Mở đầu
Nền kinh tế thế giới ngày nay đang đi từ việc lấy kỹ thuật làm trung tâm để lấy con người làm trung tâm.Nguồn lực con người ngày càng trở lên một trong những nguồn lực quan trọng của mỗi quốc gia ,mỗi doanh nghiệp.Một đất nước có kinh tế mạnh là nhờ có nhiều doanh nghiệp mạnh .Doanh nghiệp có mạnh hay không là nhờ vào đội ngũ công nhân viên trong doanh nghiệp.Hiện nay chi phí cho việc đào tạo trong nội bộ công ty được xem như là chi phí đầu tư lâu dài cần thiết cho sự phồn thịnh của côn
124 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1692 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp nâng cao trình độ chuyên môn lực lượng lao động ở Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam VINATEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ty trong tương lai.Có một nguồn nhân lực với chất lượng cao là một yếu tố cạnh tranh mạnh của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường .
Trong sự nghiệp CNH-HĐH Đảng ta xác định phải “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.”Đối với các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường ,và nhất là để hội nhập vào môi trường quốc tế,chuẩn bị nội lực để cạnh tranh khi Việt Nam tham gia vào AFTA thì vấn đề đào tạo để có một nguồn nhân lực có chất lượng cao là yếu tố sống còn.
Theo phương hướng chiến lược của Vinatex đặt ra, từ nay đến năm 2010 Tổng Công ty “lấy nhiệm vụ xuất khẩu làm hướng chính” , “nhiệm vụ trọng tâm của các đơn vị Dệt-May trong thời gian tới phải thâm nhập vào thị trường EU,Mỹ,chủ động tìm thị trường tiêu thụ,không thụ động trông chờ như trước đây.”Để đạt được mục tiêu chiến lược đã đề ra,vấn đề hàng đầu là các doanh nghiệp Dệt-May của Tổng Công ty cần có nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn mới.
Trong khuôn khổ đề tài này có tính cấp thiết của vấn đề nhân lực trong Tổng Công ty em xin chọn đề tài “Các giải pháp nâng cao trình độ chuyên môn lực lượng lao động ở Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam Vinatex.”Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình nhằm giúp cho Tổng Công ty đáp ứng nhu cầu cạnh tranh trên thị trường và ngành Dệt-May trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước.
*Mục đích nghiên cứu:
-Xác lập các luận cứ khoa học cho việc đào tạo nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp Dệt-May trong giai đoạn mới.
-Phân tích thực trạng nguồn nhân lực và công tác đào tạo nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp Dệt-May thuộc Vinatex.
-Đóng góp một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện công tác đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp Dệt-May của tổng công ty trong giai đoạn từ nay cho đến 2010.
*Đối tượng phạm vi nghiên cứu:
Chuyên đề nghiên cứu vấn đề đào tạo đội ngũ lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp Dệt-May thuộc Tổng Công ty và các đối tượng bên ngoài mà Tổng Công ty sẽ có thể thu hút vào Tổng Công ty.
Chuyên đề đi sâu nghiên cứu làm rõ thực trạng hệ thống các cơ sở đào tạon guồn nhân lực cho các doanh nghiệp Dệt-May thuộc Tổng Công ty trong những năm qua ,làm rõ những hạn chế của nó để làm cơ sở đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nhằm làm cho công tác đào tao nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp thuộc Tổng Công ty đạt hiệu quả cao hơn.
*Phương pháp nghiên cứu:
Chuyên đề sử dụng các phương pháp:duy vật biện chứng,duy vật lịch sử,phân tích, thống kê,khảo sát,phỏng vấn theo bảng hỏi,phương pháp chuyên gia,tổng hợp và kế thừa các tài liệu có sẵn.
*Những đóng góp của luận văn:
-Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận có liên quan đến đào tạo nguồn nhân lực của các doanh nghiệp Dệt-May thuộc Vinatex để làm cơ sở đề xuất những giải pháp hoàn thiện công tác đào tạo nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp của Vinatex.
-Xây dựng một số quan điểm làm cơ sở cho việc hoàn thiện công tác đào tạo nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp Dệt-May thuộc Vinatex giai doạn từ nay đến 2010
-Chuyên đề tập trung hoàn thiện công tác đào tạo nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp Dệt-May thuộc Vinatex nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực trong giai đoạn tăng tốc phát triển của ngành Dệt-May Việt Nam.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng,nhưng do trình độ còn nhiều hạn chế và thời gian có hạn ,nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định.Em rất mong được sự góp ý của các thầy cô cùng các bác,các chú,các cô,anh,chị ở trung tâm đào tạo cán bộ thuộc Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn tới thầy TS.Lê Huy Đức (trưởng khoa KHPT)-giáo viên hướng dẫn và cô TS.Trần Thuỷ Bình (phó giám đốc trung tâm đào tạo)-cán bộ hướng dẫn đã tận tình giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực hiện hoàn thành bài viết này.
Em xin cảm ơn tất cả!
Sinh viên: Nguyễn Kiều Hưng
Chương I
Sự cần thiết nâng cao trình độ chuyên môn
I-Nguồn nhân lực và vai trò của nguồn nhân lực
1.Khái niệm và phân loại nguồn nhân lực
1.1khái niệm
Nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con người,là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế xã hội.Nguồn nhân lực khác với những nguồn lực khác (nguồn lực tài chính,nguồn lực vật chất, nguồn lực công nghệ v.v...) là ở chỗ trong quá trình vận động nguồn nhân lực chịu sự tác động của yếu tố tự nhiên (sinh ,chết...) và yếu tố xã hội (việc làm, thất nghiệp...). Chính vì vậy nguồn nhân lực là một khái niệm khá phức tạp, được nghiên cứu dưới nhiều giác độ khác nhau . Nguồn nhân lực hiểu như là nơi sinh sản, nuôi dưỡng và cung cấp nguồn lựu con người cho sự phát triển. Cách hiểu này muốn chỉ rõ nguồn gốc tạo ra nguồn lực con người nghiêng về sự biến động tự nhiên của dân số và ảnh hưởng của nó tới sự biến động nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực còn được hiểu như là một yếu tố tham gia trực tiếp cào quá trình phát triển kinh tế-xã hội, là tổng thể những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động. Cách hiểu này cụ thể hơn và có thể lượng hoá được, đó là khả năng lao động của xã hội bao gồm những người có khả năng lao động tức là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất trong nguồn nhân lực và đây chính là bộ phận nguồn nhân lực mà chúng ta thường đề cập tới hơn.
Khái niệm nguồn nhân lực là khái niệm mới được vận dụng vào Việt Nam. Trong thực tế chúng ta thường dùng một số thuật ngữ có liên quan như:
-Nguồn lao động: bao gồm những người trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động.
-Lực lượng lao động: Là bộ phận của nguồn lao động bao gồm những người trong tuổi lao động, đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và những người thất nghiệp, song có nhu cầu tìm việc làm.
Nguồn nhân lực được nghiên cứu về số lượng và chất lượng. Số lượng nguồn nhân lực được đo lường thông qua chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng. Các chỉ tiêu này có liên quan mật thiết với chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô và tốc độ tăng dân số càng lớn thì quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên sự tác động đó phải sau một khoảng thời gian nhất định mới có biểu hiện rõ (vì con người phải phát triển đến một mức độ nhất định mới trở thành người có sức lao động,có khả năng lao động).
Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực, thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế và đời sống người dân trong một xã hội nhất định. Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện thông qua một hệ thống các chỉ tiêu, trong đó có các chỉ tiêu chủ yếu sau:
1.2Phân loại nguồn nhân lực
Căn cứ vào nguồn gốc hình thành người ta chia ra làm 3 loại:
-Một là: nguồn nhân lực có sẵn trong dân số, bao gồm những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động. Theo thống kê của liên hợp quốc nhóm này là dân số hoạt động (Active population).
Độ tuổi lao động là giới hạn về tâm sinh lý mà theo đó con người có đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động. Việc quy định giới hạn độ tuổi lao động phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của từng nước và trong từng thời kỳ. ở nước ta quy định giới hạn độ tuổi lao động là từ tròn 15 tuổi đến tròn 55 tuổi (đối với nữ) và tròn 60 tuổi (đối với nam).
Nguồn nhân lực có sẵn trong dân số chiếm tỷ lệ cao trong dân số (thường là trên 50%)
Trên thế giới căn cứ vào quan hệ tỷ lệ trên, trong và tuổi lao động người ta chia dân số và nguồn nhân lực ra 3 dạng sau:
-Tỷ lệ dưới tuổi lao động cao (gần 50% dân số),tỷ lệ trên tuổi lao động thấp (khoảng 10%). Đây là dân số trẻ thường ở các nước đang phát triển. Dạng này hầu hết khả năng tăng dân số và nguồn nhân lực còn cao (hoặc quá cao).
-Tỷ lệ dân số trên tuổi và dưới tuổi lao động vừa phải. Đây là dân số tương đối ổn định.
-Tỷ lệ dưới tuổi thấp hơn tỷ lệ trên tuổi lao động. Đây là dạng dân số già (thoái triển) báo hơn trong tỷ lệ dân số thấp hoặc rất thấp.
-Hai là :nguồn nhân lực tham gia hoạt động kinh tế còn gọi là dân số hoạt động kinh tế. Đây là số người có công ăn việc làm, hoạt động trong các ngành kinh tế quốc dân.
Như vậy nguồn nhân lực này không bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng hoạt động kinh tế nhưng thực tế không tham gia hoạt động kinh tế (thất nghiệp, có khả năng làm việc song không muốn làm việc, đang học tập v.v...).
-Ba là :nguồn nhân lực dự trữ. Nguồn nhân lực này bao gồm những người trong độ tuổi lao động nhưng vì những lý do khác nhau chưa tham gia hoạt động kinh tế song khi cần có thể huy động được. Cụ thể là:
-Những người làm công việc nội trợ trong gia đình. Đây là nguồn nhân lực đáng kể bao gồm đại bộ phận lao động nữ. Họ làm những việc phục vụ gia đình, những công việc này thường đa dạng và khá vất vả đặc biệt ở những nước đang phát triển. Công việc nội trợ là những hoạt động có ích và cần thiết, khi có thuận lợi, loại hoạt động này có thể gia nhập hoạt động kinh tế xã hội.
-Những người tốt nghiệp ở các trường phổ thông trung học và chuyên nghiệp song chưa có việc làm, được coi là nguồn nhân lực dự trữ quan trọng và có chất lượng. Đây là nguồn nhân lực ở độ tuổi thanh niên có học vấn có trình độ cao. Tuy nhiên đối với nguồn nhân lực này cần được phân chia tỷ mỉ hơn để có thể sử dụng hợp lý hơn (số tốt nghiệp PTTH, số tốt nghiệp THCN, đại học, CN kỹ thuật, Cao đẳng...)
-Những người hoàn thành nghĩa vụ quân sự .
-Những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp...
Căn cứ vào vai trò của từng bộ phận nguồn nhân lực người ta chia ra thành 3 loại
-Nguồn lao động chính: Đây là bộ phận nguồn nhân lực nằm trong độ tuổi lao động và là bộ phận quan trọng nhất.
-Nguồn lao động phụ: Đây là bộ phận dân cư nằm ngoài độ tuổi lao động có thể và cần phải tham gia vào nền sản xuất xã hội đặc biệt ở các nước kém phát triển. ở nước ta quy định số người dưới tuổi lao động thiếu từ 1-3 tuổi và trên tuổi lao động vượt từ 1-5 tuổi thực tế có tham gia lao động được quy đổi ra lao động chính với hệ số quy đổi là 1/3 và 1/2 ứng với người dưới tuổi và tên tuổi. Hiện nay có ý kiến cho rằng không nên tính số trẻ em dưới tuổi lao động vào nguồn nhân lực.
-Nguồn lao động bổ xung: Là bộ phận nguồn nhân lực được bổ xung từ các nguồn khác (số người hết hạn nghĩa vụ quân sự, số người trong độ tuổi lao động thôi học ra trường, số người lao động ở nước ngoài trở về...)
2.Các chỉ tiêu thể hiện chất lượng nguồn nhân lực
2.1Chỉ tiêu biểu hiện trạng thái sức khoẻ của nguồn nhân lực
Sức khoẻ là trạng thái thoải mái về thể chất cũng như tinh thần của con người và được thể hiện thông qua nhiều chuẩn mức đo lường về chiều cao, cân nặng, các giác quan nội khoa, ngoại khoa v.v...Bên cạnh việc đánh giá trạng thái sức khoẻ của người lao động, người ta còn nêu ra các chỉ tiêu đánh giá của một quốc gia như tỷ lệ sinh, chết, tăng tự nhiên, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới một tưổi và dưới 5 tuổi, tỷ lệ thấp cân của trẻ sơ sinh, tuổi thọ trung bình, cơ cấu giới tính, tuổi tác, mức GDP/đầu người v.v...
2.2Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hoá của nguồn nhân lực
Trình độ văn hoá của nguồn nhân lực là trạng thái hiểu biết của người lao động đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trong chừng mực nhất định, trình độ văn hoá dân cư biểu mặt bằng dân trí của một quốc gia. Trình độ văn hoá của nguồn nhân lực được lượng hoá qua các quan hệ tỷ lệ.
-Số lượng và tỷ lệ biết chữ.
-Số lượng và tỷ lệ người qua các cấp học như tiểu học (cấp I), phổ thông cơ sở (cấp II), trung học phổ thông (cấp III),cao đẳng, đại học, trên đại học v.v...
Trình độ văn hoá của nguồn nhân lực là chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trình độ văn hoá cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực hiện.
2.3Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật nguồn nhân lực
Trình độ chuyên môn kỹ thuật là trạng thái hiểu biết khả năng thực hành về một chuyên môn nghề nghiệp nào đó được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu.
-Số lượng lao động được đào tạo và chưa qua đào tạo;
-Cơ cấu lao động được đào tạo;
+ Cấp đào tạo (sơ cấp, trung cấp, cao cấp);
+ CN kỹ thuật và cán bộ chuyên môn;
+ Trình độ đào tạo (Cơ cấu bậc thợ, cơ cấu ngành nghề v.v...)
Chỉ tiêu trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực là chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh chất lượng nguồn nhân lực, thông qua chỉ tiêu quan trọng này cho thấy năng lực sản xuất của con người trong ngành, trong một quốc gia, một vùng lãnh thổ, khả năng sử dụng khoa học hiện đại vào sản xuất.
2.4 Chỉ số phát triển con người
Chỉ số phát triển con người (HDI-Human development index) chỉ số này được tính theo ba chỉ tiêu chủ yếu
-Tuổi thọ bình quân.
-Thu nhập bình quân GDP/người;
-Trình độ học vấn (tỷ lệ biết chữ và số năm đi học trung bình của dân cư).
Chỉ số HDI là chi tiêu đánh giá sự phát triển con người về mặt kinh tế có tính đến chất lượng cuộc sống và công bằng ,tiến bộ xã hội.
Ngoài những chỉ tiêu trên, người ta còn xem xét năng lực phẩm chất nguồn nhân lực thông qua các chỉ tiêu: truyền thống lịch sử, nền văn hoá, văn minh, phong tục tập quán của dân tộc... Chỉ tiêu này nhấn mạnh đến ý trí, năng lực tinh thần của người lao động.
II-Nhân tố ảnh hưởng đến trình độ chuyên môn.
1.Trình độ lành nghề của nguồn nhân lực thể hiện mặt chất lượng của sức lao động.
Trình độ lành nghề của nguồn nhân lực biểu hiện ở sự hiểu biết lý thuyết về kỹ thuật của sản xuất và kỹ năng lao động để hoàn thành những công việc có trình độ phức tạp nhất định, thuộc một nghề nghiệp, một chuyên môn nào đó. Trình độ lành nghề có liên quan chặt chẽ với lao động phức tạp. Lao động có trình độ lành nghề là lao động có trình độ cao hơn, là lao động phức tạp. Trong cùng một đơn vị thời gian, lao động lành nghề thường tạo ra một giá trị lớn hơn so với lao động giản đơn. Trình độ lành nghề biểu hiện tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật (đối với công nhân) và ở tiêu chuẩn nghiệp vụ viên chức, tức là các tiêu chuẩn về trình độ học vấn, chính trị, tổ chức quản lý... để đảm nhận các chức vụ được giao (đối với cán bộ chuyên môn).Để đạt tới trình độ lành nghề nào đó, trước hết phải đào tạo nghề cho nguồn nhân lực, tức là giáo dục kỹ thuật sản xuất cho người lao động để họ nắm vững một nghề, một chuyên môn, bao gồm cả người đã có nghề, có chuyên môn rồi hay học để làm nghề, chuyên môn khác. Cùng với đào tạo, để nâng cao năng suất lao động cần phải quan tâm nâng cao trình độ lành nghề cho nguồn nhân lực tức là giáo dục, bồi dưỡng cho họ hiểu biết thêm những kiến thức, kinh nghiệm sản xuất và nâng cao thêm khả năng làm được trong giới hạn nghề, chuyên môn họ đang đảm nhận.
Đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề phụ thuộc vào nhiều yếu tố: sự đầu tư của nhà nước, trình độ văn hoá của nhân dân, trang bị cơ sở vật chất của nhà trường.
Việc đào tạo nâng cao trình độ lành nghề cho nguồn nhân lực là sự cần thiết, vì hàng năm nhiều thanh niên bước vào tuổi lao động nhưng chưa được đào tạo một nghề, một chuyên môn nào, ngoài trình độ văn hoá phổ thông. Không những vậy, nền kinh tế mở cửa, nhiều thành phần kinh tế hoạt động, cơ cấu công nghệ thay đổi, sản xuất ngày càng phát triển, trong điều kiện khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh mẽ, phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, nhiều nghề, chuyên môn cũ thay đổi, nhiều nghề mới ra đời. Từ đó đòi hỏi trình độ lành nghề của nguồn nhân lực cần phảI được đào tạo, nâng cao thêm cho phù hợp với yêu cầu của sản xuất. Chúng ta đang bước vào thời kỳ CNH, HDH sau những thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Song do nhiều nguyên nhân, chất lượng nguồn nhân lực còn ở mức độ thấp. Bởi vậy đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phải đáp ứng mục tiêu: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài” như Đảng ta đã xác định.
2.Cơ cấu lao động được đào tạo:
-Cấp đào tạo(sơ cấp,trung cấp,cao cấp)
-Công nhân kỹ thuật và cán bộ chuyên môn
-Trình độ đào tạo(cơ cấu bậc thợ,cơ cấu ngành nghề v.v...)
III-Đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu của tổng công ty Dệt May và sự cần thiết phải nâng cao trình độ chuyên môn của lao động
1.Đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu của tổng công ty Dệt-May
1.1Vị trí ngành công nghiệp Dệt-May
1.1.1Vị trí ngành công nghiệp Dệt-May trên thế giới
Ngành công nghiệp dệt may gắn liền với nhu cầu không thể thiếu được của mỗi con người vì vậy từ rất lâu trên thế giới ngành công nghiệp này từng bước trưởng thành và đi lên cùng với sự phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Bối cảnh ngành công nghiệp dệt may lúc đó là ngành thu hút nhiều lao động với kỹ năng không cao, có tỷ trọng lợi nhuận tương đối cao và có điều kiện mở rộng thương mại quốc tế-vốn đầu tư ban đầu cho một cơ sở sản xuất không lớn như ngành công nghiệp nặng, hoá chất...Do vậy trong quá trình công nghiệp hoá tư bản từ rất sớm ở các nước phát triển Anh, ý cho đến các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore...ngành dệt may đều có vị trí quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá của họ.
Ngành công nghiệp dệt may vốn dĩ đã sử dụng nhiều lao động, tuy đã được cơ khí hoá, điện tử hoá rất cao vẫn không bù đắp lại hiệu quả kinh tế tương xứng, nên từ những năm 1750-1950 xu hướng chuyển dịch ngành công nghiệp dệt-may xang các nước có nhiều lao động rẻ. Tuy nhiên ngành dệt-may cũng đã gắn bó với họ hàng mấy trăm năm.
Nừu nhìn vào thực chất hiện nay ở các nước, thuộc G7+1 như Đức, ý, Pháp...ngành dệt-may đang phá sản, đóng cửa và bán thiết bị second-hand với giá rất rẻ mà trình độ công nghệ còn rất phát triển mới sử dụng khoảng 5- 8 năm thậm trí thiết bị mới xuất hiện ở hội chợ lần trước (ITMA lần X ở Paris) một số ít ở hội chợ lần cuối (ITMA lần XI-1991 ở Hanover) song cũng không phải toàn bộ những công nghệ đỉnh cao của dệt-may như nguyên liệu sợi nicro, fiber, sợi lycra, sử lý cao cấp tơ tằm, tổng hợp biến tính giả len, giả tơ sáng tạo mốt cần lao động kỹ thuật cao vẫn không chuyển giao, vẫn tồn tại và phát triển với hiệu quả kinh tế cao.
Còn xét quá trình chuyển dịch dệt-may từ Tây Âu xang Châu á, từ Nhật xang các nước NIC Châu á thì quá trình chuyển dịch có ngắn hơn (1950-1970). Sau gần 50 năm ngành dệt-may gắn với quá trình công nghiệp hoá phát triển ở các nước này đến giờ đã có sự phân hoá; Ngành dệt-may đang có xu hướng chuyển dịch từ Hàn Quốc-Hồng Kông-Đài Loan...xang các nước có lao động dồi dào và rẻ hơn như Inđônêxia, Bănglađét, Việt Nam...chúng ta đang tiếp nhận các công trình liên doanh, hoặc 100% vốn từ các nước đó. Song sự phát triển rực rỡ ở các nước NIC Châu á, giá trị gia tăng công nghiệp (MVA) từ 7,8% năm 1970 lên 14,2% năm 1989 đã vượt qua tỷ lệ tăng trưởng ở các nước phát triển G7. Sự tăng trưởng MVA tương đối nhanh hơn ở các nước này lúc đầu chủ yếu là hàng dệt-may, thực phẩm chế biến và ít lâu sau là hàng điện tử (mạnh tổ hợp) sự phát triển công nghiệp ở các nước này có khác nhau, trong đó Nam Triều Tiên sớm giảm vai trò của hàng dệt-may và nâng tầm quan trọng của việc xuất khẩu sản phẩm kim loại, máy móc. Song nhìn chung các nước thuộc khối NIC Châu á vẫn có công xuất dệt may khá lớn so với Việt Nam và tiêu dùng hàng vải đầu người cũng cao hơn Việt Nam nhiều.
Biểu I: Công suất kéo sợi và dệt vải của Việt Nam và một số nước trong vùng
Các nước
Kéo sợi
Dệt vải
Cọc sợi
Ro-to
p.c.c
Máy dệt
p.c.c
Đài Loan
3.755.000
121.500
203,8
74.000
3,7
N.Triều Tiên
3.659.000
39.700
87,3
52.560
1,2
Hồng Công
264.000
71.000
58,2
12.990
2,3
Thái Lan
2.800.000
35.000
51,1
63.500
1,1
Malayxia
412.000
4.400
23,9
7.260
0,4
Indonexia
4.200.000
50.000
23,7
135.000
0,8
Philipin
1.418.000
41.500
24,3
12.160
0,2
Việt Nam
630.000
1.600
13,2
11.120
0,2
Ghi chú:p.c.c, per capita capacity : đơn vị ngàn người.
Biểu II : Tiêu dùng hàng dệt của một số nước trong vùng
Các nước
Bông
Nhân tạo
Khác
Tổng cộng
Thái Lan
2,5
0,3
-
2,8
Indonexia
0,7
1,3
-
2,0
Malayxia
1,5
4,8
0,1
6,4
N.Triều Tiên
5,6
8,3
0,4
14,3
Hồng Kông
5,3
5,2
1,4
11,9
T.Quốc
3,5
1,6
0,4
5,5
Việt Nam
0,32
0,5
0,02
0,84
Ngành công nghiệp dệt-may của họ có trình độ công nghệ tiên tiến, trình độ quản lý khá cao, năng xuất lao động cao, nên tiền lương của lao động dệt-may cao mà giá thành sản phẩm vẫn hạ, tạo sức cạnh tranh về hàng dệt-may ngay tại các nước phát triển và đã tạo được giá trị kim ngạch xuất khẩu khổng lồ so với ta trong nhiều năm phát triển công nghiệp hoá ở đất nước họ
Giá trị xuất khẩu hàng dệt-may của một số nước qua các năm
Các nước
Đơn vị
Năm 2000
Đài Loan
Tỉ USD
3,927
Nam Triều Tiên
Tỉ USD
2,871
Hồng Kông
Tỉ USD
72,082
Thái Lan
Tỉ USD
5,37
Bănglađét
Tỉ USD
1,7
ấn Độ
Tỉ USD
2,06
Trung Quốc
Tỉ USD
30,7
Malayxia
Tỉ USD
8,08
Singapor
Tỉ USD
5,23
Việt Nam
Tỉ USD
1,1
Trong thập kỷ qua :Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapor là những nước sản xuất và xuất khẩu dệt-may cho các nước tư bản phát triển. Ngày nay họ đã chiếm 1/4 khối lượng buôn bán hàng dệt và 1/3 hàng may mặc trên thế giới. Các nhà dự báo ngành dệt trên thế giới nhận định: Ngành dệt-may các nước NIC đã bước vào giai đoạn chuyển giao sản xuất sang các nước có mức lương thấp. Họ là những nước đầu tư quan trọng tại khu vực vòng cung Thái Bình Dương Châu á trong đó có Việt Nam
1.1.2Vị trí ngành công nghiệp Dệt-May Việt Nam
Sản phẩm của ngành dệt-may là một nhu cầu thiết yếu của con người nên nó đã được hình thành từ rất sớm ở Việt Nam, phát triển từ tiểu thủ công đến công nghiệp, từ phân tán đến tập trung. Là một nước nghèo với thu nhập bình quân đầu người thuộc nhóm thấp nhất thế giới và đang xây dựng mục tiêu phấn đấu tăng thu nhập bình quân đầu người để cải thiện đời sống nhân dân. Công nghiệp Việt Nam chậm phát triển nên ngành công nghiệp dệt-may cũng ở trong tình trạng chung là nhỏ bé và phụ thuộc bên ngoài.
Song ngành dệt-may đã thu hút được nhiều lao động xã hội gần 6 vạn người chiếm 22,7% lao động công nghiệp toàn quốc. GiảI quyết được công ăn việc làm, tạo sự ổn định chính trị-kinh tế-xã hội do đó được Đảng và nhà nước đã quan tâm cho phát triển từ nhiều thập kỷ qua, nên xét về mối tương quan trong toàn ngành công nghiệp Việt Nam ngành dệt-may vẫn đang chiếm một vị trí quan trọng. Về giá trị tổng sản lượng . Chiếm gần 10% năm 92 (khi đã có dầu lửa) trong toàn ngành công nghiệp đất nước. Nộp ngân sách cho Nhà nước khoảng 400 tỷ và tham gia xuất khẩu trên 300 triệu đôla chiếm tỷ trọng hơn 10% kim ngạch xuất khẩu toàn quốc.
Các chỉ tiêu ngành công nghiệp dệt-may qua các năm
Chỉ tiêu
Ngành dệt
Ngành may mặc
2000
2001
2002
2000
2001
2002
Giá trị TSLượng(tỷ đồng giá cố định )
Trong đó tỉ lệ %
Công nghiệp QDTW
Công nghiệp QDDP
Phi quốc doanh
Sản phẩm chủ yếu
Sợi toàn bộ
(ngàn tấn)
Vải lụa các loại
(triệu mét)
Vải bạt (ngàn mét)
Vải màn (triệu mét)
Quần áo dệt kim
(triệu cái)
Len đan (tấn)
Len thảm
Thảm len (ngàn m)
Thảm cóc (ngàn mét)
Khăn bông (triệu cái)
Bít tất (ngàn đôi)
Quần áo may sẵn
(triệu cái)
Các cơ sở dệt-may
-Cơ sở QDTW
-Cơ sở QDĐP
-HTX và tư nhân
Lao động (ngàn người)
-Lao động CN QDTW
-Lao động CN QDĐP
-Lao động ngoàI QD
1258,6
51,5
16,0
32,5
58,3
318,0
3303
33,4
28,6
651
414
213
1.556
108,5
2.574
31
100
-
371,1
64,4
39,4
266,3
1271,4
50
16,3
33,7
40,3
280,4
1370
43,3
26,1
728
558
109,2
2726
31
87
-
306,5
64,3
39,9
202,1
1406,8
49,4
16,7
33,9
42,5
275,7
1452
41,5
17,7
810
260
110,2
2768
31
81
46.082
248,6
62,1
36,3
150,2
202,5
24,6
36,7
3
8,7
125,3
17
68
-
174,0
22,8
26,4
124,8
219,1
22,2
35,1
42,7
106,1
18
78
-
136,4
23,2
31,7
81,5
241,8
22,3
41,4
36,3
63,9
18
81
40.21
152,1
22,4
41,5
88,2
Ghi chú : - Vè sợi chỉ số bình quân đã tăng (trước Nm 40 )
-về vảI cao cấp tăng, chiếm tỷ trọng gần 20% sản lượng vải toàn quốc
Với sự lỗ lực để khắc phục những yếu kém của ngành dệt-may Việt Nam để vươn lên trong nền kinh tế thị trường. Những hoạt động tiêu biểu cho sản xuất ngành dệt-may đã thực hiện được:
-Bước đầu đổi mới cơ chế ngành để thích nghi với cơ chế kinh tế thị trường.
-Đã tập trung đầu tư vào giải quyết được một phần những tồn tại trong sản xuất, tuy vốn đầu tư chỉ đảm bảo được 10-15% yêu cầu.
-Loại bỏ đi và nâng cấp được một phần những thiết bị quá cũ, hư hỏng nhiều và đã lạc hậu về công nghệ ( những thiết bị thuộc thập kỷ 50-60) như ở nhà máy dệt Nam Định, 8-3,Thắng Lợi, Việt Thắng... các nhà máy may Thăng Long, X-10, Chiến Thắng, Việt Tiến...
-Đổi mới được trên 15 vạn cọc sợi mới của Pháp-Nhật-ấn Độ ở 3 nhà máy Thắng Lợi, Đông Nam, Dệt Nam Định.
-Đầu tư mới được 30 vạn cọc sợi mới của Nhật-ý-Đức cho 4 nhà máy mới ở Hà Nội, Vinh, Huế và Nha Trang
-Trang bị thêm 1000 nhà máy dệt không thoi khổ rộng (trên 1,6 m) loại thổi khí, kiến cứng, kiếm mềm, thoi kẹp của Nhật, Hàn Quốc, Bỉ, Pháp, Tiệp, Liên Xô(Cũ) ở các nhà máy trung ương và địa phương như Thành Công, Việt Thắng, Đông á, Phong Phú, 8-3,Nam Định, Lụa Nam Định, dệt Long An...
-Gần 2000 máy dệt thoi khổ rộng (1,6m) và cải tạo từ khổ vải 0,80m lên 1,2m của nhiều cơ sở sản xuất TW và địa phương
-Công suất kéo sợi đay và dệt vải đay được mở rộng ở cả cơ sở TW và địa phương của các thiết bị Anh-ấn Độ (hiện nay nhà nước có 8 nhà máy kéo sợi đay)
-Năng lực len thảm, len mịn được bổ xung các thiết bị Pháp, Ba Lan, Đức...
-Thiết bị dệt kim được bổ xung mới, hiện đại của Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan ở nhà máy Thành Công, Đông Phương, Hà Nội, Nha Trang, Hoàng Thị Loan, 19/5 ...
-Bổ xung thêm nhiều máy nhuộm cao áp văng định hình, làm mền xốp vải, chống nhầu, chống co, in hoa trục , in hoa lưới nhằm đồng bộ và đa dạng hoá dây chuyền nhuộm hoàn tất, gia công được nhiều loại mặt hàng jacket ,shirting, suiting, khăn bông, dệt kim từ nguyên liệu cotton B/C và tổng hợp đã nâng cao được đáng kể chất lượng vải xuất khẩu
-Từ 3 năm trở lại đây nhiều nhà máy dệt và nhà máy may đã trang bị được thêm nhiều máy may thêu hiện đại của Barudan, Tajima Juki, Brother, Pfaff, Pegasus, Adler... để may thêu các mặt hàng sơ mi, jacket, BHLD T-Shirt, poloshirt cải thiện một bước chất lượng mặt hàng may xuất khẩu và nội địa ở các nhà máy dệt và các nhà máy may TW và địa phương.
Nguyên liệu dệt trong nước đã bắt đầu khởi sắc. Bông xơ đạt 3000 tấn. Đay: hơn 20.000 tấn đay tơ và tơ nõn: 850 tấn.
Nhờ chính sách mở cửa của Nhà nước ngành dệt-may đã giao lưu buôn bán với trên 200 công ty của 30 nước trên Thế giới. Bước đầu đã hoà nhập được với thị trường dệt-may thế giới như Nhật Bản, EC, úc, Canada, Bắc Âu, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore với các sản phẩm may sẵn, quần áo dệt kim, khăn bông, jacket, thảm len, sợi bông, sợi đay...
Tạo được nhiều công trình liên doanh và 100% vốn nước ngoàI như Dona Bochang, Pankrim, Total, Hanjoo, Trung Nam, Saigon-joudo, Donatex,...
Nhìn chung nhiều công nghệ mới ra đời, mặt hàng dệt-may đa dạng hơn, phong phú hơn, chất lượng cao hơn, năng suất cao hơn, giảm hao phí, hạ giá thành...
Tuy nhiên do vốn đầu tư còn quá ít (xấp xỉ 10-15%) so với yêu cầu nên sự hoà nhập được với thị trương dệt thế giới còn hạn chế chỉ khoảng trên 10% sản phẩm dệt may là tương đương được với các nước phát triển. Riêng may mặc sự hoà đồng vào thị trường thế giới có khá hơn (60-70%)
1.2Các đặc điểm chủ yếu:
1.2.1Năng lực
Ngành công nghiệp dệt-may Việt-Nam hiện nay vừa phải đảm nhận một nhu cầu ăn mặc thiết yếu của nhân dân vừa phải nâng cao trình độ công nghệ để xuất khẩu được sản phẩm dệt-may ra thế giới thì mới tồn tại để có kim ngạch tự cân đối phần nhập. Sau khi thị trường comecon tan rã thì ngành dệt-may Việt Nam chưa hoà nhập được với Hiệp hội dệt thế giới và các nước trong vùng trong phân công lao động và mậu dịch quốc tế. Sự tồn tại tại độc lập với thị trường dệt thế giới , lại lấy nhiệm vụ xuất khẩu làm chính là khó khăn phải sớm được khắc phục.
Ngành dệt-may tồn tại và phát triển qua 4 thập kỷ qua bao gồm cả 3 khu vực.
-Khu vực dệt-may QDTW thuộc Bộ công nghiệp chủ quản.
-Khu vực dệt-may QDĐP thuộc UBND các tỉnh chủ quản.
-Khu vực dệt-may thuộc HTX và tư nhân
Ngành dệt-may phân tán trên 28 tỉnh và thành phố, hầu như chưa có một khu công nghiệp dệt-may tập trung.Năng lực cụ thể các sản phẩm ngành dệt may hiện có:
+Về kéo sợi : Thiết bị có 868.000 cọc và 2000 rotors với sản lượng thiết kế 87.000 tấn/năm. Trong đó 83% sợi 100% co và 17% sợi pha
+Về dệt thoi có 43.200 máy các loại trong đó có 60% máy dệt của tư nhân và HTX là công cụ bằng gỗ thô sơ, có khả năng dệt 450 triệu mét/năm.Trong đó 73% vải bông 15% vải pha và 12% vải tổng hợp.
+Về dệt kim có năng lực khoảng : 15.000 tấn/năm. Trong đó:
*Dệt kim mặc nót và ngoài : 13.500 tấn/năm
*Dệt kim dọc và màn : 1500 tấn/năm
+Về nhuộm hoàn tất : Năng lực nhuộm hoàn tất được 450 triệu mét vải dệt thoi và 15.000 tấn sản phẩm dệt kim với 10.000 tấn sản phẩm khăn bông nguyên liệu 100% Co, P/C và tổng hợp.
+Khăn bông : 10.000 tấn
+Mền : 1 triệu chiếc
+Len Min Acrylic : 1500 tấn và 1,6 triệu áo.
+Len thảm và dệt thảm : 1500 tấn và 0,5 triệu m2 thảm len
+Chỉ khâu : 500 tấn.
+Đay : 3 vạn tấn và 25 triệu bao và 5 triệu m2 thảm đay.
+May mặc sẵn khoảng 300 triệu sản phẩm, trong đó : may công nghiệp 150 triệu của 125 cơ sở với 39.744 máy may các loại và hơn 9 vạn lao động, ngoài ra còn 40.000 hộ cá thể và tổ hợp.
+Ngoài ra còn có các đơn vị hợp tác liên doanh với nước ngoài với công suất:
+Kéo sợi : 5 vạn cọc
+Dệt : 500 máy
+May mặc : 20 triệu sản phẩm.
Từ giai đoạn bước vào cơ chế thị trường tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt-may đã tăng từ 582 triệu đôla năm 2001 lên 1261 triệu đôla năm 2002
1.2.2Thiết bị và công nghệ
-Đối với ngành dệt trên 50% thiết bị đã sử dụng trên 25 năm, hư hỏng nhiều, mất tự động, năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành sản suất còn cao. Tuyệt đại bộ phận ngành kéo sợi chỉ đạt mức tương đương 95% đến 75% uster, ngay sợi Hà Nội và Nha Trang hiện đại nhất của ta cũng chỉ đạt xấp xỉ 50%
Công xuất sợi chải kỹ quá ít (xấp xỉ 16%) .Công nghệ kéo sợi OE quá nhỏ bé (2000 roto đạt xấp xỉ 2,3% sản lượng kéo sợi). Máy dệt thoi trên 80% là khổ hẹp dưới 54”. Hiện tại máy dệt không thoi mới có 30% (khu vực QDTW). Còn cô._.ng cụ dệt ở khu vực HTX, tư nhân tuyệt đại đa số là máy gỗ cũ kỹ. Thiết bị dệt kim còn nhỏ bé, chỉ chiếm tỉ trọng dưới 20% năng lực và lại trang bị từ lâu nên lạc hậu, hư hỏng nhiều nhưng đến nay đã một phần được đổi mới. Thiết bị in nhuộm hoàn tất chỉ có 10% là khá, 35% phải nâng cấp số còn lại 55% phải thay thế dần. Công nghệ rất lạc hậu, chỉ 25% đạt trình độ tương đương với các nước trong khu vưc Đông Nam á. Thiếu công nghệ xử lý làm đẹp và hoàn tất vải có chất lượng cao, hiện nay hàng dệt vẫn chưa đủ sức cạnh tranh với hàng nhập vàI thị trường trong nước, đặc biệt là giá cả, chất lượng mới đáp ứng được một phần nhỏ cho xuất khẩu
-Đối với ngành may mặc tuy đã được trang bị lại nhiều để có điều kiện xuất khẩu sản phẩm xang thị trường tư bản song cũng chưa đồng đều, hiện trạng vẫn còn nhiều cơ sở vẫn phải sử dụng các máy đã trang bị ở thập niên 60, công nghệ lạc hậu tiêu phí lao động nhiều, giá thành sản sẩm cao. Khu vực tư nhân và các cơ sở mới xây dựngthì đã có đổi mới hiện đại hoá.
1.2.3 Cơ cấu và sở hữu
Cơ cấu sở hữu ngành dệt với các doanh nghiệp QDTW, và các doanh nghiệp QDĐP, HTX và hộ sản xuất tư nhân. Song năng lực sản xuất và xuất khẩu dệt vẫn tập trung trong tay nhà nước. Ngành may mặc thì cơ cấu sở hữu tư nhân có phát triển hơn. Mấy năm gần đây một số công ty QDTW, QDĐP, công ty trách nhiệm hữu hạn đã được trang bị hiện đại hơn, sảnphẩm có chất lượng cao, quy mô khá lớn từ 3-4 triệu sản phẩm/năm như Huy Hoàng, Leagamex, may XK Sài Gòn, X40 Hà Nội...một số công ty XNK ở các bộ, các địa phương tạo cơ cấu mới cho ngành may XK
Tuy nhiên các công ty, xí nghiệp may TW vẫn là chủ lực may hàng XK, có kỹ thuật và có tay nghề cao. Liên hiệp may vẫn là nòng cốt của Hiệp hội may Việt Nam. Tóm lại hiện tại cơ cấu sở hữu ngành dệt-may Việt Nam thì cơ cấu sở hữu tư nhân chưa có sức mạnh đáng kể.
1.2.4 Phân bổ và quy mô sản xuất
Trong điều kiện lịch sử đã qua, nhằm tận dụng lao động ở khắp miền đất nước và sử dụng lao động nữ ở các ngành công nghiệp khác nên xu hướng từ miền xuôi đến miền núi, từ vùng mỏ đến thành phố đều có thể đặt nhà máy dệt nên ngành dệt-may phân bổ khá phân tán với quy mô lớn lại xây dựng kinh tế trong chiến tranh nên đầu tư tốn kém và hiệu quả thấp.
Xét về kinh tế thì phân bổ tập trung vào cụm công nghiệp là hợp lý, có điều kiện tận dụng hạ tầng, dịch vụ thuận lợi trong quản lý và hoạt động thị trường, thông tin, văn hoá, xã hội và vệ sinh môi trường. Thực tế đã chứng minh các tư nhân nước ngoài chỉ muốn vào liên doanh và xây dựng cơ sở sản xuất 100% ở các thành phố lớn có điều kiện hạ tầng tốt.
1.2.5 Cơ cấu sản phẩm
Tuy hiện nay sản phẩm dệt-may đã đa dạng và phong phú, nhưng hướng vào thị trường mới của tư bản ta còn nhiều khoảng trống rất lớn. Sợi bông cao cấp có chải kỹ cho mặt hàng sơ mi và cho sản phẩm dệt kim mặt ngoài có sử lý hoàn tất cao cấp chưa nhiều sợi OE nhằm giảm giá nguyên liệu đầu vào phục vụ hàng dệt kim mặc lót, mặt hàng khăn bông xuất khẩu có thị trường rất lớn thì tỷ trọng còn quá bé
Các mặt hàng quần áo dệt kim thể thao hoặc vải Jean thun từ inguyên liệu sợi dãn tính cao (sợi lycra, spandex) còn rất ít, các mặt hàng jacket mật độ cao sử dụng sợi kéo từ microfiber chưa có. Các nguyên liệu tổng hợp biến tính, acrylic pha len để sản xuất mặt hàng complet chưa có.
Đặc biệt về kiểu mốt may mặc của ta còn rất yếu do chưa được coi trọng về đầu tư cơ sở mode thông tin và tiếp cận thị trường.
Tình trạng chủ yếu là ngành dệt chưa đáp ứng được vải cho ngành may cả về số lượng và chủng loại chất lượng, thí dụ : 50% mặt hàng cho EC chưa đáp ứng được cho cả dệt và may.
1.2.6 Cung cấp nguyên liệu
Nguyên vật liệu cho dệt-may hiện nay của ta gồm các loại xơ bông thiên nhiên, xơ Visco, xơ PE , lông cừu, tơ tằm và các loại xơ liber khác; các loại hoá chất cơ bản và thuốc nhuộm.
Hỗu hết nguyên vật liệu này hiện nay đều lệ thuộc vào nhập khẩu, kể cả cho may XK và tiêu dùng nội địa vẫn phải nhập ngoài hàng 40 triệu mét để làm hàng gia công chưa kể hàng dệt thẩm lậu vào qua nhiều nguồn.
Mặc dù đã có thời gian để khẳng định VN có điều kiện thuận lợi hơn các nước Đông Nam á về trồng bông. Hiện tại đã có thể khai thác được khoảng 30.000 héc ta diện tích trồng bông và cung cấp cho ngành dệt mới dược 3000 tấn bằng 2,5% công suất kéo sợi hiện có nhưng khâu sơ chế ,quản lý đống gói còn nhiều tồn tại cần phải được khắc phục ngay trong vụ bông tới.
Năm 2001 diện tích trồng dâu đạt 35.000 ha cho 850 tấn tơ nõn song chủ yếu là xuất khẩu nguyên liệu. Sản phẩm dệt từ tơ tằm ở trong nước không đáng kể, chất lượng thấp. Sản phẩm từ phế liệu tơ tằm để kéo sợi spunsilk có giá trị kinh tế cao còn bỏ trống.
-Nguồn tơ sợi tổng hợp sử dụng hiện tại vẫn còn phải nhập hàng năm khoảng 25.000 tấn xơ PE và khoảng 6000 tấn tơ petex với ngoại tệ nhập khoảng 40 triệu đôla. Nhiều hãng nước ngoài đã có tiếp xúc với ngành dệt để xin đầu tư sản xuất xơ tổng hợp.
-Nguồn đay đã có trên 20.000 tấn đay tơ nhưng chưa có chính sách bảo hộ của nhà nước, bao đay tràn từ bên ngoài vào Việt Nam và bao pp tự phát triển tràn lan đang làm ảnh hưởng lớn đến cơ sở kéo sợi, dệt bao đay và nông dân trồng đay.
1.2.7Đầu tư và phát triển
Gần 20 năm qua 1987 đến 2003 nhà nước đã dành cho ngành dệt các nguồn tín dụng của Pháp, Nhật Bản, CHLBĐức,CHDCĐức (cũ) và Hungri đầu tư bổ sung 42 vạn cọc sợi và nguồn tín dụng ấn Độ cho Nam Định và 8-3 bổ sung đổi mới dây sợi và nhuộm.
Ngoài ra bằng nguồn vốn tự có (khấu hao cơ bản để lại-thậm chí cả vốn lưu động) vay ngân hàng, vay trả chậm nước ngoài...để cố gắng cải thiện công nghệ sản xuất song ngành dệt cũng như may chưa đủ sức cạnh tranh. Các thiết bị cũ còn tồn tại, kể cả thiết bị may CHDC Đức, Tiệp, Liên Xô (cũ)...vẫn còn hoạt động sản xuất ở một số cơ sở. Về hợp tác đầu tư với nước ngoài còn quá ít : Có Dona-Bochang với Đài Loan , có Trung Nam với Hàn Quốc-có pankrim Hàn Quốc và Sài Gòn joubo dệt jean của địa phương, total, Donatex...
Nhìn chung quá trình đầu tư đã qua nếu không có thì ngành dệt-may không thể tồn tại trong cơ chế thị trường. Song quy mô từng cơ sở còn lớn chưa phù hợp với đặc thù ngành công nghiệp SMI.
Các nguồn vốn nói trên tuy còn rất ít ỏi so với nhu cầu nhưng cũng đã tạo cho ngành dệt ít nhiều bộ mặt mới, trụ được bước đầu trong cơ chế thị trường . Nếu được đầu tư tốt hơn chắc chắn ngành dệt có thể có những bước phát triển mới làm cơ sở để hoà nhập vào ngành dệt khu vực và thế giới.
2.Sự cần thiết phải nâng cao trình độ chuyên môn
Phát triển nguồn nhân lực theo nghĩa rộng là tổng thể các hoạt động học tập có tổ chức được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định để tạo ra sự thay đổi về hành vi nghề nghiệp cho người lao động được tổ chức bởi doanh nghiệp.
Phát triển nguồn nhân lực như vậy là bao gồm tất cả các hoạt động học tập, thậm chí chỉ vài ngày, vài giờ. Người chịu trách nhiệm về phát triển nguồn nhân lực bao gồm:
-Cấp quản trị trực tuyến là: Huấn luyện viên
-Trưởng bộ phận nhân sự là: Nhà tư vấn
-Lãnh đạo doanh nghiệp là: Người ủng hộ
-Cấp quản trị gián tiếp là: Người đỡ đầu
-Nhân viên với tư cách là những nhà đồng hành kinh doanh=tự phát triển.
Xét về nội dung phát triển nguồn nhân lực có ba loại hoạt động:
Giáo dục: là các hoạt động học tập để chuẩn bị cho con người bước vào một nghề mới hoặc chuyển xang một nghề phù hợp hơn trong tương lai.
Giáo dục được thực hiện chủ yếu ở trong nhà trường, kể cả trường đại học.
Đào tạo: là các hoạt động học tập nhằm giúp người lao động đi đào tạo tại các trường lớp chính quy nhằm mục đích giúp cho người lao động có thể thực hiện công việc hiện tại của họ tốt hơn thì đây là hoạt động đào tạo.
Phát triển: là hoạt động học tập vượt ra khỏi phạm vi trước mắt người lao động nhằm mở ra cho họ những công việc mới dựa trên cơ sở định hướng tương lai của tổ chức hoặc phát triển khả năng của họ.
Tóm lại, cả ba hoạt động học tập trên đều là hoạt động học tập. Tuy nhiên, tuỳ theo mục đích mà chúng có tên gọi khác nhau.
Trong doanh nghiệp chủ yếu chỉ có đào tạo và phát triển còn giáo dục chủ yếu ở nhà trường.
Mục đích của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao trinh độ chuyên môn:
Mục đích chung của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là nhằm sử dụng tối đa nguồn nhân lực hiện có và nâng cao tính hiệu quả của tổ chức thông qua việc giúp cho người lao động hiểu rõ hơn về công việc, nắm vững hơn về nghề nghiệp và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách tự giác hơn với tháI độ tốt hơn cũng như nâng cao khả năng thích ứng của họ với công việc trong tương lai.
Những mục tiêu cơ bản của đào tạo nguồn nhân lực trong một doanh nghiệp là:
-Xây dựng và thực hiện một kế hoạch phát triển nguồn nhân lực và toàn doanh nghiệp bằng những hoạt động đào tạo có tổ chức có những nhóm khác nhau, thực hiện phân tích, đánh giá nhu cầu đào tạo của người lao động ở mọi trình độ.
-Chuẩn bị chuyên gia để quản lý, điều khiển và đánh giá những chương trình đào tạo.
-Xây dựng một phương án nghề nghiệp và một kế hoạch phát triển từng thời kỳ nhất định phù hợp với tiềm năng của công ty, xắp xếp theo thứ tự của nghề chủ yếu.
-Nghiêu cứu về nhân lực, chuẩn bị những số liệu về cơ cấu lao động và các lĩnh vực có liên quan.
-Tạo thuận tiện cho thông tin nội bộ giữa các bộ phận quản lý và người lao động, thông tin ngược chiều liên quan đến bộ phận, đến động cơ của người lao động.
Vai trò của đào tạo nguồn nhân lực:
Đào tạo nguồn nhân lực nhằm:
-Về mặt xã hội đào tạo nguồn nhân lực là vấn đề sống còn của một đất nước, nó quyết định sự phát triển của xã hội, là một trong những giải pháp để chống lại thất nghiệp.
-Về phía doanh nghiệp đào tạo nguồn nhân lực là để đáp ứng được yêu cầu công việc của tổ chức, nghĩa là đáp ứng được nhu cầu tồn tại và phát triển của doang nghiệp. Đó là một hoạt động sinh lợi đáng kể.
-Về phía người lao động nó đáp ứng nhu cầu học tập của người lao động, là một trong những yếu tố tao nên động cơ lao động tốt.
Thực tế cho thấy:
-Đào tạo phát triển là điều kiện quyết định để một tổ chức có thể đi lên trong cạnh tranh.
-Nếu làm tốt công tác đào tạo và phát triển sẽ đem lại nhiều tác dụng cho tổ chức:
+Trình độ tay nghề người thợ nâng lên, từ đó mà nâng năng suất lao động và hiệu quả công việc.
+Nâng cao chất lượng thực hiện công việc.
+Giảm bớt tai nạn lao động do người lao động có tay nghề tốt hơn và có thái độ tốt hơn.
+Giảm bớt sự giám sát vì người lao động được đào tạo là người có khả năng tự giám sát công việc nhiều hơn do hiểu rõ quy trình, hiểu rõ công việc.
+Nâng cao tính ổn định và năng động của tổ chức.
Nguyên tắc đào tạo nguồn nhân lực:
Thứ nhất: con người sống hoàn toàn có năng lực phát triển. Mọi người trong một tổ chức đều có khả năng phát triển và sẽ cố gắng để thường xuyên phát triển để giữ vững sự tăng trưởng của doanh nghiệp cũng như cá nhân họ.
Thứ hai:Mỗi người đều có giá trị riêng, vì vậy mỗi người là một con người cụ thể khác với những người khác và đều có khả năng đống góp những sáng kiến.
Thứ ba: lợi ích của người lao động và những mục tiêu của tổ chức có thể kết hợp với nhau. Hoàn toàn có thể đạt được mục tiêu của doanh nghiệp và lợi ích của người lao động. Sự phát triển của một tổ chức phụ thuộc vào nguồn lực của tổ chức đó. Khi nhu cầu của người lao động được thừa nhận và đảm bảo thì họ sẽ phấn khởi trong công việc.
Thứ tư: đào tạo nguồn nhân lực là một nguồn đầu tư sinh lời đáng kể, vì đào tạo nguồn nhân lực là những phương tiện để đạt được sự phát triển của tổ chức có hiệu quả nhất.
chương II
Đánh giá thực trạng và trình độ chuyên môn của nguồn lao động tạI tổng công ty dệt may việt nam (vinatex)
I-Tổng quan về lao động
1.Thực trạng ngành Dệt-May Việt Nam và Tổng Công ty Vinatex
Hiện nay ,toàn ngành dệt-may Việt Nam có:
-187 doanh nghiệp dệt-may nhà nước (trung ương và địa phương) gồm 70 doanh nghiệp (32 doanh nghiệp do trung ương quản lý và 38 doanh nghiệp do địa phương quản lý) và 117 doanh nghiệp may mặc.
-Hơn 600 công ty trách nhiệm hữu hạn, tư nhân, trong đó khoảng 460 đơn vị là may mặc, thêu,đan len, 150 tổ hợp dệt với khoảng130.000 máy dệt cơ giới và trên20.000 khung dệt thủ công, chủ yếu ra đời từ năm 1988 trở lại đây. Một số các doanh nghiệp này có trang bị máy móc thiết bị khá tốt, Quy mô sản xuất trung bình, đang may mặc hàng xuất khẩu sang EU và các nước khác. Ngoài ra còn khoảng gần 2000 tổ hợp tác xã và hộ gia đình tham gia vào ngành dệt với hơn 270.000 lao động. Một số ít trong các doanh nghiệp này gần đây đã trang bị máy móc, thiết bị khá tốt, đang sản xuất các sản phẩm dệt với chất lượng cao tuy nhiên khả năng xuất khẩu cũng chỉ mới chiếm có 30% sản lượng.
-Ngành công nghiệp may, hiện nay có tốc độ phát triển về số lượng doanh nghiệp và năng lực sản xuất nhanh hơn rất nhiều. Tính đến nay có 117 xí nghiệp, công ty sản xuất, trong đó có trên 30 công ty xí nghiệp do trung ương quản lý và các xí nghiệp còn lạI do địa phương quản lý. Ngoài ra càn có trên 600 cơ sở tư nhân hoặc công ty may tư nhân với số thiết bị khoảng 55.000 máy may các loại. Trong số thiết bị này chỉ khoảng 60% là đã sử dụng trên 10 năm và các thiết bị này tương đối đồng bộ. Sản phẩm may hiện nay của Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường EU, Nhật và Mỹ.
Cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động hiện có, các doanh nghiệp dệt-may Việt Nam có thể sản xuất trung bình hàng năm:
90.000 tấn/năm: sợi các loại, trong đó 25% là sợi bông chải kỹ, 40% sợi bông chải thô và OE (2,3%), 36% sợi T/C, CVC, 2%các loại sợi khác (len, acrylic, đay, tơ).
380 triệu m/năm vải các loại trong đó có khoảng 70% đạt chất lượng trung bình, 30% dành cho xuất khẩu.
22.000 tấn/năm vải dệt kim các loại.
25.000 tấn/năm khăn bông các loại.
400 triệu sản phẩm may mặc các loại.
Tổng Công ty dệt-may Việt Nam có 61 đơn vị thành viên, trong đó có 22 doanh nghiệp dệt, 20 doanh nghiệp may, 4 doanh nghiệp cơ khí, 5 đơn vị phụ thuộc, 1 công ty bông, 1 công ty len, 3 viện và trung tâm nghiên cứu, 3 trường đào tạo và 2 cơ sở y tế.
Thiết bị máy móc của tổng công ty có đến năm 2000 gồm: 6.320 máy dệt (trong đó 4.884 máy dệt thoi, 276 máy dệt thoi kẹp, 840 máy dệt kiếm, 162 máy dệt khí và 158 máy dệt nước) và 28.331 máy may các loại. Hiện nay khoảng 50% thiết bị và công nghệ sợi dệt và 95% thiết bị may đã được đầu tư chiều sâu, cải tạo năng cấp và đầu tư mới phù hợp với trình độ hiện đại của thế giới. So với năm 1995, tuy sản phẩm các sản phẩm chủ yếu tăng không nhiều (sợi năm 1999 tăng hơn 41,6%, vải tăng 19,2%, sản phẩm may tăng 36,7%...) nhưng chất lượng được nâng cao, mẫu mã phong phú, kiểu dáng đẹp, thời trang nên giá trị tăng cao (GTSXCN tăng hơn 50%, doanh thu tăng gần 70% và XNK tăng gần 40%. Đến nay, Tổng Công ty dệt-may Việt Nam đã thể hiện được vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, hàng năm sản xuất khoảng 90% sản lượng sợi, 50% sản lượng vải, 70% sản phẩm dệt kim, 15% sản phẩm may mặc (xuất khẩu 90%), 40% khăn bông...
2.Thực trạng nguồn nhân lực của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam(Vinatex)
Đánh giá về nhu cầu đào tạo và tuyển dụng nhân lực
Các biểu thống kê nhân lực và đào tạo hàng năm
Biểu số 1: (số liệu tính ra tỷ lệ % so với tổng số cán bộ công nhân viên thuộc Tổng Công ty dệt-may Việt Nam. Trong đó chưa tính đến khối các trường, Viện Nghiên cứu, Bệnh Viện : Tổng số là 87995 người)
Nội dung
Tổng số
Trong đó
độ tuổi
Nữ
Đảng viên
Trên đại học
Đại học
Trung
Cấp
Dưới 30
30-40
40-50
Trên 50
1-Tổng số CBCNV
87995
67.736
8.11
0.05
4.77
3.86
41.723
31.15
17.96
2.63
2-Cán bộ quản lý
7.033
3.315
2.42
0.02
1.507
0.497
0.58
2.39
2.582
0.791
2.1 Tổ trưởng, chuyền trưởng
5.448
2.916
1.28
0
0.216
0.3
0.64
2.336
1.911
0.432
2.2 Quản đốc,Giám đốc N.m thành viên
0.448
0.169
0.33
0.002
0.28
0.064
0.01
0.099
0.228
0.094
2.3 Phó quản đốc, Phó giám đốc
0.432
0.146
0.29
0
0.256
0.063
0
0.009
0.103
0.068
2.4 Trưởng, phó phòng
0.906
0.341
0.73
0.021
0.632
0.118
0.01
0.232
0.43
0.237
2.5 TGĐ(GĐ), Phó tổng GĐCT
0.181
0.044
0.18
0.005
0.172
0.063
0
0.009
0.103
0.068
3-Cán bộ chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ
6.152
3.348
1.57
0.021
2.871
2.503
1.78
2.174
1.394
0.357
3.1 Kế toán tài chính
1.124
0.833
0.26
0
0.566
0.507
0.38
0.416
0.237
0.078
3.2 Quản trị kinh doanh
0.552
0.272
0.17
0.002
0.439
0.078
0.18
0.216
0.101
0.009
3.3 Ngoại thương
0.169
0.082
0.02
0
0.145
0.037
0.09
0.044
0.035
0.003
3.4 Luật
0.051
0.017
0.02
0
0.045
0.003
0.02
0.019
0.012
0.002
3.5 Kỹ thuật Cơ/Điện
0.749
0.071
0.26
0
0.401
0.321
0.22
0.195
0.19
0.063
3.6 Điện tử, Điện toán, Vi tính
0.164
0.028
0.06
0
0.105
0.049
0.07
0.037
0.073
0.023
3.7 Kỹ thuật công nghệ sợi
0.544
0.382
0.15
0.009
0.183
0.357
0.11
0.225
0.176
0.037
Dệt
0.411
0.28
0.19
0
0.195
0.216
0.08
0.174
0.122
0.033
May
0.812
0.62
0.06
0
0.197
0.26
0.49
0.272
0.044
0.005
3.8 Kỹ thuật công nghiệp-Thiết kế TT
0.04
0.026
0
0
0.014
0.017
0.01
0.016
0.002
0
4-Công nhân bậc cao
11.71
8.171
0.91
0
0.005
0.021
0.18
4.657
5.85
0.596
4.1Công nhân bậc 5 CN
9.038
7.005
0.78
0
0.003
0.009
0.44
4.11
3.866
0.28
Trong đó Công nghệ Dệt, Sợi, May
6,293
4.932
0.56
0
0
0.005
0.32
2.659
2.81
0.209
4.2 Công nhân bậc 6, bậc 7 CĐ
3.909
1.969
0.26
0
0.003
0.019
0.07
0.8
2.172
0.305
Trong đó công nghệ Dệt, Sợi, May
2,645
1.631
0.1
0
0
0.002
0.04
0.622
1.556
0.138
Nội dung
Nhu cầu bổ xung
Hình thức bổ xung thông qua
Năm 2000
Trung bình hàng năm
Tuyển dụng
Đào tạo
I. Công nhân
1.1 Công nhân công nghệ
Sợi
1660
431
691
703
Dệt
1021
422
554
282
Nhuộm
234
73
157
78
May
9913
6089
6653
2987
1.2 Công nhân cơ điện
470
96
460
64
1.3 Công nhân khác
403
46
386
7
II. Kỹ thuật(kỹ sư, trung cấp)
Cơ khí
94
41
71
12
Điện công nghiệp
43
10
28
3
Điện tử, tự động hoá
45
13
31
3
Vi tính
35
5
18
18
Công nghệ sợi
87
15
66
13
Dệt
53
12
48
10
Nhuộm
84
21
56
May
319
185
216
117
Ngành khác
8
2
III. Nghiệp vụ
Kế toán tài chính
61
18
54
10
Quản trị, kinh doanh
79
23
48
15
Ngoại thương
41
20
40
3
Luật
21
7
21
3
Ngành khác
48
3
46
IV. Quản trị kinh doanh
Ban TGĐ,Giám đốc Công ty
7
5
2
7
Giám đốc đơn vị thành viên
53
10
7
50
Nhu cầu đào tạo bổ xung kiến thức về
4.1 Kế toán tài chính
51
8
5
31
4.2 Tiếp thị Kinh doanh
56
12
23
21
4.3 Luật
10
4.4 Công nghệ chuyên ngành
Sợi
21
5
2
7
Dệt
18
5
8
5
Nhuộm
17
5
3
7
May và thời trang
89
56
15
56
4.5 Ngành khác
101
12
86
20
Hiện nay ngành dệt-may thu hút được nhiều lao động xã hội, trên 50 vạn người, chiếm 22,7%lao động công nghiệp toàn quốc.
Nếu năm 1998 cơ cấu chuyên môn của ngành dệt-may là:
-Đại học, cao đẳng:3%
-Trung cấp: 3%
-Công nhân lành nghề: 29%
-Lao động phổ thông: 65%
( Theo nguồn báo Công nghiệp1998)
Có thể thấy lao động phổ thông chiếm phần lớn trong cơ cấu lao động của ngành dệt-may. Lực lượng lao động có trình độ trung cấp và đại học là lực lượng cần thiết để phát triển ngành dệt-may Việt Nam về kỹ thuật cũng như mở rộng thị trường chỉ đạt tỷ lệ rất khiêm tốn 3%. Nừu so với các nước khác tỷ lệ này là 5-20% có trình độ đại học và trên đại học trong ngành dệt-may, con số này của Việt Nam còn thấp.
Đến tháng 6 năm 2001 ngành dệt-may đã có:
+4% đại học và trên đại học.
+6,7% là cán bộ quản lý, trong đó 21,8% có trình độ đại học và trên đại học.
+6% là cán bộ kỹ thuật, nghiệp vụ. Trong đó, 41%có trình độ đại học và trên đại học.
Đây là một lỗ lực của ngành dệt-may Việt Nam trong việc đào tạo nguồn nhân lực.
Tuy nhiên, có một ngịch lý cản trở tới công tác đào tạo nguồn lao động cho ngành dệt-may là nguồn sinh viên theo học các ngành công nghệ này có xu hướng bị co lại. Việc thu hút sinh viên vào các chuyên ngành dệt-may trong nước gặp khó khăn, hàng năm số lượng sinh viên vào học khoa Dệt-May và Thời Trang-trường ĐHBK Hà Nội, Đại học kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh, Khoa thiết kế thời trang của trường Kỹ thuật công nghiệp... còn ít thường tổng số không quá 50 người/năm. Ngành dệt-may đang đứng trước nguy cơ khủng hoảng thiếu đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật.
Cơ cấu nguồn nhân lực ngành dệt-may của Tổng công ty dệt-may Việt Nam được thể hiện qua biểu sau:
Tiêu thức
Số lượng
Tỷ Lệ
I. Tổng số lao động
87995
II. Theo ngành nghề
1. Ngành dệt
23934
27,2%
2. Ngành may
64061
72,8%
I. Theo giới tính
1. Nam
24110
27,4%
2. Nữ
63885
72,6%
II. Theo lĩnh vực
1.Lao động gián tiếp
15135
17,2%
2. Lao động trực tiếp
72860
82,8%
III.Trình độ
1. Trên đại học
35
0,04%
2.Đại học, trung cấp
8764
9.96%
3. Tốt nghiệp PTHH
17599
20%
4. Tốt nghiệp THCS
61597
70%
IV. Tay nghề
1. Thợ bậc 1
14959
17%
2. Thợ bậc 2
24638
28%
3. Thợ bậc 3
25518
29%
4. Thợ bậc 4
22880
23%
5. Thợ bậc 5 trở lên
3%
Lao động của ngành dệt chỉ chiếm 27,2% trong tổng số lao động của ngành dệt-may thuộc Vinatex. Tay nghề của công nhân dệt cao hơn tay nghề của công nhân may, thợ từ bậc 5 trở lên chủ yếu là công nhân dệt, công nhân may hầu như chưa có thợ tay nghề bậc 5, do đó nếu chỉ tính riêng cho ngành dệt thì tỷ lệ thợ bậc 5 trở lên củangành là 9,3%.
Cũng như đặc điểm chung của toàn ngành nữ chiếm tỷ lệ khá cao trong ngành dệt may của Tổng Công ty (72,6%) trong tỷ lệ chung của toàn ngành dệt-may là 66%.
Trình độ chung của ngành dệt-may còn thấp, đến 70% lao động mới chỉ tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Đây sẽ là một khó khăn rất lớn cho công tác đào tạo nguồ nhân lực. Trong khi đó trình độ trên đại học còn quá ít. Đại học và trung cấp chiếm một tỷ lệ khiêm tốn là 10%. Có đến 35% công nhân là bậc 1 và bậc 2. Và như đã nói ở trên công nhân bậc 5 trở lên chủ yếu là công nhân dệt, công nhân may rất ít người có trình độ bậc 5.
Một vấn đề ảnh hưởng không nhỏ tới công tác đào tạo của các doanh nghiệp dệt-may thuộc Tổng Công ty là tình trạng biến động loa động thường xuyên, mức biến động thông thường từ 10% đến 20%.
Trong các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài tỷ lệ biến động này còn cao hơn. Như công ty CSM trong hai năm 1997 và 1998 tỷ lệ giảm lao động là 37,4% và 81,8%.Số lao động giảm trong các doanh nghiệpnày hầu như 100% là hợp đồng từ 1 đến 3 năm hoặc hợp đồng mùa vụ dưới 1 năm. Tỷ lệ lao động hợp đồng mùa vụ luôn trên 50% thậm trí có năm tới 67,3%.
Với tỷ lệ biến động cao như vậy có thể thấy rằng công việc của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tính ổn định thường không cao.
Các doanh nghiệp thường dùng chính sách lương cao để thu hút lao động có tay nghề cao vào làm việc và sẵn sàng sa thải nếu không đạt yêu cầu. Có thể cho rằng với chính sách về nhân sự như vậy thì công tác đào tạo tại các doanh nghiệp nay thường ít được coi trọng.
2.2Phân tích thực trạng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp khảo sát.
Trong phần này em xin đi sâu tìn hiểu thực trạng nguồn nhân lực trong một số doanh nghiệp sau:
Doanh nghiệp trung ương:
Công ty Dệt Hoà Thọ
Công ty Dệt Hải Vân
Công ty VINATEX Đà Nẵng
Doanh nghiệp địa phương:
Công ty 29/3
Công ty Dệt Đà Nẵng
Doanh nghiệp tư nhân:
Công ty TNHH May Phương Nam
Công ty TNHH Giai nông
Trong các doanh nghiệp khảo sát số lao động nữ chiếm tỷ lệ 80,8%. Tỷ lệ nữ đông của ngành là một trong những hạn chế cho việc cử đi học dài ngày ở các cơ sở đào tạo ở xa địa bàn cư trú. Lao động trực tiếp chiếm 84,5%, lao động gián tiếp chiếm 15,5%.
Lứa tuổi của người lao động cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến công tác đào tạo nguồn nhân lực
Bảng số lượng và cơ cấu lao động của các doanh nghiệp được khảo sát năm 2003:
Doanh nghiệp
Tổng số LĐ
LĐ
t.tiếp
LĐ
g.tiếp
CN
Kỹ
Thuật
Lãnh
đạo
Bảo
Vệ
Y
Tế
1.Cty Dệt May Vĩnh Phúc
2. Vinatex Đà nẵng
3.CtyDệt Nam Định
4.CtyDệt may HồGươm
5.Cty Dệt 8-3
6.Bệnh viện dệt may
7.CtyTNHH Phú Bình
1421
389
375
2130
462
137
309
1102
323
343
1772
345
123
291
1280
318
323
1905
347
120
4497
319
71
32
225
115
17
937
35
19
20
87
26
2
2
4
3
4
8
3
2
2
8
6
8
11
7
2
2
2
2
2
4
2
1
1
Tổng cộng
5323
4299
4497
937
193
26
44
14
Tỷ lệ %
100
80,8
84,5
15,5
3,6
0,5
0,8
0,2
Lứa tuổi 21-30 chiếm tỷ lệ đông nhất. Đối với cán bộ lãnh đạo trên 50 tuổi chỉ chiếm 23% đây là một điểm mạnh của ngành và rất thuận lợi cho việc đào tạo lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Công nhân trực tiếp sản xuất của các doanh nghiệp chủ yếu là nữ với tuổi đời rất trẻ nên thường nhanh nhẹn, tiếp thu nghiệp vụ nhanh, khéo léo nên hoà nhập rất nhanh vào ngành nghề là ngành không đòi hỏi kỹ thuật phức tạp.
Đội ngũ lãnh đạo đều là những người có bằng Đại học hoặc cao đẳng, một số đã trải qua quá trình hoạt động tương đối lâu năm, có nhiều kinh nghiệm chuyên môn, nghiệp vụ khá. Tuy nhiên một số còn bị hạn chế về phong cách quản lý công nghiệp, ít tiếp cận với cách thức quản lý hiện đại, thích làm việc theo kinh nghiệm , một số chịu ảnh hưởng của tư tưởng gia trưởng, cục bộ địa phương nên thiếu kỹ năng quan hệ tốt với con người trong quá trình quản lý.
Lực lượng lao động kỹ thuật, đặc biệt là đội ngũ thiết kế sản phẩm ở các doanh nghiệp may hiện nay chiếm tỷ lệ ít. Các doanh nghiệp còn chưa coi trọng khâu thiết kế mẫu mã. Hiện nay đa số lao động thiết kế chưa được đào tạo có hệ thống ngành thiết kế thời trang, chủ yếu được huấn luyện từ các lớp huấn luyện ngắn ngày, một số được tuyển chọn từ công nhân bậc cao sang đảm nhận khâu nghiên cứu thiết kế.
Phân theo độ tuổi và giới tính năm 2003:
Tổng số
Dưới 20
21-30
31-40
41-50
Trên
50
1.Lãnh đạo
2.LĐ trực tiếp
3.LĐ gián tiếp
4.Kỹ sư, CNKT
5.Bảo vệ
6.Y tế
26
4497
937
193
44
14
72
40
2780
182
53
7
4
10
1116
118
77
16
4
10
494
19
37
13
5
6
35
11
26
8
1
Công nhân tỷ lệ thợ bậc 1, bậc 2 còn quá cao, trong khi đó công nhân may rất ít thợ bậc 5 trở nên. Công nhân trong các doanh nghiệp đa số không được đào tạo qua các trường lớp chuyên ngành, mà chỉ qua đào tạo các lớp ngắn hạn 3-4 tháng rồi thi tuyển vào các doanh nghiệp để làm việc. Công nhân may trong các doanh nghiệp đa số là nữ từ các vùng nông thôn nên trình độ học vấn thấp, tỷ lệ công nhân mới chỉ tốt nghiệp phổ thông cơ sở trên 70%, tốt nghiệp phổ thông trung học là 20%.
Các doanh nghiệp tư nhân có sự biến động lao động cao hơn , trình độ tay nghề cũng như số cán bộ được qua đào tạo chính quy thì lại có tỷ lệ thấp hơn các doanh nghiệp nhà nước.
Nguồn nhân lực của Tổng Công ty dệt-may Việt Nam cũng như đặc điểm chung của ngành dệt-may tỷ lệ phần trăm nữ khá cao phù hợp với đặc thù chung của công việc đòi hỏi sự tỷ mỷ cẩn thận, chịu khó.
Tỷ lệ tốt nghiệp đại học trong các doanh nghiệp chưa cao. Toàn ngành có rất ít tạc sỹ ,tiến sỹ và chủ yếu tập trung ở bộ phận quản lý. Số cán bộ lãnh đạo đã được qua đào tạo lý luận chính trị khá cao, tỷ lệ công nhân kỹ thuật còn rất thấp so với yêu cầu công việc. Trong các doanh nghiệp cán bộ lãnh đạo chưa được đào tạo về quản lý hành chính, đây sẽ là một yếu điểm cần khắc phục sớm.
Nhìn chung chất lượng nguồn nhân lực hiện nay của Tổng Công ty cũng chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu hiện nay. Đặc biệt chất lượng đội ngũ lao động trực tiếp chưa cao đã ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm được sản xuất ra, hạn chế việc phát triển các mặt hàng mà khách hàng không có nhu cầu.
Để đáp ứng với nhu cầu trang bị máy móc hiện đại, với tốc độ đầu tư hiện nay và đặc biệt là đáp ứng sự cạnh tranh trong tương lai các doanh nghiệp cần có một kế hoạch đào tạo nhân lực cụ thể cũng như chính quyền thành phố cần quan tâm đến vấn đề cung cấp nhân lực cho ngành dệt-may trong tương lai khi nó mở rộng sản xuất, đầu tư trang thiết bị hiện đại.
II-Đánh giá về các yếu tố ảnh hưởng đến trình độ chuyên môn qua công tác đào tạo.
1.Công tác lập kế hoạch đào tạo
Các công ty tiến hành khảo sát hầu như đều chưa có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực cụ thể. Kế hoạch đào tạo của các công ty đều dựa vào nhu cầu hiện tại, thiếu thì cho đi đào tạo và kế hoạch đào tạo thường vạch ra theo năm chứ chưa có dự báo một cách khoa học nhu cầu về nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng trong tương lai do đó cũng chưa có được kế hoạch đào tạo dài hạn. Chỉ có vài công ty là có kế hoạch đào tạo dài hạn (chiếm 28,8%) cho 3 năm tới. 9 trong 14 trưởng phó phòng tổ chức được hỏi cho rằng khi Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế đối voứi hàng dệt và may mặc của các nước ASEAN thì tình hình sẽ khó khăn, và 10 trên 14 người cho rằng hiện tại doanh nghiệp chưa có chương trình đào tạo để đối phó với sự cạnh tranh mạnh trong tương lai.
Do không có kết quảt phân tích công việc một cách chi tiết nên các doanh nghiệp gặp nhiều lúng túng trong khâu dự báo nhu cầu đào tạo dẫn đến bỏ qua việc lập kế hoạch đào tạo.
Đặc biệt các doanh nghiệp hạch toán độc lập hầu như chưa quan tâm đến vấn đề đào tạo. Đặc biệt là đối với công nhân vì theo cán bộ lãnh đạo của công ty công nhân cần phải tự chau rồi tay nghề của mình, tay nghề nâng cao thì năng suất lao động tăng họ sẽ có thu nhập cao hơn. Với câu hỏi về các giải pháp đào tạo mà công ty đề xuất thì câu trả lời nhận được là “doanh nghiệp tự đào tạo”. Điều này cũng phản ánh một thực tế là các doanh nghiệp hạch toán độc lập thường ít được mời tham dự các khoá đào tạo.
2.Tuyển chọn người đưa đi đào tạo
Việc chọn người đưa đi đào tạo của các doanh nghiệp, chuyên đề tiến hành khảo sát hầu như chưa dựa vào một cơ sở đáng tin cậy vì thiếu một hệ thống mô tả công việc rõ ràng. Việc đánh giá hiệu quả của công việc của cán bộ, nhân viên ở các doanh nghiệp tính chính sác chưa cao cũng làm hạn chế hiệu quả cử người đi học
Vì lý do đó, việc lựa chọn người đi học còn mang nhiều cảm tính, bị các quan hệ cá nhân chi phối dẫn đến hiệu quả sử dụng sau đào tạo chưa cao. Tuyển chọn người đưa đi đào tạo không chính xác làm giảm đi tính động viên thúc đẩy người lao đôngj trong công việc cũng như trong học tập.
3.Các hình thức đào tạo
Đối với cán bộ quản lý ở các doanh nghiệp đã thực hiện các hình thức đào tạo là cho đi học các trường lớp chính quy như trường Đại học Kinh tế và quản trị kinh doanh, các trung tâm liên kêt về đào tạo quản lý kinh tế. Hình thức này chủ yếu do cá nhân tự đề xu._. tự động trở thành một công cụ sản xuất quen thuộc đối với đa số công ty may Việt Nam trong quá trình cạnh tranh và hội nhập với thị trường thế giới.
-Chi tiết về hệ thống
Chuyền treo tự động FASTDO UPS bao gồm các trạm làm việc, chuyền chính để vận chuyển bán sản phẩm tới các trạm và hệ thống máy tính, phầm mền điều khiển và phần mền quản lý giúp lập quy trình công nghệ, quản lý và điều khiển chuyền treo.
Trạm làm việc có trạm nạp hàng, nơi công nhân xếp từng bộ chi tiết và móc chúng vào các móc treo đưa vào chuyền. Trạm thực hiện nơi bố trí các thiết bị để công nhân thực hiện các công đoạn khác nhau theo quy trình công nghệ. Trạm KCS nơi kiểm tra sản phẩm đã may xong. Nhân viên KCS lấy các sản phẩm ra khỏi móc treo kiểm tr sản phẩm. Nếu sản phẩm có lỗi thì sau khi bộ phận đọc, đọc mã số móc treo, phần mềm xuất ra danh sách công nhân được thực hiện các công đoạn trên sản phẩm, giúp nhanh chóng tìm ra nơi gây nỗi. Sau đó , móc treo được chuyển tự động về trạm nạp hàng. Thông thường trạm nạp hàng và trạm KCS được bố trí đầu và cuối chuyền, còn các trạm làm việc với các loại máy may khác nhau được bố trí tuỳ ý, không phụ thuộc vào quy trình công nghệ. Mỗi trạm có một Panel điều khiển và nút nhấn. Công nhân sẽ nhập mã số của mình trên Panel khi đang nhập vào chuyền. Panel còn dùng để xuất ra những thông tin về trạm hay công nhân như sản lượng, tiền lương v.v...Khi thực hiện xong công đoạn, công nhân sẽ nhấn vào nút nói trên, động cơ trạm sẽ lấy móc treo ra khỏi trạm và đưa vào chuyền chính để đưa đến trạm thực hiện công đoạn kế tiếp trong quá trình công nghệ.
Chuyền chính là một bộ phận vận chuyển bán thành phẩm giữa các trạm thay cho các chuyền trưởng, chuyền phó
Chuyền treo FASTDO UPS sử dụng các tay đẩy được bố trí cách nhau 49,6 cm với tốc độ di chuyển là 32 tay đẩy trong 1 phút
Hệ thống máy tính dùng cho chuyền treo tự động tối thiểu cần có bộ vi xử lý Pentum III sử dụng hệ điều hành Windows NT hoặc Windows 2000
Phần mềm điều khiển và quản lý FASTDO UPS có các chức năng như: lập quy trình công nghệ và phân bố công đoạn quản lý công nhân cũng như sản lượng sản xuất của từng công nhân, tự động đưa sản phẩm tới từng trạm. Hệ thống chuyền treo tự động chuyển bán thành phẩm tới trạm kế tiếp quy định trước. Trong số những trạm cùng thực hiện một công đoạn bán thành phẩm sẽ được chuyuển tới trạm có số lượng tồn ít hơn, kiểm soát tiến độ sản xuất, xuất ra báo cáo về tiến độ sản xuất và dự kiến thời gian cần thiết để hoàn thành mã hàng, đơn hàng...Tính lương cho từng công nhân, lương được tính dựa trên năng xuất lao động của công nhân. Trong ca, tiền lương được truy suất trên bảng điện cạnh từng công nhân, giúp tìm công nhân đã thực hiện công đoạn trên sản phẩm, khi có sự cố chất lượng, phần mền sẽ xuất ra danh sách công nhân đã tham gia may ra sản phẩm trên móc treo, giúp nhanh chóng phát hiện ra nơi gây lỗi. Ngoài ra do cơ sở dữ liệu được cập nhật liên tục với thời gian thực hiện nên khi có các sự cố như cúp điện, công nhân làm rơi móc treo từ chuyền chính ra ngoài, phần mềm quản lý sẽ tính toán và điều khiển các móc treo vào đúng trạm làm việc trở lại.
Trong khuôn khổ “chương trình hiện đại hoá thiết bị dệt may với chi phí thấp”. Sở khoa học công nghệ và môi trường thành phố Hồ Chí Minh sẽ hỗ trợ 30% kinh phí cho doanh nghiệp trang bị hệ thống chuyền treo tự động đầu tiên.
*Quy trình-công nghệ-sản phẩm mới
Quy trình mới
Dùng nước nhuộm vải Nylon
J.Koh và các cộng sự của trường đại học quốc gia Seoul, Hàn quốc đã nghiên cứu sử dụng lại nước nhuộm trong quá trình nhuộm vải không dệt xơ nylon siêu mảnh với hỗn hợp hai thuốc nhuộm phức hợp sắt tám 1:2. Họ chọn lựa polyurethane để xử lý vải không dệt xơ nylon siêu mảnh (0,07 den); chất mới MG (tác nhân làm thăng bằng không ion dạng tinh khiết);Polyfix SPC (tác nhân hãm thuốc nhuộm) và sunmorl BK 20-T (tác nhân xà phòng) để tiến hành nghiên cứu. Sau đợt nhuộm đầu tiên thuốc nhuộm còn dư trong nước nhuộm được phân tích bằng quang phổ kế và được bổ xung thêm thuốc nhuộm và chất trợ để bảo đảm nồng độ theo yêu cầu. Nước nhuộm chứa hai loại thuốc nhuộm sẽ được sử dụng lại 5 lần và mầu sắc tái sinh sẽ được điều tra khảo sát theo số đo CIELAB ngang bằng của vải nhuộm và tổng chênh lệch sắc mầu.
Họ thấy rằng với hỗn hợp hai thuốc nhuộm này là tương thích đặc tính của nước nhuộm sử dụng lại là được chấp nhận được. ở đây giá trị tận dụng đạt cao, tính khả thi có thể thực hiện tốt hơn nữa. Bằng cách sử dụng lại này, các tinh chất về cấp mầu và độ bền mầu không suy giảm. Quá trình nghiên cứu cho thấy rằng nó có tính kỹ thuật khả thi cho nhuộm vải không dệt xơ nylon siêu mảnh với hỗn hợp hai thuốc 1:2 metal-complex trong hệ thống nhuộm lại đến lần thứ năm. Công nghệ sử dụng lại nước nhuộm đem lại giá trị tiết kiệm chi phí đáng kể về lượng nước sử dụng (67%), hoá chất (1-58% thuốc nhuộm và 67% chất trợ) và năng lượng sử dụng trong quá trình nhuộm.
Quá trình o-xy hoá thuốc nhuộm
M.C Guitierrez và các cộng sự trường đại học bách khoa Catalunya, Tây ban nha đã nghiên cứu quá trình o-xy hoá bằng điện-hoá của thuốc nhuộm hoạt tính. Các tác giả đã đạt được trên 2 mẫu thuốc nhuộm hoạt tính với 3 phương pháp luận được thiết lập. Hiện tại để kiểm soát việc xử lý điện hoá,đã loại trừ đầy đủ thuốc nhuộm ra khỏi nước thải hay chưa, họ đã xác nhận hợp chuẩn được phương pháp luận với 4 loại thuốc hoạt tính khác (monoazo, metal-complex monoazo, anthraquinone và phtholocyanine). Họ quan sát mức độ phai mầu đạt được sau quá trình điện-hoá thực thi với bất kỳ nhóm mang mầu của thuốc hoặc hiện hữu của nhóm hoạt tính trong phân tử thuốc nhuộm.
Trong sự hiện hữu của ion clo thì vấn đề kỹ thuật mới cho phép độ phai mầu đạt được trong nước thải thuốc nhuộm hoạt tính phải cao hơn với suất tiêu thụ điện năng thấp. Trong sự hiện hữu của ion sulphat thì mức tiêu thụ điện năng cần thiết phải cao hơn chút ít trong các thử nghiệm riêng lẻ. Họ dùng mẫu (có clorua natri) là điều kiện thực nghiệm tốt nhất để giải trừ thuốc hoạt tính trong nước thải của một số ngành công nghiệp nhuộm. Thông thường phương pháp chỉ dùng trong hỗn hợp của phần lớn các dung dịch mầu để đảm bảo chi phí tăng lương thấp.
Vải xử lý bằng corona
N.Corneiro và các cộng sự của trường đại học Minho, Bồ đào nha đã nghiên cứu khả năng nhuộm thuốc trực tiếp với vải bông được xử lý bằng corona. Trong nghiên cứu này, công nghệ corona được ứng dụng trong quá trình ướt với vải bông. Những tính chất của bông, như tính hút nước, ion hoá và tính chất cơ học được ước lượng và so sánh bẵng những kết quả trước trong quá trình o-xy hoá lớp biểu bì và biến thể hình thái sơ. Những kết quả của quá trình nhuộm vải bông được sử lý bằng corona dưới các điều kiện khác nhau dưọc so sánh với các tính chất của nguyên liệu bông trong quá trình tẩy và rũ hồ.
Quá trình nhuộm được triển khai với 3 loại thương phẩm nhuộm trực tiếp (CD direct Red 80, Direct Red 243 và Direct Red Red 83:1). Quá trình nhuộm được thực hiện trên vải bông có và không có sử lý corona để so sánh. Quá trình ngắn hơn, sạch hơn và dễ dàng hơn khi thực hiện với vải có sử lý bằng corona, cho quy trình thuận lợi hơn về sinh thái, giảm chất ô nhiễm và đồng thời giảm chi phí sử lý phát sinh.
Nhuộm bông mới
C.Pisuntornsug và các cộng sự của trường đại học Chulalongkorn, Bangkok và trường đại học Oklahoma đã trùng hợp sulphat xtiren natri làm chất trùng hợp ion bề mặt trên bông để tạo chất tải am tính trên bề mặt xơ. Loại xơ này được nhuộm với thuốc cation,Astrazon Brillant Red 4G 200%(CI basic Red 14) trong môi trường không muối và nhiệt độ trong phòng. Vải nhuộm có độ bền mầu tốt ở nhiệt độ 300C và trong nồng độ sulphat xtiren natri cao.
Hỗu hết vải nhuộm đều đạt độ bền màu cọ sát khô tối ưu. Độ bền màu cọ sát ướt biến đổi từ khá tới yếu, và giảm khi tăng nồng độ monomer. Các tác giả cho thấy khả năng vải bông nhuộm với thuốc nhuộm cation đem lại một số lợi ích bao gồm khả năng nhuộm với nhiệt độ trong phòng không có phụ gia muối và mở rộng phạm vi mầu hiện hành cho phép với vải bông.
Hợp chất chống cháy.
E.J.Blanchared và E.E.Graves thuộc Trung tâm nghiên cứu khu vực miền bắc, New Orleans đã dùng sự trợ giúp của polycarboxy như axit butantetracarboxy (BTCA), axit citric và axit maleic để chống cháy cho sợi cắt tuyến của thảm polyester/bông. Nừu mật độ sợi tuyến lông thấp, vùng bị bắt lửa sẽ cháy hết.
Sự cải tiến hoá học bằng exte hoá xơ xenlulô sẽ hạn chế được tính bắt cháy. Nó cho phép đạt tiêu chuẩn thử nghiệm bắt cháy của thảm và thảm nhỏ. Bông trong thảm được xử lý phun 5-10% axit polycarboxy và các chất xúc tác như hypophosphat natri ,phosphat natri hoặc muối axit trung tính cho phép thoả mãn tính chất chống cháy.
Họ cũng tìm thấy khả năng chống cháy cho nguyên liệu sợi tuyết lông polyester/bông ảnh hưởng trong phạm vi rộng độ pH , thay mầu đậm của thảm và bằng xử lý trong điều kiện không axit thì giảm thiểu khả năng cháy. TCA cho thấy rằng việc tăng cặn bám là nguyên nhân hàng đầu làm giảm lửa lan rộng trên thảm. Dù BTCA được xem như là tác nhân hiệu quả nhất, hiệu quả kiểm soát lửa lan rộng được khống chế với axit citric hoặc axit maleic trong điều kiện thích nghi
Máy dệt kếm tiêu thụ nhanh.
Tại hội chợ ITMA Châu á vào tháng 10 năm 2001 Hãng Sulzer Textil giới thiệu G6300F, một nguyên mẫu máy dệt vải lông mới trên cơ sở máy kiếm G6300. Từ dịp đưa ra tại hội chợ tháng 4-2002 nhiều nhà sản xuất dệt Châu Âu và Châu á tìm chọn đến loại máy G6300F này, sự chỉ dẫn rõ ràng trong vận hành thử của mẫu máy và sự lựa chọn tối ưu kiểu dệt, kết hợp với chất lượng đỉnh cao của sản phẩm, đấy là những gì Sulzer Textil muốn nói.
Với chất lượng đỉnh cao, kiểu dệt vòng lông tuyệt hảo, được sản xuất với tính kinh tế tối đa, phiên bản máy dệt kiếm cho loại vải vòng lông mới này đã mang lại một giải pháp lý tưởng. Máy G6300F “bao trùm trọn vẹn lĩnh vực của các loại vải vòng lông, từ loại tuyết nhung nặng, tới mặt hàng sở trường, đến khăn lông cỡ đại đáp ứng rộng rãi mọi yêu cầu”.Kỹ thuật máy và kiểm soát vững chãi và sự trợ giúp điện tử trong tự động thoả mãn các yêu cầu và hình thái mỹ thuật của công nghệ vải vòng lông.
Công nghệ vải vòng lông dựa trên nền tảng hiện đại, khống chế chuyển động vặn xoắn của sợi một cách thuận tiện. Nhờ kiểm soát được sợi vòng lông năng động, nên chiều cao vòng lông có thể lập chương trình tuỳ ý và thay đổi được giữa nhóm nhát dập sợi ngang này so với nhóm nhát dập sợi ngang khác. Đây là cách đặt kiểu dệt bất thường, như dạng vòng lông nổi sóng hoặc kết hợp với kỹ thuật tạo vòng lông khác biệt để tạo như cấu trúc vòng lông nổi; tạo dạng vòng lông cũng có thể lập chương trình tuỳ ý. Có thể bật công tắc để dệt vải vòng lông 3, 4, 5,6 và 7 nhát trong bất kỳ thời điểm nào. Sự chuyển đổi từ dệt vòng lông sang dệt phẳng ở đầu khăn là sự thay đổi kiểu dệt được hoàn thành với độ chính xác rất cao. Với bộ chọn mầu đến 8 sợi ngang và việc thiết kế tạo vòng lông hoặc tạo đầu khăn được thực hiện không hạn chế. Vải vòng lông cấp cao có thể sản xuất với mật độ sợi vòng lông cao và khoảng lùi tối đa nhát dập giải là 24 mm.
Phiên bản chính thường trang bị với đầu dobby quay 20 tay kéo, G3600F dệt trong phạm vi rộng các loại vải vòng lông đa dạng. Có thể chọn máy có đầu Jacquard. G3600F được chuẩn bị tốt cho sự phân bổ rộng rãi các ứng dụng, với 7 loại khổ rộng vải từ 200 tới 360 cm. Có thể dùng bảng điều khiển đa hệ dệt cho các loại khăn vòng lông khổ rộng với tỷ lệ đưa sợi ngang tối đa, theo kiểu biên leno hoặc biên gấp tuỳ ý. Hệ thống kiểm soát đứt sợi dọc bằng điện tử với độ nhạy cảm cao cho cả hai hệ sợi dọc, sợi nền và sợi vòng lông.
Hệ đứt dọc của sợi vòng lông phản ứng đặc biệt nhanh và chính xác theo suất tiêu thụ sợi vòng lông, đảm bảo tạo vòng lông đều từ đầu tới cuối trục cửi.
Mật độ sợi ngang được kiểm soát bằng điện tử lượng vải quấn trục, đặt theo chương trình theo từng bước ngắn. Người ta cũng có thể đặt chương trình từ đầu khăn tới cuối khăn thông qua số lượng nhát dập để phù hợp giữa chiều dài khăn và đầu khăn. Từ khi máy G6300F được tung ra đã đạt những kết quả to lớn, với những đơn hàng yêu cầu hấp dẫn từ Trung quốc, ấn độ, Bồ đào nha, Tây ban nha và với những cuộc đàm phán bán máy đang hoàn tất. Đến cuối năm 2002, hơn 100 máy dệt khăn mới G6300F của Sulzer Text đã được bán ra.
Máy cắt túi khí
Lectra vừa tung ra vào ngày 13 tháng 11 máy cắt la-de mới, Focus Airbag-HP, “dành riêng cho thị trường vận chuyển, xe cộ...” Họ nói, với sản phẩm mới này, “Lectra đã đáp ứng sự mong đợi của những khách hàng bằng sự chuyển đổi công nghệ thích hợp đặc thù của thị trường túi đệm khí: chính xác và chất lượng của quá trình cắt và sản xuất”.
Trong năm 1990 thị trường túi khí phát triển một cách kỳ lạ-năm 2000, 90 triệu túi đệm khí trước và 35 triệu túi đệm bên được sản xuất trên thế giới. ở Mỹ luật pháp được thông qua năm 1998 bắt buộc các nhà sản xuất phải trang bị trên xe cộ mới của họ túi đệm khí. ở Châu Âu hiện nay 90% xe được trang bị túi đệm khí trước ngay cạnh lái xe và 75% ở ngay cạnh hành khách.
Thị trường túi đệm khí bên sục sôi lên lần đầu vào năm 1994. Thị trường Nhật bản phát triển sau, nhưng lại được đẩy nhanh hơn Châu Âu. Hiện nay thì cả hai thị trường là tương đương. Thế giới còn lại thì tỷ lệ thâm nhập còn khá biến đổi phụ thuộc theo từng nước, trung bình khoảng 40%.
Trong 20 năm “Lectra đã thu hoạch được hoàn chỉnh kinh nghiệm của toàn bộ dây chuyền sản xuất” từ tự động cấp nguyên liệu, đến quá trình cắt, đến xả nạp hoặc cho các loại túi đệm khí thông dụng nhiều gấp hoặc cho các loại túi đệm khí một gấp vải không dệt. Hiện có trên 100 máy tiêu biểu đang được sử dụng trên toàn thế giới chiếm 50% thị trường túi khí cắt.
Hàng loạt lớn các đổi mới được theo đuổi là tăng khả năng sản xuất từ 20-50% so với dây chuyền sản xuất túi khí thế hệ trước. Túi khí có đặc tính bởi vùng cắt rời phải theo hình dạng của chính nó. Chiến lược cắt và định vị đã được nâng cấp đáng kể nhờ phần mềm FocusPilot mới, nó có chức năng Eclipse. Đặc tính này cho phép cắt trong khi nguyên liệu chuyển động tiến tới bằng đai chuyền tự động. La-de được kích hoạt hoặc tắt hoạt nhưng chuyển động của đầu cắt không dừng. Bộ chọn Mosaic phân tích dữ liệu từ camera số, dò tìm khuôn mẫu của vật liệu. Những sự vặn vẹo được phân tích và sự thông tin cắt được chuẩn mực lại tức thì. Máy Focus Aribag-HP được cung cấp với vùng cắt rộng hơn phiên bản trước, vận dụng đạt tới 2,4 m vật liệu. Sức mút đã được nâng lên, việc kẹp vật liệu tại pha cắt cũng được tăng cường.
Hộp kéo sợi mới.
Vào giữa năm 2001 Hãng W.Schlafhorst AG đưa ra hộp kéo sợi (navel) của máy kéo sợi (O.E) Belcoro, một xuất phẩm tiên tiến. Cùng với “hệ thống đối tác” của mình là Emil Brwrll GmbH & Co ở Dornbirn, úc, Schlafhorst đã phát triển thêm một loại hộp kéo sợi mới.
Thế hệ sau cùng được sản xuất từ một loại gốm cấp cao đặc biệt. Công việc nâng cấp chất lượng sợi hơn nữa đã hoàn thành, bằng chất lượng bề mặt đặc biệt cao cấp từ đường sợi ra đến đường sợi vào của hộp kéo sợi. Vật liệu dùng mới, làm giảm lượng bụi và vặn cáu tích tụ hơn trên bề mặt hộp kéo sợi, và cũng giảm rủi ro do phát sinh nhiệt hoặc do hư hỏng cơ khí tác động đến sợi thành phẩm.
Kỹ thuật lấy dấu mới đã hoàn thành việc định tâm chính xác của đường sợi vào trên đỉnh vòm hộp sợi. Đường dẫn sợi vào của hộp sợi không thể bong ra khỏi đỉnh vòm. Tính dẫn nhiệt được nâng cao và bảo đảm oan toàn vận hành tối đa.
Những hộp kéo sợi dùng lâu bền là: KS,K4-A với vòm hộp màu ghi;KS-A với vòm hộp màu vàng chói; KN4-A với vòm hộp màu ánh bạc; KN6-A với vòm hộp màu ánh nâu; và loại hộp sợi xuất xưởng tiên tiến sau cùng với đường sợi vào trơn láng, loại KN-A (loại xoay vít) và KG/A (loại đóng nút) với vòm hộp màu ghi.
Sự nổi tiếng của thổi khí.
Picanol đã ký một hợp đồng cung cấp 47 máy dệt khăn lông TERRYplus cho Sunvim Home Textile Co. Ltd, là nhà sản xuất khăn bông lớn nhất của Trung quốc, với công suất 1.800tấn/tháng. Thị trường xuất khẩu lớn nhất của họ là Nhật bản thông qua hãng Marubeni và Itochu.
Picanol nói, máy TERRYplus là máy thổi khí thiết kế chuyên cho sản xuất vải vòng lông. Nó kết hợp chặt chẽ với công nghệ tiên tiến của Picanol như bộ dẫn động biến tốc và bộ nhược nhẩy tạo vòng lông.
Hỗu như cho đến giờ công nghệ thổi khí thường được coi như không thích hợp với dệt vải vòng lông, nhưng với TERRYplus đã bác bỏ điều đó. Máy do Gỹne là đơn vị trực thuộc của Picanol sản xuất, là máy được kết hợp kinh nghiệm sản xuất khăn bông lâu đời của Gỹne với bí quyết thổi khí tiên tiến của Picanol.
Từ công việc lắp đặt có kết quả của Picanol tại Coteminas ở Braxin và hợp đồng giám định mới đây tại Bỉ so với máy Dornier “Sunvim đã hoàn toàn tín nhiệm về tính linh hoạt và hiệu quả của máy TERRYplus.” Trong dự án này,Picanol báo giá cao hơn so với Dornier và Tsudakoma, “nhưng lại tỏ ra giải pháp đầu tư kinh tế nhất”.
Picanol có văn phòng dịch vụ và buôn bán tại Bắc Kinh,Thượng Hải và Quảng Châu. Do vậy Sunvim có thể liên hệ với họ về từng công việc cũng như thực tập trên máy GTP tại Thượng Hải.
Máy tái sinh phế liệu.
Hãng Margasa Proyectose Ingenieria Textil SL ở Barcelona xác nhận đã phát triển công nghệ mới về tái sinh phế liệu dệt thành xơ tốt để kéo lại thành sợi trên hệ thống kéo sợi O.E. Máy chải trước AF-1500 “được đặt sau máy sé vải vụn trên dây chuyền tái sinh tiêu chuẩn, đảm bảo xơ có chất lượng cao, gia công bất kỳ trên máy chải nào để kéo sợi O.E tới chi số Ne 18-20”
Phế liệu có thể tái sinh trên quy trình công nghệ này bao gồm: bông rối, biên rối, sợi phế v.v...Hiệu suất đạt 99% và sợi tái sản xuất từ phế liệu có thể dùng cho dệt vải denim, khăn bông, tất, găng, vải trong nhà v.v... “thay thế cho nguyên liệu bông nhưng không làm giảm với bất kỳ thông số chất lượng nào”. Sản xuất của dây chuyền này có thể đạt từ 500 tới 900 kg/giờ.
Dụng cụ đo lường không tiếp xúc.
TSI Inc ở Shorewiew, Minn, là nhà sản xuất dẫn đầu về công nghệ dụng cụ đo lường không tiếp xúc, vừa thông báo một mẫu mới LS 200 là dụng cụ đo độ dài và tốc độ không tiếp xúc bằng tốc độ la-de (ladserspeed).Nó là dụng cụ đo không tiếp xúc lý tưởng cho các sản phẩm dạng màng, không dệt, cao su và phim, băng plastic. Nó được cung ứng như một dụng cụ đo lường không tiếp xúc với độ chính xác tốt hơn 0,1%. Nó có thể thay thế các loại tốc kế tiếp xúc dễ xẩy ra sai số do phụ thuộc vào thời hạn sử dụng, bụi tích tụ và hao mòn. Công cụ không có chi tiết chuyển động và sử dụng 100% công nghệ kỹ thuật số.
Công việc thay đổi cỡ số được thực hiện dễ dàng.
Mayer & Cie thông báo yêu cầu về máy Jersey kép. Nổi lên một cách sôi động trong suốt một năm qua. Ngay cả những sự trông chờ rất nghiêm khắc về mặt chất lượng và thời trang. Xuất phát từ lý do kết cấu mẫu dệt, một khả năng thương mại tốt của một địa chỉ thích hợp sinh lời sẽ tiếp diễn, thúc đẩy quá trình phát triển này thên nữa. Đặc thù chính của những đòi hỏi này phải được thực hiện trên máy dệt kim tròn jersey kép, sử dụng sợi một cách linh hoạt, cũng như về mặt cỡ máy, là những yếu tố đặc biệt quan trọng.
Trước đây quay cỡ số được đặt phía trên xy-lanh làm cho việc chuyển cỡ rất tỷ mỷ và phức tạp, với bộ cấp sợi cải tiến sau này, việc mang sợi, việc hiệu chỉnh chiều cao cỡ số, một công việc hiệu chỉnh phức tạp cần thiết phải làm và việc thiết lập công việc, sẽ phù hợp khả năng người sử dụng.
Tiêu chuẩn yêu cầu thì 3 ngày sản xuất phải thay cỡ , và công việc không thể làm nếu không sử dụng cơ cấu chuyên dụng hoặc trang thiết bị tương tự, dính líu đến một quá trình công việc phức tạp. Nhưng tại hội chợ ITMA 99, Mayer & Cie đã đột phá trong lĩnh vực này dưới dạng cơ cấu QC (Quick-Change/chuyển đổi nhanh) cho phép chuyển đổi (cỡ số) nhanh hơn, đơn giản hơn trên máy Jersey kép.
Họ cho rằng cơ cấu QC dựa trên nền tảng “một ý tưởng công nghệ hoàn toàn mới, nó không thoả mãn với những giải pháp trước đây đã đem lại trên thị trường, không cần thiết phải thay đổi gì, về mang sợi hoặc hiệu chỉnh chiều cao số của bộ cấp sợi. ở đây có nghĩa là loại trừ, bất chấp sự ổn định, xếp lại một công việc phức tạp về chạy máy và hiệu chỉnh. Cơ cấu QC sẽ kết thúc việc làm tổn thương đến chất lượng máy. Hiện nay vấn đề chuyển đổi cỡ trên máy Mayer & Cie Jersey kép trở thành đơn giản. Đầu tiên hộp cam được đưa ra, cáp nối tách rời và tháo một số nhỏ ốc vít và kết thúc công việc tháo, xy-lanh và vòng số có thể chuyển động đơn giản ngoài máy, trên một giá chuyên dụng được chuyển đổi và thay thế, với công việc dễ dàng và đơn giản. Công việc chuyển đổi cỡ số này được thực hiện vừa một ngày/công, máy ngừng sản xuất khoảng 8 tiếng. Người ta thấy rằng nhu cầu cao về cơ cấu QC, đặc biệt đối với những máy 2 giường kim, máy Jersey kép Inovit 2.0 QC, InterRib 4-1.6 QC, có hoặc không có đường trượt kèm theo, InterRib 4-2.4QC và Ov 3.2 QC của Mayer & Cie sẽ được trang bị cơ cấu QC từ tháng 12/2002 như là một chuẩn mực.
Sản phẩm mới.
Vải chống bức xạ.
Cơ quan Công nghệ phòng chống bức xạ ở Florida đã triển khai ứng dụng vải demron trong phạm vi từ quần áo phòng hộ đến vải tăng chống bức xạ và vải bọc lót trên máy bay.
Quần áo phòng hộ thông thường chỉ chống được tia bức xạ anpha nhưng vải Demron ngăn được cả tia beta và gamma. Tất cả 3 loại tia bức xạ được phát ra như chất phóng xạ và phân rã tia X áo chì có tác dụng phongf chống vì nó là kim loại nặng có nguyên tử lớn, chứa nhiều điên tử. Khi một số tia bức chạm vào các điện tử của kim loại này chúng bị làm chậm và và bị hấp thụ. Tuy nhiên tia gamma và tia X lại thuộc loại tia bức xạ xuyên qua mạnh, chúng chỉ bị dừng lại nếu các điện tử của vật liệu hấp thụ đủ năng lượng của chúng.
Demron gồm polyethylene và PVC có gốc polyme, bị kẹp giữa hai lớp vải dệt thông thường. Phân tử trong polyme được thiết kế sao cho mọi tia bức xạ sẽ gặp đám mây các điện tử bao quanh nguyên tử lớn làm lệch đi hoặc hấp thụ chúng.
Jane Cleber thuộc cơ quan chất đốt hạt nhân Anh quốc nói: “sự hữu dụng của vải tiềm ẩn phụ thuộc vào mức độ chống lại tia Gamma và tia X và nó phản ứng và làm suy giảm ra sao khi đối mặt với tia bức xạ.”
Chất chống thấm mới
Một đoàn 7 nhà nghiên cứu từ Mỹ và Đức vừa nhận được phần thưởng năm 2002 từ Cơ quan nghiên cứu và phát triển Ciba Specialty Chemicals “Về công việc khai phá cơ bản tại diễn đàn công nghệ mới về chất chống thấm nước, mỡ và dầu với hiệu quả cao”. Giáo sư tiến sỹ Jean Marie Lehn, người được giải thưởng Nobel về hoá học va là thành viên ban giám đốc Ciba đã trao giải thưởng tại hội nghị ngày 14/11/2003 của Ciba Specialty Chemicals R & D ở Basle.
Đoàn do Ted Deisenroth và Marlon Haniff lãnh đạo khởi động bằng việc tìm kiếm một con đường mới đi đến chất chống thấm nước, mỡ và dầu. Trong khoảng thời gian một năm họ đã chứng minh được thành quả của một ý tưởng hoá học mới. Cùng với các nhà nghiên cứu đã giành giải thưởng khác, họ tiếp tục công việc trong vài năm nữa để thiết lập nền tảng cơ bản cho các phần tử mới trên cơ sở các hoá phẩm mới này và thích hợp cho nhiều ứng dụng khác
Sản phẩm đầu tiên được đưa ra từ năm 2000 là chất chống thấm mỡ cho bao bì đồ ăn nhanh, Ciba Lodyne 2000.Sản phẩm thứ hai là Lodyne 2001 chuyên dùng cho bao bì đồ ăn nhanh đang được giới thiệu và với các sản phẩm đang theo đuổi tiếp sau. Một công nghệ mới bổ xung để sản xuất chất bao phủ mặt ngoài rộng lớn: như bọt ổn định trong ứng dụng phòng chống cháy, đang sẵn sàng tung ra thị trường, và chất chống thấm nước, dầu trong các ứng dụng ngành dệt.
Loại viscose hàng đầu.
Công ty Aditya Birla Group vừa tung ra thị trường Rayone một thương phẩm viscose filament của mình. Với mục tiêu trở thành nhà sản xuất Rayone số 1. Ngài K.K Maheshwari chủ tịch điều hành tập đoàn và trưởng bộ phận hoá và VFY của ngành Rayon ấn Độ nói: “Rayone ấn Độ được biết đến như sản phẩm thương mại bình thường và nó sẽ đưa vị trí Rayone như một loại sợi hàng đầu trên trường quốc tế so với các sợi khác.”
Để đạt tới vị trí hàng đầu, công ty giới thiệu các loại sợi hàng đầu như sợi cú mô-đun cao, sợi siêu mảnh, sợi dệt, sợi xù và sợi giả lông. Trong đợt tung ra mới này Indian Rayon nhằm hướng tới sự lựa chọn ưa thích của các đối tượng khách hàng cao cấp trên toàn bộ thị trường VFY “ hiện đang giữ vị trí hấp dẫn ngành công nghiệp trong nước
Mở đầu 3
Chương I 6
Sự cần thiết nâng cao trình độ chuyên môn 6
I-Nguồn nhân lực và vai trò của nguồn nhân lực 6
1.Khái niệm và phân loại nguồn nhân lực 6
1.1khái niệm 6
1.2Phân loại nguồn nhân lực 7
1.2.1 Căn cứ vào nguồn gốc hình thành người ta chia ra làm 3 loại: 7
1.2.2 Căn cứ vào vai trò của từng bộ phận nguồn nhân lực người ta chia ra thành 3 loại 9
2.Các chỉ tiêu thể hiện chất lượng nguồn nhân lực 9
2.1Chỉ tiêu biểu hiện trạng thái sức khoẻ của nguồn nhân lực 10
2.2Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hoá của nguồn nhân lực 10
2.3Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật nguồn nhân lực 10
2.4 Chỉ số phát triển con người 11
II-Nhân tố ảnh hưởng đến trình độ chuyên môn. 12
1.Trình độ lành nghề của nguồn nhân lực thể hiện mặt chất lượng của sức lao động. 12
2.Cơ cấu lao động được đào tạo: 13
III-Đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu của tổng công ty Dệt May và sự cần thiết phải nâng cao trình độ chuyên môn của lao động 13
1.Đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu của tổng công ty Dệt-May 13
1.1Vị trí ngành công nghiệp Dệt-May 13
1.1.1Vị trí ngành công nghiệp Dệt-May trên thế giới 13
1.1.2Vị trí ngành công nghiệp Dệt-May Việt Nam 17
1.2Các đặc điểm chủ yếu: 22
1.2.1Năng lực 22
1.2.2Thiết bị và công nghệ 24
1.2.3 Cơ cấu và sở hữu 25
1.2.4 Phân bổ và quy mô sản xuất 25
1.2.5 Cơ cấu sản phẩm 26
1.2.6 Cung cấp nguyên liệu 26
1.2.7Đầu tư và phát triển 27
2.Sự cần thiết phải nâng cao trình độ chuyên môn 28
chương II 32
Đánh giá thực trạng và trình độ chuyên môn của nguồn lao động tạI tổng công ty dệt may việt nam (vinatex) 32
I-Tổng quan về lao động 32
2.Thực trạng nguồn nhân lực của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam(Vinatex) 35
2.1. Đánh giá về nhu cầu đào tạo và tuyển dụng nhân lực 35
2.2Phân tích thực trạng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp khảo sát. 42
II-Đánh giá về các yếu tố ảnh hưởng đến trình độ chuyên môn qua công tác đào tạo. 46
1.Công tác lập kế hoạch đào tạo 46
2.Tuyển chọn người đưa đi đào tạo 47
3.Các hình thức đào tạo 48
4.Lựa chọn cơ sở,phương pháp,giáo viên cho một chương trình đào tạo 50
5.Kinh phí cho đào tạo 50
7.Sử dụng người lao dộng sau khi đào tạo 52
8.Nhận xét về công tác đào tạo của các doanh nghiệp 52
9.Nguyên nhân và những tồn tại 54
chương iii: phương hướng và giảI pháp 56
I-Quan điểm mục tiêu và phương hướng nâng cao 56
1.Các cơ sở định hướng đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt-May Vinatex 56
1.1 Chiến lược phát triển ngành dệt may của Việt Nam 56
1.1.1Quan điểm phát triển ngành Dệt-May Việt Nam 56
1.1.2Mục tiêu tổng quát 56
1.1.3Mục tiêu sản xuất-xuất nhập khẩu của ngành đến năm 2010 57
1.1.4Nhu cầu về nhân lực trong thời gian tới của ngành Dệt-May Việt Nam 58
1.2Mục tiêu chiến lược phát triển công nghiệp của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam 58
1.2.1Mục tiêu chung 58
1.2.2Mục tiêu cụ thể đặt ra cho ngành công nghiệp 59
1.3Mục tiêu chiến lược phát triển của ngành Dệt-May của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam 59
1.3.1Mục tiêu chiến lược phát triển của ngành 59
1.3.2Mục tiêu phát triển của ngành Dệt 60
1.3.3Mục tiêu phát triển của ngành May 61
1.4Chiến lược đào tạo nguồn nhân lực của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam 62
1.5Thị trường và dự báo nhu cầu của thị trường của ngành Dệt-May 62
1.5.1Thị trường xuất khẩu 63
1.5.2Thị trường trong nước 64
1.6Dự báo nhu cầu lao động của ngành Dệt-May trong thời gian tới 65
2.Quan điểm và các mục tiêu của kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp Dệt-May của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam 65
2.1Nhiệm vụ và mục tiêu kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt-May của Vinatex từ nay đến 2010 65
2.2Quan điểm đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp Dệt-May của Vinatex 67
III-Các giải pháp hoàn thiện công tác đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp Dệt-May Vinatex 69
1.Xây dựng kế hoach đào tạo của từng doanh nghiệp Dệt-May trực thuộc: 69
1.1 Dự báo nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực của doanh nghiệp 69
1.2Xác định kế hoạch đào tạo cho từng giai đoạn 72
1.3Tổ chức thực hiện 72
1.3.1Lựa chọn đối tượng đào tạo 72
1.3.2Hình thức phương pháp cơ sở đào tạo 73
1.3.3Thời gian đào tạo 74
1.4Nguồn kinh phí đào tạo 75
1.5 Kiểm tra chất lượng đào tạo 76
1.6 Các chính sách hỗ trợ để kích thích công nhân tự nâng cao tay nghề 76
1.6.1Chế độ tiền lương ,tiền thưởng vượt định mức 76
1.6.2Xây dựng chính sách thưởng,phạt trong doanh nghiệp 76
1.6.3Nâng cao chất lượng đối với khâu tuyển dụng đầu vào 77
2.Xây dựng và củng cố hệ thống đào tạo nghề cho ngành Dệt-May của Vinatex: 77
2.1Đổi mới mục tiêu đào tạo và chương trình,phương pháp đào tạo tạI các cơ sở đào tạo: 78
2.2Xây dựng giáo trình và đội ngũ giáo viên: 78
2.3Tăng cường đầu tư cho cơ sở đào tạo: 78
2.4Cải tiến công tác kiểm tra giám sát các cơ sở đào tạo: 79
2.5Tạo sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp: 79
3.Tổ chức hệ thống quản lý ngành Dệt-May cảu Tổng Công ty: 79
3.1Xây dựng bộ phận quản lý Nhà nước về kinh tế ngành Dệt-May của cả nước-ban dệt-may: 80
3.2Trung tâm đào tạo đứng ra chịu trách nhiệm thực hiện chương trình đào tạo cho tổng công ty 81
3.2.1Đào tạo cán bộ quản trị doanh nghiệp 81
3.2.2Kinh phí thực hiện 84
4.Các kiến nghị với chính phủ 85
4.1 Nhà nước hoàn thiện việc phân công,phân cấp,phân quyền bộ phận quản lý nhà nước về kinh tế ngành dệt may Việt Nam trong Bộ Công nghiệp 85
4.2Chính phủ cần hoàn thiện hệ thống đào tạo nghề cho ngành Dệt-May 85
4.3Chính phủ điều chỉnh hợp lý các mức thuế suất áp dụng cho các doanh nghiệp Dệt-May 86
4.4Cần triển khai chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp Dệt-May về giá,vốn... 86
4.5Củng cố và mở rộng quan hệ ngoại giao 86
Kết luận 87
Phụ lục 1:Các công ty thuộc Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam 89
Phụ lục 2: Công viêc may áo Jacket 91
Phụ lục 3:Một số chỉ tiêu tài chính của các doanh nghiệp khảo sát năm 2003 96
Phụ lục 4:Một số định mức lý thuyết của ngành Dệt-May 97
Phụ lục 5:Hiệp định Dệt-May Việt Nam-Hoa Kỳ 100
Phụ lục 6:Một số yếu tố kỹ thuật và hạn ngạch Dệt-May Việt Nam xuất khẩu sang EU 105
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0048.doc