MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU---------------------------------------------------------------------------- 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ ----------- 4
1.1.1. Khái niệm đầu tư -------------------------------------------------------------------- 4
1.1.2. Phân loại đầu tư---------------------------------------------------------------------- 6
1.1.2.1. Đầu tư trực tiếp ------------------------------------------------------
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2109 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp nhẳm huy động và sử dụng vốn có hiệu quả cho đầu tư phát triển kinh tế tại Quận 9 – TP.HCM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
----- 6
1.1.2.2. Đầu tư gián tiếp ----------------------------------------------------------- 7
1.1.2.3. Theo tính chất sử dụng vốn đầu tư -------------------------------------- 8
1.1.2.4. Theo ngành đầu tư--------------------------------------------------------- 9
1.1.2.5 Theo tính chất đầu tư ---------------------------------------------------- 10
1.1.3. Vai trò của đầu tư đối với sự phát triển của một quốc gia các vùng
kinh tế------------------------------------------------------------------------- 10
1.2. CÁC NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ ----------- 12
1.2.1. Nguồn vốn trong nước -------------------------------------------------------- 12
1.2.2. Nguồn vốn nước ngoài -------------------------------------------------------- 13
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu tư ----------------------------- 16
1.2.3.1. Tác động của lãi suất đến nguồn vốn đầu tư ------------------------ 16
1.2.3.2. Tác động của lạm phát đến đầu tư ------------------------------------ 20
1.2.3.3. Các cải cách tài chính và cải cách thị trường vốn------------------ 21
1.2.3.4. Môi trường đầu tư ------------------------------------------------------- 22
1.3. KINH NGHIỆM HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ ----------------------------------------------------------------------------- 22
1.3.1. Khuynh hướng huy động vốn của các quốc gia trên thế giới ------------ 23
1.3.2. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc huy động vốn -- 25
Kết luận chương I ------------------------------------------------------------------------ 29
Chương 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ CHO
TẠI QUẬN 9 –TP. HỒ CHÍ MINH giai đoạn 1999-2003
2.1. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH KT-XH QUẬN 9
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên-------------------------------------------------------------- 30
2.1.1.1. Tình hình sử dụng đất ------------------------------------------------- 30
2.1.1.2. Tình hình đô thị hoá--------------------------------------------------- 32
2.1.2. Tình hình dân số và nguồn nhân lực----------------------------------------- 32
2.1.2.1. Dân số------------------------------------------------------------------- 32
2.1.2.2. Nguồn nhân lực -------------------------------------------------------- 34
2.1.3. Thực trạng và tiềm năng về phát triển một số ngành nghề kinh tế
chủ chốt ------------------------------------------------------------------------ 35
2.1.3.1. Tình hình phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp -------- 35
2.1.3.2. Tình hình phát triển ngành thương mại – dịch vụ----------------- 36
2.1.4. Những thuận lợi và khó khăn vướng mắc trong quá trình phát triển
kinh tế -------------------------------------------------------------------------- 37
2.2. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ TRONG QUẬN 9 --------- 39
2.2.1. Thực trạng huy động vốn đầu tư --------------------------------------------- 39
2.2.2 Hiệu quả sử dụng vốn --------------------------------------------------------- 42
2.2.2.1. Hiệu quả về mặt kinh tế----------------------------------------------- 42
2.2.2.2. Hiệu quả về mặt xã hội ----------------------------------------------- 43
2.2.3. Lĩnh vực và hướng sử dụng vốn đầu tư ------------------------------------- 44
2.2.3.1. Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp-------------------------------- 44
2.2.3.2. Thương mại dịch vụ --------------------------------------------------- 45
2.2.3.3. Nông nghiệp------------------------------------------------------------ 45
2.2.3.4. Xây dựng cơ bản------------------------------------------------------- 45
2.2.4. Tồn tại vướng mắc trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư------------------ 46
2.2.4.1. Tồn tại trong quá trình thu hút vốn đầu tư------------------------- 46
a. Tồn tại trong hệ thống pháp luật hiện hành ----------------------- 46
b. Tồn tại trong thủ tục hành chánh ------------------------------------ 48
c. Vốn thu hút chưa đa dạng--------------------------------------------- 49
d. Chưa hình thành khu sản xuất công nghiệp ------------------------ 49
e. Tồn tại trong cơ chế kiểm tra và giám sát tài chánh đối với
hoạt động của các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh
đóng trên địa bàn-------------------------------------------------------- 50
f. Tồn tại trong đội ngũ người lao động và cán bộ quản lý --------- 50
2.2.4.2. Tồn tại trong quá trình sử dụng vốn đầu tư------------------------ 51
Kết luận chương II ----------------------------------------------------------------------- 53
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN CÓ HIỆU QUẢ
CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẠI QUẬN 9 –TP. HỒ CHÍ MINH
GIAI ĐOẠN 2004-2010
3.1. Định hướng huy động vốn vào Quận 9 giai đoạn 2005-2010 theo chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận 9
lần thứ III ---------------------------------------------------------------------------- 54
3.2. Giải pháp chung hỗ trợ cho việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả- 55
3.2.1. Giải pháp đổi mới chính sách thuế nhằm tạo ra nguồn vốn cho
NSNN ------------------------------------------------------------------------ 56
3.2.1.1. Hoàn thiện chính sách thuế --------------------------------------- 56
3.2.1.2. Hoàn thiện việc tổ chức và quản lý thu thuế-----------------------------58
3.2.2. Giải pháp tạo nguồn thu khác ngoài thuế -------------------------------- 59
3.2.3. Tiết kiệm các khoản chi -------------------------------------------------------------60
3.2.4. Giải pháp đổi mới chính sách huy động nguồn vốn đầu tư từ hệ thống
ngân hàng----------------------------------------------------------------------- 61
3.2.5. Giải pháp đổi mới chính sách huy động nguồn vốn đầu tư từ nước
ngoài ---------------------------------------------------------------------------- 67
3.2.6. Giải pháp thu hút vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán------------- 69
3.3. Các giải pháp đặc thù hỗ trợ huy động vốn cho phát triển kinh tế
của Quận 9---------------------------------------------------------------------------- 72
3.3.1. Hoàn thành dự án khu sản xuất vật liệu xây dựng Long Sơn và xây
dựng dự án khu công nghiệp Phú Hữu------------------------------------ 71
3.3.2. Phối hợp hoạt động giữa doanh nghiệp trong Quận và UBND ------ 74
3.3.3. Áp dụng rộng rãi mô hình nhà nước và nhân dân cùng làm----------- 74
3.3.4. Thu hút sự tham gia của Quỹ đầu tư phát triển đô thị thành phố về cơ
sở hạ tầng----------------------------------------------------------------------- 75
3.3.5. Đề nghị Thành phố phát hành trái phiếu có kỳ hạn -------------------------75
3.4. Các giải pháp đặc thù hỗ trợ sử dụng vốn hiệu quả cho đầ u tư phát
triển kinh tế của Quận 9 ---------------------------------------------------------- 76
3.4.1. Hạn chế tình trạng đầu tư phân tán, manh mún---------------------------- 76
3.4.2. Hạn chế tối đa thất thoát, lãng phí trong đầu tư hạ tầng ------------------ 76
3.5. Các giải pháp khác hỗ trợ huy động và sử dụng vốn cho phát triển kinh tế
của Quận 9---------------------------------------------------------------------------- 76
3.5.1. Hỗ trợ công tác di dời của các cơ sở theo yêu cầu quy hoạch của
Quận ----------------------------------------------------------------------------- 77
3.5.2. Hỗ trợ công tác đền bù và giải phóng mặt bằng --------------------------- 78
3.5.3. Đào tạo giáo dục đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và người lao động
trên địa bàn --------------------------------------------------------------------- 79
3.5.4. Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho người lao động làm việc tại
Quận----------------------------------------------------------------------------- 80
Kết luận chương III---------------------------------------------------------------------- 81
KẾT LUẬN -------------------------------------------------------------------------------- 82
PHẦN MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Đầu tư phát triển vừa là nhiệm vụ chiến lược, vừa là giải pháp chủ yếu nhằm
thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ 2001 - 2005
của nước ta. Một cách tổng quát, đầu tư là sự sử dụng nguồn lực hiện có nhằm
mang lại cho nhà đầu tư những kết quả nhất định trong tương lai. Nhìn trên góc độ
toàn nền kinh tế thì không phải tất cả hành động trên không chỉ mang lại lợi ích tài
chính mà còn mang lại lợi ích kinh tế - xã hội. Đầu tư phát triển là quá trình sử dụng
vốn đầu tư để tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật
kinh tế - xã hội.
Dưới góc độ tiêu dùng, đầu tư được hiểu là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện
tại để thu được một mức tiêu dùng lớn hơn trong tương lai. Dưới góc độ tài chính,
đầu tư là các hoạt động chi tiêu của chủ đầu tư để thu lợi nhuận trong tương lai.
Trong những năm gần đây, Quận 9 cùng nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế,
chính sách mới nhằm huy động tối đa các nguồn vốn thuộc mọi thành phần kinh tế
trong và ngoài nước. Nhờ vậy, kinh tế - xã hội của nhân dân Quận 9 đã có chuyển
biến đáng kể, tạo ra tiền đề cần thiết và quan trọng trong thời kỳ phát triển mới, đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng và phát triển một cách toàn diện nền kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, công tác quản lý, sử dụng và huy động vốn là một lĩnh vực phức
tạp, có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều quy định khác liên quan; đặc
biệt phải xử lý đa dạng các mối quan hệ dân sự, quan hệ hành chính và nhiều mối
quan hệ khác mà đáng lẽ phải được điều tiết bằng các Luật và văn bản pháp luật,
văn bản pháp qui một cách đồng bộ, nhất quán và thống nhất.
Bên cạnh đó, Quận 9 là một quận đô thị mới chắc chắn sẽ có vô vàn khó khăn
như cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh, chưa tương xứng với nhu cầu phát triển, nguồn
lực lao động trình độ thấp, công nghệ sản xuất còn lạc hậu…Do đó, nhu cầu vốn
đầu tư phát triển hiện nay là rất lớn.
Hiện nay, công tác quản lý, sử dụng và huy động vốn tại Quận 9 còn nhiều vấn
đề bất cập, chưa phù hợp với thực tế khách quan và đang trong quá trình điều chỉnh
và hoàn thiện cho phù hợp với thực tế khách quan.
Từ những suy nghĩ trên, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Các giải pháp nhằm
huy động và sử dụng vốn có hiệu quả cho đầu tư phát triển kinh tế tại Quận 9
– TP. Hồ Chí Minh”.
II. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Vấn đề cơ bản mà đề tài quan tâm muốn giải quyết nghiên cứu những tồn tại
và nguyên nhân trong quá trình huy động và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của
Quận 9, từ đó đề ra các giải pháp huy động và sử dụng vốn có hiệu quả theo một lộ
trình từ nay đến năm 2010.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài vốn dành cho hoạt động đầu tư phát triển kinh
tế của Quận 9 trong giai đoạn từ năm 1999-2003 để trên cơ sở đó đưa ra các giải
pháp huy động và sử dụng vốn có hiệu quả cho đầu tư phát triển kinh tế của Quận 9.
III. PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU
Phương pháp sử dụng xuyên suốt trong đề tài là phương pháp duy vật biện
chứng. Dựa vào phương pháp này, quá trình thu hút và sử dụng vốn cho đầu tư phát
triển của Quận 9 là một quá trình luôn biến động và chịu tác động bởi rất nhiều
nhân tố, do đó phải tác động thường xuyên đến môi trường đầu tư, tạo nên những
lực đẩy cần thiết cho việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư.
Một số các nguyên tắc và phương pháp sau đây cũng được quán triệt và vận
dụng: nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc thống nhất giữa lịch
sử và logic, nguyên tắc đi từ trừu tượng đến cụ thể, phương pháp diễn dịch – quy
nạp, phương pháp hệ thống…
IV. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI:
Ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung của đề tài gồm 03 chương:
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ
1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1.1. Khái niệm đầu tư
Trong các mô hình kinh tế vĩ mô đơn giản, xét về phương diện tiêu dùng thì
đầu tư là bộ phận hợp thành lớn thứ hai sau nhu cầu. Khái niệm đầu tư theo nghĩa
rộng bao hàm hai phạm trù phân biệt:
• Một mặt đầu tư liên quan đến việc mua sắm tài sản tài chính như: cổ phiếu,
trái phiếu và các loại chứng khoán khác, đó là loại đầu tư tài chính. Các tài
sản tài chính có thể có được từ các đợt phát hành mới hay được mua lại trên
thị trường tài chính.
• Mặt khác, đầu tư nhằm vào việc mua sắm các tài sản vật chất, hay còn gọi là
hàng hoá vốn như máy móc thiết bị những thứ mà bản thân là hàng hoá vốn
này có thể là đồ đã dùng được mua lại.
Việc mua sắm các tài sản tài chính được xem như một việc đầu tư, bởi người
mua hy vọng chúng sẽ đem lại nguồn thu nhập trong tương lai (chẳng hạn như cổ
tức cổ phiếu hay lãi của trái phiếu…). Tuy nhiên, ở đây không xuất hiện sự gia tăng
nguồn vốn mới cho nền kinh tế, bởi vì việc mua bán một sản phẩm tài chính sẽ là sự
đầu tư đối với người mua nó, nhưng lại là sự giảm đầu tư đối với người bán. Hay
nói cách khác, về phương diện kinh tế vĩ mô, các khoản đầu tư và giảm đầu tư về tài
sản tài chính bù trừ cho nhau.
Như vậy, chỉ có sự tạo ra các hàng hoá đầu tư vật chất (máy móc, thiết bị, nhà
xưởng…) sẽ không dẫn đến hiện trạng bù trừ, và hình thức đầu tư loại này mới thực
sự đem lại nguồn vốn cho nền kinh tế. Chính việc tạo ra hàng hoá đầu tư vật chất
mới này sẽ tạo thêm việc làm mới kéo theo các sản xuất bổ sung khác, trong khi tài
sản tài chính trên thị trường thứ cấp không ảnh hưởng trực tiếp với hai quá trình đó.
Và cũng chính vì điều đó mà loại đầu tư này được xem là đầu tư có tính chất phát
triển, gọi tắt là đầu tư phát triển.
Tổng giá trị các hàng hoá đầu tư mới được sản xuất trong nền kinh tế ở thời kỳ
nhất định tạo nên tổng lượng đầu tư. Nhưng vì các hàng hoá vốn này được sử dụng
và phần nào bị hao mòn trong năm đó để phục vụ sản xuất, nên một phần hàng hoá
đầu tư được dành cho đầu tư thay thế, phần còn lại tạo nên khoản bổ sung cho tổng
giá trị tư bản vật chất của nền kinh tế và được gọi là đầu tư ròng.
Như vậy, để cho nền kinh tế có thêm được nguồn đầu tư mới, là điều kiện cần
có là làm sao cho các doanh gia và những người đầu tư hy vọng rằng họ sẽ nhận
được một khoản lợi nhuận từ việc đầu vào hàng hoá mới cao hơn khoản lãi do mua
tài sản tài chính trên thị trường. Theo quan điểm của kinh tế học thì tổng thu nhập
của nền kinh tế (Y) tức là tổng sản phẩm quốc dân GNP thường được biểu hiện ở
mô hình đơn giản:
Y = C + S (1)
Trong đó: C: tiêu dùng, S: tiết kiệm. Tuy nhiên, kinh tế học luôn giả định rằng
phần không sử dụng mục đích tiêu dùng - phần tiết kiệm (S) – là phần tài sản được
tích luỹ cho mục đích đầu tư. Do vậy:
Y = C + I (2)
từ (1) và (2), suy ra: S = I
Từ đó, có thể thấy được mục đích của tiết kiệm hay tích luỹ vốn là để đầu tư.
Hay nói cách khác, đầu tư là từ bỏ tiêu dùng hiện tại để đổi lấy sản lượng cao hơn
và như vậy gia tăng tiêu dùng trong tương lai.
Qua phân tích trên cho thấy:
• Đầu tư theo nghĩa rộng được hiểu là bao hàm đầu tư trực tiếp và đầu tư
gián tiếp. Chỉ có đầu tư trực tiếp ròng tức là đầu tư tạo ra hàng hoá vốn mới
làm tăng nguồn vốn cho nền kinh tế xét về tổng thể.
• Để cho nền kinh tế có thêm được nguồn vốn, điều quan trọng và mang tính
quyết định là làm sao cho những người có ý định đầu tư tin tưởng rằng họ
sẽ nhận được khoản hiệu quả (kinh tế - chính trị - xã hội) do đầu tư vào
hàng hoá vốn đem lại cao hơn việc bỏ vốn đầu tư vào các hoạt động khác.
• Hoạt động vốn đầu tư luôn gắn liền với rủi ro như: rủi ro kinh doanh, rủi ro
tài chính.
Từ đó, chúng ta có thể dẫn đến khái niệm đầu tư:
• Theo quan điểm của doanh nghiệp: Đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh doanh,
trên cơ sở chấp nhận rủi ro nhất định, để thu được số lợi nhuận lớn hơn số
vốn đã bỏ ra.
• Theo quan điểm của xã hội: Đầu tư là hoạt động bỏ vốn phát triển, chấp
nhận rủi ro nhất định nhằm thu được hiệu quả nhất định vì mục tiêu phát
triển quốc gia.
1.1.2. Phân loại đầu tư
1.1.2.1. Đầu tư trực tiếp
Đầu tư trực tiếp là đầu tư mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn là một chủ
thể. Người đầu tư có thể là Nhà nước thông qua các cơ quan, doanh nghiệp Nhà
nước hoặc cũng có thể là tư nhân hoặc tập thể thông qua các công ty cổ phần, công
ty trách nhiệm hữu hạn…
Nếu đầu tư trực tiếp bằng vốn của nước ngoài thì phải tuân theo Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam. Theo luật này, đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt
Nam có thể tiến hành theo bốn hình thức:
a) Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. Đặc điểm của hình
thức này là không tạo ra pháp nhân mới, mà sử dụng pháp nhân của bên Việt Nam.
Đối tượng, nội dung kinh doanh, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi bên và
quan hệ giữa hai bên (Việt Nam và nước ngoài) do hai bên thỏa thuận và được ghi
rõ trong hợp đồng hợp tác kinh doanh.
b) Xí nghiệp hoặc công ty liên doanh (dưới đây gọi chung là công ty liên doanh có
tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam). Hình thức này do hai bên cùng góp
vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và cùng chia sẻ mọi rủi ro. Tỉ lệ phân
chia lợi nhuận, rủi ro lấy theo tỉ lệ góp vốn.
c) Công ty 100% vốn nước ngoài cũng có tư cách pháp nhân theo luật pháp Việt
Nam. Công ty tự mình quản lý, chịu sự kiểm soát của cơ quan Nhà nước quản lý
đầu tư nước ngoài, được hưởng các quyền lợi và phải thực hiện các nghĩa vụ ghi
trong Giấy phép đầu tư.
d) Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao. Đây là hình thức nhà đầu tư ký
hợp đồng với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xây dựng các công trình hạ
tầng. Hợp đồng này được thực hiện bằng 100% vốn nước ngoài hoặc bằng vốn nước
ngoài công với vốn của Chính phủ Việt Nam (hoặc của tổ chức, cá nhân Việt Nam).
Các chủ đầu tư chịu trách nhiệm tổ chức xây dựng, kinh doanh công trình trong một
thời gian đủ để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó có nghĩa vụ giao công
trình cho Nhà nước Việt Nam mà không thu bất kỳ khoản tiền nào.
Nếu đầu tư trực tiếp bằng vốn trong nước thì phải tuân theo Luật khuyến khích
đầu tư trong nước.
1.1.2.2. Đầu tư gián tiếp
Đầu tư gián tiếp là đầu tư mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn không cùng
một chủ thể. Hay nói khác hơn, người đầu tư này hoàn toàn không can dự vào quá
trình quản lý doanh nghiệp mà họ đã bỏ vốn đầu tư. Đầu tư gián tiếp thông thường
dưới hình thức tín dụng ngân hàng hay chứng khoán.
Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp là rất khắng khích, luôn
đi kèm với nhau trong mọi tiến trình đầu tư. Mối quan hệ này thể hiện trên hai
phương diện:
- Tác động hỗ trợ để tạo nên sự phát triển đồng đều: Đầu tư trực tiếp mở rộng
là tiền đề quan trọng để phát triển đầu tư gián tiếp. Thật vậy, sự khuyếch trương ở
mức độ sâu rộng của hình thái đầu tư trực tiếp tất yếu kéo theo nhu cầu vay mượn
vốn thông qua tín dụng ngân hàng, phát hành trái phiếu hay bổ sung vốn bằng cổ
phiếu để đáp ứng nhu cầu mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, mua sắm máy móc
thiết bị, dự trữ nguyên vật liệu hay thành lập mới các doanh nghiệp. Mặt khác, sẵn
sàn ở qui mô lớn các phương tiện đầu tư gián tiếp sẽ tạo điều kiện dễ dàng thực hóa
đầu tư trực tiếp dưới sự hỗ trợ của vốn tín dụng ngân hàng, hay của người bảo lãnh
phát hành chứng khoán trên thị trường vốn, ý đồ tham nhập trực tiếp của người đầu
tư ra thị trường nước ngòai sẽ được mau lẹ và thuận tiện hơn.
- Khả năng chuyển hóa lẫn nhau: không chỉ tác động hỗ tương một cách độc
lập, mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp còn thể hiện ở sự chuyển
hóa lẫn nhau. Sự chuyển hóa này phụ thuộc vào ý đồ, cũng như những cân nhắc về
mặt lợi ích và hậu quả theo quan điểm của người đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư.
1.1.2.3. Theo tính chất sử dụng vốn đầu tư
a) Đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là phương thức đầu tư trực tiếp; trong đó, việc bỏ vốn nhằm
gia tăng giá trị tài sản.
Sự gia tăng giá trị tài sản trong đầu tư phát triển nhằm tạo ra những năng lực
mới hoặc cải tạo, mở rộng, nâng cấp năng lực hiện có vì mục tiêu phát triển.
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư phát triển có vai trò quan trọng hàng
đầu; là phương thức căn bản để tái sản xuất mở rộng, tăng thu nhập quốc dân, tạo ra
việc làm và thu nhập cho người lao động như: đầu tư để tạo mới, mở rộng, cải tạo
hoặc nâng cấp đường xá, cầu cống, doanh nghiệp sản xuất, cơ sở dịch vụ,…
b) Đầu tư dịch chuyển
Đầu tư dịch chuyển là phương thức đầu tư trực tiếp; trong đó, việc bỏ vốn
nhằm dịch chuyển quyền sở hữu giá trị tài sản.
Trong đầu tư dịch chuyển, không có sự gia tăng giá trị tài sản.
Đầu tư dịch chuyển có ý nghĩa quan trọng trong hình thành và phát triển thị
trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường hối đoái…, hỗ trợ cho hoạt động
đầu tư phát triển như: hoạt động mua bán cổ phiếu của doanh nghiệp trên thị trường
vốn…
1.1.2.4. Theo ngành đầu tư
a) Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây dựng
cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội.
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật như: giao thông vận tải, thông tin liên lạc, điện, nước…
- Cơ sở hạ tầng xã hội như: trường học, bệnh viện, nhà trẻ, cơ sở văn hóa, thể
thao…
Đối với các nước đang phát triển, cơ sở hạ tầng rất yếu kém và mất cân đối
nghiêm trọng. Cơ sở hạ tầng cần được đầu tư phát triển, đi trước một bước, tạo tiền
đề để phát triển các lĩnh vực kinh tế khác.
b) Đầu tư phát triển công nghiệp
Đầu tư phát triển công nghiệp là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây dựng
các công trình công nghiệp.
Trong công cuộc phát triển ở Việt Nam hiện nay theo hướng công nghiệp hóa-
hiện đại hóa đất nước đầu tư công nghiệp là chính yếu, nhằm gia tăng giá trị sản
lượng công nghiệp trong GDP.
c) Đầu tư phát triển nông nghiệp
Đầu tư phát triển nông nghiệp là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây dựng
các công trình nông nghiệp.
Việt Nam từ điểm xuất phát là một nước nông nghiệp, với lợi thế só sánh trong
nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực cho nên đầu tư phát triển nông nghiệp
có ý nghĩa chiến lược, lâu dài nhằm đảm bảo an toàn lương thực quốc gia và tỷ
trọng giá trị sản lượng nông nghiệp hợp lý trong GDP.
d) Đầu tư phát triển dich vụ
Đầu tư phát triển dich vụ là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây dựng các
công trình dịch vụ (thương mại, khách sạn – du lịch, dịch vụ khác…).
Trong bối cảnh quốc tế hóa nền kinh tế ngày càng cao, đầu tư dịch vụ là xu thế
phát triển, nhằm gia tăng tỷ trọng giá trị dịch vụ trong GDP ở Việt Nam trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.1.2.5. Theo tính chất đầu tư
a) Đầu tư mới
Đầu tư mới là hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, nhằm hình thành các công
trình mới. Trong đầu tư mới, cùng với việc hình thành các công trình mới, đòi hỏi
có bộ máy quản lý mới. Đầu tư mới có ý nghĩa quyết định trong thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư mới đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, trình độ công nghệ và
quản lý mới.
b) Đầu tư chiều sâu
Đầu tư chiều sâu là hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, nhằm cải tạo, mở rộng,
nâng cấp, hiện đại hóa, đồng bộ hóa dây chuyền sản xuất, dịch vụ trên cơ sở các
công trình đã có sẵn.
Trong đầu tư chiều sâu, tiến hành việc cải tạo, mở rộng và nâng cấp các công
trình đã có sẵn, với bộ máy quản lý đã hình thành từ trước khi đầu tư.
Đầu tư chiều sâu là hình thức đầu tư ưu tiên đối với các nước đang phát triển
trong điều kiện còn thiếu vốn – công nghệ và quản lý. Đầu tư chiều sâu cần được
xem xét trước khi có qui định đầu tư mới.
c) Tận dụng năng lực sản xuất – dịch vụ
Trước khi quyết định đầu tư, dù là đầu tư mới hay đầu tư chiều sâu; cần đánh
giá đúng năng lực sản xuất – dịch vụ hiện có.
Nếu năng lực sản xuất – dịch vụ của một ngành – sản phẩm kinh tế - kỹ thuật
chưa được tận dụng, trên quan điểm tiết kiệm và hiệu quả, cần huy động các giải
pháp để sử dụng 100% công suất thiết kế của năng lực sản xuất đã có.
1.1.3. Vai trò của đầu tư đối với sự phát triển của một quốc gia và vùng kinh
tế
Đầu tư phát triển có hai vai trò quan trọng đến tăng trưởng kinh tế - xã hội:
• Thứ nhất: đầu tư có ảnh hưởng đến tổng cầu, đến lượt nó tổng cầu lại tác
động đến sản lượng và việc làm.
• Thứ hai: đầu tư tạo ra tích luỹ vốn. Đầu tư phát triển làm cho quỹ nhà
xưởng và máy móc, thiết bị tăng thêm, thúc đẩy tiềm năng của quốc gia và
kích thích tăng trưởng dài hạn.
Vì thế, đầu tư đóng vai trò kép, nó tác động đến sản lượng ngắn hạn thông qua
ảnh hưởng của nó đến tổng cầu và đầu tư tác động đến tăng trưởng dài hạn thông
qua việc hình thành vốn đối với sản lượng tiềm năng và tổng cung. Trong ngắn hạn,
đầu tư phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng sản lượng, tỉ lệ sử dụng công suất hoặc cả
hai như là những chỉ số cho biết cầu tương lai và mức độ của các hạn chế về tính
thanh khoản mà các doanh nghiệp phải đối mặt. Hai biến số này có ý nghĩa quan
trọng đối với các quyết định mở rộng khả năng sản xuất.
Quá trình sử dụng vốn gồm hai giai đoạn và tác động của nó ở từng giai đoạn
cũng khác nhau:
Ở giai đoạn đầu, sự tăng lên của đầu tư làm cho nhu cầu chi tiêu tăng lên
tác động đến tổng cầu, từ đó dẫn đến tăng sản lượng, công ăn việc làm và kèm theo
sự biến động của giá cả. Tuy nhiên, nhu cầu của quá trình đầu tư tạo ra chủ yếu là
về tư liệu sản xuất, là cái mà ở các nước đang phát triển rất thiếu. Do đó, nhu cầu
xuất khẩu các hàng hoá trong nước sản xuất ra để nhập khẩu tư liệu sản xuất là yêu
cầu tất yếu của quá trình phát triển. Mặt khác, khi tích luỹ trong nước còn thấp, việc
thu hút đầu tư từ nguồn vốn bên ngoài là cần thiết và tạo ra sự tăng trưởng rõ rệt
trong quá trình thực hiện đầu tư.
Ở giai đoạn thứ hai, đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn vật chất và hàng hoá tồn
kho cho sản xuất và các tài sản vật chất phi sản xuất. Vốn sản xuất tăng lên, làm
tăng khả năng sản xuất của đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng tác
động đến tổng cung bằng tăng sản lượng và công ăn việc làm, kéo theo mức giá
giảm xuống. ở giai đoạn này, sự gia tăng về vốn làm tăng năng lực sản xuất trong
nước, thúc đẩy gia tăng sản lượng, năng suất lao động, chất lượng hàng hoá sản xuất
ra, tạo khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả các nhân tố tài nguyên và lao động.
Chính vì vậy, vốn trở thành nhân tố cơ bản của quá trình tăng trưởng và phát triển
kinh tế của các quốc gia đang phát triển.
Nhìn nhận vai trò của vốn qua hai giai đoạn đã nêu cho thấy cần có cái nhìn
thực tế hơn qua các con số về tốc độ tăng trưởng và bản chất hơn về tác động của
vốn đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.2 . CÁC NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Trong nền kinh tế mở, vốn cho sự đầu tư phát triển của một quốc gia chủ yếu
được cung ứng từ các nguồn lực tài chính sau đây:
1.2.1. Nguồn vốn trong nước
Nguồn vốn trong nước thể hiện sức mạnh nội lực của một quốc gia. Nguồn
vốn này có ưu điểm là ổn định, bền vững, chi phí thấp, giảm thiểu đươc rủi ro và
hậu quả xấu đối với nền kinh tế do những tác động từ bên ngoài.
Nguồn vốn trong nước chủ yếu được hình thành từ các nguồn tiết kiệm trong
nền kinh tế. Mặc dù, thời đại ngày nay các dòng vốn nước ngoài ngày càng trở nên
đặc biệt không thể thiếu được đối với các nước đang phát triển, nhưng nguồn vốn từ
tiết kiệm trong nước vẫn giữ vị trí quyết định.
Tuy rằng, hiện tại chưa có kết luận dứt khoát về mối quan hệ nhân quả tiết
kiệm và tăng trưởng, song phải thừa nhận, tiết kiệm luôn ảnh hưởng tích cực đối với
tăng trưởng, nhất là những nước đang phát triển, vì làm tăng vốn đầu tư. Hơn nữa,
tiết kiệm đó là điều kiện cần thiết để hấp thụ vốn nước ngoài có hiệu quả, đồng thời
làm giảm sức ép về phía Ngân hàng Trung Ương trong việc hàng năm phải cung
ứng thêm tiền để tiêu hóa ngoại tệ.
Tiết kiệm trong nước được hình thành từ các khu vực sau:
• Tiết kiệm của ngân sách Nhà nước
• Tiết kiệm của doanh nghiệp
• Tiết kiệm của các hộ gia đình và tổ chức đoàn thể xã hội (hay gọi tắt là khu
vực dân cư)
Tóm lại, tiết kiệm là quá trình nền kinh tế dành ra một phần thu nhập ở hiện tại
để tạo ra nguồn vốn cung ứng cho đầu tư phát triển, qua đó nâng cao hơn nữa nhu
cầu tiêu dùng trong tương lai. Tuy vậy, đối với những nền kinh tế đang chuyển đổi,
bước đầu đang thực hiện chính sách công nghiệp hóa do nguồn tiết kiệm trong nước
thấp không đáp ứng đủ nhu cầu vốn nên cần phải thu hút nguồn vốn nước ngoài để
tạo ra cú hích cho sự đầu tư phát triển nền kinh tế.
1.2.2. Nguồn vốn nước ngoài
So với nguồn vốn trong nước, nguồn vốn nước ngoài có ưu thế là mang lại
ngoại tệ cho nền kinh tế. Tuy vậy, nguồn vốn nước ngoài lại luôn chứa ẩn những
nhân tố tiềm tàng gây bất lợi cho nền kinh tế, đó là sự lệ thuộc; nguy cơ khủng
hoảng nợ; sự tháo chạy đầu tư; sự gia tăng tiêu dùng và giảm tiết kiệm trong
nước,… Như vậy, vấn đề huy động vốn nước ngoài đặt ra những thử thách không
nhỏ trong chính sách huy động vốn của các nền kinh tế đang chuyển đổi, đó là: một
mặt, phải ra sức huy động vốn nước ngoài để đáp ứng tối đa nhu cầu vốn cho công
nghiệp hóa; mặt khác, phải kiểm soát chặt chẽ sự huy động vốn nước ngoài để ngăn
chặn khủng hoảng. Để vượt qua những thử thách đó, đòi hỏi nhà nước phải sử dụng
tốt các công cụ tài chính trong việc ổn định hóa môi trường kinh tế vĩ mô, tạo lập
môi trường đầu tư thuận lợi cho sự vận động vốn nước ngoài, điều chỉnh và lựa
chọn các hình thức thu hút vốn sao cho có lợi cho nền kinh tế.
Về bản chất, vốn nước ngoài cũng được hình thành từ tiết kiệm của các chủ thể
kinh tế nước ngoài và được huy động thông qua các hình thức cơ bản sau:
Tài trợ phát triển chính thức (Oficial Development Assistance - ODA)
Đây là nguồn vốn thuộc chương trình hợp tác phát triển do chính phủ các nước
ngoài hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức liên chính phủ và các tổ
chức phi chính phủ cho một nước tiếp nhận. Nguồn vốn ODA bao gồm viện trợ
không hoàn lại, các khoản cho vay với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, khối
lượng vốn vay và thời hạn thanh toán, nhằm hỗ trợ cán cân thanh toán, hỗ trợ các
chương trình, dự án,…
Nguồn vốn ODA tuy có ưu điểm về chi phí sử dụng, nhưng các nước._. tiếp nhận
viện trợ thường xuyên phải đối mặt những thử thách rất lớn đó là gánh nặng nợ
quốc gia trong tương lai, chấp nhận những điều kiện và ràng buộc khắt khe về thủ
tục chuyển giao vốn, đôi khi còn gắn cả những điều kiện về chính trị. Mỗi tổ chức,
mỗi chính phủ đều có những phương cách và thông lệ riêng trong việc cung cấp
ODA nhằm để đạt được những mục tiêu chính sách riêng của họ. Với những ràng
buộc về chính trị không phải nước nào cũng có thể nhận được viện trợ hoặc sử dụng
có hiệu quả cao trong hoàn cảnh riêng của mình. Còn đối với điều kiện về kinh tế,
điển hình nhất là IMF và WB đều đưa ra cung cách áp đặt nước nhận tài trợ phải
tiến hành những chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo một khuôn khổ rất
cứng nhắc. Thực tế, cung cách đó đã mang lại những hệ quả tố lẫn xấu trong việc
tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn này.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Invesment - FDI)
Đây là nguồn vốn do các nhà đầu tư nước ngoài đem vốn vào một nước để đầu
tư trực tiếp bằng việc tạo ra những doanh nghiệp. FDI đã và đang trở thành hình
thức huy động vốn nước ngoài phổ biến của nhiều nước đang phát triển khi mà
luồng dịch chuyển vốn đầu tư từ các nước phát triển đi tìm cơ hội đầu tư ở nước
ngoài để gia tăng khai thác về lợi thế so sánh.
Khác với nguồn vốn ODA, FDI không chỉ đơn thuần đưa vốn ngoại tệ vào
nước sở tại, mà còn kèm theo chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và
khả năng tiếp cận thị trường thế giới,… Tiếp nhận FDI lợi thế hiển nhiên mà thời
đại tạo ra cho các nước đang phát triển. Song, điều quan trọng đặt ra cho các nước
tiếp nhận là phải khai thác triệt để các lợi thế có được của nguồn vốn này nhằm đạt
được tổng thể cao về kinh tế. Bởi lẽ, FDI cũng có những mặt trái của nó. Nguồn vốn
FDI về thực chất của nó cũng là những khoản nợ; trước sau nó vẫn không thuộc
quyền sở hữu và chi phối của nước sở tại. Ngày hôm nay, nhà đầu tư đưa vốn vào
và hết hạn họ lại rút ra, giống như những khoản nợ - có vay có trả. Vả lại, trong các
khoản vay nợ, thông thường mức lãi suất do hai bên thoả thuận trước, còn trong đầu
tư trực tiếp, chủ đầu tư bao giờ cũng mưu cầu một lợi nhuận tối đa. Hơn nữa, đối
với các khoản nợ, người đi vay có toàn quyền sử dụng vốn vay, người cho vay
không có quyền can thiệp, miễn là người đi vay thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền vay
và lãi; còn trong FDI, chủ đầu tư vẫn toàn quyền sử dụng vốn, nếu là hình thức đầu
tư 100% vốn nước ngoài, còn nếu là hinh thức liên doanh thì quyền đó cũng bị chia
sẻ dựa vào tỷ lệ góp vốn. Đó là chưa kể đến các nước nhận đầu tư còn phải gánh
chịu nhiều thiệt thòi do phải áp dụng một số ưu đãi cho những nhà đầu tư hay bị các
nhà đầu tư nước ngoài tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho các nhân tố đầu vào,
cũng như bị chuyển giao những công nghệ và kỹ thuật lạc hậu.
Huy động qua thị trường vốn
Phát hành chứng khoán trên thị trường chứng khoán trên cả nước. Với sự
chuyên môn hoá về mua bán các loại chứng khoán, TTCK được xem như một cơ sở
hạ tầng tài chính để huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi của công chúng trong và
ngoài nước, tạo nên nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn cho nền kinh tế. So với hình
thức huy động qua ngân hàng, TTCK huy động vốn với phạm vi rộng rãi và linh
hoạt hơn, có thể đáp ứng nhanh chóng những nhu cầu khác nhau của người cần vốn,
đảm bảo về hiệu quả và thời gian lựa chọn. Còn đối với nhà đầu tư, trên TTCK, các
hình thức bỏ vốn của họ trở nên linh hoạt, vì vậy, hạn chế tối đa trong đầu tư…
Phát hành chứng khoán trên thị trường tài chính quốc tế. Ưu điểm của
phương thức này là huy động vốn trực tiếp, không phải thông qua các tổ chức tài
chính trung gian nên chi phí sử dụng vốn thấp hơn các khoản vay tín dụng. Người
đi vay có thể là doanh nghiệp và chính phủ. Tuy vậy, việc tìm kiếm vốn trên thị
trường tài chính quốc tế cũng có nhiều khó khăn và thử thách, đặc biệt là các tiêu
chuẩn tín nhiệm của chứng khoán để được chấp nhận giao dịch trên các thị trường
tài chính quốc tế. Vì các mức tiêu chuẩn tín nhiệm rất cao nên các doanh nghiệp ở
mức thông thường khó đạt được, do vậy các loại chứng khoán lưu hành trên thị
trường tài chính quốc tế phổ biến là trái phiếu của chính phủ. Ngoài ra, việc phát
hành trái phiếu quốc tế cũng có những hạn chế nhất định. Một mặt, phải tuân thủ
các thông lệ quốc tế, những thủ tục tục này rất phức tạp đòi hỏi phải có bước chuẩn
bị kỹ càng; mặt khác, vấn đề có tính chất bất khả kháng là khi đến hạn nhà phát
hành không được trì hoãn trong việc thanh toán nợ. Do đó, khi vay nợ người đi vay
phải xây dựng phương án đầu tư có khả năng sinh lời, đủ sức chịu đựng chi phí sử
dụng vốn vay và tái tạo ngoại tệ, đảm bảo khả năng trả nợ trong tương lai.
Ngoài ra, việc huy động vốn nước ngoài còn được thông qua các hoạt động
thuê tài chính; tín dụng thương mại; tín dụng ngân hàng…
Tóm lại, vốn đầu tư phát triển nền kinh tế chủ yếu được huy động từ hai
nguồn: nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước. Trên cơ sở đó, đòi hỏi nền
kinh tế phải phát triển các công cụ tài chính để tổ chức khai thác và thực hiện huy
động vốn, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu tư
Nền kinh tế là một hệ thống, trong đó các biến số kinh tế vĩ mô có quan hệ với
nhau. Trong các mối quan hệ đó ảnh hưởng tương tác giữa vốn đầu tư và các chỉ số
kinh tế khác như lãi suất thị trường thu nhập quốc dân, chính sách tài chính công,
chính sách tín dụng chính sách xuất khẩu, chính sách nhập khẩu,… là những quan
hệ cơ bản. Sự ảnh hưởng của các nhân tố này thể hiện cụ thể như sau:
1.2.3.1. Tác động của lãi suất đến nguồn vốn đầu tư
Tác động của lãi suất đến nguồn vốn đầu tư trong nước (theo mô hình tự do
hoá tài chính của Mac. Kinnon - Shaw)
Lãi suất thị trường có ảnh hưởng tích cực đến tiết kiệm, do đó nó có ảnh
hưởng đến nguồn vốn đầu tư, nhưng mối quan hệ giữa các mức lãi suất với tiết
kiệm không đơn điệu.
• Giả sử: r là hiệu suất biên của vốn đầu tư – Nó là giá trị hiện tại của thu
nhập tương lai mong đợi từ việc đầu tư vào hàng hoá mới.
• i là lãi suất thị trường
• Điều kiện của đầu tư là hiệu suất biên của vốn đầu tư tối thiểu phải bằng
với lãi suất thị trường (r = i). Như vậy, việc đầu tư phát triển sẽ xảy ra khi r
> i.
Xét trên tổng thể nền kinh tế với giả định rằng tất cả các khoản tiết kiệm sẽ
được chuyển hoá thành đầu tư thông qua các kênh tài chính thì tiết kiệm và đầu tư
đều là các hàm của lãi suất thực. Trong đó, tiết kiệm là hàm đồng biến của lãi suất
thực, còn đầu tư là hàm nghịch biến.
Sở dĩ giả định tiết kiệm là một hàm đồng biến của lãi suất thực là do xuất phát
từ mong muốn tối đa hoá lợi ích của người tiêu dùng. Bởi lẽ, khi lãi suất thực tăng,
việc tiêu dùng hiện tại sẽ trở nên đắt đỏ hơn so với việc tiêu dùng trong tương lai.
Do đó, để tối đa hoá lợi ích ứng với một khoản thu nhập nào đó, tiêu dùng hiện tại
sẽ được điều chỉnh giảm. Điều này dẫn đến kết quả là tiết kiệm tăng lên. Và ngược
lại, khi lãi suất thực giảm, việc tiêu dùng hiện tại sẽ trở nên rẻ hơn so với việc tiêu
dùng trong tương lai. Do đó, để tối đa hoá lợi ích ứng với một khảon thu nhập nào
đó, tiêu dùng hiện tại sẽ được điều chỉnh tăng, kết quả là tiết kiệm giảm.
Còn đối với đầu tư thì ngược lại, đầu tư sẽ giảm khi lãi suất thực tăng, đầu tư
sẽ tăng khi lãi suất thực giảm. Bởi lẽ, theo nguyên tắc tối đa hoá lợi nhuận, khi lãi
suất thực tăng lên có một số dự án sẽ bị loại bỏ vì hiệu suất biên của vốn đầu tư thấp
hơn lãi suất. Và khi lãi suất thực giảm sẽ có thêm một số dự án đầu tư gia nhập, kết
quả là tăng thêm nhu cầu về đầu tư. Điều này có thể biểu diễn bằng đồ thị của hoạt
động tài chính:
Nếu lãi suất bị ấn định ở mức cân bằng i1, thì nhu cầu đầu tư ở mức I1, nhưng
do mức tiết kiệm thực tế là S1, nên đầu tư thực tế sẽ bị giới hạn ở mức S1.
Theo mô hình trên, ở mức lãi suất i1, mức tiết kiệm thực tế là S1, thấp hơn so
với mức tiết kiệm có thể có được ở mức lãi suất cân bằng là S0. Tại i1, nhu cầu đầu
tư cao hơn so với nhu cầu đầu tư ở mức lãi suất cân bằng nhưng đầu tư thực tế lại
thấp hơn, vì bị giới hạn bởi nguồn tiết kiệm.
Như vậy, việc duy trì lãi suất thấp để thúc đẩy đầu tư không phải đơn giản vì
sẽ đễ dẫn đến sự bóp méo sản xuất, kéo theo sự xói mòn trong hoạt động của hệ
thống tài chính do tại mức i1 sẽ xảy ra sự mất cân đối giữa nhu cầu và khả năng
cung ứng vốn đầu tư, dẫn đến việc phải thực hiện cơ chế phân bổ vốn bằng các biện
pháp phi thị trường.
Khi đó, nếu tăng lãi suất và đạt tới mức cân bằng sẽ làm tăng tiết kiệm là điều
kiện để tăng đầu tư thực tế. Đồng thời với việc tăng lượng đầu tư, hiệu quả đầu tư
cũng sẽ được cải thiện cho các dự án có khả năng sinh lời thấp sẽ không còn cơ hội
để nhận được khoản tài trợ và cơ chế phân bổ vốn đầu tư cũng sẽ bị thu hẹp. Kết
quả làm tăng trưởng kinh tế lại tạo ra tiền đề để gia tăng tiết kiệm, tức là tiết kiệm sẽ
tăng trong khi lãi suất không thay đổi. Và đầu tư sẽ được cải thiện không chỉ về mặt
số lượng mà cả về chất lượng cho dù lãi suất vẫn giữ nguyên. Tăng trưởng lại được
củng cố và quá trình cứ tiếp tục như vậy.
Như vậy, việc nâng lãi suất tiền gửi sẽ tạo ra chuỗi ảnh hưởng sau:
S(Y0)
S(Y1)
i3
I0
i1
S0 I1
Lãi suất
Tiết kiệm, đầu tư
S1
• Tăng lãi suất làm tăng mức tiết kiệm thực trong nền kinh tế.
• Tăng mức tiết kiệm thực trong nền kinh tế sẽ làm tăng mức đầu tư thực.
• Tăng lãi suất thực làm tăng hiệu quả của các hoạt động đầu tư.
Như vậy, việc tăng lãi suất thực có thể cải thiện tăng trưởng kinh tế. Tăng
trưởng kinh tế sẽ kích thích tiết kiệm ở bất kỳ mức lãi suất nào và một vòng ảnh
hưởng lại bắt đầu. Việc tăng lãi suất ảnh hưởng tới tiết kiệm thông qua hai kênh:
• Kênh trực tiếp: tăng lãi suất thực làm tăng tiết kiệm thực
• Kênh gián tiếp: tăng lãi suất cải thiện hiệu quả đầu tư, tăng trưởng kinh tế
và qua đó ảnh hưởng đến tiết kiệm.
Đối với kênh gián tiếp, tăng hiệu quả đầu tư được thể hiện thông qua hai chỉ số
sau:
• Hệ số ICOR (chỉ số phản ánh hiệu suất đầu tư vốn: để tăng một đơn vị sản
phẩm cần tăng bao nhiêu vốn đầu tư)
• Phương sai của lãi suất tín dụng (mức độ thay đổi của lãi suất tín dụng)
Thật ra, hiệu quả đầu tư được xác định dựa trên phương sai của tỉ lệ sinh lợi
của vốn đầu tư. Bởi vì, phương sai của tỉ lệ sinh lợi của vốn đầu tư phản ảnh mức
độ biến động của tỉ lệ sinh lợi. Nếu mức độ biến thiên của tỉ lệ sinh lợi cao thì vốn
đầu tư đã bị phân tán. Về mặt lý thuyết, nếu vốn được đầu tư một cách có hiệu quả
thì chỉ có các dự án có khả năng sinh lợi cao mới có khả năng tiếp cận được nguồn
vốn đầu tư và tỉ lệ sinh lợi chung của các dự án được tài trợ vốn có xu hướng hội tụ
về tỉ lệ sinh lợi bình quân. Do đó, nếu phương sai của tỉ lệ sinh lợi cao thì thực tế
vốn đầu tư đã được tài trợ cho các dự án có tỉ lệ sinh lợi khác nhau. Điều này chỉ
xảy ra khi tồn tại cơ chế phân bổ vốn đầu tư. Và trong điều kiện đó, vốn đầu tư đã
được cấp cho cả những dự án có khả năng sinh lời thấp. Vì vậy, để đảm bảo mức lợi
tức, vốn đầu tư phải được đầu tư vào những dự án có tỉ lệ sinh lợi cao và cùng với
nó là mức rủi ro rất cao, dẫn đến tỉ lệ biến thiên tỉ lệ sinh lợi vốn đầu tư càng nhiều
thì hiệu quả đầu tư càng thấp, và ngược lại, tỉ lệ biến thiên tỉ lệ sinh lợi vốn đầu tư
càng thấp thì hiệu quả đầu tư càng cao.
Trên thực tế, lãi suất cho vay thường cao hơn lãi suất tiền gửi. Chênh lệch giữa
hai loại giá này là nguồn thu cho hoạt động trung gian tài chính. Trong trường hợp
này, việc ấn định lãi suất thấp sẽ mở rộng mức chênh lệch lãi suất. Có thể ngân
hàng sẽ nâng mức lãi suất cho vay lên đến mức i3 để cân bằng cung - cầu tín dụng
trong nền kinh tế. Lãi suất tín dụng cao, về lý thuyết, có thể khắc phục được việc
đầu tư vào các dự án có khả năng sinh lời thấp, và do đó cải thiện được hiệu quả
đầu tư. Song thực tiễn, lãi suất cho vay quá cao so với mức lãi suất cân bằng trong
nền kinh tế sẽ đẩy các nhà đầu tư tham gia vào các hoạt động quá mạo hiểm. Và với
mức độ rủi ro cao của các khoản tín dụng đầu tư có thể ngay lập tức làm giảm hoạt
động kinh tế có khả năng sinh lời cao, gắn liền với mức độ rủi ro cao được đầu tư,
nên nền kinh tế sẽ bị bất ổn và có nguy cơ rơi vào khủng hoảng nếu thiệt hại xảy ra.
Trong bối cảnh như vậy, việc tăng lãi suất sẽ thu hẹp mức độ chênh lệch, tăng tiết
kiệm và làm giảm lãi suất tín dụng, và mức độ rủi ro trong các hoạt động kinh tế sẽ
giảm dần và hiệu quả đầu tư sẽ được cải thiện.
1.2.3.2. Tác động của lạm phát đến đầu tư
Lạm phát là một vận động đi lên kéo dài trong tổng mức giá cả. Một sự gia
tăng liên tục trong cầu đẩy mức giá cả lên cao một cách liên tục. Loại quá trình lạm
phát này đôi khi được gọi là lạm phát do nhu cầu đẩy lên, trong đó có nhân tố cầu
đầu tư.
Trong nền kinh tế, đầu tư tăng dẫn đến tăng mức cầu, và nếu cầu đầu tư tăng
một mặt và liên tục trong tổng cầu sẽ làm tăng mức lạm phát. Tại mức lạm phát cao,
suất sinh lợi thực thấp hay thậm chí âm đối với người tiết kiệm, nhưng chi phí lại rất
thấp đối với người cho vay. Đầu tư có lợi từ đó đẩy mức đầu tư tăng lên. Kết quả
tăng trưởng kinh tế do đầu tư mang lại sẽ làm giảm áp lực lạm phát một cách ổn
định, vững chắc và có hiệu quả nhất, thông qua tăng mức cung cho nền kinh tế.
Để giảm lạm phát các nhà hoạch định chính sách sẽ có nhiều biện pháp lựa
chọn, như thắt chặt chính sách tài chính tiền tệ. Cụ thể là chính phủ sẽ tăng lãi suất,
tăng mức dự trữ bắt buộc, giảm cho vay tái chiết khấu, tăng thuế,… Các chính sách
này sẽ làm giảm mức đầu tư. Tuy nhiên, các chính sách này chỉ có tác dụng trong
ngắn hạn, bởi vì hậu quả của nó là đưa nền kinh tế vào tình trạng suy thoái, thất
nghiệp cao và chu kỳ khủng hoảng, lạm phát mới lại xuất hiện.
1.2.3.3. Các cải cách tài chính và cải cách thị trường vốn
Cải cách tài chính và cải cách thị trường vốn có thể ảnh hưởng đến tiết kiệm tư
nhân thông qua nhiều kênh khác nhau, theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực.
Trước hết, cải cách thị trường vốn và ổn định kinh tế vĩ mô trong nội địa có thể
làm đảo ngược dòng xuất vốn ra nước ngoài, khiến cho vốn quay trở lại nội địa.
Nhờ đó làm tăng tỉ lệ của các tài sản trong nước trong danh mục đầu tư và tăng thu
nhập, tăng xuất khẩu và tiết kiệm, nhưng lại ít có ảnh hưởng đến tiết kiệm khu vực
tư nhân.
Thứ hai, tự do hoá tài chính và sự phát triển sâu rộng thị trường vốn có thể làm
tăng hiệu quả hoạt động trung gian tài chính, nhờ đó làm tăng mức tăng trưởng kinh
tế và do vậy làm tăng tiết kiệm tư nhân.
Kết tiếp, tự do tài chính – là sự gia tăng về mật độ địa lý của những tổ chức tài
chính, và chất lượng của việc quản lý và giám sát tài chính - thường dẫn đến sự tăng
cường tài chính sâu rộng hơn và sẽ được phản ánh bằng một sự gia tăng lâu dài của
trữ lượng tài chính.
Thứ tư, tự do hoá tài chính thường làm tăng các khoản cho vay tiêu dùng và
giảm bớt những hạn chế nghiêm ngặt về việc vay tiền cho tiêu dùng. Cả hai điều đó
sẽ làm giảm tiết kiệm tư nhân.
1.2.3.4. Môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư tác động đến đầu tư qua các lĩnh vực chủ yếu sau đây:
a. Ổn định chính trị xã hội
Sự ổn định chính trị tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi. Trong một xã hội
ổn định về chính trị, các nhà kinh doanh được đảm bảo bảo an toàn về đầu tư, quyền
sở hữu và các loại tài sản khác. Do đó, họ sẳn sàng đầu tư những khoản tiền lớn vào
những dự án dài hạn.
b. Ổn định kinh tế vĩ mô để giảm tính bấp bênh xung quanh việc đầu tư
Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô là giảm những biến động ngắn hạn trong nền
kinh tế và khuyến khích tăng trưởng bền vững lâu dài.
c. Chính sách khuyến khích và hỗ trợ đầu tư thoả đáng, đồng thời có chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội và qui hoạch đầu tư rõ ràng cụ thể
Các quốc gia thường dùng nhiều công cụ khác nhau để tác động đến tổng đầu
tư, đến sự phân phối đầu tư giữa các khu vực, các loại tài sản và theo thời gian bằng
cách tác động đến tỷ suất sinh lợi của vốn. Vì vậy, để thu hút các nhà đầu tư phần
lớn các nhận đầu tư thường sử dụng những biện pháp tích cực như khuyến khích về
thuế, cho độc quyền ở thị trường nội địa, hoặc có những thỏa thuận cho phép các
nhà đầu tư chuyển lợi nhuận về nước. Trong đó ưu đãi về thuế là biện pháp khuyến
khích đầu tư thường gặp nhất.
d. Môi trường thể chế ổn định
Chính phủ có một vai trò quyết định trong việc xây dựng và duy trì một môi
trường kinh tế lành mạnh. Chính phủ phải bảo đảm luật pháp và trật tư, thực thi các
hợp đồng và định hướng những điều tiết của nó để hỗ trợ cạnh tranh và đổi mới.
Quan trọng nhất là chính phủ phải bảo đảm môi trường thể chế ổn định thông qua
ổn định hệ thống luật pháp và đảm bảo thực thi có hiệu quả, nhằm giúp cho nhà đầu
tư an tâm và tính toán được hiệu quả đầu tư.
e. Bảo đảm cơ sở hạ tầng cho phát triển
Cơ sở hạ tầng là tổng thể các cơ sở vật chất kỹ thuật, các công trình, các
phương tiện tồn tại trên một lãnh thổ nhất định được dùng làm điều kiện sản xuất và
điều kiện sinh hoạt nói chung, bảo đảm sự vận hành liên tục, thông suốt các luồng
của cải vật chất, các luồng thông tin và dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu có tính phổ
biến của sản xuất và đời sống.
1.3. KINH NGHIỆM HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ CHO PHÁT TRIỂN KINH
TẾ
1.3.1. Khuynh hướng huy động vốn của các quốc gia trên thế giới
Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới khi đầu tư đều có khuynh hướng
chung phải tuân thủ theo qui luật của kinh tế thị trường, tận dụng tối đa các lợi thế
so sánh của nước mình và tính đến một cách cặn kẽ các điều kiện thiên nhiên, địa
lý, các nguồn lực tự nhiên, các tập quán, tâm lý người dân, đặc điểm riêng của dân
tộc mình. Biết phát huy nội lực trong nước, tranh thủ đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên
tùy vào thực trạng xã hội của mỗi nước mà có những biện pháp huy động vốn mang
bản sắc riêng của nước mình.
Khuynh hướng huy động vốn mà các nước đang phát triển cần quan tâm:
Tích lũy nội bộ, tiết kiệm chi tiêu. Tiết kiệm tiêu dùng hiện tại sẽ tạo ra một
khoản vốn nhàn rỗi khá lớn để đầu tư trong tương lai, đặc biệt là hạn chế chi tiêu
công cộng. Chú trọng trong chi tiêu của cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, mà đối
với các nước đang phát triển thì cơ cấu tổ chức này quá cồng kềng, cộng thêm nạn
tham nhũng quá lớn gây lãng phí nguồn vốn. Vì vậy, cần tổ chức một cơ cấu tổ
chức gọn nhẹ với những nguyên tắc chi tiêu hợp lý là có ý nghĩa quan trọng đối với
tích luỹ nội bộ của nền kinh tế quốc dân.
Thuế vừa là nguồn thu quan trọng đối với ngân sách nhà nước vừa là công
cụ điều tiết nhập khẩu, khuyến khích và kinh doanh tư nhân, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp phát triển nguồn lực tài chính dành cho tích luỹ.
Thực hiện cải cách thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, minh
bạch không phân biệt các thành phần kinh tế, đồng thời tháo dỡ dần chính sách bảo
hộ bằng việc xóa bỏ hàng rào phi thuế quan, cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ là những
giải pháp quan trọng nhằm gây sức ép buộc các doanh nghiệp tăng cường đổi mới
công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh. Các doanh nghiệp hiện nay đang phải đối
mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của thị trường. Nhu cầu tích lũy vốn để
phát triển và đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp là rất lớn và cấp bách. Vì
vậy, thuế cần phải được điều chỉnh cho hợp lý hơn nhằm khuyến khích các doanh
nghiệp tăng cường tích tụ vốn và đầu tư thay đổi công nghệ, hiện đại hóa sản xuất,
hạ thấp giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, bồi
dưỡng nguồn thu, tăng thu cho ngân sách nhà nước.
Coi chính sách công nghiệp là bộ phận của chính sách kinh tế - xã hội. Bởi
phát triển ngành công nghiệp là nền tảng cho sự tăng trưởng của các ngành kinh tế
khác trong xã hội như nông nghiệp, thương mại, dịch vụ,... Nhất là các ngành công
nghiệp chủ chốt nhằm giảm tối đa nhập khẩu công nghệ sản xuất mới, tiết kiệm một
khoản vốn giúp mở rộng sản xuất kinh doanh. Để giải quyết vấn đề vốn cho công
nghiệp hoá cần quan tâm đến tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước đã lan rộng ở
các nước đang phát triển ở Châu Á và được coi là một giải pháp quan trọng nhằm
huy động đến mức tối đa vốn cho phát triển. Quan trọng hơn là các doanh nghiệp tư
nhân còn có sức hấp dẫn đối với nhiều nhà đầu tư nước ngoài.
Phát huy tối đa các nguồn lực tài chính bên ngoài. Bởi các nước đang phát
triển đang có lợi thế nhưng chưa có hoặc không có khả năng khai thác, đặc biệt là
các nước này có nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú, có nguồn lao
động dồi dào và giá nhân công rẻ. Nguồn lực tài chính bên ngoài sẽ đóng góp nhất
định vào sự phát triển của họ, giúp chuyển biến theo chiều hướng tích cực của một
số lĩnh vực sản xuất kinh doanh, hay một số ngành nghề, hoặc những yếu tố xúc tác
làm cho tiềm năng nội tại của nước nhận đầu tư phát triểm một cách mạnh mẻ và có
hiệu quả hơn.
Các nguồn lực tài chính bên ngoài được huy động dưới 4 hình thức chủ yếu:
viện trợ phát triển của chính phủ, vay tín dụng quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) và đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI). Hai hình thức đầu tiên thường được các
nước đang phát triển ở Châu Á khai thác vào thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp
hoá. Hai hình thức sau, đặc biệt là đầu tư gián tiếp được phát triển rất mạnh trong
thời gian gần đây và trở thành một trong những hình thức ưa chuộng trong nền kinh
tế thị trường Châu Á.
Việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, độ ổn định kinh tế vĩ mô là
những yếu tố có tính quyết định đến việc hướng các dòng ODA và tín dụng quốc tế
nhẹ lãi vào các nền kinh tế thị trường ở Đông Á và Đông Nam Á.
1.3.2. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc huy động vốn đầu
tư
- Nếu trong ngành kinh tế có những mất cân đối như cán cân thương mại bị
thâm thụt so với GDP, tỉ giá hối đoái bị gắn liền với đồng ngoại tệ duy nhất trong
một thời gian quá lâu làm đồng nội tệ bị lên giá thực, khủng hoảng thừa cung và
mất giá trong khu vực địa ốc, ngân hàng bị lỗ lãi vì bị gánh nhiều món nợ xấu,… thì
có nguy cơ khủng hoảng kinh tế nếu không nhanh chóng giải quyết.
- Sử dụng chính sách vĩ mô vừa khéo léo, linh hoạt, vừa sửa đổi bổ sung kịp
thời tránh rơi vào tình trạng của thập niên 80 kinh tế Việt Nam đã khủng hoảng
trong thời gian dài. Riêng trong từng thời kỳ nhất định cần có chính sách hợp lý để
thu hút được nguồn vốn đầu tư nhằm phát triển tiềm năng hiện có của Việt Nam,
đặc biệt là thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện đại, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế càng trở nên rõ ràng hơn. Đặc biệt các nước càng nhỏ bé về sức mạnh kinh
tế càng dễ bị ảnh hưởng. Vì vậy, khi mở cửa Việt Nam cần xem xét các điều kiện
trong nước.
- Duy trì tình hình chính trị kinh tế xã hội ổn định như hiện nay. Bởi những bất
ổn về kinh tế cũng như chính trị ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của nhà đầu tư mà
mục đích cuối cùng trong kinh doanh của họ là lợi nhuận. Vì vậy, bất kỳ lý do nào
ảnh hưởng xấu đến mục tiêu của họ hoặc có khả năng gây ra rủi ro đều ảnh hưởng
đến các quyết định đầu tư cũng như lượng vốn đầu tư.
Thực tế Việt Nam trong những năm qua đã thu hút một khối lượng vốn đáng
kể trong và ngoài nước, đóng góp vào đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa- hiện
đại hóa đất nước. Đặc biệt nổi trội nhất là hai Tỉnh Bình Dương và Tỉnh Đồng Nai.
Kinh nghiệm huy động vốn của tỉnh Bình Dương
Bình Dương hiện là địa phương tăng trưởng nhanh nhất trong vùng kinh tế
trọng điểm phía nam và cả nước đồng thời cũng đang là nơi thu hút đầu tư nước
ngoài lớn nhất. Hiện Tỉnh có 9 KCN thu hút được 660,4 triệu USD vốn đầu tư nước
ngoài. Cơ cấu kinh tế Bình Dương có sự chuyển dịch lớn đáng chú ý từ việc lấy sản
xuất nông nghiệp làm trọng điểm chuyển sang cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ
- nông nghiệp. Tuy nhiên, khác với Đồng Nai, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
Bình Dương trong 10 năm qua chủ yếu diễn ra giữa khu vực nông nghiệp - dịch vụ,
trong khi tỷ trọng của khu vực công nghiệp – xây dựng không thay đổi. Những
ngành công nghiệp chủ lực của Bình Dương hiện nay là công nghiệp chế biến nông
lâm sản thực phẩm (chiếm 36% giá trị sản xuất công nghiệp), cơ khí (15%), dệt may
và da giày (11%), gốm sứ và vật liệu xây dựng (10%), và hóa chất 26%. Trong
những ngành này, Bình Dương đang có lợi thế so sánh cao ở ngành gốm sứ, vật liệu
xây dựng, dệt may và da giày.
Với thế mạnh về quỹ đất, đặc biệt là diện tích đất bằng chưa sử dụng còn
nhiều, thuận lợi cho việc phát triển phi nông nghiệp theo hướng bố trí các khu và
cụm công nghiệp. Vì vậy, ngay đầu năm 1996 sau khi được phê duyệt quy hoạch
vùng kinh tế trọng điểm của chính phủ, tỉnh Bình Dương đã nhanh chóng bắt tay
vào xây dựng định hướng phát triển. Tỉnh đã tập trung vốn đặc biệt là vốn ngân
sách nhà nước vào đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển theo cơ cấu kinh tế công nghiệp -
dịch vụ - nông nghiệp. Đặc biệt quan tâm phát triển công nghiệp theo hướng:
• Xây dựng các vùng công nghiệp tập trung, đặc biệt là phía Nam của tỉnh,
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các khu công nghiệp và phát
triển các ngành sản xuất có công nghệ - kỹ thuật cao, thiết bị hiện đại như:
cơ khí chế tạo máy, điện, điện tử, công nghệ thông tin.
• Ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm gắn với vùng
nguyên liệu; có chính sách hỗ trợ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh lên các vùng phía Bắc của tỉnh.
• Khuyến khích đầu tư sản xuất các sản phẩm dệt, giày da, may mặc,... góp
phần tăng nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp, giá trị xuất khẩu và giải quyết
nhiều việc làm, nâng cao đời sống đại bộ phận dân cư.
Ngoài chính sách chung của Nhà nước, tỉnh mong muốn các nhà đầu tư có thể
tìm thấy không những có cơ hội đầu tư mà còn cả thiện chí khi đầu tư vào tỉnh nhà.
Vì vậy, Tỉnh đã áp dụng chính sách hỗ trợ đầu tư (tạo lập môi trường kinh doanh
với chi phí thấp) song song với chính sách đầu tư chung của nhà nước.
Thứ nhất, tỉnh Bình Dương đã triển khai và cải tiến mạnh mẽ các thủ tục hành
chính trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước để các dự án sớm được
tiến hành và đi vào hoạt động. Các dự án khi đầu tư trên địa bàn tỉnh Bình Dương
đều thực hiện theo cơ chế một cửa một cách nhanh chóng và thuận lợi. Ban quản lý
khu công nghiệp thực hiện cơ chế một cửa cho nhà đầu tư vào khu công nghiệp; từ
khâu hướng dẫn và tiếp nhận hồ sơ xin đầu tư, thẩm định dự án và cấp phép đầu tư
(nước ngoài đối với các dự án thuộc nhóm B có quy mô vốn đầu tư đến 40 triệu
USD) cho đến xét duyệt kế hoạch nhập khẩu, cấp Giấy phép cho người lao động
nước ngoài. Riêng ban quản lý khu công nghiệp Việt Nam - Singapore (VSIP) được
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ủy quyền xét cấp phép các dự án đầu tư từ tháng
07 năm 1997.
Thứ hai, tỉnh tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tìm hiểu, khảo sát
thị trường, tìm cơ hội đầu tư và xúc tiến đầu tư trên địa bàn tỉnh. Thực hiện đầy đủ,
kịp thời các ưu đãi đối với đầu tư trong và ngoài nước.
Thứ ba, mặc dù có vị trí tiếp giáp Thành phố Hồ Chí Minh song lợi thế so
sánh của tỉnh so với các vùng lân cận lại là chính sách giá cho thuê đất ưu đãi; về
các dịch vụ cung ứng cho các khu công nghiệp và các dự án đầu tư như: điện nước,
lao động, thông tin, tỉnh Bình Dương đã đầu tư đảm bảo các nguồn cung cấp cho
các nhà đầu tư. Đây là yếu tố quan trọng để các nhà đầu tư trong và ngoài nước so
sánh và lựa chọn.
Thứ tư, đối với các dự án đầu tư trong các khu công nghiệp tập trung, các cụm
sản xuất công nghiệp được hỗ trợ lập dự án đầu tư, hồ sơ ưu đãi đầu tư và hoàn tất
việc khắc dấu, mã số thuế, mã số hải quan, thủ tục xuất nhập khẩu sau khi nhận giấy
phép đầu tư, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Đối với các dự án cần có sự thỏa thuận của các Bộ, ngành trung ương, tỉnh sẵn
sàng hỗ trợ các nhà đầu tư trong việc tranh thủ ý kiến ủng hộ của Bộ, ngành để xúc
tiến dự án.
Kinh nghiệm huy động vốn của tỉnh Đồng Nai
Tỉnh Đồng Nai với 9 KCN với tổng diện tích 2.343 ha đã được Thủ tướng
Chính phủ quyết định thành lập, đến nay đã cho thuê 660 ha (chiếm 39% diện tích
dùng cho thuê) thu hút 186 dự án được cấp phép, trong đó có 22 dự án trong nuớc
với số vốn lên tới 3.600 triệu USD. Hiện nay đã có 137 doanh nghiệp đang hoạt
động với số vốn đăng ký lên tới 2,5 tỷ USD và vốn thực hiện đạt 1,1 tỷ USD, thu
hút 46 nghìn lao động. Trong số các KCN tập trung được quy hoạch, KCN Biên
Hoà II là một trong những KCN thành công nhất, đến nay diện tích đất cho thuê đã
đạt 93,1%; thu hút 26 nghìn lao động; ước năm 2000 sẽ lấp đầy diện tích thuê đất
của KCN này.
Kết quả phát triển công nghiệp đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
tỉnh Đồng Nai từ một tỉnh nông nghiệp thành một tỉnh công nghiệp với cơ cấu công
nghiệp nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Khu vực công nghiệp của Đồng Nai hiện
chiếm đến 52% GDP của tỉnh, tiếp theo là dịch vụ (25%) và nông nghiệp (23%)
chiếm đến 52,12% trong GDP trong năm 2000.
Để huy động được nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước đưa kinh tế tỉnh phát
triển theo đúng định hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Một mặt, phát huy
lợi thế về vị trí địa lý nhất là hệ thống giao thông có nhiều trục đường chính xuyên
quốc gia và về tài nguyên khoáng sản như: đá xây dựng, cát xây dựng, sét gạch ngói
cũng như về nguồn lao động nhân công rẻ. Tỉnh Đồng Nai chọn hướng phát triển
của ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu tại chỗ để thu hút vốn đầu tư. Mặt
khác, xây dựng một số chính sách được khái quát sau:
- Đảm bảo hạ tầng cho phát triển công nghiệp: UBND tỉnh Đồng Nai tập trung
toàn nguồn lực nhất là vốn vào xây dựng cơ sở hạ tầng hay những dự án mà cơ sở
tư nhân không có khả năng đầu tư như: xây dựng hệ thống đường xá, hệ thống điện
- nước trong các khu công nghiệp, bến cảng,..
- Xoá bỏ dần chính sách hai giá đối với người nước ngoài.
- Đẩy mạnh ._.g bước thực hiện mục tiêu hoán chuyển ngoại tệ đối với các
giao dịch vãng lai. Có chính sách bổ sung đảm bảo việc bán ngoại tệ cho
các doanh nghiệp FDI đã thực hiện nghĩa vụ kết hối để đáp ứng nhu cầu
hợp lý của doanh nghiệp.
• Xây dựng quy chế quản lý hoạt động tài chính doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài, ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ
quốc tế.
• Xây dựng các chuẩn mực về định giá tài sản, đánh giá tài sản đối với các
doanh nghiệp FDI nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp,
đồng thời đảm bảo sự quản lý của Nhà nước.
- Bốn là, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
• Cải cách hành chính có liên quan chặt chẽ đến việc lành mạnh hoá môi
trường đầu tư, giảm các thủ tục phiền hà của hệ thống hành chính với quá
trình đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư vốn. Cần thực hiện việc đơn giản
hoá các thủ tục cấp phép đầu tư, công khai hoá và minh bạch hoá quá trình
cấp phép, giải quyết các thủ tục hành chính; kiên quyết xử lý những trường
hợp sách nhiễu, vô trách nhiệm của các cán bộ, cơ quan công quyền.
• Xây dựng quy chế phối hợp, các bộ chủ quản và UBND theo đúng thẩm
quyền, trách nhiệm của từng đơn vị theo sự phân cấp của Nhà nước để các
đơn vị chủ động giải quyết những vấn đề phát sinh trong hoạt động của
doanh nghiệp FDI.
• Các cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại các
dự án FDI đã được cấp giấy phép đầu tư để có những biện pháp thích hợp,
kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp đã
đi vào sản xuất kinh doanh, trong phạm vi thẩm quyền sản xuất kinh doanh
của mình, các cơ quan quản lý cần có các biện pháp quản lý và động viên
kip thời; đồng thời sẵn sàng tháo gỡ những khó khăn của doanh nghiệp về
đầu vào, thị trường tiêu thụ, thuế để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
Đối với các dự án đang triển khai thực hiện, các cơ quan quản lý cần cùng
các đơn vị tháo gỡ khó khăn về thủ tục nhập máy móc thiết bị, nguyên liệu
phục vụ dự án để đẩy nhanh tiến độ thực hiện. Đối với những dự án chưa
triển khai, nhưng xét thấy vẫn có khả năng thực hiện, cần thúc đẩy việc
triển khai dự án trong một thời gian nhất định; đồng thời, giải quyết các
vướng mắc, kể cả việc điều chỉnh mục tiêu và quy mô hoạt động của dự án.
Đối với các dự án chưa triển khai hoặc không có khả năng hoạt động cần
kiên quyết thu hồi giấy phép, dành địa điểm cho các nhà đầu tư khác.
3.2.6. Giải pháp thu hút vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán
TTCK cùng với thị trường tín dụng là những trục chính đẩy nhanh tốc độ huy
động vốn của nền kinh tế. Song TTCK Việt Nam mới hình thành, còn thiếu hàng
hóa, do vậy chưa phát huy được vai trò thu hút vốn. Để TTCK phát triển không thể
trong một sớm, một chiều mà đòi nhà nước phải kết hợp nhiều biện pháp, nhiều nổ
lực trong chính sách cụ thể sau:
- Cần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, kiểm soát lạm phát nhằm mở
rộng nhu cầu và gia tăng khả năng cung ứng vốn trong nền kinh tế, trên cơ sở đó tạo
môi trường thuận lợi cho TTCK phát triển bền vững và ổn định.
- Đa dạng các loại hàng hóa và tăng lượng hàng hóa cung ứng cho thị trường
chứng khoán
• Có chính sách khuyến khích các tổng công ty nhà nước phát hành trái
phiếu có mục đích để huy động vốn dài hạn cho đầu tư đổi mới công nghệ
và tạo thêm hàng cho TTCK. Trước hết, nên triển khai cho các Tổng công
ty hoạt động ở lĩnh vực hàng không, điện lực, bưu điện và dầu khí. Đây là
những lĩnh vực mà nền kinh tế rất cần được tăng cường và phát triển, tạo
đà cho các công nghiệp hóa. Xa hơn nữa là cần đẩy mạnh chính sách cổ
phần hóa các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực này tạo cho TTCK có được
những công ty niêm yết hùng mạnh, đại diện cho các ngành kinh tế của nền
kinh tế.
• Tạo lập môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp hoạt động theo luật
doanh nghiệp tiếp cận đến việc phát hành chứng khoán nhằm nâng cao hiệu
quả huy động vốn trên TTCK, phục vụ cho đầu tư phát triển kinh doanh.
Chẳng hạn theo luật doanh nghiệp các công ty TNHH không được phép
phát hành cổ phiếu, nhưng được quyền phát hành trái phiếu. Tuy vậy, do
hiện tại còn thiếu những quy định pháp lý về việc cho phép các Công ty
TNHH phát hành trái phiếu, nên hạn chế rất nhiều đến khả năng tiếp cận
đến TTCK của các loại hình công ty này trong việc huy động vốn.
• Khuyến khích phát triển công ty CP đại chúng, tức là những công ty có
khối lượng cổ phiếu lớn, phát hành rộng rãi ra công chúng. Số lượng công
ty CP đại chúng càng nhiều thì số lượng chứng khoán trên thị trường càng
phong phú, đa dạng, nhà đầu tư có nhiều cơ hội cho việc lựa chọn mục tiêu
đầu tư.
• Hoàn thiện chính sách và cơ chế cổ phần hóa DNNN theo hướng tạo điều
kiện thông thoáng cho các nhà đầu tư vốn, tiến tới không khống chế mức
mua cổ phiếu đối với mỗi cá nhân và pháp nhân; gắn kết cổ phần hóa với
sự phát triển TTCK, chuyển việc các doanh nghiệp cổ phần hóa bán trực
tiếp cổ phiếu sang cơ chế đấu thầu và bảo lãnh phát hành cổ phiếu trên
TTCK nhằm bảo đảm cho tiến trình cổ phần hóa được minh bạch, công
khai và việc định giá cổ phiếu sát với thị trường cũng như tạo hàng hóa dồi
dào cho TTCK; rà soát lại tỷ lệ cổ phiếu mà nhà nước nắm giữ ở các doanh
nghiệp cổ phần hóa, có thể giảm bớt hoặc bán toàn bộ cho công chúng số
cổ phiếu mà nhà nước nắm giữ ở một doanh nghiệp nếu xét thấy là thứ yếu
không cần chi phối; buộc các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa
phải tham gia niêm yết.
• Mở rộng và phát triển thị trường trái phiếu chính phủ, nhất là trái phiếu đầu
tư, trên cơ sở đó tiến tới hình thành và phát triển thị trường trái phiếu của
chính quyền địa phương.
- Tập trung tối đa nguồn vốn nhàn rỗi vào TTCK
• Phát triển đa dạng các công ty chứng khóan. Một TTCK có tổ chức nhất
thiết phải dựa vào hệ thống các công ty chứng khoán chuyên nghiệp để
hình thành kênh phân phối chứng khoán có hiệu quả, khai thông nguồn
cung cầu về chứng khoán và duy trì tính liên tục của thị trường.
• Phát triển quỹ đầu tư chứng khoán. Trong nền kinh tế thị trường, quỹ đầu
tư chứng khoán được ví như là kênh dẫn nguồn vốn tiết kiệm đến đầu tư.
Thông qua quỹ các nguồn tiết kiệm rãi rác của xã hội sẽ hòa nhập thành
một nguồn vốn lớn để tài trợ cho những dự án có quy mô lớn. Với ý nghĩa
đó, quỹ đầu tư chứng khóan còn là công cụ góp phần tích cực vào việc thực
hiện chính sách huy động vốn của nhà nước. Bên cạnh đó, quỹ đầu tư
chứng khoán còn là tổ chức hoạt động có tính chuyên nghiệp sẽ đảm bảo
cho sự đầu tư của công chúng giảm thiếu được rủi ro.
• Phát triển hoạt động đầu tư tài chánh của ngành bảo hiểm. Khuyến khích
các doanh nghiệp bảo hiểm mở rộng hoạt động đầu tư vào TTCK nhằm tận
dụng tối đa nguồn vốn nhàn rỗi và đa dạng hóa kinh doanh.
• Hoàn thiện quy chế bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài nhằm gia
tăng tốc độ thu hút vốn đầu tư của của nước ngoài và đẩy mạnh tiến trình
cổ phần hóa doanh nghiệp.
3.3. GIẢI PHÁP ĐẶC THÙ HỖ TRỢ HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA QUẬN 9
Ngoài những biện pháp chung huy động vốn đã nêu, lãnh đạo Quận cần quan
tâm đến những giải pháp sau:
3.3.1. Hoàn thành dự án khu sản xuất vật liệu xây dựng Long Sơn và xây dựng
dự án khu công nghiệp Phú Hữu.
Hai dự án trên thuộc khu vực phường Long Bình và phường Phú Hữu là một
vùng có nhiều đất nông nghiệp, dân cư sinh sống thưa thớt, chủ yếu bám dọc đường
Hương lộ 33 có đặc trưng của lối sống nông thôn, một phần diện tích đất hiện hữu
cũng đã hình thành một số cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng đã ổn định nhưng còn
rãi rác, không tập trung, công nghệ cũ, năng suất thấp. Với quỹ đất trống còn khá
lớn, chi phí đền bù giải tỏa thấp, cùng với vị trí thuận lợi giáp sông Đông Nai , đầu
mối giao thông 02 tuyến vành đai phía Đông, cầu đường Nhơn Trạch (đối với khu
công nghiệp Phú Hữu) và đường cao tốc TP. Hồ Chí Minh- Long Thành – Dầu
Giây (đối với khu sản xuất vật liệu xây dựng Long Sơn), góp phần phục vụ việc sản
xuất và vận chuyển hàng hóa, đặc biệt là vật liệu xây dựng không chỉ cho Thành
phố Hồ Chí Minh mà cả các tỉnh miền Đông Nam bộ.
Bên cạnh đó, việc đầu tư xây dựng hai dự án trên sẽ tái bố trí, tổ chức sắp xếp
lại các cơ sở sản xuất hiện hữu, nhất là cơ sở sản xuất nằm lẫn trong khu dân cư,
đặc biệt có khả năng thu hút thêm một số doanh nghiệp khác đầu tư hoặc mở rộng
quy mô sản xuất góp phần tập trung vào thành khu vực sản xuất ổn định, giảm ô
nhiễm môi trường, dễ thực hiện công nghệ hiện đại trong sản xuất kinh doanh và
những mô hình, tổ chức sản xuất tiên tiến. Như vậy, UBND Quận 9 nhanh chóng
chọn lựa chủ đầu tư có năng lực về chuyên môn và tài chánh để tiến hành xây dựng,
đề xuất dự án và kiến nghị UBND Thành phố phê duyệt.
Bên cạnh có năng lực về trình độ chuyên môn và kỹ thuật, vốn luôn là vấn đề
quan trọng nhất của chủ đầu tư. Một số nguồn vốn mà chủ đầu tư có thể huy động
theo kinh nghiệm của khu công nghiệp Cát Lái 2 (giai đoạn 1) mà đã xây dựng
thành công.
• Vốn tự có của chủ đầu tư
• Vốn liên doanh, liên kết với công ty khác trong nước.
• Vốn ứng trước của các đơn vị đầu tư thứ cấp xây dựng các nhà máy trong
khu sản xuất.
• Vốn vay của ngân hàng.
Trong trường hợp số tiền ứng trước không đủ vốn đầu tư, chủ đầu tư huy động
vốn của các đơn vị thi công theo hình thức chìa khóa trao tay và sẽ thanh toán khi
có khách hàng vào thuê đất thanh toán tiền thuê.
Ngoài ra, để dự án nhanh chóng hoàn thành đưa vào sử dụng thì cần phải có sự
phối hợp giữa UBND Quận, UBND Thành phố và các ngành có liên quan hỗ trợ
cho chủ đầu tư một số vấn đề sau:
• Miễn nộp thuế tiền sử sụng đất đối với diện tích đất dùng xây dựng hạ tầng
kỹ thuật (giao thông, cấp thoát nước, công trình cung cấp năng lượng,
thông tin, trạm xử lý nước thải tập trung…) và hạ tầng xã hội (cây xanh,
nhà trẻ, chung cư công nhân…)
• Thành phố chỉ đạo sở, ngành chuyên môn đầu tư sớm hệ thống hạ tầng kỹ
thuật đến hàng rào khu sản xuất: Hệ thống cấp điện, cấp nước, thông tin
liên lạc, giao thông…
• Chủ đầu tư được phép vay vốn từ các nguồn ưu đãi.
3.3.2. Phối hợp hoạt động giữa doanh nghiệp trong Quận và UBND
Trong quá trình kinh doanh doanh nghiệp luôn phải đối đầu với nhiều khó
khăn về vốn, về các chính sách thuế, nguồn nguyên liệu đầu vào,…Do vậy, thường
xuyên tổ chức hội nghị, hội thảo chuyên đề giữa chính quyền quận, các ban ngành
chức năng có liên quan và đại diện các nhà doanh nghiệp tiêu biểu trên địa bàn,
nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nếu nằm ngoài quyền hạn của mình, UBND quận sẽ gửi văn bản kiến nghị với
UBND thành phố nhanh chóng tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp.
3.3.3. Áp dụng rộng rãi mô hình nhà nước và nhân dân cùng làm.
Trong mô hình này nhà nước đầu tư phần “vốn mồi” ban đầu sau đó vận động
các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tham gia đóng góp công sức, tài chánh để phát
triển giao thông nông thôn và các công trình phúc lợi công cộng khác.
Muốn phần góp vốn của người dân cho nhà nước ngày càng nhiều, không gì
khác hơn là nhà nước phải tạo lòng tin cho dân bằng cách:
Giải thích cho dân hiệu quả sau khi hoàn thành công trình, người dân hưởng
được lợi ích gì từ công trình này.
Trình dự toán, khái toán giá trị công trình mà dân chuẩn bị góp vốn, bao
nhiêu phần trăm là nhà nước, bao nhiêu phần trăm là của dân.
Khi tiến hành thi công thì chủ đầu tư hoặc đơn vị thi công phải cung cấp tiến
độ thi công cung cấp cho dân, để người dân có thể cử đại điện để giám sát
chất lượng vật tư cũng như chất lượng công trình mà có sự phản hồi ngay
với cơ quan địa phương.
Cuối cùng, khi ký biên bản bàn giao công trình hoàn thành đưa vào sử dụng
thì có sự ký nhận của người đại diện dân đã tham gia giám sát công trình
đó.
3.3.4. Thu hút sự tham gia của Quỹ đầu tư phát triển đô thị thành phố về cơ
sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng là một trong vấn đề đang quan tâm, lo lắng nhất của Quận 9, nó
đóng vai trò quan trọng trong thu hút vốn đầu tư. Vì vậy, để hoàn thiện cơ sở hạ
tầng Quận 9 đề nghị thành phố giao cho Quỹ đầu tư phát triển đô thị thành phố
tham gia vào việc huy động các nguồn vốn để đầu tư hạ tầng trong quận như một
phần nhiệm vụ công ích của quỹ đầu tư.
Quỹ đầu tư phát triển đô thị thành phố cho chủ đầu tư dự án xây dựng hạ tầng
vay với lãi suất tín dụng ưu đãi trong thời gian công trình đã đi vào hoạt động
nhưng chưa hoàn vốn. Theo kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, mà đặc biệt
là Tỉnh Bình Dương đã áp dụng thành công là Chính phủ nên cho nhà đầu tư thêm
những dịch vụ đi kèm với dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng, ví dụ xây dựng đường
giao thông thì chủ đầu tư được kinh doanh trạm xăng dầu hoặc mở các trung tâm
phục vụ khách bộ hành trên con đường đó.
3.3.5. Đề nghị Thành phố phát hành trái phiếu có kỳ hạn
Quận 9 hiện nay đang tiến hành xây dựng nhiều khu đô thị mới như khu tái
định Long Bửu, khu tái định cư Long Sơn, khu đô thị Trường Thạnh,…một phần
dành để tái định cư cho các dự án khu công nghệ cao, khu sản xuất vật liệu xây
dựng,…một phần thực hiện chính sách giãn dân ra ngoại thành của Thành phố. Do
vậy, UBND đề nghị Thành phố phát hành loại trái phiếu có thời hạn từ 3-5 năm cho
mọi cá nhân có nhu cầu về đất ở các khu đô thị trên địa bàn Quận, tạo nguồn vốn để
xây dựng cơ sở hạ tầng. Sau khi xây dựng xong hạ tầng, người mua trái phiếu được
nhận quyền sử dụng đất với diện đất tương ứng tuỳ theo từng dự án cụ thể. Thực tế
hiện nay một số công ty xây dựng phát triển nhà ở đã áp dụng phương thức bán các
nền nhà theo dự án, bản đồ và nhận tiền ứng trước của người mua nhằm tạo vốn xây
dựng cơ sở hạ tầng. Song điều thuận lợi trong việc phát hành trái phiếu là giống như
tính năng của trái phiếu người mua trái phiếu có thể dễ dàng mua đi bán lại trái
phiếu này, không cần bất kỳ thủ tục nào thông qua tổ chức chính quyền mà theo
thông lệ người muốn mua đất phải ký hợp đồng với chủ dự án. Do đó, nên thể chế
hoá thành phương thức huy động vốn công chúng vào các dự án xây dựng nhà ở có
quy mô lớn.
3.4. CÁC GIẢI PHÁP HỖ TRỢ SỬ DỤNG VỐN CÓ HIỆU QUẢ CHO ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN CỦA QUẬN 9
3.4.1. Hạn chế tình trạng đầu tư phân tán, manh mún
Việc tập trung nguồn lực hiện đang khan hiếm vào một số công trình trọng
điểm sẽ cho hiệu quả lớn hơn nhiều so với đầu tư tràn lan. Điều này hàm ý trước
mắt Quận phải chấp nhận sự thiếu cân xứng giữa các địa phương, trong đó ưu tiên
phát triển ở những vùng trọng điểm trước, sau đó tạo hiệu ứng lan tỏa để phát triển
các vùng còn lại.
Song song đó, cần xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế cụ thể theo từng dự án.
Có kế hoạch cụ thể cho từng dự án trong 5 đến 10 năm và sắp xếp theo mức độ
quan trọng và cấp thiết sẽ được tập trung ưu tiên trước. Xây dựng kế hoạch phát
triển kinh tế với mục đích vốn đầu tư đạt hiệu quả cao, tránh tình trạng phân tán vốn
đầu, đầu tư manh mún. Định kỳ kiểm tra, rà soát lại kế hoạch đầu tư. Từ đó có đánh
giá đúng thực tế hơn, thậm chí xây dựng lại kế hoạch một cách thực tiển hơn.
3.4.2. Hạn chế tối đa thất thoát, lãng phí trong đầu tư hạ tầng bằng cách phối
hợp đồng bộ các giải pháp sau:
Quy định trách nhiệm của người phê duyệt dự án đầu tư nếu để xảy ra tình
trạng đẩy tổng mức đầu tư hay tổng dự toán của dự án lên cao để tham nhũng; ví dụ
nếu giá trúng thầu chỉ đạt 70-80% giá dự toán thì người phê duyệt phải chịu trách
nhiệm nếu hiện tượng xảy ra không do nguyên nhân khách quan (ví dụ do định mức
suất đầu tư, đơn giá định mức quá lạc hậu, sự phá giá đến mức phi lý của công ty
trúng thầu).
Tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của chủ đầu tư, coi chủ đầu tư là đại
diện duy nhất của nhà nước làm chủ dự án; do đó chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm
toàn bộ về dự án. Nên phân cấp cho chủ đầu tư phê duyệt thiết kế chi tiết, bản vẽ thi
công, và dự toán các hạng mục công trình, nhưng phải đảm bảo phù hợp với thiết kế
kỹ thuật và tổng dự toán đã được duyệt.
Cũng cần quy định cụ thể các tiêu chí và điều kiện đối với chủ đầu tư để đảm
bảo chủ đầu tư có đủ năng lực chuyên môn về xây dựng cơ bản và quản lý dự án.
Việc thi công không phải lúc nào cũng phải theo đúng thiết kế vì thực tế
thường có những phát sinh buộc phải sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh thậm chí cả thay
đổi thiết kế. Để quản lý chặt chẽ khâu thiết kế, cần phải quy định một loạt các tiêu
chí cụ thể làm cơ sở thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán.
Nên hạn chế số dự án được chỉ định thầu, tăng mạnh số dự án phải qua đấu
thầu và phải đấu thầu công khai. Tình trạng thất thoát vốn đầu tư và giảm chất
lượng công trình phần lớn là do có sự thông đồng giữa chủ đầu tư và các nhà thầu
đặc biệt là các dự án sử dụng nguồn vốn nhà nước.
Đồng thời, cũng nên giảm hơn nữa sự can thiệp của Nhà nước vào công tác
đấu thầu, phân cấp nhiều hơn cho chủ đầu tư.
3.5. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC HỖ TRỢ HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN CÓ HIỆU
QUẢ
Song song với những giải pháp chung và giải pháp đặc thù hỗ trợ thu hút và sử
dụng nguồn vốn đầu tư có hiệu quả cho phát triển kinh tế quận cần phải xây dựng
những giải pháp khác giúp cho các giải pháp trên ứng dụng khả thi vào tình hình
thực tế hơn.
3.5.1. Hỗ trợ công tác di dời của các cơ sở theo yêu cầu quy hoạch của Quận.
UBND Quận 9 nên đề xuất với UBND Thành phố một số trường hợp sau:
Được hưởng các chính sách ưu đãi đầu tư như đối với các cơ sở mới thành lập
theo quy định chi tiết trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước.
Miễn thuế các loại khi bán nhà xưởng, thanh lý máy móc thiết bị không cần
thiết của các doanh nghiệp để đầu tư hiện đại hóa sản xuất.
Miễn giảm hoặc chậm trả các khoản tiền sử dụng đất, thuế chuyển quyền sử
dụng đất và chuyển mục đích sử dụng đất khi xây dựng nhà xưởng, cơ sở sản xuất
kinh doanh. Nếu cơ sở nào phải đền bù cho người sử dụng đất thì được miễn đóng
tiền sử dụng đất.
Có chính sách vay ưu đãi với lãi suất thấp (ngân sách thành phố bù đắp lãi suất
chênh lệch) để các cơ sở sản xuất đầu tư máy móc thiết bị hiện đại, đổi mới công
nghệ. Chú ý ưu tiên phân bổ vốn tín dụng cho các dự án phát triển kinh tế hộ cá thể
để sớm tạo công ăn việc làm cho dân trong vùng.
3.5.2. Hỗ trợ công tác đền bù và giải phóng mặt bằng
Nhằm đẩy nhanh tiến trình thực hiện một số dự án đang vướng mắc về giải
phóng mặt bằng, chẳng hạn dự án xây dựng khu di tích văn hóa lịch sử dân tộc ở
Long Bình, khu công nghệ cao, khu sản xuất vật liệu xây dựng Long Sơn. Do vậy,
cơ chế mới về đền bù và giải phóng mặt bằng cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng
đảm bảo được cả quyền lợi chung, quyền lợi của người dân trong diện giải phóng
mặt bằng, quyền lợi của chủ đầu tư, đền bù thoả đáng cho người dân trong diện di
dời, đồng thời cũng có biện pháp cứng rắn yêu cầu chấp hành nghiêm chủ trương và
quyết định của cấp có thẩm quyền về giải phóng mặt bằng nhằm nhanh chóng thu
hồi đất đai cho việc xây dựng công trình đúng tiến độ đề ra.
Đồng thời, cũng nên quy định các điều khoản bắt buộc để tái định cư cho
người bị thu hồi đất nếu họ có yêu cầu, đồng thời bảo đảm các điều kiện sống cho
họ trong thời gian chưa được tái định cư. Đối với đất thu hồi phục vụ mục đích sản
xuất kinh doanh, phải có các điều khoản quy định người nhận đất có trách nhiệm
đóng góp kinh phí đào tạo nghề cho đối tượng bị thu hồi đất, hoặc tuyển dụng một
số lao động vào làm việc cho doanh nghiệp…
Ngược lại, cũng cần có các chế tài rõ ràng đối với những kẻ lợi dụng kích
động khiếu kiện đông người chống lại công tác giải phóng mặt bằng, ảnh hưởng đến
trật tự an ninh xã hội.
3.5.3. Đào tạo giáo dục đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và người lao động
trên địa bàn
Đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý chất lượng
Hai yêu cầu cơ bản đối với một cán bộ quản lý là trình độ và khả năng ứng
dụng trong thực tiễn. Đội ngũ cán bộ quản lý của quận đa số được đào tạo chuyên tu
hoặc một số ít tốt nghiệp chính quy từ các trường đại học trong nước. Song cách
thức đào tạo của Việt Nam trong thời gian qua mang nặng tính lý thuyết và thiếu
thực hành, vì vậy số cán bộ quản lý của Quận cũng có tính chung như vậy, thậm chí
có bằng cấp để đối phó với vị trí công việc của mình. Bên cạnh đó, một số cán bộ
quản lý lại thiếu bản lĩnh chính trị dễ dàng bị cám dỗ và sa ngã trước đồng tiền. Do
đó, số cán bộ quản lý có bằng cấp nhiều nhưng số người thực sự làm việc có hiệu
quả lại rất thấp dẫn đến tình trạng “thừa mà thiếu”. Do đó, ngay từ bây giờ Quận có
chính sách đãi ngộ kêu gọi nhân tài về phục vụ cho Quận, sắp xếp lại đội ngũ cán
bộ cũ để từ đó lãnh đạo Quận sẽ có bộ phận tham mưu giỏi, sẽ có bước đột phá mới
nâng cấp lên một tầm mới ngang các Quận đô thị từ trước. Cụ thể có những biện
pháp sau:
Sa thải những cán bộ làm việc không hiệu quả, loại bỏ cách tuyển chọn nhân
viên qua mối quan hệ huyết thống, không có năng lực làm việc. Phải liên tục đào
tạo những cán bộ quản lý đang đảm nhiệm công việc, cập nhật kiến thức mới và có
những cuộc kiểm tra sát hạch, nếu qua được sẽ tiếp tục làm việc.
Có chính sách thu hút nhân tài bằng cách thi tuyển vào các vị trí quan trọng
trong Quận. Sau đó, có chính sách lâu dài như: ổn định về nơi ăn chốn ở, xây dựng
mức lương đủ sống, môi trường làm việc tốt, khuyến khích sự phấn đấu học hỏi, có
chính sách đào tạo mới hàng năm. Hiện quỹ đất Quận lớn nên quy hoạch thành khu
vực nhà ở cho cán bộ công nhân viên nếu cán bộ quản lý nào giỏi cam kết phục vụ
trên 15 năm sẽ được cấp đất để xây dựng nhà ở lâu dài.
Bên cạnh đó, giáo dục thêm về bản lĩnh chính trị cho cán bộ quản lý nhằm tạo
kiến thức chung và xây dựng con người vững vàng và hoạt động có hiệu quả trong
mọi hoàn cảnh.
Đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao và lực lượng
công nhân lành nghề.
Theo tốc độ đô thị hóa của Quận, số người trong độ tuổi lao động thất nghiệp
nhiều. Ngay sau khi khu công nghệ cao hoàn tất sẽ ngày càng nhiều nhà máy xí
nghiệp sẽ đầu tư vào Quận 9. Đa phần các nhà đầu tư mong muốn tuyển chọn lao
động trong Quận để không phải tốn chi phí ăn ở. Do đó, Quận nên có chính sách
đào tạo đội ngũ thanh niên đang thất nghiệp hiện nay bằng cách:
Có nhiều lớp hướng nghiệp thường xuyên tại trung tâm đào tạo nghề Quận.
Bổ túc trình độ văn hóa cho đội ngũ thanh niên này đạt hết cấp 3.
Định hướng một nghề có khả năng tuyển dụng cao và có chương trình đào
tạo miễn phí cho người lao động
3.5.4. Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho người lao động làm việc tại
Quận.
Ngay sau khi khu công nghệ cao hoàn thành, tất yếu sẽ có nhiều nhà máy, xí
nghiệp mới xây dựng. Số công nhân cũng như người lao động đổ về Quận càng
nhiều. Do đó, để thu hút được người lao động có trình độ chuyên môn cao. Quận
cần có biện pháp sau:
Ngay từ bây giờ Quận kêu gọi nhà đầu tư xây dựng các khu nhà ở chất lượng
cao chẳng hạn như khu chung cư cho người lao động có thu nhập thấp hay công
nhân thuê, và khu chung cư trang bị hiện đại dành cho giới công nhân trí thức, phân
cấp khu nhà chung cư đó có giá cao, giá thấp khác nhau giúp cho mọi đối tượng đều
có khả năng thuê hoặc mua.
Bên cạnh đó, trung tâm y tế Quận 9 đang đặt trên một khu đất rộng và vừa mới
xây dựng, phòng ốc khang trang. Do đó, phải phát triển trung tâm y tế Quận bằng
cách mua sắm thêm trang thiết bị hiện đại, tuyển chọn thêm bác sĩ giỏi có thể phục
vụ và giải quyết tình trạng cấp cứu tương đối khó để ngày càng nhiều người dân an
tâm điều trị, vừa tăng thu ngân sách Quận, vừa tạo được lòng tin cho người lao
động.
Cuối cùng, xây dựng trường mầm non và Trường cấp 1 tiêu chuẩn cao, hiện
Quận chưa có. Muốn người lao động có cuộc sống lâu dài an tâm làm việc thì ngoài
công ăn việc làm, nơi ăn chốn ở còn tạo cho con cái họ có môi trường học tập tốt.
Vì vậy, với quỹ đất lớn như hiện nay, Quận nên quy hoạch và đầu tư xây dựng
trường học đạt chuẩn cao.
Kết luận chương III
Nhu cầu vốn đặt ra mỗi năm lớn để đảm bảo phát triển theo đúng định hướng
và đảm bảo nhịp độ tăng trưởng 11-12% GDP hàng năm. Yêu cầu trên rõ là một sự
thách thức thực sự đối với tình hình kinh tế của Quận 9 như hiện nay. Để thực hiện
những mục tiêu trên, chương 3 của đề tài đã đề xuất một số giải pháp từ tầm vĩ mô
cho đến vi mô. Từ việc xây dựng giải pháp chung như hoàn thiện chính sách thu
thuế, hoàn thiện tổ chức quản lý và thu thuế, tiết kiệm chi… đến giải pháp đặc thù
là xây dựng khu sản xuất vật liệu xây dựng Long Sơn và khu công nghiệp Phú Hữu,
phối hợp mô hình nhà nước và nhân dân cùng làm…cuối cùng đến giải pháp hỗ trợ
như: đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ người lao động, chính sách tuyển chọn
nhân tài…Song muốn đạt kết quả đó, thì phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp,
các ban ngành cùng thực hiện giải pháp.
KẾT LUẬN
Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Quận 9 và
cả nước ta không có giải pháp nào khác hơn là đầu tư phát triển. Một cách tổng
quát, đầu tư là sự sử dụng nguồn lực hiện có nhằm mang lại cho nhà đầu tư những
kết quả nhất định trong tương lai. Nhìn trên góc độ toàn nền kinh tế thì không phải
tất cả hành động trên không chỉ mang lại lợi ích tài chính mà còn mang lại lợi ích
kinh tế - xã hội. Đầu tư phát triển là quá trình sử dụng vốn đầu tư để tái sản xuất
giản đơn và tái sản xuất mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật kinh tế - xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của đầu tư phát triển, Đại hội Đảng bộ lần thứ
II (2000-2005) của Đảng đã đề ra biện pháp tăng cường thu hút mọi nguồn vốn từ
mọi thành phần kinh tế “trên cơ sở chủ động xây dựng các đề án phát triển kết cấu
hạ tầng kỹ thuật – xã hội để mời gọi đầu tư. Một mặt, tranh thủ sự đồng tình, giúp
đỡ của lãnh đạo Trung ương, Thành phố, mặt khác tổ chức quán triệt yêu cầu, mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội…”.
Từ những năm qua (1999-2003), vốn đầu tư vào Quận ngày một tăng và góp
phần không nhỏ vào quá trình tăng trưởng và phát triển của Quận, được giới chuyên
môn đánh giá là có hiệu quả. Tuy vậy, số vốn huy động được không phải là nhiều so
với tiềm năng phát triển của Quận.
Xuất phát từ những quan điểm trên đề tài đã đi vào phân tích kỹ thực trạng
tình hình thu hút vốn đầu tư phát triển tại Quận 9 trong thời gian qua, làm rõ yếu
điểm cũng như là nguyên nhân sâu xa của những vấn đề còn tồn tại này. Để từ đó có
thể đề xuất những giải pháp mang tính chiến lược và triệt để kết hợp với những
bước đi thận trọng có cân nhắc đến mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế chung của
Quận. Nội dung của đề tài tập trung vào các nhóm giải pháp
- Xây dựng giải pháp chung như hoàn thiện chính sách thu thuế, hoàn
thiện tổ chức quản lý và thu thuế, tiết kiệm chi…
- Xây dựng giải pháp đặc thù là xây dựng khu sản xuất vật liệu xây
dựng Long Sơn và khu công nghiệp Phú Hữu, phối hợp mô hình nhà nước
và nhân dân cùng làm…
- Cuối cùng xây dựng giải pháp hỗ trợ như: đào tạo đội ngũ cán bộ
quản lý, đội ngũ người lao động, chính sách tuyển chọn nhân tài
Những giải pháp trên khi triển khai có thể sẽ gặp khó khăn và trở ngại do vậy
đòi hỏi phải có sự thống nhất cao cũng như quyết tâm cao thực hiện của chính phủ,
các cấp quản lý hành chánh, sự phối hợp đồng bộ từ các Bộ, ban ngành trong quá
trình thu hút vốn đầu tư. Có như vậy việc mới gia tăng nguồn vốn đầu tư từ mọi
thành phần kinh tế nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển của Quận 9
cũng như trong cả nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
SÁCH, GIÁO TRÌNH, TÀI LIỆU BÁO CÁO
1. Dương Thị Bình Minh (1998), Kho bạc nhà nước, Nxb Giáo dục, TP. Hồ
Chí Minh.
2. Lâm Bích Ngọc (1996), Thực trạng và phương pháp thu hút vốn đầu tư vào
khu công nghiệp TP. Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại Kinh Tế
TP. Hồ Chí Minh.
3. Lê Ngọc Uyển (1996), Một số giải pháp huy động vốn đầu tư cho phát triển
kinh tế tại Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh
tế TP.HCM.
4. Nguyễn Thị Khuyên (2002), Phương hướng và giải pháp huy động nguồn
vốn đầu tư trong nước và ngoài nước để phát triển kinh tế vùng trọng điểm
phía Nam, Luận văn tiến sĩ, Viện quy hoạch và phát triển kinh tế TP. Hồ Chí
Minh.
5. Quách Đức Pháp (1999), Thuế công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, Nxb xây
dựng, Hà nội.
6. TS. Nguyễn Thanh Tuyền, Bài giảng môn Tài Chánh Công.
7. TS. Nguyễn Ngọc Định, TS. Nguyễn Thị Liên Hoa, TS. Phan Thị Bích
Nguyệt, TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên, Vũ Việt Quảng, Lê Đạt Chí, Nguyễn
Khắc Quốc Bảo (2003), Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế 2003-2010,
Đề tài khoa học, Nxb Tài chánh.
8. TS. Phạm Văn Năng, TS. Trần Hoàng Ngân, TS. Sử Đình Thành (2002), Sử
dụng các công cụ tài chánh để huy động vốn cho chiến lực phát triển kinh tế
xã hội của Việt Nam đến năm 2020, Nxb Tài chánh.
9. TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương (1999), Giáo trình kinh tế
đầu tư, Nxb Thống kê.
10. UBND Quận 9, Niên giám thống kê năm 1999, 2000, 2001, 2002, 2003.
11. Đảng bộ Quận 9, Văn kiện ĐH Đảng bộ Quận 9 nhiệm kỳ 2 (2001-2005).
12. UBND Quận 9, Quy hoạch phát triển KT-XH Quận 9 thời kỳ 1998-2010.
13. Vũ Chí Lộc (1997), Đầu tư nước ngoài, Nxb Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh.
14. Võ Thanh Thu, Ngô Thị Ngọc Huyền, Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam.
CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT
1. Luật ngân sách nhà nước ban hành tại kỳ họp quốc hội 8 khóa 9 ngày 20
tháng 3 năm 1996.
2. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của ngân sách nhà nước ban hành tại kỳ
họp quốc hội 8 khóa 10 ngày 20 tháng 5 năm 1998.
3. Luật Thuế giá trị gia tăng ban hành ngày 17 tháng 12 năm 1997.
4. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Thuế giá trị gia tăng năm 2002.
5. Quyết định số 53/1999/QĐ – TTg ngày 26/03/1999 của Thủ tướng chính phủ
về một số biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài.
6. Thông tư hướng dẫn việc quy định về thuế đối với các hình thức đầu tư theo
luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
INTERNET
89
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA0778.pdf