảng cân đối kế toán:
Bảng nguồn vốn và sử dụng vốn
Đơn vị :
Chỉ tiêu / Năm
1-Sử dụng vốn
.....................
Tổng
2-Nguồn vốn
.....................
Tổng
Đây là bảng tài trợ là một công cụ hữu hiệu của các nhà quản tài chính, giúp cho các nhà quản lý xác định rõ các nguồn cung ứng vốn và mục đích sử dụng các nguồn đó.
Để tiến hành phân tích bảng tài trợ, người ta trình bày BCĐKT dưới dạng trình bày một phía từ tài sản đến nguồn vốn, sau đó so sánh số liệu cuối kỳ so với đầu kỳ trong từng chỉ tiêu của BCĐKT để xác định tình hình tăng giảm vốn trong doanh nghiệp theo nguyên tắc :
-Tăng tài sản, giảm nguồn vốn thuộc bên sử dụng vốn.
-Giảm tài sản, tăng nguồn vốn thuộc bên nguồn vốn.
-Nguồn vốn và sử dụng vốn phải cân đối nhau.
Nội dung phân tích này cho biết trong một kỳ kinh doanh nguồn vốn của doanh nghiệp tăng giản bao nhiêu ? Tình hình sử dụng nguồn vốn như thế nào ? Những chỉ tiêu nào chủ yếu ảnh hưởng tới sự tăng giảm nguồn vốn và sử dụng vốn? để từ đó có các giải pháp khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
4.6 - Phân tích khái quát các chỉ tiêu tài chính trung gian và cuối cùng trong báo cáo kết quả kinh doanh
Trong phân tích các chỉ tiều tài chính trung gian, các nhà phân tích thường kết hợp chặt chẽ những đánh giá về trạng thái tĩnh với những đánh giá về trạng thái động để đưa ra một bức tranh toàn cảnh vầ tình hình tài chính doanh nghiệp. Nếu như trạng thái tĩnh được thể hiện qua BCĐKT thì trạng thái động (sự chuyển dịch các dòng tài chính) được phản ánh qua bảng tài trợ, qua báo cáo kết quả kinh doanh. thông qua báo cáo tài chính này, các nhà phân tích tài chính có thể đánh giá sự thay đổi về vốn lưu động thường xuyên, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên, từ đó có thể đánh giá sự thay đổi ngân quỹ của doanh nghiệp. Như vậy, giữa các báo cáo tài chính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau : những thay đổi trong BCĐKT được lập đầu kỳ và cuối kỳ cùng với khả năng tự tài trợ được tính trong báo cáo thu nhập được thể hiện trên bảng tài trợ và liên quan trực tiếp tới bảng ngân quỹ doanh nghiệp.
Khi phân tích trạng thái động, một số trường hợp nhất định người ta chú trọng tới các chỉ tiêu tài chính trung gian và cuối cùng nhằm phân tích hoạt động quản lý, dự báo những điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp.
Phân tích các chỉ tiêu tài chính này nhằm xác định, phân tích mối liên hệ và đặc điểm các chỉ tiêu trong báo cáo kết quả kinh doanh, đồng thời so sánh chúng qua một số niên độ kế toán liên tiếp với số liệu trung bình ngành để đánh giá s._.
Các khoản phải thu
Doanh thu bình quân ngày
Doanh thu bình quân ngày = Doanh thu 1 năm /360.
Hiệu suất sử dụng TSLĐ = Doanh thu thuần/TSLĐ.
Hiệu suất sử dụng TSCĐ = Doanh thu thuần /TSCĐ.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu thuần /TS.
Bảng 11: Các chỉ tiêu về năng lực hoạt động của
công ty Điện lực Hà nội.
Năm
Chỉ tiêu
Chỉ tiêu
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
1. Vòng quay hàng tồn kho
23.13
34.88
20,11
2. Kỳ thu tiền ình quân
21.44
22.13
20.87
3. HTSLĐ
5
4,76
4.34
4. HTSCĐ
2.32
2.57
2.37
5. HTS
2.62
2.72
2,45
+ Vòng quay hàng tồn kho: Hệ số này cao thì việc kinh doanh thường đánh giá tốt, vì hệ số này phản ánh số lần hàng hoá tồn kho được bán ra trong kỳ kế toán; nếu hệ số này thấp có nghĩa hàng hoá tồn kho nhiều, nguyên nhân có thể là chất lượng hàng hoá kém, giá thành cao, mẫu mã kém không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Qua số liệu 3 năm hệ số vòng quay của hàng tồn kho là rất lớn tăng năm 1998 chứng tỏ hàng hoá được tiêu thụ lớn vào năm 1998, giảm 1999 xuống còn 20,11 lần là do: hàng tồn kho tăng rất lớn vào năm 1999 mà chủ yếu là nguyên vật liệu 31.733 triệu đồng năm 1998 lên 55.080 triệu đồng năm 1999.
+ Kỳ thu tiền bình quân:
Hệ số này phản ánh các khoản phải thu. Hệ số này càng thấp chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu nhanh, doanh nghiệp không bị chiếm dụng vốn nhiều. Qua số liệu bảng phân tích tăng lên từ 21,44 năm 1997 lên 22,13 năm 1998 và giảm xuống 20,87 năm 1999 do:
Các khoản phải thu tăng lên từ 68.621 triệu đồng năm 1997 lên 88.235 năm 1998 và giảm xuống còn 86.286 triệu đồng năm 1999. Trong khi đó doanh thu bình quân tăng lên qua các năm. Năm 1997 là 3.199 triệu đồng, 3.986 triệu đồng năm 1998, 4.132 triệu đồng năm 1999. Do vậy tỷ lệ này tăng vào năm 1998 và giảm vào năm 1999. Chứng tỏ năm 1999 công ty bị chiếm dụng vốn là nhỏ nhất.
+ Hiệu suất sử dụng TSLĐ:
Hiệu suất sử dụng TSLĐ giảm qua các năm từ 5 năm 1997 xuống 4,75 năm 1998 và 4,34 năm 1999. Nguyên nhân là do việc tăng tài sản lưu động qua các năm; trong khi đó doanh thu tăng với tốc độ chậm. Nhưng số liệu trên là đáng khả quan. TSLĐ tăng do cả tiền, các khoản phải thu, hàng tồn kho đều tăng. Như vậy tốc độ luân chuyển vốn của công ty đã giảm ở tất cả các khâu dự trữ, sản xuất, tiêu thụ.
Trong qúa trình sản xuất kinh doanh vốn lưu động luân chuyển không ngừng thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình đó là: dự trữ - sản xuất- và tiêu thụ. Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động là góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho công ty, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
+ Hiệu suất sử dụng TSCĐ.
Năm 1998 hiệu suất sử dụng TSCĐ tăng lên từ 2,32 năm 1997 lên 2,57 năm 1998, chứng tỏ công ty sử dụng TSCĐ một cách có hiệu quả, phát huy sức sản xuất của cả công ty. Cứ 1 đồng TSCĐ đưa vào sản xuất kinh doanh năm 1998 đem lại 2,37 tỷ đồng doanh thu trong khi đó năm 1997 cứ 1 đồng nguyên giá TSCĐ tạo ra 2,32 đồng doanh thu.
Năm 1999 hiệu suất sử dụng TSCĐ giảm từ 2,57 xuống 2,37 năm 1999. Sự giảm này là vấn đè lo ngại cho tình hình sử dụng tài sản cố định, chứng tỏ sản xuất kinh doanh của công ty gặp khó khăn là do:
Đối với những TS chưa tách biệt được giữa đơn vị với công ty cần có sự đánh giá và phân loại để đảm bảo phản ánh đúng tình hình tài sản và chi phí khấu hao theo từng đơn vị.
Thực tế tại một số điện lực không tách riêng với công ty về nhà cửa, do đó không phản ánh đúng tình hình tài sản chi phí khấu hao cho các đơn vị đó.
Công tác sửa chữa lớn của công ty điện lực Hà nội theo quyết định 83 ĐVIệt Nam/ĐLVN ngày 13/1/1999 về công tác sửa chữa lớn. Trong đó có quy định mọi công trình sửa chữa lớn đều phải có mã số, mọi hoá đơn thủ tục liên quan đến công trình, cả trong quá trình thi công và quyết toán đều phải được ghi mã, từ thág 1 năm 1999 công ty đã áp dụng nhất quán trong suốt quá trình thực hiện công trình.
Tốc độ tăng TSCĐ: 112,4% năm 1998, 112,33 năm 1999 so với năm 1998. Chứng tỏ đã đầu tư lớn vào TSCĐ để đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của công ty. Theo số liệu năm 1999 tốc độ tăng TSCĐ từ mua sắm mới và xây dựng cơ bản bàn giao cụ thể như sau:
Máy móc thiết bị động lực 246.527 triệu đồng, máy móc thiết bị truyền dẫn và phương tiện vận tải 319.117 triệu đồng, Nhà của vật kiến trúc 20.203 triệu đồng. Máy thiết bị công tác 23.129 triệu đồng, thiết bị dụng cụ cơ quan 16.997 triệu đồng tài sản cố định khác là 129 triệu đồng.
+ Hiệu suất sử dụng tổng tài sản:
Năm 1998 hiệu suất sử dụng tổng tài sản tăng do TSLĐ và TSCĐ đều tăng. 1 đồng tài sản tạo ra 2,62 đồng doanh thu năm 1997 lên 2,72 đồng doanh thu năm 1998. Công ty hoạt động có hiệu quả.
Năm 1999 hiệu suất sử dụng tổng tài sản giảm từ 2,72 xuống 2,45 vào năm 1999. Do công ty đầu tư quá lớn vào TSCĐ, máy móc thiết bị và dây chuyền sản xuất mới, nhưng doanh thu chưa tăng lên tương ứng cần có các giải pháp hữu hiệu để các thiết bị mới đi vào sử dụng có hiệu quả.
Năng lực hoạt động của công ty là tốt, tiền và dự trữ được quản lý tốt quay vòng nhiều lần. Và nếu công ty giải quyết các khoản phải thu , giảm hàng tồn kho để đưa vốn vào sản xuất kinh doanh thì công ty có được vòng quay tốt hơn, tăng doanh thu.
1.1.4 Phân tích khả năng sinh lời của công ty Điện lực Hà nội.
Phân tích khả năng sinh lời của công ty Điện lực Hà nội cần phán xét các tỷ lệ ,tỷ suất sinh lời trên doanh thu , tỷ suất sinh lời trên vốn ,hệ số sinh lời của tài sản .
Bảng : 12 các chỉ tiêu về khả năng sinh lời của công ty Điện lực Hà nội .
Chỉ tiêu
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
1.Tỷ suất sinh lời trên doanh thu
2.Tỷ suất sinh lời trên vốn CSH
3. Hệ số sinh lời của TS
6,86 %
25,56%
17 %
7,6%
27,19%
21%
4%
13,8%
11%
* Tỷ suất sinh lời trên doanh thu.
Chỉ tiêu này phản ánh số lợi nhuận sau thuế có trong 100 đồng doanh thu trong 3 năm, tỷ lệ này có xu hướng thay đổi.
Xét về tỷ trọng của chi phí giá vốn hàng bán trong tổng doanh thu.
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Tỷ trọng của chi phí bán hàng
2,3 %
2,32 %
2,2 %
Tỷ trọng của chi phí QLDN
1,3 %
1 %
0,9 %
Tỷ trọng giá vốn hàng bán
87,2 %
87,7 %
91,3 %
Năm 1998 công ty đã tăng thu nhập từ hoạt động tài chính và hoạt động bất thường lợi tức thuần từ hoạt động kinh doanh cũng tăng 122,5% so với năm 1997, tỷ trọng chi phí bán hàng tăng lên và chi phí quản lý giảm nhưng không đánh kể. Tỷ trọng giá vốn trên doanh thu tăng lên nhưng với tỷ lệ nhỏ. Nhưng lợi nhuận sau thuế tăng lên, chứng tỏ công ty đã thành công trong việc cải tiến kỹ thuật, tăng doanh thu tiêu thụ, kết quả là tăng lợi nhuận.
Năm 1999, tỷ trọng giá vốn tiếp tục tăng từ 87,7% năm 1998 lên 914,3% năm 1999. Nhưng doanh thu tăng lên 3,6% năm 1999/1998, trong khí đó giá vốn tăng lên 7,8% năm 1999/1998. Đây là nguyên nhân chính giảm lợi nhuận sau thuế, khả năng kinh doanh của công ty gặp nhiều khó khăn. Để tăng tiêu thụ sản phẩm, công ty phải quan tâm đến các biện pháp hạ thấp chi phí, giảm giá thành sản phẩm, mở rộng tiêu thụ sản phẩm.
+ Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu.
Chỉ tiêu này phả ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và được nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp.
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu của công ty tương đối cao nhưng không ổn định: tăng lên 24,49% năm 1998, nhưng giảm xuống 13,8% năm 1999, do lợi nhuận sau thuế xuống.
Nhưng con số này không chỉ làm hài lòng chủ doanh nghiệp mà cả những nhà đầu tư, giúp cho họ để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, không ứ đọng ở khâu thanh toán như hiện nay.
+ Hệ số sinh lời của tài sản.
Chỉ tiêu này cho biết 100 đồng tài sản thì được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế và lãi vay. Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất để đánh giá khả năng sinh lời của vốn đầu tư.
Hệ số này có nhiều biến động gắn liền với tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty, tăng năm 1998 là 21%, giảm xuống còn 11% năm 1999.
Qua phân tích hệ số này cho ta biết:
+ Hiệu quả của vốn đầu tư.
+ Giúp cho các nhà đầu tư lựa chọn các cơ hội đầu tư để tối đa hoá lợi nhuận và rủi ro có thể chấp nhận được.
+ Giúp cho doanh nghiệp đưa ra các quyết định lựa chọn cơ cấu vốn tối ưu để tăng lợi nhuận.
+ Giúp cho các cơ quan quản lý Nhà nước có những điều tiết phù hợp, giúp cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
Mặc dù tỷ số tài chính phải được tính toán và dựa trên giá trị riêng của nó , song việc phân tích tỷ số tài chính chỉ có hiệu quả cao nhất khi tất cả các chỉ số cũng được sử dụng để tạo thành bức tranh rõ ràng nhất về tình hình tài chính của một doanh nghiệp .
Chẳng hạn khi xem xét khả năng thanh toán của công ty Điện lực Hà nội thì chúng ta phải xem xét cùng một lúc 3 tỷ lệ : tỷ lệ thanh toán tức thời tỷ lệ thanh toán hiện hành và tỷ lệ thanh toán nhanh. Và các tỷ số có liên quan như vòng quay hàng tồn kho kỳ thu tiền bình quân ...Bởi vì nếu công ty bán được điện mà không thu được nó thì công ty không có khả năng trả nợ . Do đó khi phân tích các tỷ số tài chính của công ty Điện lực Hà nội cần phải chú ý tới tính đồng bộ .
So với phân tích tài chính của công ty Điện lực Hà nội thì giải pháp đưa ra phân tích đầy đủ hơn về khả năng cân đối với khả năng hoạt động và khả năng sinh lời của công ty làm rõ tình hình tài chính hiện tại của công ty .
1.2. Nên phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Để đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh cần quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động thường xuyên và nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là yếu tố quan trọng và cần thiết cho việc đánh gía cân băng tài chính của công ty.
Vốn lưu động =
thường xuyên
Nguồn vốn dài hạn
- TSCĐ
= TSLĐ
- Nguồn vốn ngắn hạn
Nhu cầu vốn lưu động =
thường xuyên
TSLĐ không phải là tiền
- Nợ ngắn hạn
Bảng 13: Vốn lưu động thường xuyên của công ty điện lực Hà nội.
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
1. TSCĐ
208.649
226.035
263.597
2. Vốn chủ sở hữu
309.168
400.894
435.910
3. Nợ dài hạn
64.230
45.702
88.895
Vốn LĐ Thường xuyên
164.749
220.561
261.208
Bảng 14: Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên.
Đơn vị triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
1. TSLĐ không phải là tiền
122.942
136.827
168.977
23. Nợ ngắn hạn
65.604
81.694
81.524
N/c vốn lưu động thờng xuyên
57.237
55.132
87.524
Vốn bằng tiền = Vốn lưu động thường xuyên - N/c vốn lưu động
thường xuyên.
(*)Trong đó : Nợ dài hạn* = Nợ dài hạn + Nợ khác.
Vốn lưu động thường xuyên luôn dương, nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào tài sản cố định ,phần thừa còn đầu tư vào tài sản lưu động.
Vốn lưu động ròng (vốn lưu động thường xuyên) tăng lên qua các năm: tăng 133,8% năm 1998so với năm 1997 và tăng lên 118,4% năm1999 so với năm 1998.
Điều đó chứng tỏ sự tăng trưởng của vốn lưu động ròng của công ty Điện lực Hà nội và cũng chứng tỏ khả năng phát triển của công ty nam 1999
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên luôn dương là do: tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn , tại đây sử dụng ngắn hạn của công ty lớn hơn nguồn vốn ngắn hạn mà công ty có được từ bên ngoài , công ty phải dùng nguồn dài hạn để tài trợ vào phần chênh lệch .
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên giảm vào năm 1998 là 96,3 % so với năm 1997. Và tăng lên năm 1999 là 158,62% so với năm 1998.
Như vậy vốn lưu động thường xuyên và nhu cầu vốn lưu động thường xuyên đều dương chứng tỏ toàn bộ tài sản của công ty được tài trợ một cách vững chắt bằng nguồn vốn dài hạn đồng thời vốn bằng tiền tăng lên 154,01% năm 1998 so với năm 1997 , và 105,03% năm 1999 so với năm 1998 , chứng tỏ công ty có đủ khả năng thanh toán nợ đến hạn .
1.3 Nên phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn
Năm 1998 nguồn vốn và sử dụng vốn là 115 .183 triệu đồng trong đó sử dụng vốn chủ yếu vào vốn bằng tiền chiếm 50,4% , trong hàng hoá bán chịu 117,03% và tài sản cố địng 15,09%. Nguồn vốn chủ yếu là vốn chủ sở hữu chiếm 79,6% . Công ty có các giải pháp tăng khoản thu từ khách hàng, sử dụng vốn bằng tiền có hiệu quả ,tránh hiện tượng tồn đọng tiền mặt quá lớn.
Năm 1999 sử dụng vốn và nguồn vốn là 81.511 triệu đồng chứng tỏ hoạt động sản xuất của công ty gặp trở ngại, do việc hàng tồn kho quá lớn trong phần sử dụng vốn chiếm 38,6%, trong khi đó tài sản cố định cũng tăng 46% vốn bằng tiền giảm xuống 10,2% .Vì vậy qua số liệu trên công ty đã đầu tư lớn vào tài sản cố định để mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh của công ty .
Nguồn vốn :vốn chủ sở hữu giảm xuống còn 43,04% công ty vay dài hạn bổ xung thay vì ngắn hạn, nợ dài hạn chiếm 54,5% so với số tiền 44.477 triệu đồng .
Nguồn vốn chủ sở hữu giảm vì lợi nhuận năm 1999 giảm so với năm 1998 cả về số lượng và tỷ trọng ,đặc biệt giảm về tỷ suất lợi nhuận .Điều này có thể chấp nhận dược vì công ty tăng đầu tư dài hạn, hy sinh lợi ích cho hiện tại để đạt lợi ích lớn hơn trong tương lai. Đồng thời có giả pháp giảm hàng tồn kho để đáp ứng yêu cầu tăng luân chuyển của vốn .
Bảng 15: Bảng phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn của
công ty điện lực Hà nội.
Đơn vị: triệu đồng.
chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Sử dụng vốn
Nguồn vốn
Sử dụng vốn
Nguồn vốn
Số tiền
Tỷ trọng%
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
1. Vốn bằng tiền
58.016
54.4
8.327
10.2
2. Các khoản phải thu
19.614
17.03
1.967
2.4
3. Hàng tồn kho
7.366
6.4
31.424
38.6
4. TSLĐ khác
1.637
1.4
2.743
3.4
5. chi sự nghiệp
49.939
0.06
6. TSCĐ
17.386
10.3
37.562
46
7. Nợ ngắn hạn
16.090
14
170.1
0.2
8. Nợ dài hạn
11.829
15.09
44.477
54.5
9. Nợ khác
6.699
5.78
1.284
1.5
10. Vốn chủ sở hữu
91.726
79.6
35.016
43.04
Tổng
115.183
100
115.183
100
81.511
100
81.511
100
1.4 Nên phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian và cuối cùng trong báo cáo kết quả kinh doanh.
+Doanh thu thuần tăng lên qua các năm 24,6% năm 1998 và 3,7% năm 1999- năm 1999 khả năng tăng doanh thu chậm xuống so với năm 1998 .
+Gía vốn hàng tăng lên qua các năm , chứng tỏ công ty chưa có các giải pháp thiết thực tiết kiệm chi phí giá vốn tăng lên và chiếm một tỷ trọng lớn so với doanh thu 87,2% năm 1997 , 87,7% năm 1998, đặc biệt 91,25% năm 1999 . Đây là nguyên nhân chư yếu do tăng chi phí hoạt động kinh doanh giảm lợi nhuận của công ty sự tăng lên của giá vốn để đáp ứng tăng lên của doanh thu. Nhưng các tỷ lệ tăng lên của giá vốn >tỷ lệ tăng lên của doanh thu .
Tỷ lệ tăng doanh thu năm 1998 so năm 1997 là 24,6% thì tỷ lệ tăng giá vốn là 25,2% , 3,7% đối với năm 1999 so năm 1998 , và tỷ lệ giá vốn là 7,9% năm 1999 / 1998 .
Do vậy tỷ lệ lãi gộp giảm xuống vào năm 1999 với tỷ lệ giảm là 26,5% so với năm 1998
+ Chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp giảm xuống, chứng tỏ bộ máy quản lý của công ty khoa học và có hiệu quả.
+ Lợi nhuận sau thuế của công ty tăng vào năm 1998 và giảm năm 1999 do việc tăng giá vốn hàng bán .
Bảng 16: phân tích khái quát các chỉ tiêu tài chính trung gian trong báo cáo KQKD của điện lực Hà Nội
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Năm 1998/1997
Năm 1999/1998
lượng
tỷ trọng
(%)
lượng
tỷ trọng
(%)
lượng
tỷ trọng
(%)
lượng
tỷ trọng
(%)
lượng
tỷ trọng
(%)
1. Doanh thu thuần
1.151
100
1.435
100
1.487
100
283.267
24.6
52.486
3.7
2. Giá vốn hàng bán
1.005
87.2
1.258
87.7
1.357
91.25
253.170
25.2
99.346
7.9
3. Lãi gộp
146.896
12.7
176.993
12.3
130.133
8.75
29.097
19.8
-46.860
-26.5
4. Chi phí bán hàng
26.683
2.3
33.244
2.3
32.062
2.2
6.560
24.6
-1.181
-3.6
5. Chi phí QLDN
14.700
1.3
14.527
1
13.344
0.9
-172.904
-1.2
-1.183
-8.1
6. lợi tức từ hoạt động kinh doanh
105.511
9.2
129.221
9
84.726
5.7
23.709
22.5
-44.494
-34.4
7. Lãi sau thuế
79.046
6.86
109.037
7.6
60.156
4
29.971
37.9
-48.860
-44.8
2. Nên thực hiện hai phương pháp tỷ lệ và so sánh kết hợp với phương pháp phân tích DUPONT.
Trong 3 phương pháp phân tích trên em đã sử dụng phương pháp tỷ lệ và phương pháp so sánh nhưng để công tác phân tích tài chính mang lại hiệu quả cao thì chúng ta phải kết hợp sử dụng cả 3 phương pháp phân tích tài chính DUPONT đã trình bày ở phần lý thuyết .
Đầu tiên là tỷ lệ Rr- tỷ lệ khả năng sinh lời của tài sản ;
Rr =
Lợi nhuân sau thuế
x
Doanh thu thuần
=
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
Tổng tài sản
Ta có : Rr (1997) = 79.046 /439.003 = 0,18
Rr (1998) = 109017 /528.291 = 0,21
Rr (1999) = 60.156 / 606.331 =0,099
Như vậy, nguồn gốc thay đổi lợi nhuận của công ty thu nhập của công ty trên một đồng doanh thu tăng lên 1998, giảm nhiều năm 1999. Lý do là công ty lớn vào tài sản cố định chưa đưa vào sử dụng .Do đó ở hiện tại không có khả năng sinh lời .
Tiếp theo ta xem xét khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu ta có
Re =Rr x
Tổng tài sản
;Re được tính và bằng doanh lợi vốn chủ sở hữu
Vốnchủ sở hữu
Do đó :
Re (1997) = 0,256
Re (1998) = 0,272
Re (1999) = 0,138
Tiếp theo ta có : Re = 1 / ( 1- Hệ số nợ tổng tài sản )
Do đó : Re tăng là hệ số nợ tổng tài sản tăng và ngược lại Re giảm ,hệ số nợ tổng tài sản tăng , nếu doanh nghiệp có lợi nhuận thì lợi nhuận rất cao và ngược lại . Do đó công ty Điện lực Hà nội là công ty có lợi nhuận lớn .
3. Tài trợ nguồn vốn .
Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể ,mỗi doanh nghiệp có thể có phương thức tạo vốn và huy động vốn khác nhau. Trong điều kiện kinh tế thị trường ,các phương thức huy động vốn cho doanh nghiệp được đa dạng hoá ,giải phóng các nguồn tài chính trong nền kinh tế , thúc đẩy sự thu hút vốn vào các doanh nghiệp .
Tuy nhiên, cần lưu ý trong hoàn cảnh cụ thể của Việt nam do thị trường tài chính chưa phát triển hoàn chỉnh nên việc khai thác vốn có những nét đặc trưng rất đáng chú ý .Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường và thị trường tài chính sẽ sớm tạo điều kiện để các doanh nghiệp mở rộng khả năng thu hút vốn .
Hiện nay nguồn tài trợ dài hạn của công ty Điện lực Hà nội là vốn NSNN và tổng công ty cấp ,vốn tự bổ sung ,và vốn tín dụng dài hạn . Công ty càn đa dạng hoá các hình thức huy động vốn tương ứng với sự phát triển của thị trường tài chính .
+ Khai thác các nguồn vốn trong nước .
Vay tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân hàng đầu tư phát triển theo hạn mức kế hoạch .
Nguồn thu tiền điện ở các địa phương để cải tạo lưới điện
Nguồn tự bổ xung hàng năm ,trong đó huy động 100 % vốn khấu hao vào đầu tư ,thực hiện tính đúng , tính đủ khấu hao theo qui định Nhà Nước .
+ Khai thác nguồn vốn nước ngoài .
Nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA theo hiệp định vay của Chính phủ Việt nam với Chính phủ các nước các tổ chức tài chính quốc tế như :VNB , ADB.
Nguồn tài trợ không hoàn trả lại của các tổ chức quốc tế và các nước.
Nguồn vốn vay thương mại .
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
+ Huy động vốn từ cán bộ công nhân viên trong công ty .
+ Liên doanh với các đối tác nước ngoài thực hiện một số dự án đòi hỏi vốn lớn
+ Phát hành trái phiếu công ty
4. Quản lý vốn lưu động
+ Quản lý dự trữ :
Công tác quản lý dự trữ ỏ công ty Điện lực Hà nội có nhiều biến động ,giảm năm 1998,nhưng tăng lên trong năm 1999, để đảm bảo dự trữ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có thể thưc hiện một số giải pháp sau ;
-Xác định được mức dự trữ tối ưu để có mức dự trữ hơp lý không gây gián đoạn sản xuất và cũng không gây ứ đọng vốn dự trữ .Xác định đúng nhu cầu về vật tư ,hàng hoá cho từng thời kỳ để có kế hoạch dự trữ tốt trên cơ sở đó xác định đúng nhu cầu về vốn lưu động cần thiết cho từng thời kỳ sản xuất kinh doanh của công ty .
-Xem xét giảm dần vịêc mua các loại nguyên vật liệu mà trong kho vẫn còn tồn đọng nhiều, Bố trí các khoản nguyên vật liệu tồn kho hợp lý sao cho tránh tình trạng nguyên vật liệu này thì thừa , nguyên vật liệu loại khác thì thiếu hụt trầm trọng.
-Với các loại hàng hoá đã tồn kho quá lâu và có khả năng không còn phù hợp với thị trường , với sản xuất kinh doanh thì nên có biện pháp thông báo rộng rãi với công chúng để tiến hành mua bán đấu thầu .
+ Quản lý tiền mặt :
Để tới đa dạng hoá doanh lợi dự kiến ,công ty nên điều chỉnh việc dư tiền mặt cho đến khi xác suất để công ty sẽ phải đi vay ngân hàng bằng với : =
Chi phí của việc dư tiền mặt
Chi phí của tiền vay (lãi suất ngân hàng )
Bởi vì vốn bằng tiền của công ty chiếm 1 tỷ trọng lớn trong tổng tài sản .
+ Quản lý các khoản phải thu :
Tuy tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ tiện lợi và linh hoạt trong kinh doanh ,mặt khác tạo điều kiện mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền ,với tỷ trọng các khoản phải thu chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng tài sản, công ty nên tiếp tục mở rộng chính sách tín dụng, đồng thời sử dụng có chọn lọc chính sách này .
Năm 1997 phải thu chiếm tỷ trọng trên tổng tài sản là 15,6%, năm 1998 là 16,7%. Năm 1999 là 14,2% để quản lý các khoản phải thu được thực hiện tối đa đưa ra một số giải pháp sau:
- Các khoản phải trả người bán cần được đối chiếu thường xuyên để đảm bảo phản ánh chính xác số dư cho từng đối tượng .
Dơn vị cần hoàn thành thủ tục và ghi tăng tài sản với các dự án.
Công ty cần tiếp tục trình tổng công ty và hoàn thành hồ sơ để thanh lý những khoản công nợ khó đòi về tiền điện .
Công ty cần khuyến khích các đơn vị thực hiện thanh toán ngay khi tiêu thụ hàng hoá tránh để lâu sẽ tạo điều kiện cho đơn vị đó chiếm dụng vốn của công ty, thực hiện tổ chức việc thu hồi nợ một cách đều đặn, nhịp nhàng không để tình trạng thu hồi nợ dồn dập vào cuối năm làm cho vốn của công ty bị chiếm dụng quá lâu, gây thiếu vốn cho nhu cầu kinh doanh trong năm, trong khi đó thì lượng tiền mặt tồn quỹ tăng nhanh vào cuối năm gây tình trạng dư thừa tiền mặt giả tạo.
5. Quản lý tài sản cố định:
Trong quản lý tài sản cố định, công ty cần quản lý chặt về hiện vật, không để mất mát hư hỏng trước thời hạn khấu hao. Công ty luôn quan tâm đến cơ cấu vốn cố định, xác định cơ cấu phù hợp, hơn nữa, chỉ mua sắm tài sản khi thật cần thiết, tránh quy mô vốn cố định quá lớn .
Phân cấp quản lý tài sản cố định cho các đơn vị trực thuộc công ty, nhằm nâng cao ý thức,trách nhiệm của người sử dụng. Những tài sản cố định đó giúp kéo dài tuổi thọ của máy móc thiết bị.
Cần phải cân nhắc giữa chi phí sửa chữa lớn bỏ ra với việc thu hồi hết giá trị còn lại của máy móc thiết bị đó. Quản lý chặt chẽ công tác sửa chữa lớn và sửa chữa nhỏ một cách thường xuyên.
Ngoài ra cần sử lý dứt điểm những tài sản cố định nào đã cũ, không cần dùng, hư hỏng chờ thanh lý nhằm thu hồi vốn cố định để có thể dùng vào luân chuyển bổ sung vốn cho sản xuất kinh doanh .
6. Công tác kế hoạch hoá tài chính .
Một yếu tố quyết định tính thành bại của một doanh nghiệp trên thị trường là doanh nghiệp có chiến lược như thế nào. việc có chiến lược đúng sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển lâu dài. Chiến lược của doanh nghiệp trong một môi trường không luôn luôn ổn định. Trong môi trường đó ai có tầm nhìn tốt hơn sẽ là người quản lý thành công. Chiến lược doanh nghiệp được thể hiện bằng các kế hoạch kỳ hạn khác nhau và các mảng hoạt động khác nhau. Có thể nói kế hoạch hoá tài chính là trọng tâm của kế hoạch hoá hoạt động doanh nghiệp nói chung. Trên cơ sở các kế hoạch tài chính, các kế hoạch khác sẽ được lập ra để đảm bảo doanh nghiệp đạt được các mục tiêu mong muốn.
Thông qua kết quả phân tích tài chính, công ty tiến hành kế hoạch hoá tài chính. Đây chính là việc sử dụng phân tích tài chính vào trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty thông qua kế hoạch hoá tài chính .
Công ty cần phát triển công tác kế hoạch hoá tài chính, các nhà lập kế hoạch tài chính cần xem xét tập trung tất cả hoạt động của doanh nghiệp chứ không đi vào chi tiết. Một số lượng lớn các luận chứng kinh tế đầu tư nhỏ được tập trung và được xem xét như một dự án độc lập một kế hoạch tài chính là một báo cáo về những việc sẽ hoàn thành trong tương lai nên nó phải phản ánh được các yếu tố đó tính trong tương lai.
Kế hoạch tài chính năm mới đã cung cấp những dự tính của việc huy động khai thác, phân phối và sử dụng nguồn tài chính cho một năm, bổ sung cho kế hoạch tài chính dài hạn. như vậy các phương án và công cụ kế hoạch hoá tài chính cần được sử dụng một cách thích hợp, bổ sung và hỗ trợ nhau.
Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính của công ty điện lực hà nội
Về đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh.
+ Với tổng công ty điện lực Việt Nam:
Để tạo điều kiện cho công ty trong việc huy động vốn, các thủ tục xét duyệt cần được Tổng công ty điều hành đơn giản hơn, giảm các khâu không cần thiết. Ngoài ra, Tổng công ty có thể xét việc hỗ trợ công ty điện lực Hà Nội trong việc ký kết hợp đồng hợp tác liên doanh để tránh tình trạng bị phụ thuộc về vốn.
Tổng công ty xem xét việc thành lập một công ty tài chính thuê mua của riêng mình để hỗ trợ các thành viên trong tổng công ty với mục đích là huy động vốn trong và ngoài nước nhằm bù đắp thiếu hụt trong nhu cầu tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn của các công ty, điều hoà vốn Ngân sách, huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong Tổng công ty.
+ Với Nhà nước:
Chính sách tín dụng của Nhà nước với ngành điện nói chung và Công ty nói riêng cần được xem xét trong đó cho ngành điện vay với lãi suất thấp và kéo dài thời gian trợ cấp trên 10 năm. như vậy ngành điện mới có thể trả nợ cho Nhà nước và các tổ chức cho vay vốn.
Về tài sản cố định của công ty bao gồm cả cũ và mới, có những TSCĐ như: Nhà xưởng, kho tàng của công ty rất cũ, đã khấu hao hết cho nên công ty phải phân loại rõ ràng để khấu hao cho chính xác.
Về tình hình thanh toán và khả năng thanh toán của công ty là khả quan công ty có khả năng thanh toán các khoản nợ của mình, tuy nhiên tình hình chiếm dụng vốn của công ty vẫn tồn tại và công ty bị chiếm dụng tương đối nhiều. Đối với một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thì tình trạng chiếm dụng và bị chiếm dụng vốn là không tránh khỏi tuy nhiên cũng cần phải xem xét xem khoản chiếm dụng cũng như bị chiếm dụng nào là hợp lý và không hợp lý để có hướng giải quyết.
+ Đối với các khoản đi chiếm dụng thì công ty điện lực Hà Nội không có khoản vay ngắn hạn do đó các khoản đi chiếm dụng hoàn toàn là chiếm dụng của các doanh nghiệp khác, cán bộ công nhân viên và NSNN; đây là điều hạn chế nên công ty cần có các biện pháp thu hồi nhanh các khoản nợ phải thu để thanh toán các khoản phải trả.
+ Các khoản phải thu của công ty chủ yếu là phải thu của khách hàng mà công ty điện lực Hà Nội là doanh nghiệp kinh doanh bán điện. Trong thực tế công ty phải chấp nhận một thực tế là hàng hoá của công ty không nhìn thấy không sờ được, do vậy không thể bán hàng theo kiểu “Tiền trao cháo múc”, khách hàng của công ty là khách hàng sử dụng điện dùng trước thanh toán sau, nhanh thì thanh toán trong tháng, chậm thì một quý, có người sử dụng điện nợ đến hàng năm. Do vậy, công ty luôn có một lượng vốn bị chiếm dụng, thêm vào đó là các khoản nợ đối với ngời có cùng quan hệ với công ty.
Hiện nay, công ty bị chiếm dụng một lượng vốn khá lớn, đặc biệt là các khoản nợ từ sử dụng điện. Để tránh tình trạng này công ty cần có biện pháp tận thu nhanh nhất tiền bán điện đồng thời cần tiến hành các biện pháp hữu hiệu để chống thất thoát điện:
+ Đặt vị trí hòm công tơ thích hợp để người sử dụng có thể theo dõi tình hình sử dụng điện và yên tâm khi trả tiền.
+ Bồ dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ thu ngân.
+ Xây dựng các phương án quản lý đường dây, công tơ tránh tình trạng thất thoát do ăn trộm điện.
Vì công ty điện lực Hà Nội là đơn vị kinh doanh bán điện, do đó doanh thu của công ty chủ yếu là do bán điện chiếm khoảng 80% tổng doanh thu. Để doanh thu được tăng lên thì giảm giá điện là điều cốt yếu. Nguyên tắc định giá phải tính đúng tính đủ , đảm bảo lãi vay và tạo ra khoản lợi nhuận thuần tuý. Trong khi công ty điện lực Hà Nội mua điện theo giá Tổng công ty và bán ra theo quy định của Nhà nước, công ty không có khả năng đưa ra giá điện song cũng cần định giá thành để kiến nghị nên trên, song song với nó là lỗ lực của công ty trong việc hạ chi phí giảm giá thành bởi vì giá thành sẽ tăng lợi nhận của công ty.
Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường biến động và từ đó luôn xuất hiện những cơ hội có thể đem lại lợi nhuận cũng như rủi ro cho doanh nghiệp. Sức cạnh tranh của nền kinh tế, cũng như từng doanh nghiệp kinh doanh đều vì một mục đích là tối đa hoá lợi nhuận để đương đầu với các thử thách trong kinh doanh, các hoạt động tài chính phải được đặt trên nền tảng là công tác hoạch định, công tác phân tích tài chính là trọng tâm của công tác hoạch định đó.
Trong đề tài “Các giải pháp nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính tại công ty điện lực Hà Nội”, em đã vận dụng những kiến thức đã được học để nghiên cứu thực tế công tác phân tích tài chính của công ty điện lực Hà Nội nêu lên những thành công đã đạt được và khó khăn cần khắc phục trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính của công ty. Tuy nhiên vì giới hạn về thời gian thực tập và những hiểu biết trong lĩnh vực này nên trong luận văn này không tránh khỏi những khiếm khuyết.
Với đội ngũ cán bộ công nhân viên đông đảo trong công ty, có năng lực và trình độ, hy vọng rằng điện lực Hà Nội sẽ tiếp tục phát huy những thành tựu đạt được để trở thành doanh nghiệp Nhà nước đạt hiệu quả cao trong công tác tài chính và quản lý tài chính, đảm bảo tình hình tài chính lành mạnh, phát triển không ngừng đóng góp cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá của đất nước nói chung, và thúc đẩy phát triển kinh tế thủ đô nói riêng.
Em xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô trong khoa Ngân Hàng - Tài chính, đặc biệt là Th.s Lê Phong Châu và chị Khúc Thị Lan Anh - Kiểm toán viên cao cấp của công ty kiểm toán Vaco đã hướng dẫn em hoàn thành đề tài này.
Tài liệu tham khảo.
Quản trị tài chính doanh nghiệp - Khoa ngân hàng tài chính - ĐH KTQD.
Tạp chí Tài chính - Ngân hàng.
Kế toán - Kiểm toán và phân tích tài chính doanh nghiệp - NXB Tài chính
Những vấn đề cơ bản về tài chính doanh nghiệp - Khoa ngân hàng tài chính - ĐH KTQD
Quản lý tài chính doanh nghiệp - Sasette Peyrard.
Phân tích hoạt động tài chính ở các doanh nghiệp - Charles J.woelfel.
Báo cáo kiểm toán của Công ty điện lực Hà Nội - 1998, 1999.
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- X0120.doc