Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư Bình Thuận thời kỳ 2005 - 2010

-1- PHẦN MỞ ĐẦU 1/ Tính cấp thiết của đề tài: Bình Thuận nằm vào vị trí hết sức thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội, nằm trên trục giao lưu kinh tế của vùng Nam Trung bộ và Tây nguyên và là cửa ngỏ phía Đông của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là vùng động lực với tốc độ tăng trưởng mạnh nhất của cả nước, gắn liền với một thị trường hết sức rộng lớn và sôi động. Ngoài vị trí thuận lợi, Bình Thuận còn được thiên nhiên ưu đãi rất giàu có tài nguyên tự nhiên, phong phú về

pdf86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1565 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư Bình Thuận thời kỳ 2005 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tài nguyên du lịch… Tuy nhiên, Bình Thuận là một tỉnh duyên hải lại có nhiều huyện, xã vùng cao vùng sâu, địa hình phức tạp, cơ sở vật chất còn quá nghèo nàn, lạc hậu, điểm xuất phát kinh tế thấp. Những năm qua, trong công cuộc đổi mới Bình Thuận luôn luôn quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội tạo tiền đề để hướng tới công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đầu tư và khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên nhưng không làm cạn kiệt trữ lượng; đầu tư không chỉ tạo cơ sở vật chất phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội mà còn là yếu tố để thu hút đầu tư trong tỉnh, ngoài tỉnh và quốc tế. Đặc biệt, để chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tỉnh Bình Thuận cũng đang ra sức đầu tư, khai thác mọi nguồn lực; đồng thời, để kêu gọi đầu tư mà chủ yếu là các lĩnh vực dịch vụ - du lịch – giải trí, chế biến nông sản – hải sản, chế biến lương thực – thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất – gia công sản phẩm cơ khí, điện tử, dệt – may, giày da, khai thác và chế biến khoáng sản, đầu tư trồng trọt, chăn nuôi, xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp và dịch vụ dầu khí. Chính vì vậy, đầu tư luôn luôn là cần thiết. Hàng năm Ngân sách tỉnh đã dành một khoản chi khá lớn (khoảng 30%) trong tổng chi ngân sách để chi cho đầu tư; tăng thu ngân sách được tỉnh ưu tiên bổ sung cho chi đầu tư và thường là mức chi năm sau cao hơn năm trước. Song, điều đáng lo ngại là hiệu quả sử dụng đồng vốn đầu tư của nhà nước chưa cao, thất thoát lãng phí đang ở mức báo động, chất lượng công trình kém, là môi trường thuận lợi thoái hóa đội ngũ cán bộ quản lý… -2- Xuất phát từ những yêu cầu mang tính cấp bách như trên, việc định hướng và đề ra những giải pháp thiết thực để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của tỉnh Bình Thuận từ nay đến năm 2010 là một việc làm có ý nghĩa quan trọng trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản tại địa phương. Việc hình thành nghiên cứu nội dung đề tài: “Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tỉnh Bình Thuận thời kỳ 2005-2010” dưới dạng một luận văn với mục đích hướng đến giải quyết các yêu cầu bức xúc nêu trên. 2/ Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: * Mục đích nghiên cứu: đề tài hướng mục đích vào việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản tỉnh Bình Thuận. Với những giải pháp tổng hợp này sẽ giúp cho công tác quản lý đầu tư đi vào nề nếp, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong tương lai. * Nhiệm vụ nghiên cứu: nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là nêu lên những lý luận và thực tiễn về nội dung đầu tư, vốn đầu tư. Trên cơ sở lý luận, đi sâu phân tích đánh giá hiện trạng đầu tư của tỉnh Bình Thuận từ trước năm 2004, từ đó luận văn tập trung đề xuất một số giải pháp theo định hướng phát triển đầu tư tỉnh Bình Thuận trong thời kỳ 2005-2010. 3/ Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: * Phạm vi nghiên cứu: Về không gian đề tài giới hạn nghiên cứu toàn cảnh hoạt động đầu tư xây dựng của tỉnh Bình Thuận trong khoảng thời gian từ 2000- 2004 và những năm tiếp theo. * Phạm vi không gian: đề tài được giới hạn trong phạm vi địa giới của tỉnh Bình Thuận nhưng cũng gắn kết với tình hình đầu tư của cả nước để các giải pháp đưa ra có tính gắn kết và bao quát hơn. Luận văn không giải quyết hết các nội dung liên quan đến đầu tư và cũng không có điều kiện đi vào các lĩnh vực chuyên sâu thuộc về kỹ thuật xây dựng, đầu tư công trình không phải của nhà nước… 4/ Phương pháp nghiên cứu: Cơ sở phương pháp luận của quá trình nghiên cứu đề tài là dựa trên thế giới quan của chủ nghĩa Mác-Lênin, để nhận thức xem xét tình hình một cách hiện thực khách quan từ đó đưa ra những giải pháp có tính khả thi cao. -3- Ngoài ra, có các phương pháp được áp dụng như: Phương pháp khảo sát hiện trạng tại địa bàn tỉnh Bình Thuận để thẩm tra, đánh giá tình hình và có giải pháp phù hợp; phương pháp thu thập và xử lý thông tin để nắm thêm về tình hình đầu tư chung của một số công trình mang tính quốc gia, tình hình đầu tư một số tổ chức quốc tế thông qua các phương tiện như: sách, báo, tạp chí… giúp cho việc nhận định, phân tích tình hình và giải pháp có tính bao quát hơn; kết hợp với các phương pháp khác như: thống kê, phân tích, so sánh… Trên cơ sở lý luận khoa học về đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, đối chiếu với hoạt động đầu tư xây dựng tại tỉnh Bình Thuận để đề xuất một số giải pháp thích hợp góp phần hoàn thiện công tác quản lý đầu tư xây dựng của tỉnh Bình Thuận. 5/ Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài * Nêu được những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động đầu tư xây dựng, những tiêu chuẩn và nguyên tắc sử dụng vốn đầu tư trong quản lý chi ngân sách tỉnh. * Đúc kết kinh nghiệm về hoạt động đầu tư xây dựng đối với một số nguồn vốn thuộc các tổ chức quốc tế, qua đó đối chiếu với tình hình thực tiễn Việt Nam để có biện pháp thích hợp. * Đề xuất các giải pháp theo từng nhóm cụ thể để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tỉnh Bình Thuận thời kỳ 2005-2010. 6/ Hạn chế của đề tài: Lĩnh vực hoạt động đầu tư rất rộng và phong phú mà luận văn chưa có điều kiện đi sâu phân tích để xây dựng thành một đề tài toàn diện. Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu chủ yếu thực tiễn về hoạt động đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách tỉnh Bình Thuận. 7/ Kết cấu nội dung: Nội dung luận văn gồm có 3 phần chính, được kết cấu theo 3 chương như sau: Chương 1: Lý luận chung về vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư Chương 2: Thực trạng vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tỉnh Bình Thuận - Thời kỳ 2001-2005 Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tỉnh Bình Thuận – Thời kỳ 2006-2010 -4- CHUƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN ĐẦU TƯ VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ 1.1. KHÁI NIỆM VỀ ĐẦU TƯ VÀ VỐN ĐẦU TƯ 1.1.1. Khái niệm, phân loại, vai trò về đầu tư: Thuật ngữ “đầu tư” có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, “sự hy sinh”. Từ đó, có thể coi “đầu tư” là sự bỏ ra, sự hy sinh những cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Theo quan điểm của Chủ đầu tư (người chủ sở hữu vốn, người vay vốn hoặc người được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý và sử dụng vốn để thực hiện đầu tư theo quy định của pháp luật) thì đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh doanh, để từ đó thu được số vốn lớn hơn số đã bỏ ra thông qua lợi nhuận. Theo quan điểm của xã hội (Quốc gia) thì đầu tư là hoạt động bỏ vốn phát triển, để từ đó thu được các hiệu quả kinh tế - xã hội, vì mục tiêu phát triển quốc gia. Như vậy, đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Các loại hình đầu tư: * Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trị để hưởng lãi suất định trước (gửi tiền tiết kiệm, mua trái phiếu Chính Phủ) hoặc lãi suất tùy thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. * Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người bán và người đầu tư với khách hàng của họ. -5- * Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động : người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang hoạt động và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Phân loại đầu tư: * Theo chức năng quản trị vốn đầu tư: có đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là phương thức đầu tư, trong đó chủ đầu tư trực tiếp tham gia quản trị vốn đã bỏ ra. Đầu tư gián tiếp cũng là phương thức đầu tư, trong đó chủ đầu tư không trực tiếp tham gia quản trị vốn đã bỏ ra. * Theo tính chất sử dụng vốn đầu tư: có đầu tư phát triển và đầu tư dịch chuyển. Đầu tư phát triển là phương thức đầu tư trực tiếp, trong đó việc bỏ vốn nhằm gia tăng giá trị tài sản. Đối với các nước đang phát triển, đầu tư phát triển có vai trò quan trọng hàng đầu, là phương thức căn bản để tái sản xuất mở rộng, tăng thu nhập quốc dân, tạo ra việc làm và thu nhập cho người lao động. Đầu tư chuyển dịch là phương thức đầu tư trực tiếp, trong đó việc bỏ vốn nhằm dịch chuyển quyền sở hữu giá trị tài sản. Đầu tư chuyển dịch có ý nghĩa quan trọng trong hình thành và phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường hối đoái… hỗ trợ cho hoạt động đầu tư phát triển. * Theo ngành đầu tư: có 4 loại Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật (năng lượng, thông tin liên lạc, giao thông, cấp thoát nước…)và xã hội (trường học, bệnh viện, nhà trẻ, cơ sở văn hóa, thể thao giải trí…). Đối với các nước đang phát triển, cơ sở hạ tầng rất yếu kém và mất cân đối nghiêm trọng. Cơ sở hạ tầng cần được đầu tư phát triển, đi trước một bước, tạo tiền đề để phát triển các lĩnh vực kinh tế khác. Đầu tư phát triển công nghiệp là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây dựng các công trình công nghiệp. Trong công cuộc phát triển ở nước ta hiện nay theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đầu tư công nghiệp là chính yếu, nhằm gia tăng giá trị sản lượng công nghiệp trong GDP. -6- Đầu tư phát triển nông nghiệp là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây dựng các công trình nông nghiệp. Việt Nam từ điểm xuất phát là một nước nông nghiệp, với lợi thế so sánh trong nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực, cho nên đầu tư phát triển nông nghiệp có ý nghĩa chiến lược, lâu dài nhằm đảm bảo an toàn lương thực quốc gia và giá trị sản lượng nông nghiệp hợp lý trong GDP. Đầu tư phát triển dịch vụ là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây dựng các công trình dịch vụ ( thương mại, khách sạn – du lịch, dịch vụ khác…). Trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng cao, đầu tư dịch vụ là xu thế phát triển, nhằm gia tăng tỷ trọng giá dịch vụ trong GDP ở Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. * Theo tính chất đầu tư: có 3 loại Đầu tư mới là hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, nhằm hình thành các công trình mới. Đầu tư mới đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, trình độ công nghệ và quản lý mới, song nó có ý nghĩa quyết định trong thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư chiều sâu là hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, nhằm cải tạo, mở rộng, nâng cấp, hiện đại hóa, đồng bộ hóa dây chuyền sản xuất, dịch vụ, trên cơ sở các công trình đã có sẵn. Đầu tư chiều sâu đòi hỏi ít vốn, thời gian thu hồi vốn nhanh, công nhân quen tay nghề, bộ máy quản lý quen nghiệp vụ. Hình thức này được ưu tiên đối với các nước đang phát triển, trong điều kiện còn thiếu vốn-công nghệ-quản lý. Tận dụng năng lực sản xuất - dịch vụ là hình thức tận dụng 100% công suất thiết kế của năng lực sản xuất đã có trên quan điểm tiết kiệm và hiệu quả. * Theo nguồn vốn: vốn trong nước (ngân sách, tín dụng do nhà nước bảo lãnh, doanh nghiệp nhà nước, các nguồn khác) và vốn ngoài nước. Vai trò của đầu tư trong quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa: Đầu tư là phương tiện để chuyển dịch và phát triển cơ cấu kinh tế, giải quyết quan hệ cung - cầu về vốn trong phát triển, góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn lực mới cho phát triển. Đồng thời, đầu tư giải quyết quan hệ cung cầu về sản phẩm, dịch vụ trên thị trường, cân đối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng trong xã hội; góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, cải biến bộ mặt kinh tế - xã hội của đất nước. 1.1.2. Đặc điểm về đầu tư: Thứ nhất, đầu tư được coi là yếu tố khởi đầu cơ bản của sự phát triển và sinh lời. Tuy nhiên, có nhiều yếu tố tạo nên tăng trưởng và sinh lời, trong đó có -7- yếu tố đầu tư. Nhưng để bắt đầu một quá trình sản xuất hoặc tái mở rộng quá trình này, trước hết phải có vốn đầu tư. Nhờ sự chuyển hóa vốn đầu tư thành vốn kinh doanh tiến hành hoạt động, từ đó tăng trưởng và sinh lời. Trong các yếu tố tạo ra sự tăng trưởng và sinh lời này vốn đầu tư được coi là một trong những yếu tố cơ bản. Đặc điểm này không chỉ nói lên vai trò quan trọng của đầu tư trong việc phát triển kinh tế mà còn chỉ ra động lực quan trọng kích thích các nhà đầu tư nhằm mục đích sinh lời. Tuy nhiên, động lực này thường vấp phải những lực cản bởi một số đặc điểm khác. Thứ hai, đầu tư đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, khối lượng vốn đầu tư lớn thường là tất yếu khách quan nhằm tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết đảm bảo cho tăng trưởng và phát triển kinh tế như: xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng , xây dựng các cơ sở công nghiệp luyện kim, chế tạo máy, công nghiệp hóa dầu, công nghiệp lương thực thực phẩm, ngành điện năng… Vì sử dụng một khối lượng vốn khổng lồ, nên nếu sử dụng vốn kém hiệu quả sẽ gây nhiều phương hại đến sự phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt, sử dụng vốn đầu tư nước ngoài với khối lượng vốn lớn và kém hiệu quả thì gánh nợ nước ngoài ngày càng chồng chất vì không có khả năng trả nợ, tình hình tài chính khó khăn sẽ dẫn đến khủng hoảng tài chính tiền tệ. Các cơn lốc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Mêhicô và các nước Đông Nam Á vừa qua là những điển hình về tình trạng này. Thứ ba, quá trình đầu tư XDCB phải trải qua một quá trình lao động rất dài mới có thể đưa vào sử dụng được và thời gian thu hồi vốn đòi hỏi nhiều năm tháng vì sản phẩm XDCB mang tính đặc biệt và tổng hợp. Sản xuất không theo một dây chuyền hàng loạt mà mỗi công trình, dự án có kiểu cách, tính chất khác nhau lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố điều kiện tự nhiên, địa điểm hoạt động thay đổi liên tục và phân tán, thời gian khai thác và sử dụng thường là 10 năm, 20 năm, 50 năm hoặc lâu hơn tùy thuộc vào tính chất dự án. Quá trình thực hiện dự án gồm ba giai đoạn: chuẩn bị dự án, thực hiện dự án và khai thác dự án. - Giai đoạn chuẩn bị dự án, giai đoạn thực hiện dự án là tất yếu, những giai đoạn này kéo dài mà không tạo ra sản phẩm. Đây chính là nguyên nhân của công thức “Đầu tư mâu thuẫn với tiêu dùng”. Vì vậy, có nhà kinh tế cho rằng đầu tư là quá trình làm bất động hóa một số vốn nhằm thu lợi nhuận trong nhiều thời kỳ nối -8- tiếp sau này, cho nên muốn nâng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cần chú ý tập trung các điều kiện đầu tư có trọng điểm nhằm đưa nhanh dự án vào khai thác. - Khi xét hiệu quả đầu tư cần quan tâm xem xét cả ba giai đoạn của quá trình đầu tư, tránh tình trạng thiên lệch, chỉ tập trung vào giai đoạn thực hiện dự án mà không chú ý vào cả thời gian khai thác dự án. - Do chú ý sản xuất kéo dài nên việc hoàn vốn được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm, phải lựa chọn trình tự bỏ vốn thích hợp để giảm mức tối đa thiệt hại do ứ đọng vốn ở sản phẩm dở dang, việc coi trọng hiệu quả kinh tế do đầu tư mang lại là rất cần thiết nên phải có các phương án lựa chọn tối ưu, đảm bảo trình tự XDCB. Thời gian hoàn vốn là một chỉ tiêu rất quan trọng trong việc đo lường và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn. - Đầu tư là một lĩnh vực có rủi ro lớn. Rủi ro trong lĩnh vực đầu tư XDCB chủ yếu do thời gian của quá trình đầu tư kéo dài. Trong thời gian này, các yếu tố kinh tế, chính trị và cả tự nhiên ảnh hưởng sẽ gây nên những tổn thất mà các nhà đầu tư không lường định hết khi lập dự án. Các yếu tố liên quan đến đầu tư như: sự thay đổi chính sách thuế, mức lãi suất, sự thay đổi thị trường, thay đổi nhu cầu sản phẩm… đều có thể gây nên thiệt hại cho các nhà đầu tư, tránh được hoặc hạn chế rủi ro sẽ thu được những món lời lớn và đây là niềm hy vọng kích thích các nhà đầu tư. Chính vì xét trên phương diện này mà Samuelson cho rằng: đầu tư là sự đánh bạc về tương lai với hy vọng thu nhập của quá trình đầu tư sẽ lớn hơn chi phí của quá trình này. Đặc điểm chỉ ra rằng, nếu muốn khuyến khích đầu tư cần phải quan tâm đến lợi ích của các nhà đầu tư. Lợi ích mà các nhà đầu tư quan tâm nhất là hoàn đủ vốn đầu tư của họ và lợi nhuận tối đa thu được nhờ hạn chế hoặc tránh rủi ro. Do đó họ mong muốn hoàn vốn nhanh và có lãi. Vì vậy, các chính sách khuyến khích đầu tư cần quan tâm đến những ưu điểm miễn, giảm thuế trong thời kỳ đầu về khấu hao cao, về lãi suất vay vốn thấp, về chuyển vốn và lãi về nước nhanh, thuận tiện (vốn đầu tư nước ngoài). 1.1.3. Khái niệm về vốn đầu tư: Vốn đầu tư là vốn để thực hiện dự án đầu tư; là tiền tích lũy của xã hội, của các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác nhau như liên doanh, liên kết hoặc tài trợ của nước ngoài… nhằm để: tái sản xuất các tài sản cố định nhằm duy trì hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, để đổi mới và bổ sung các cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, cho các ngành hoặc các cơ sở kinh doanh dịch vụ, cũng như thực hiện các -9- chi phí cần thiết tạo điều kiện cho sự bắt đầu hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật mới được bổ sung hoặc mới được đổi mới. Đối với các nước đang phát triển để đảm bảo tăng trưởng và phát triển kinh tế cần có hàng loạt các yếu tố tổng hợp như: vốn đầu tư, tài nguyên và môi trường, lao động, khoa học kỹ thuật… Trong đó, vốn đầu tư là yếu tố quan trọng đầu tiên cần thiết cho công cuộc phát triển kinh tế với nhu cầu rất lớn nhằm đầu tư cơ sở hạ tầng, đầu tư cho giáo dục đào tạo, đầu tư cho tiến bộ kỹ thuật - khoa học - công nghệ, đầu tư cho sản xuất kinh doanh. 1.1.4. Các nguồn hình thành vốn đầu tư: Vốn đầu tư của nền kinh tế được hình thành từ hai nguồn chính: vốn trong nước và vốn ngoài nước. a) Vốn trong nước: Là vốn hình thành từ nguồn tích lũy nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Cơ sở vật chất kỹ thuật để có thể tiếp thu và phát huy tác dụng của vốn đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của đất nước chính là khối lượng vốn đầu tư trong nước. Tỷ lệ giữa vốn huy động được ở trong nước để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả vốn nước ngoài tùy thuộc vào đặc điểm và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. Nguồn vốn đầu tư trong nước có ý nghĩa quyết định trong công cuộc phát triển quốc gia. Xét về lâu dài thì nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách chắc chắn và không phụ thuộc phải là nguồn vốn đầu tư trong nước. - Vốn ngân sách nhà nước gồm: ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Vốn ngân sách được hình thành từ vốn tích lũy của nền kinh tế và được nhà nước duy trì trong kế hoạch ngân sách để cấp cho đơn vị thực hiện các công trình thuộc kế hoạch nhà nước. Vốn này được đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, không có khả năng thu hồi vốn và được quản lý, sử dụng theo phân cấp về chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển; hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật; chi cho công tác điều tra, khảo sát, lập các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn… -10- - Vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh hoặc tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước được sử dụng cho đầu tư sản xuất kinh doanh, tổ chức kinh tế không thuộc doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. - Vốn của các doanh nghiệp quốc doanh: được hình thành từ lợi nhuận để lại của các doanh nghiệp để bổ sung cho vốn kinh doanh. Nguồn vốn này luôn có vai trò to lớn và tác dụng trực tiếp nhất đối với tốc độ tăng trưởng hàng năm của tổng sản phẩm trong nước. Đây chính là nguồn vốn mà các chính sách kinh tế trong các giai đoạn tiếp theo tập trung thu hút cho đầu tư. - Vốn của tư nhân và của hộ gia đình: trong xu hướng khuyến khích đầu tư trong nước và cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ thì nguồn vốn đầu tư từ khu vực này ngày càng lớn về quy mô và tỷ trọng so với vốn đầu tư của khu vực nhà nước. Vốn đầu tư của tư nhân hay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là phần lợi nhuận còn lại sau khi trừ đi các loại thuế và các khoản lãi cho cổ đông (đối với công ty cổ phần). Vốn của dân cư là phần thu nhập chưa dùng đến thường được tích lũy dưới dạng trữ kim, đô la hay các bất động sản hoặc gửi tiết kiệm trong ngân hàng hoặc ngày công lao động. b) Vốn nước ngoài: Vốn đầu tư nước ngoài là vốn của các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào trong nước dưới các hình thức đầu tư gián tiếp hoặc đầu tư trực tiếp. - Vốn đầu tư gián tiếp: là vốn của các Chính Phủ, các tổ chức quốc tế như: viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với lãi suất thấp và thời hạn dài, kể cả vay theo hình thức thông thường. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới hình thức ODA-Viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn, cho nên tác dụng mạnh và nhanh đối với giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của nước nhận đầu tư. Vai trò đầu tư gián tiếp được thể hiện ở những thành tựu phát triển kinh tế-xã hội của Hàn Quốc, Philipine những năm sau giải phóng và đối với Việt Nam những năm chống Mỹ cứu nước. Tuy nhiên, tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp thường gắn với việc trả giá bằng chính trị, nợ nần chồng chất nếu không sử dụng có hiệu quả vốn vay và thực hiện nghiêm ngặt chế độ trả nợ vay. Các nước Đông Nam Á và NICS Đông Á đã thực hiện giải pháp vay dài hạn, vay ngắn hạn rất hạn chế và đặc biệt không vay thương mại. Vay dài hạn lãi suất thấp, việc trả nợ không khó khăn vì có thời gian hoạt động đủ để thu hồi vốn. -11- - Vốn đầu tư trực tiếp (FDI): là vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn bỏ ra. Vốn này thường không chỉ đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, với vốn đầu tư trực tiếp thì nước nhận đầu tư không phải lo trả nợ, lại có thể dễ dàng có được công nghệ (do người đầu tư đem vào góp vốn sử dụng), trong đó có cả công nghệ bị cấm xuất theo con đường ngoại thương, vì lý do cạnh tranh hay cấm vận nước nhận đầu tư; học tập kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc theo lối công nghiệp của nước ngoài, gián tiếp có chỗ đứng trên thị trường thế giới; nhanh chóng được thế giới biết đến thông qua quan hệ làm ăn với nhà đầu tư. Nước nhận đầu tư trực tiếp phải chia sẻ lợi ích kinh tế do đầu tư đem lại với người đầu tư theo mức độ góp vốn của họ. Vì vậy, có quan điểm cho rằng đầu tư trực tiếp sẽ làm cạn kiệt tài nguyên của nước nhận đầu tư. Tùy theo điều kiện cụ thể của mình, các nước ASEAN và NICS Đông Á, có nước dựa chủ yếu vào vốn đầu tư gián tiếp (Hàn Quốc, Philipine, Thái Lan, Inđônêsia, Malaixia), có nhiều nước lại chú trọng vốn đầu tư trực tiếp (Singapor, Hồng Kông). Để thu hút nhanh các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, các nước ASEAN và NICS Đông Á đã tạo môi trường thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài như: cung cấp cơ sở hạ tầng, dịch vụ, có luật đầu tư ưu đãi, lập các khu chế xuất. Hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở các nước ASEAN là kỹ thuật cao, ở các nước NICS là phục vụ xuất khẩu. Ở Việt Nam để đạt được tốc độ tăng trưởng GDP ít nhất là 7%/năm thì tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong 10 năm (2001-2010) phải đạt mức 50-55 tỷ USD. Theo tình hình Việt Nam hiện nay thì các nguồn vốn trong nước chỉ đáp ứng được một nửa nhu cầu, nửa còn lại phải huy động từ bên ngoài. Đó chính là vốn ODA và FDI, trong đó dự kiến thu hút khoảng 11-12 tỷ USD và 15-17 tỷ vốn FDI, tổng cộng 25-28 tỷ USD vốn nước ngoài (theo chiến lược phát triển kinh tế do Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự thảo). 1.2. CÁC CHỈ TIÊU HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ 1.2.1. Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn đầu tư ở tầm vĩ mô: Đầu tư mang lại tính chất dài hạn và liên quan đến nhiều mặt hoạt động. Trong từng giai đoạn của toàn bộ quá trình đầu tư, các mặt hoạt động này sẽ tác động đến hiệu quả vốn đầu tư theo những mức độ khác nhau. Để đánh giá hiệu quả vốn đầu tư ở tầm vĩ mô cần phải có nhiều chỉ tiêu nhằm đo lường hiệu quả -12- từng mặt hoạt động này sẽ tác động đến hiệu quả vốn đầu tư theo những mức độ khác nhau. Để đánh giá hiệu quả vốn đầu tư ở tầm vĩ mô cần phải có nhiều chỉ tiêu nhằm đo lường hiệu quả từng mặt, từng giai đoạn đầu tư. a) Hiệu suất tài sản cố định: Hiệu suất tài sản cố định biểu hiện sự so sánh giữa khối lượng tổng sản phẩm quốc nội được tạo ra trong kỳ (GDP) với khối lượng giá trị TSCĐ trong kỳ (FA), được tính theo công thức: H(fa) = FA GDP Chỉ tiêu này cho biết, trong từng thời kỳ nào đó thì một đồng giá trị TSCĐ sử dụng sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng sản phẩm quốc nội. Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư còn có chỗ chưa chính xác vì sự biến động của TSCĐ và tổng sản phẩm quốc nội không hoàn toàn phụ thuộc vào nhau. b) Hiệu suất vốn đầu tư: Hiệu suất vốn đầu tư biểu hiện quan hệ so sánh giữa mức tăng trưởng GDP và vốn đầu tư trong kỳ, được xác định theo công thức: Hi = I GDPΔ Trong đó: Hi là hiệu suất vốn đầu tư trong kỳ, ∆GDP là mức tăng trưởng GDP trong kỳ, I là mức đầu tư trong kỳ. Chỉ tiêu hiệu suất vốn đầu tư phản ánh tổng hợp hiệu quả vốn đầu tư, nhưng có nhược điểm cơ bản là sự hạn chế về tính so sánh được giữa tử số và mẫu số của chỉ tiêu, vì giữa GDP và vốn đầu tư trong cùng một thời kỳ không tồn tại mối quan hệ trực tiếp. Thời kỳ ngắn thì nhược điểm này càng bộc lộ rõ. Có thể tham khảo công thức sử dụng hệ số K: K = 1− Δ t t I GDP So sánh mức tăng GDP năm sau với tổng số vốn đầu tư năm trước. c) Hệ số gia tăng vốn sản phẩm (hệ số ICOR): -13- Hệ số ICOR cho biết trong từng thời kỳ cụ thể muốn tăng thêm một đồng GDP thì cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư. Hệ số ICOR càng thấp thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư càng cao. ICOR = Vốn đầu tư/Tốc độ tăng GDP Hệ số ICOR đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng kế hoạch kinh tế. d) Hệ số trang bị TSCĐ cho lao động: Hệ số trang bị TSCĐ cho lao động (HL) được xác định bằng tỷ số giữa giá trị bình quân của tài sản cố định trong kỳ (FA) và số lượng lao động sử dụng bình quân trong kỳ (L) được tính theo công thức: HL = L FA Hệ số này cũng là một chỉ tiêu hiệu quả vốn đầu tư quan trọng vì kết quả vốn đầu tư được biểu hiện ở khối lượng tài sản cố định, yếu tố vật chất hóa sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong việc nâng cao mức độ trang bị kỹ thuật cho lao động biểu hiện kết quả của việc tăng cường cơ giới hóa, tự động hóa và các phương hướng phát triển khoa học kỹ thuật khác là tiền đề quan trọng đảm bảo năng suất lao động, phát triển sản xuất, nâng cao mức sống của dân cư. e) Hệ số thực hiện vốn đầu tư: Hệ số thực hiện vốn đầu tư là một chỉ tiêu hiệu quả vốn đầu tư rất quan trọng, nó phản ánh mối quan hệ giữa khối lượng vốn đầu tư bỏ ra với giá trị tài sản cố định (kết quả của vốn đầu tư) được đưa vào sử dụng. Hệ số được tính theo công thức: Hu = I FA Trong đó: Hu là hệ số thực hiện vốn đầu tư, FA là giá trị TSCĐ được đưa vào sử dụng trong kỳ, I là mức đầu tư trong kỳ. Hệ số vốn đầu tư càng lớn, biểu hiện hiệu quả vốn đầu tư càng cao. 1.2.2. Các chỉ tiêu hiệu quả vốn đầu tư ở tầm vi mô: Đo lường và đánh giá hiệu quả vốn đầu tư ở tầm vi mô tức là đo lường và đánh giá hiệu quả của từng dự án đầu tư. a) Thời gian hoàn vốn: Thời gian hoàn vốn đầu tư xác định khoảng thời gian số vốn đầu tư bỏ ra và thu hồi lại được hoàn toàn. -14- Thời gian hoàn vốn đầu tư có thể xác định theo thời gian hoàn vốn đầu tư không chiết khấu (ký hiệu là I) và thời gian hoàn vốn đầu tư có tính đến yếu tố thời gian của tiền (thời gian hoàn vốn đầu tư có chiết khấu P(It) ). + Thời gian hoàn vốn không chiết khấu của dự án: là thời gian cần thiết để thu hồi lại số vốn đầu tư đã bỏ ra bằng các khoản tích lũy hoàn vốn hàng năm. Chỉ tiêu này được tính toán trong dự án tiền khả thi: khi chỉ tiêu tính toán càng nhỏ hơn thời gian hoàn vốn không chiết khấu cho phép thì hiệu quả hoạt động của dự án càng cao, càng hấp dẫn; ngược lại nếu chỉ tiêu tính toán lớn hơn cho phép thì dự án không đảm bảo thời gian hoàn vốn, cần phải điều chỉnh dự án. Công thức tính: I = ( )∑ = + n t tt DNP 1 Trong đó: I là tổng vốn đầu tư cho dự án t = 1,2,3…n là số thứ tự năm thực hiện dự án NPt là lợi nhuận sau thuế hàng năm của dự án Dt là giá trị khấu hao hàng năm của dự án Trong điều kiện một nước đang phát triển, còn thiếu vốn thì chỉ tiêu thời gian hoàn vốn được xác định quan trọng hàng đầu và nhất thiết được xem xét, đánh giá trong thẩm định dự án. Một dự án đầu tư, trước hết cần thu hồi đủ số vốn đã bỏ ra để sử dụng cho các mục đích sinh lời, mục tiêu phát triển tiếp theo. + Thời gian hoàn vốn có chiết khấu của dự án: là thời gian cần thiết để thu hồi lại hiện giá vốn đầu tư đã bỏ ra bằng hiện giá tích lũy hoàn vốn hàng năm. Chỉ tiêu này được tính toán trong dự án khả thi: khi chỉ tiêu tính toán càng nhỏ hơn thời gian hoàn vốn không chiết khấu cho phép thì hiệu quả hoạt động._. của dự án càng cao, càng hấp dẫn; ngược lại nếu chỉ tiêu tính toán lớn hơn cho phép thì dự án không đảm bảo thời gian hoàn vốn, cần phải điều chỉnh dự án. Công thức tính: P(It) = P (NPt + Dt) Trong đó: P(It) là tổng hiện giá vốn đầu tư phân bổ hàng năm P (NPt + Dt) là tổng hiện giá tích lũy hoàn vốn hàng năm của dự án b) Tỷ suất sinh lời nội bộ của dự án (IRR): Là tỷ suất chiết khấu, mà với tỷ suất này hiện giá thu nhập thuần NPV của dự án bằng 0. Tỷ suất sinh lời nội bộ của dự án IRR (% năm) là tỷ lệ lãi do dự án đem lại lãi suất IRR thì: - Nếu IRR < r dự án sẽ lỗ tức NPV < 0 - Nếu IRR = r dự án sẽ hòa vốn tức NPV = 0 - Nếu IRR > r dự án sẽ lỗ tức NPV > 0 -15- Khi chỉ tiêu tính toán IRR càng lớn hơn tỷ suất sinh lời cho phép thì hiệu quả tài chính của dự án càng cao, càng hấp dẫn; ngược lại nếu chỉ tiêu tính toán nhỏ hơn cho phép thì dự án không đạt hiệu quả tài chính, cần phải điều chỉnh dự án. IRR là một chỉ tiêu hiệu quả tài chính quan trọng nhất để xác định hiệu quả đầu tư của một dự án. Đây là một chỉ tiêu bắt buộc trong thẩm định dự án. IRR là tỷ lệ lãi mà nếu thay nó để xác định NPV thì NPV = 0 tức là: NPV = ( ) ( )∑= −+ −n t t tt IRR CB 1 11 = 0 Trong đó: Bt là lợi ích hàng năm của dự án Ct là chi phí hàng năm của dự án NPV là hiện giá thu nhập thuần Xác định IRR: ( ) ( )∑= −+ −n t t tt x CB 1 11 = 0 Giải phương trình này dùng các phương pháp sau: phương pháp đồ thị, phương pháp thử dần để xác định tỷ suất chiết khấu giả định và phương pháp nội suy. c) Chỉ tiêu hiện giá thu nhập thuần của dự án (NPV): NPV = ( )( )∑= −+ −n t t tt r CB 1 11 Trong đó: Bt là lợi ích hàng năm của dự án Ct là chi phí hàng năm của dự án t là thứ tự năm trong thời gian thực hiện dự án r là tỷ suất chiết khấu tài chính của dự án, % năm NPV > 0 thì dự án đầu tư có hiệu quả và chỉ tiêu này càng lớn hơn 0 thì hiệu quả càng cao. Khi NPV ≤= 0 thì dự án không đạt hiệu quả tài chính, cần phải điều chỉnh dự án. Chỉ tiêu NPV cho biết, với một chi phí cơ hội mong muốn nhất định của nhà đầu tư, hiện giá lợi ích có lớn hơn hiện giá chi phí hay không? với yêu cầu hiện giá lợi ích phải lớn hơn hiện giá chi phí để thu được lợi nhuận. Chỉ tiêu này biểu hiện mối quan hệ so sánh giá trị tuyệt đối giữa hiện giá lợi ích và hiện giá chi phí. d) Hiện giá hệ số sinh lời của dự án P(B/C): Tỷ số giữa hiện giá lợi ích và hiện giá chi phí (B/C) là tỷ số giữa hiện giá thu nhập và hiện giá chi phí trong toàn bộ thời gian thực hiện dự án, được tính theo công thức: -16- P( C B ) = ∑ ∑ = = n t tt n t tt axC axB 1 1 Với a = 1 )1( 1 − + t r là hệ số chiết khấu tài chính của dự án Trong đó: Bt là lợi ích hàng năm của dự án Ct là chi phí hàng năm của dự án t là thứ tự năm trong thời gian thực hiện dự án r là tỷ suất chiết khấu tài chính của dự án, % năm Nếu P(B/C) > 1 : Thu nhập > Chi phí, hiệu quả tài chính dự án cao Nếu P(B/C) = 1 : Thu nhập = Chi phí, dự án không có lãi Nếu P(B/C) < 1 : Thu nhập < Chi phí, dự án bị lỗ Ưu điểm của chỉ tiêu này cho thấy mức thu nhập của một đồng hiện giá chi phí có khả năng thu được mấy đồng hiện giá lợi ích; nhược điểm là không cho biết tổng số lãi ròng thu được (có dự án B/C lớn nhưng tổng lãi ròng vẫn nhỏ). 1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ VỐN ĐẦU TƯ Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả vốn đầu tư. Các nhân tố ảnh hưởng này tác động đến cả hai thành phần của hiệu quả vốn đầu tư. Lợi ích công dụng của các đối tượng do kết quả của quá trình đầu tư tạo nên khi được đưa vào sử dụng và vốn đầu tư chỉ ra nhằm tạo nên các kết quả ấy. Do đó, các nhân tố này tồn tại dọc theo suốt thời gian của quá trình đầu tư: từ khi có chủ trương đầu tư, ngay trong quá trình thực hiện đầu tư-xây dựng và đặc biệt là cả quá trình khai thác-sử dụng các đối tượng đầu tư được hoàn thành. 1.3.1. Chiến lược công nghiệp hoá: Công nghiệp hóa được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ từ nền sản xuất nhỏ, lạc hậu lên một nền sản xuất lớn, hiện đại. Vì vậy, chiến lược công nghiệp hóa sẽ ảnh hưởng đến các chính sách kinh tế khác. Lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa đúng sẽ tạo cho việc lựa chọn các chiến lược, các chính sách đúng đắn. Đó là điều kiện cực kỳ quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng lâu bền, tạo nhiều việc làm, ổn định giá cả, đảm bảo nâng cao mức sống của cộng đồng dân cư và thiết lập một xã hội cộng đồng văn minh, biểu hiện của việc sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. -17- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được các nhà kinh tế tổng kết thành 2 mô hình: mô hình thay thế nhập khẩu và mô hình hướng ra xuất khẩu. Mỗi mô hình được hình thành trong những điều kiện lịch sử cụ thể, thời điểm nhất định và có tác dụng tích cực nhất định. Thực tế đã chứng minh rằng, quốc gia nào lựa chọn mô hình công nghiệp hóa đúng đắn, thích hợp thì sự nghiệp công nghiệp hóa sẽ thành công, vốn đầu tư được sử dụng có hiệu quả. Các nước công nghiệp mới là những nước đã thành công trong sự nghiệp công nghiệp hóa theo mô hình ‘thay thế nhập khẩu’. Chẳng hạn Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, đất nước được mệnh danh là “Thiên lý mã” thành công nhất trong công nghiệp hóa theo mô hình này, nhưng sau đó và cho đến nay đã gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế, theo đó vốn đầu tư được sử dụng kém hiệu quả. Bởi lẻ, mô hình ‘thay thế nhập khẩu’ phát triển cao sẽ đòi hỏi phải nhập thiết bị và nguyên vật liệu, trong khi đó sức mua hạn hẹp và thiếu thị trường tiêu thụ. Mặt khác, việc mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, tư bản nước ngoài vào đầu tư sẽ chiếm lĩnh thị trường và cạnh tranh với công nghiệp bản xứ. Hậu quả là kinh tế đình trệ, mức tăng trưởng suy giảm… nếu không chuyển sang mô hình ‘hướng ra xuất khẩu’. Mô hình ‘hướng ra xuất khẩu’ chỉ áp dụng trong điều kiện có mặt hàng chủ lực đủ sức cạnh tranh với thị trường quốc tế; mô hình này có đặc trưng: thu hút tư bản nước ngoài, tận dụng nhân công rẻ trong nước, sản xuất mặt hàng chất lượng cao, có sức cạnh tranh thâm nhập thị trường thế giới nhưng vẫn đảm bảo nhập khẩu. 1.3.2. Các chính sách kinh tế: Các chính sách kinh tế là nhóm nhân tố tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Các chính sách này gồm chính sách định hướng phát triển kinh tế như: chính sách công nghiệp, chính sách thương mại, chính sách đầu tư… và các chính sách làm công cụ điều tiết vĩ mô hoặc vi mô như: chính sách tài khóa (công cụ chủ yếu là chính sách thuế và chi tiêu của Chính Phủ), chính sách tiền tệ (công cụ là chính sách lãi suất và mức cung ứng tiền), chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách khấu hao,… Các chính sách kinh tế tác động đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực, vốn đầu tư được sử dụng có hiệu quả cao hay thấp. Các chính sách kinh tế tác động vào lĩnh vực đầu tư, góp phần tạo ra một cơ cấu đầu tư nhất định, là cơ sở để hình thành -18- một cơ cấu hợp lý hay không cũng như tác động làm giảm hoặc tăng thất thoát vốn đầu tư, theo đó mà vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả hoặc kém hiệu quả. Trong quá trình khai thác sử dụng các đối tượng đầu tư hoàn thành, các chính sách kinh tế tác động làm cho các đối tượng này phát huy tác dụng tích cực hay tiêu cực, vốn đầu tư được sử dụng có hiệu quả cao hay thấp. Các chính sách kinh tế tác động vào lĩnh vực đầu tư, góp phần tạo ra một cơ cấu đầu tư nhất định, là cơ sở để hình thành cơ cấu hợp lý hay không cũng như tác động làm giảm hoặc tăng thất thoát vốn đầu tư, theo đó mà vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả hoặc kém hiệu quả. Trong quá trình khai thác sử dụng các đối tượng đầu tư hoàn thành, các chính sách kinh tế tác động làm cho các đối tượng này phát huy tác dụng tích cực hay tiêu cực. Đó là điều kiện làm cho vốn đầu tư được sử dụng có hiệu quả cao hay thấp. Khi đã lựa chọn mô hình chiến lược công nghiệp hóa đúng, nếu các chính sách kinh tế được xác định phù hợp có hệ thống, đồng bộ và nhất quán thì sự nghiệp công nghiệp hóa sẽ thắng lợi, vốn đầu tư sẽ mang lại hiệu quả sử dụng cao. 1.3.3. Công tác tổ chức quản lý đầu tư xây dựng: Tổ chức quản lý đầu tư xây dựng là một lĩnh vực rất rộng, bao gồm nhiều nội dung nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất tinh thần nhân dân. Sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn vốn đầu tư do nhà nước quản lý, chống thất thoát lãng phí. Bảo đảm xây dựng dự án theo quy hoạch xây dựng yêu cầu bền vững mỹ quan, bảo vệ môi trường sinh thái, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong xây dựng, áp dụng công nghệ tiên tiến, bảo đảm chất lượng và thời hạn xây dựng với chi phí hợp lý, bảo hành công trình xây dựng. Việc tổ chức quản lý chặt chẽ theo đúng trình tự XDCB đối với các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước và vốn do doanh nghiệp nhà nước. Phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, chủ đầu tư, tổ chức tư vấn và nhà thầu trong quá trình đầu tư và xây dựng nhằm sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Theo đó, nội dung gồm: -19- - Phân loại dự án theo tính chất, quy mô đầu tư để phân cấp quản lý, công tác giám định đầu tư của các dự án do cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư. - Công tác kế hoạch hóa đầu tư để tổng hợp cân đối vốn đầu tư của tất cả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, dự báo các cân đối vĩ mô. Ở các doanh nghiệp cân đối và phản ánh đầy đủ các nguồn vốn khấu hao cơ bản, tích lũy từ lợi tức sau thuế, các nguồn huy động trong và ngoài nước. - Công tác xây dựng cơ chế chính sách về quản lý quy hoạch, quản lý đầu tư xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn, quy phạm, quy chuẩn xây dựng, quy trình thiết kế xây dựng, các quy định về quản lý chất lượng công trình xây dựng, hệ thống định mức chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật, định mức chi phí tư vấn, xây dựng đơn giá,… - Công tác chuẩn bị đầu tư, thăm dò thị trường, thu thập tài liệu, môi trường sinh thái, điều tra khí tượng thủy văn, lập dự án đầu tư, điều tra khảo sát thiết kế,…Công tác đấu thầu xây dựng theo quy chế đấu thầu. - Công tác tổ chức chuẩn bị thực hiện dự án, quản lý thi công xây lắp,triển khai thực hiện dự án đầu tư. Công tác kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn đầu tư. Công tác tạm ứng, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư XDCB hoàn thành. Công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản theo trình tự XDCB có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Nhóm nhân tố này ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, trước hết là tác động đến việc tạo ra kết quả đầu tư (các đối tượng đầu tư hoàn thành) và tác động đến chi phí đầu tư. Chất lượng của công tác tổ chức quản lý đầu tư xây dựng nói trên sẽ tạo điều kiện cho việc tiết kiệm hay thất thoát lãng phí vốn đầu tư, cũng tạo điều kiện cho các kết quả đầu tư tăng hay giảm về mặt khối lượng và mang lại nhiều hay ít các lợi ích kinh tế-xã hội khi khai thác sử dụng các kết quả đầu tư này. Do những thiếu sót trong công tác quản lý đầu tư xây dựng đã làm cho vốn đầu tư bị thất thoát lãng phí. Một số đối tượng đầu tư hoàn thành mang lại hiệu quả sử dụng không như mong muốn làm cho số vốn đầu tư sử dụng kém hiệu quả. 1.3.4. Tổ chức khai thác, sử dụng các đối tượng đầu tư hoàn thành: Nhân tố này thuộc mắt xích cuối cùng của sợi dây chuyền hiệu quả. Tổ chức khai thác các đối tượng đầu tư hoàn thành sẽ mang lại một khối lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ nhất định. So sánh khối lượng hàng hóa dịch vụ này với nhu cầu hàng hóa dịch vụ của nền kinh tế sẽ xác định lợi ích kinh tế của vốn đầu tư. Đây là một trong hai nhân tố cấu thành hiệu quả vốn đầu tư. -20- Tổ chức khai thác các đối tượng đầu tư hoàn thành có kết quả tốt hay không lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố: - Do tác động của việc chọn mô hình chiến lược kinh tế và tác động của công tác tổ chức quản lý đầu tư xây dựng các nhân tố này tùy theo mức độ đúng đắn, thích hợp của chúng mà tác động tích cực hay tiêu cực đến kết quả khai thác các đối tượng đầu tư hoàn thành. - Các nhân tố thuộc bản thân tổ chức khai thác, sử dụng các đối tượng đầu tư hoàn thành như công tác quản lý, tổ chức sản xuất, công tác nghiên cứu triển khai áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, công tác tiếp thị chiếm lĩnh và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, công tác cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm… Các nhân tố này, theo vị trí riêng của chúng, có thể tác động độc lập và theo mối liên hệ tác động lẫn nhau giữa chúng có thể tác động tổng hợp đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. 1.4. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ-Xà HỘI TỈNH BÌNH THUẬN 1.4.1. Vị trí địa lý: Bình Thuận là một tỉnh duyên hải trong khu kinh tế Đông Nam bộ, diện tích tự nhiên 7.992km2, dân số 1,2 triệu người. Toàn tỉnh có 8 huyện và một thành phố, Phan thiết là tỉnh lỵ. Vị trí địa lý thuận lợi cho giao lưu phát triển kinh tế, cách thành phố Hồ Chí Minh theo Quốc lộ 1A (đi dọc chiều dài của tỉnh) là 200km, ngoài đường giao thông Quốc lộ 1A còn có Quốc lộ 55 nối Bà Rịa-Vũng Tàu với Tây Nguyên, Quốc lộ 28 nối từ Bình Thuận đến Lâm Đồng, đường sắt xuyên Việt Bắc-Nam ngang qua tỉnh. Cơ cấu kinh tế hiện nay của tỉnh Bình Thuận là nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ và đang chuyển dịch dần theo hướng tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ. 1.4.2. Tiềm năng, nguồn lực: Theo số liệu thống kê năm 2002: - Số lao động trong độ tuổi là 611.531 người - Thu nhập bình quân đầu người là 298 USD - Tốc độ tăng trưởng GDP (1996-2002) là 9,92% - Cơ cấu kinh tế là Công nghiệp và xây dựng 23,8%, Nông lâm thuỷ sản 39,2%, Dịch vụ 37% -21- Bình Thuận là một trong 3 ngư trường lớn của Việt Nam, với trữ lượng khoảng 240 nghìn tấn hải sản các loại, trong đó có nhiều loại hải đặc sản có giá trị kinh tế cao, sản lượng cho phép khai thác vùng ven bờ hàng năm khoảng 130-150 nghìn tấn. Vùng ven biển diện tích trên 5.000 ha, thuận lợi cho nghề nuôi trồng thủy sản phát triển, đặc biệt về sản xuất tôm giống. Với trên 160.000ha đất trồng trọt, khoảng 100.000ha đất có khả năng nông nghiệp cùng điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu đặc trưng; Bình Thuận có nhiều lợi thế để phát triển các loại cây công nghiệp, cây thực phẩm và cây ăn quả nhiệt đới, hình thành các vùng chuyên canh hàng hóa như: bông vải, điều, cao su, nho, thanh long… Các yếu tố trên cũng thuận lợi và thích hợp để đầu tư phát triển chăn nuôi bò thịt, bò sữa, heo, đà điểu quy mô lớn. Một số khoáng sản của Bình Thuận có trữ lượng lớn, chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu khai thác và chế biến như: nước khoáng thiên nhiên (8 mỏ), cát thủy tinh (trên 400 triệu tấn), cát đen (Imenite, Zircon 4 triệu tấn), đá Granit, sét Bentonit, dầu khí… Tiềm năng đa dạng cho phát triển du lịch là ưu điểm nổi bật của tỉnh Bình Thuận. Tính đến nay, đã có 77 dự án du lịch đi vào hoạt động, trong đó có nhiều khu du lịch đạt chuẩn phục vụ 3-4 sao; ngoài ra có khoảng 70 dự án du lịch đang triển khai thi công xây dựng. Lượng khách đến tham quan, du lịch và nghỉ dưỡng tăng bình quân hàng năm trên 30%, năm 2004 dự kiến có 1,5 triệu du khách đến Bình Thuận, trong đó 10% là khách quốc tế… Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là lĩnh vực đang được tỉnh Bình Thuận khuyến khích, vừa qua nhiều ngành nghề mới được đầu tư tại Bình Thuận như: may mặc, cán thép, sản xuất phụ tùng và khung gầm ô tô, cán bông… Khu công nghiệp Phan thiết giai đoạn 1 đã lấp đầy và đang mở rộng giai đoạn 2 (thêm 60 ha) để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư. Bình Thuận cũng đang khẩn trương thành lập và đầu tư hoàn chỉnh 3 khu công nghiệp mới (khu công nghiệp Hàm Kiệm, khu công nghiệp Tân Thiện, khu công nghiệp Tân Thắng) để sẵn sàng tiếp nhận các dự án sản xuất công nghiệp theo yêu cầu của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hiện nay, dầu khí đang được xem là thế mạnh kinh tế mới của Bình Thuận với nhiều mỏ dầu trữ lượng lớn đã được phát hiện cách đất liền 60km trong đó có 3 mỏ đang khai thác là Ruby, Sư Tử Đen và Rạng Đông, hai mỏ chuẩn bị khai thác là Sư Tử Trắng và Sư Tử Vàng. Phát triển công nghiệp dầu-khí tại Bình Thuận đang được Chính Phủ và các bộ, ngành Trung Ương quan tâm đầu tư. -22- Trong thời gian qua, Bình Thuận đã sẵn sàng và tham gia tốt tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế Bình thuận phát triển khá, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trên 12%, trong đó lĩnh vực nông-lâm-thủy sản tăng 6-7%, công nghiệp-xây dựng tăng 14-16%, dịch vụ tăng 13-15%. 1.4.3. Thực trạng một số ngành chủ yếu: Theo báo cáo tình hình thực hiện 5 năm 2001-2005 và kế hoạch thực hiện nhiệm vụ 5 năm 2006-2010 của UBND tỉnh Bình Thuận: - Nông, lâm, ngư nghiệp: phát triển mạnh theo hướng thâm canh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con nuôi , tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất; chế biến, nuôi trồng thủy sản bước đầu gắn công nghiệp chế biến và xuất khẩu; bộ mặt nông nghiệp, nông thôn chuyển biến rõ nét. Kết quả đạt được đến năm 2005 so với năm 2000, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng 64,3% trong đó giá trị sản xuất ngành trồng trọt tăng 76,68%, chăn nuôi tăng 39,07%. Năng suất một số cây trồng tăng lên khá cao: cây lúa từ 34,5 tạ/ha tăng lên 42 tạ/ha (tăng 21,73%), cây bắp từ 28,8 tạ/ha tăng lên 50 tạ/ha (tăng 73,61%), cây bông vải từ 7,3 tạ/ha tăng lên 14,6 tạ/ha (tăng 100%), cây điều từ 2,2 tạ/ha tăng lên 8 tạ/ha (tăng 263,63%), cây cao su từ 3,5 tạ/ha tăng lên 11,8 tạ/ha (tăng 237,14%),… Đàn gia súc, gia cầm phát triển mạnh, so với năm 2000 tổng đàn trâu, bò tăng từ 125.641 con lên 178.100 con (tăng 41,75%), đàn gia cầm từ 3,5 triệu con tăng lên 4,5 triệu con (tăng 28,57%), chất lượng đàn gia súc được cải thiện rõ nét, tỷ lệ máu lai đàn bò ước đạt 50% vào năm 2005. Hoạt động lâm nghiệp chuyển dần sang lâm nghiệp xã hội hóa, trong 5 năm 2000-2005 đã trồng mới được 20.951 ha rừng tập trung. Công tác giao khoán rừng được đẩy mạnh, đã tiến hành quy hoạch 3 loại rừng, hạn chế khai thác rừng tự nhiên. Kinh tế trang trại phát triển cả về số lượng, quy mô, hình thức tổ chức đa dạng, phát huy ưu thế của từng vùng. Phát triển kinh tế rừng gắn với giải quyết cho lao động vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Kinh tế thủy sản tiếp tục phát triển cả khai thác, nuôi trồng và chế biến sản phẩm. Giá trị sản xuất ngành thủy sản từ 652 tỉ đồng năm 2000 tăng lên 1.125 tỉ đồng (tăng 72,5%). Sản lượng khai thác hải sản tăng bình quân hàng năm hơn 6,8% từ 128.096 tấn năm 2000 lên 140.000 tấn năm 2005. Nuôi trồng thủy sản có bước tăng trưởng nhanh. Đặc biệt, sản xuất tôm giống đã tạo bước nhảy vọt và -23- đứng đầu khu vực Nam Trung bộ về sản lượng (đạt gần 4.000 triệu post năm 2005). - Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: đã có bước phát triển khá, phục vụ sản xuất nông, ngư nghiệp, gắn với sản xuất hàng xuất khẩu, sản lượng nhiều loại sản phẩm tăng, thu hút đầu tư vào khu công nghiệp đạt khá. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 1.800 tỉ đồng (tăng 127% so với năm 2000), trong đó khu vực quốc doanh của địa phương giảm 23%, và khu vực ngoài quốc doanh tăng 167%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng gần 60 lần. Năng lực sản xuất một số ngành như chế biến nông hải sản, vật liệu xây dựng, khoáng sản tăng…; công nghệ nâng cấp, mở rộng dây chuyền sản xuất trong các ngành công nghiệp chế biến thủy sản, nước khoáng… Nhiều sản phẩm tăng nhanh về sản lượng như: hàng hải sản khô và đông lạnh, hạt điều, dược phẩm, nước khoáng, bông xơ, sa khoáng, nước mắm, gạch nung. Có nhiều sản phẩm mới sản xuất đứng vững và mở rộng thị trường. Phần lớn các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến nông-lâm-thủy sản, khoáng sản đã gắn việc chế biến với vùng nguyên liệu tốt hơn, tạo thế chủ động trong sản xuất và phát triển ổn định. Phát triển công nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực ngoài quốc doanh. Khu công nghiệp Phan thiết được lắp đầy và đầu tư mở rộng, điều chỉnh, định hướng các ngành sản xuất không gây ô nhiễm môi trường. Đang tích cực chuẩn bị đầu tư khu công nghiệp Hàm Kiệm giai đoạn 1, quy hoạch và thực hiện các bước để chuẩn bị đầu tư các khu công nghiệp có quy mô lớn, đón đầu sự phát triển công nghiệp của vùng trọng điểm kinh tế phía Nam, công nghiệp dầu khí. Phát triển tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn bước đầu được quan tâm chỉ đạo, quy hoạch hình thành 9 cụm công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp ở các địa phương, đã công nhận 15 làng nghề công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp và 3 làng nghề truyền thống, hỗ trợ vốn để lập dự án phát triển 17 làng nghề và 3 cụm công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp nông thôn. - Thương mại, dịch vụ: phát triển khá, đáp ứng cơ bản yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là du lịch dịch vụ phát triển nhanh cả về cơ sở kinh doanh, lượng khách, doanh thu và giải quyết việc làm, góp phần tăng trưởng chung. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng bình quân hàng năm 18,5%, thương mại nội địa được sắp xếp lại theo hướng tạo nguồn hàng bán buôn, mở rộng mạng lưới đại lý đến mọi miền, với sự tham gia của nhiều -24- thành phần kinh tế, phương thức kinh doanh đa dạng… bước đầu đã có sự liên kết giữa sản xuất và thương mại, nhất là các sản phẩm lợi thế của tỉnh. Hoạt động xuất nhập khẩu phát triển về quy mô, đa dạng hơn về sản phẩm. Một số doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư trang bị công nghệ hiện đại, tiên tiến và quan tâm quản lý chất lượng, chất lượng từng bước ổn định và nâng cao; thị trường xuất khẩu được mở rộng ra một số nước châu Á, châu Âu và châu Mỹ. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2005 dự kiến 110 triệu USD tăng 2,35 lần so với năm 2000. Sản lượng các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu tăng đáng kể, chủng loại các sản phẩm xuất khẩu ngày càng nhiều và đa dạng hơn. Hoạt động nhập khẩu có nhiều cố gắng, bảo đảm cho nhu cầu đầu tư phát triển và vật tư nguyên liệu cho các ngành sản xuất. Dịch vụ du lịch phát triển nhanh, năm 2000 có 24 cơ sở kinh doanh du lịch với 610 phòng nghỉ, đến năm 2005 có 140 cơ sở với trên 3.000 phòng nghỉ (trong đó có khoảng 1.700 của 30 cơ sở được xếp hạng từ 2 đến 4 sao). Lượng khách du lịch tăng bình quân 27%/năm. Doanh thu tăng bình quân hàng năm 29,6% đạt 450 tỉ đồng năm 2005 (gấp 3,6 lần so với năm 2000). Tỉ trọng GDP của ngành kinh tế du lịch chiếm 5,2% tổng GDP toàn tỉnh năm 2000 tăng lên 10% năm 2005. Các loại hình dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông, tài chính, dịch vụ công, các dịch vụ hỗ trợ các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp… phát triển mạnh và nhanh hơn giai đoạn trước. Dịch vụ tín dụng, bảo hiểm ngày càng được mở rộng và đáp ứng tốt nhu cầu của các tầng lớp nhân dân. Các loại dịch vụ khác như: giáo dục đào tạo, khám chữa bệnh, tư vấn pháp lý, hỗ trợ kinh doanh ngày càng có chất lượng và hiệu quả. 1.4.4. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội: - Giao thông vận tải: Đường bộ: nằm trên trục giao thông trọng yếu Bắc - Nam, Bình Thuận có 03 tuyến quốc lộ chạy qua đều đã được nâng cấp, mở rộng. Quốc lộ 1A xuyên Việt đã nâng cấp mở rộng hoàn chỉnh từ đầu năm 2000. Quốc lộ 55 đi Bà Rịa-Vũng Tàu và Quốc lộ 28 Phan Thiết đi Di Linh đang được nâng cấp, mở rộng và hoàn chỉnh vào năm 2001. Các tuyến đường đến các trung tâm huyện, xã, vùng núi và các vùng kinh tế quan trọng khác cũng đang được chính quyền địa phương huy động các nguồn vốn để đầu tư đảm bảo cho sản xuất, lưu thông hàng hóa và đi lại của nhân dân. Đường sắt: Bắc – Nam qua tỉnh với chiều dài 190 km và 11 nhà ga. Đường biển: là một tỉnh duyên hải có vùng biển rộng, bờ biển dài 192 km, có hải đảo và nằm cạnh đường hàng hải quốc tế. Hiện tại -25- cảng biển Phú Quí đã xây dựng xong, tiếp nhận tàu 10.000 tấn ra vào, cảng Phan Thiết đang được xây dựng tiếp nhận tàu 2.000 tấn. Đường hàng không: nhu cầu đi lại, nhất là đối với khách du lịch, nhà đầu tư ngày càng nhiều, tỉnh đang kêu gọi nhà đầu tư để xây dựng lại sân bay Phan Thiết. - Thông tin liên lạc: hệ thống đã được hiện đại, được nối mạng với hệ thống thông tin quốc gia và quốc tế. Các dịch vụ điện thoại di động, internet được sử dụng rộng rải, đảm bảo các yêu cầu của khách hàng. Số lượng máy điện thoại bình quân 4,59 máy/100 dân. - Điện năng: Nguồn điện có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu về điện. Có 03 nguồn điện chính: từ nhà máy thủy điện Đa Nhim qua lưới truyền tải 110 KV, từ nhà máy thủy điện Hàm Thuận-Đa Mi qua lưới truyền tải 110 KV, từ trạm phát điện diesel 3800KWh. Hệ thống lưới điện tại thành phố Phan Thiết cũng đang được nâng cấp cải tạo, đáp ứng đủ các nhu cầu khu dân cư và khu công nghiệp Phan Thiết. - Nước: nhà máy nước Phan Thiết có công suất 25.000 m3/ngày đêm, hiện đang nâng cấp và mở rộng hệ thống đường ống bằng nguồn vốn ADB, đảm bảo đáp ứng đủ các nhu cầu sinh hoạt và sản xuất. Tại các huyện đều có trạm cấp nước quy mô nhỏ 500-2000 m3/ngày đêm. - Hệ thống dịch vụ khác: hệ thống ngân hàng, bảo hiểm, giáo dục, khám chữa bệnh, dịch vụ pháp lý, công chứng nhà nước, nhà đất, xây dựng, vận tải, dịch thuật, dạy nghề, giới thiệu việc làm… khá phát triển đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của khách hàng. Tóm lại: Trong giai đoạn 2000-2005, tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh tương đối ổn định, kinh tế tiếp tục duy trì và phát triển với tốc độ khá , cao hơn mục tiêu của kế hoạch 5 năm Nghị quyết Tỉnh Đảng bộ đề ra. Chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và sản phẩm có chuyển biến. Giá trị sản xuất của các ngành tăng nhanh. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, phát huy được lợi thế từng vùng, từng ngành, từng sản phẩm. Kinh tế đối ngoại được mở rộng, chủ động hòa nhập kinh tế quốc tế. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội được đầu tư phát huy hiệu quả. Các mặt xã hội đều có bước phát triển, đời sống nhân dân được nâng lên. Bên cạnh những thành tích đạt được thì vẫn còn tồn tại, trong đó vấn đề đầu tư là một trong những nguyên nhân chính: chưa khai thác tốt mọi tiềm năng để phát triển kinh tế, đầu tư chưa tập trung cho các công trình trọng điểm, các nhiệm -26- vụ trọng tâm. Công tác quản lý đầu tư xây dựng công trình chưa chặt chẽ, môi trường đầu tư chưa thật sự hấp dẫn, một số vướng mắc trong khâu chuẩn bị đầu tư chậm được tháo gỡ, hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ còn yếu kém, chưa đồng bộ. Nguồn thu ngân sách dành cho đầu tư còn hạn hẹp, quản lý khai thác một số nguồn thu chưa tốt; tỉ lệ huy động từ GDP vào ngân sách thấp nên chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của địa phương. 1.4.5. Sự cần thiết phải đầu tư ở Bình Thuận: Đầu tư là chìa khóa trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh nhất thiết phải đầu tư thỏa đáng. Điều đó càng đúng với các quốc gia có điểm xuất phát thấp, phát triển kinh tế từ nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu. Bình Thuận cũng không nằm ngoài quy luật này. Để đạt mục tiêu về tăng bình quân GDP đầu người, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, để đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế như dự báo thì vấn đề bức xúc hiện nay đặt ra cho Bình Thuận là đầu tư phát triển của tỉnh. Bình Thuận là một tỉnh duyên hải, một bên là biển Đông bao la sóng vỗ thì bên kia là Tây nguyên ngút ngàn, hùng vĩ; một đầu là Nha Trang nắng gió ngập tràn thì đầu kia là Đồng Nai-Vũng Tàu-Hồ Chí Minh rộn ràng, sôi động. Giữa những gì to lớn và đầy năng động ấy, Bình Thuận mang dáng dấp của một tỉnh nhỏ bé, yên tĩnh như tên gọi của nó. Song, đó chính là một ưu thế về địa lý để Bình Thuận có điều kiện phát triển kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp và dịch vụ du lịch: Về nông nghiệp: với diện tích chủ yếu dành cho sản xuất nông nghiệp, tỉnh Bình Thuận có ưu thế về các loại sản phẩm nông nghiệp như hoa quả, động vật nuôi, các loại gỗ quý hiếm. Đồng thời với vị trí thuận lợi đã tạo điều kiện cho việc giao lưu trao đổi hàng hóa với các tỉnh bạn và bắt đầu vươn xa trên thị trường thế giới. Song song với lợi thế về nông nghiệp, việc phát triển công nghiệp chế biến là điều vô cùng cần thiết: chế biến hải sản, nông sản, khai khoáng, thủ công mỹ nghệ… chú ý phát triển nhanh, có hiệu quả các khu công nghiệp tập trung, cụm tiểu thủ công nghiệp, làng nghề nông thôn. Chuẩn bị tốt cho phát triển công nghiệp dầu khí-lĩnh vực có nhiều tiềm năng hiện nay của tỉnh. Tích cực đổi mới, hiện đại hóa kỹ thuật, công nghệ, tạo bước tiến rõ rệt về chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm. -27- Về du lịch: tiềm năng du lịch, dịch vụ của tỉnh cũng rất lớn do địa hình ven biển, khí hậu ôn hòa, nhiều phong cảnh đẹp, đồng thời có vị trí giao lưu dễ dàng. Hiện nay các thành phố lớn đã trở nên quá tải, môi trường ồn ào ô nhiễm… dẫn đến việc đi tìm những nơi có khí hậu trong lành, cảnh đẹp núi rừng, chiêm ngưỡng các nét văn hóa của dân tộc ít người, đi thăm trang trại, tham dự các lễ hội truyền thống của dân tộc là điều vô cùng hấp dẫn. Vì vậy, trong những năm qua tỉnh tập trung khai thác thế mạnh về du lịch và dịch vụ du lịch. Phát triển nhanh các ngành dịch vụ có giá trị cao, phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội như: bưu chính-viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn, vận tải, thương mại. Nhiều khu du lịch sinh thái phát triển, khu du lịch nghĩ dưỡng… được phát triển cả về số lượng và chất lượng. Để đạt được điều này, đòi hỏi cần phải đầu tư nhiều hơn nữa nhằm khai thác tiềm năng một cách bền vững. Như vậy nhu cầu đầu tư vào Bình Thuận là rất cao, kể cả về mặt khách quan lẫn chủ quan. Về mặt chủ quan do tỉnh còn nghè._. thiếu, thậm chí có những nội dung mâu thuẫn nhau làm cho việc quản lý trong lĩnh vực đầu tư xây dựng rất khó khăn. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Mới đây Luật Xây dựng ra đời, nên hệ thống hóa theo luật chưa hoàn chỉnh mà đang trong quá trình hình thành và phát triển. Để đảm bảo áp dụng có kết quả các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư cần phải khẩn trương bổ sung, sửa đổi và ban hành đồng bộ hệ thống pháp luật để điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực đầu tư. -73- Việc bổ sung sửa đổi hệ thống văn bản trước hết nên tập trung vào công tác quy hoạch, công tác kế hoạch hóa đầu tư, phân cấp quản lý đô thị, xây dựng và ban hành hệ thống định mức tiêu chuẩn trong đầu tư xây dựng, hoàn thiện các mô hình giao thầu hợp lý (ngoài phương thức đấu thầu thay cho chỉ định thầu như hiện nay, còn cần bổ sung phương thức khoán gọn), ban hành quy định về sự lựa chọn cũng như phân định quyền hạn của chủ đầu tư, ban quản lý dự án, các quy định về điều kiện hành nghề của các nhà tư vấn, kiến trúc sư… Các giải pháp đề xuất sẽ khó thực hiện nếu các vấn đề trên không được bổ sung sửa đổi thông qua các văn bản pháp luật. 3.3.2. Hoàn thiện và phát triển thị trường vốn và lao động: Hoàn thiện và phát triển thị trường vốn sẽ tạo điều kiện cho việc khơi thông các nguồn và kênh dẫn vốn. Theo đó nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước được huy động vào lĩnh vực đầu tư phát triển. Hoàn thiện và mở rộng thị trường vốn làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường vốn. Do đó một khối vốn đầu tư sử dụng phải được tính toán cân nhắc kỷ lưỡng. Bằng cách đó hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được nâng cao. Hiện nay các thị trường vốn ở nước ta đang được dần dần phát triển và hoàn thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu. Đặc biệt đã xuất hiện thị trường chứng khoán và những kết quả ban đầu của nó đã cho thấy sự ra đời của nó rất cần thiết. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng chất lượng và quy mô hoạt động của sở giao dịch chứng khoán đã mở nhưng chưa đạt như mong muốn. Các cơ quan có trách nhiệm cần nghiên cứu nâng cao chất lượng hoạt động của sở giao dịch hiện có và mở thêm các sở giao dịch chứng khoán ở các thành phố có điều kiện. Thị trường lao động cũng vậy, là nơi tạo điều kiện cho cung lao động và cầu lao động gặp nhau. Theo đó nhiều lực lượng lao động được sử dụng để phát triển kinh tế xã hội. Mặt khác qua thị trường lao động, tính cạnh tranh trong các lực lượng lao động được tăng cao, bao gồm sự cạnh tranh giữa người hữu nghiệp và người thất nghiệp. Điều này không chỉ tác động làm cho người thất nghiệp phải học tập, rèn luyện tay nghề để chờ cơ hội làm việc mà còn đánh tan sự thờ ơ của những người đang chờ việc. Vì nếu họ không tích cực tham gia vào quá trình đào tạo và tự đào tạo để nâng cao kiến thức chuyên môn và tay nghề thì sẽ bị đào thải. Đó là những -74- điều kiện giúp cho việc lựa chọn đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực vào hoạt động đầu tư, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. 3.3.3. Đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước: Cổ phần hóa nhằm cải cách, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước làm cho lĩnh vực này hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. Thực tế ở nước ta cũng như ở nhiều nước khác đã chỉ ra rằng, khi chủ sở hữu vốn và chủ sử dụng vốn là một thì vốn được sử dụng có hiệu quả hơn các trường hợp chủ sở hữu vốn tách biệt với chủ sử dụng vốn. Trong thành phần kinh tế nhà nước, người chủ sở hữu vốn rất chung chung, là “nhà nước” nhưng người sử dụng vốn lại rất cụ thể là “giám đốc” doanh nghiệp nhà nước hoặc là chủ đầu tư hoặc là trưởng ban quản lý dự án đầu tư thuộc vốn nhà nước. Trong điều kiện đó, nếu công cụ quản lý nhà nước chưa đủ mạnh để kết hợp “3 lợi ích” và hệ thống hóa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích toàn xã hội thì những chủ sử dụng vốn rất dễ có cơ hội biến tài sản của nhà nước thành tài sản cá nhân và đó là nguyên nhân quan trọng gây nên lãng phí thất thoát vốn. Vì vậy các nước đang phát triển và nhất là các nước chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế hỗn hợp (như Séc, Sloven, Hungari…) đã thực hiện việc tư nhân hóa và tái tư nhân hóa các cơ sở kinh tế rất sâu rộng (ngược với chính sách quốc hữu hóa trước kia họ đã làm). Ở Việt Nam, mặc dù từ bỏ mô hình kinh tế chỉ huy nhưng đang xây dựng một nền kinh tế đa thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng XHCN, nên chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một chính sách đúng đắn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được cổ phần hóa hoạt động có hiệu quả hơn. Vì chủ sở hữu vốn lúc này không chỉ còn là nhà nước nữa mà là một tập thể hội đồng quản trị đại diện cho lợi ích của nhà nước và của các cổ đông. Vì lợi ích kinh tế của mình, việc sử dụng vốn được quản lý giám sát cụ thể nên hiệu quả hơn. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được tiến hành ở nước ta mấy năm nay và đã thu được kết quả quan trọng. Tuy nhiên, do có những quan niệm nhận thức khác nhau, chưa thống nhất, làm cho tốc độ cổ phần hóa khi nhanh khi chậm, không theo đúng lộ trình. Vì vậy, đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa các doanh -75- nghiệp nhà nước cũng là tiền đề, là điều kiện áp dụng có kết quả các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. 3.3.4. Đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính nhà nước: Cải cách hành chính nhằm sắp xếp, tinh giản bộ máy, chống quan liêu cửa quyền, nâng cao hiệu lực hoạt động của bộ máy hành chính. Cải cách hành chính do đó tạo cho nền kinh tế xã hội năng động, thông thoáng, hoạt động có hiệu quả. Riêng ở lĩnh vực đầu tư xây dựng, cải cách hành chính sẽ giảm rất nhiều sự trì trệ trong khâu lập và phê duyệt dự án, giải phóng mặt bằng, cấp phát thanh toán, quyết toán, cho vay đầu tư… nhờ đó mà giảm cửa quyền, phiền hà, chống lãng phí thất thoát đầu tư đồng thời nhanh chóng đưa công trình vào khai thác sử dụng nên nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Hiện nay, trong nhiều đơn vị thí điểm về cải cách hành chính, thực hiện một cửa một dấu chống phiền hà nên được quần chúng ủng hộ. Tuy nhiên, cải cách hành chính không chỉ giảm bớt nhân viên, bớt bộ phận này, thêm bộ phận kia mà còn thay đổi lề lối làm việc để đạt kết quả cuối cùng là hiệu lực bộ máy hành chính và hiệu suất làm việc của cán bộ hành chính. Điều này phụ thuộc nhiều vào phẩm chất và năng lực nhân viên hành chính có ngang tầm với vị trí công việc được đảm nhiệm không. Vì vậy, cải cách hành chính còn phải thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức thích ứng với thời đại kinh tế tri thức, kinh tế hội nhập. Nếu không thực hiện tốt cải cách hành chính thì không thể nào thu hút đầu tư, cũng như không thể nào quản lý tốt và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được. 3.3.5. Tăng cường đầu tư cho đào tạo và đào tạo lại cán bộ: Đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư vào tư bản con người, điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong thời kỳ phát triển khoa học công nghệ và trong giai đoạn chuyển biến từ nền kinh tế vật chất sang nền kinh tế tri thức. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển: con người xây dựng cơ chế chính sách, con người thực thi chính sách, con người tổng kết kiểm tra thực hiện chính sách,… chất lượng của quy trình này tốt sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển; kinh tế xã hội phát triển thì đời sống con người sẽ được nâng cao. Chính vì vậy cần phải chú trọng đầu tư cho giáo dục, xem đây là một quốc sách hàng đầu nhằm đáp ứng cho yêu cầu phát triển trước mắt cũng như sự phát triển lâu dài. -76- Phải có chính sách tạo điều kiện cho đội ngũ trí thức phát triển, phát huy trí tuệ, tích cực đóng góp vào sự nghiệp chung của tỉnh. Đẩy mạnh công tác giáo dục đào tạo, chú ý đào tạo phát triển nhân tài đối với lớp trẻ kế cận, thường xuyên tổ chức đào tạo lại hoặc đào tạo bổ sung kiến thức đối với cán bộ công chức đang công tác. Việc tổ chức đào tạo, đào tạo lại phải được đa dạng hóa dưới nhiều hình thức như: tập huấn, hội thảo chuyên đề, lớp nghiệp vụ ngắn hạn, dài hạn… để mọi người đều có điều kiện tham gia. Có chính sách hỗ trợ học tập trong nước và ngoài nước, đặc biệt là đối với cán bộ chủ chốt trong lĩnh vực quản lý đầu tư xây dựng. Kết luận, Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bình Thuận – thời kỳ 2006-2010. Việc tổ chức thực hiện tốt 4 nhóm giải pháp cơ bản trên sẽ phát huy tác dụng tích cực và hạn chế tiêu cực trong quản lý đầu tư xây dựng, tạo sự hấp dẫn trong khai thác các nguồn lực cho đầu tư và tạo được hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, vững chắc đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hóa-hiện đại hóa của tỉnh nhà nói riêng, của cả nước nói chung. PHẦN KẾT LUẬN -77- Cùng với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới, cũng như các nước trong khu vực, Việt Nam đang nỗ lực vươn lên hòa chung vào tiến trình phát triển. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IIIV, thứ IX đã nhấn mạnh: Đường lối kinh tế của Đảng ta là đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng một nền kinh tế mở hướng ra bên ngoài… Để phấn đấu đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp thì việc tập trung xây dựng nền tảng cho nó trở thành yêu cầu cấp thiết và là nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ Chiến lược 10 năm (2001-2010), đó chính là: Xây dựng tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Trong đó bao gồm: kết cấu hạ tầng kinh tế, kết cấu hạ tầng xã hội, phát triển công nghiệp tư liệu sản xuất quan trọng, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp quốc phòng, nền nông nghiệp hàng hóa lớn, các dịch vụ cơ bản và tiềm lực khoa học công nghệ. Quán triệt được đường lối trên Đảng và Nhà nước ta đã tích cực chú trọng đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng: giao thông, điện lực, thông tin, thủy lợi… trong đó năng lượng phải đi trước một bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an toàn năng lượng quốc gia; Cung cấp đủ nước sạch cho đô thị, khu công nghiệp và cho trên 90% dân cư nông thôn; Giải quyết cơ bản vấn đề thoát nước và xử lý chất thải đô thị. Thực hiện đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng, hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và xây dựng kết cấu hạ tầng của tỉnh Bình Thuận cũng ngày càng được quan tâm rất lớn thể hiện qua tỷ trọng chi trong tổng chi ngân sách, mức chi năm sau luôn cao hơn năm trước, phần tăng thu ngân sách hàng năm luôn ưu tiên bổ sung chi cho đầu tư, nhiều công trình đã hoàn thành và phát huy tác dụng… Từ cơ sở lý luận, và thực tiễn phát triển hoạt động đầu tư tỉnh Bình Thuận, luận văn đã đề xuất các giải pháp chiến lược theo nhóm giải pháp thích hợp, mong được kịp thời góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư một cách hợp lý và khoa học. -78- Với khả năng và thời gian có hạn, tác giả đã tiếp cận và thực hiện phân tích khối lượng thông tin rất lớn thuộc nhiều lĩnh vực. Do đó luận văn sẽ khó tránh khỏi những sai sót, tác giả với tất cả những cố gắng và nhiệt tình mong muốn góp một phần nhỏ vào việc thúc đẩy hoạt động đầu tư xây dựng của tỉnh Bỉnh Thuận ngày càng tốt hơn. Kính mong được Quý Thầy Cô, các nhà nghiên cứu và các bạn học viên góp ý để bản luận văn được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành bày tỏ sự biết ơn đối với PGS.TS Nguyễn Thị Diễm Châu, người đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này./. Phụ lục 1 SƠ ĐỒ MỐI QUAN HỆ VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA DÀN TRẢI , KÉO DÀI, KÉM HIỆU QUẢ, THẤT THOÁT, LÃNG PHÍ VÀ TỔN THẤT VỐN NHÀ NƯỚC ĐẦU TƯ CHO XDCB -79- (GS.TSKH Nguyễn Ngọc Trân) 1.Quản lý vĩ mô vốn và ngân sách nhà nước 2.Chất lượng qui hoạch 3.Cơ chế xin cho + qui hoạch kém → qui hoạch sai mục tiêu 4.Cập rập, hoàn thành vào giờ chót 5.Xuống cấp do thiếu dự trù vốn để bảo trì 1.Khi đưa công trình vào sử dụng điều kiện KT-XH khác với luận chứng kinh tế kỹ thuật 2.Tính năng kỹ thuật các thiết bị lỗi thời 1.Qui trình, thủ tục nặng nề 1.Giá đất và GPMB tăng nhưng nhiều khe hở 2.Thất thoát vật tư, thiết bị 2.Không đủ vốn thực hiện 3.Giá thiết bị so với tính 3.Giải ngân chậm năng kỹ thuật trở nên lạc hậu 4.Tổng dự toán công trình tăng 1.Qui trình qui hoạch-kế hoạch-dự án khép kín 2.Chất lượng khảo sát, thiết kế 3.Tư vấn thiết kế (khi có tiêu cực) 4.Thẩm định, trình phê duyệt 1.QH, kế hoạch không tính đến hiệu quả 5.Cơ chế đấu thầu bị lợi dụng tư duy bao cấp nặng 6.Thi công (mua vật tư / giá /chủng loại / tiêu cực) 2.Cơ chế xin – cho → công trình ngoài 7.Giám sát thi công hình thức / thông đồng qui hoạch, kế hoạch 8.Nghiệm thu hình thức / tiêu cực 3.Bất cập giữa khả năng ngân sách nhà 9.Giải ngân chậm, có tiêu cực nước và số lượng công trình 10.Thanh quyết toán chậm, tiêu cực 4.Giao cho các địa phương chỉ tiêu tốc 11.Năng lực chủ đầu tư và ban quản lý dự án Tổn thất nguồn ố E. Lãng phí vốn nhà nước trong xây dựng cơ bản C. Kém hiệu Chất lượng và tuổi thọ công trình gim B.Kéo A. Dàn trải D. Thất thoát vốn xây dựng công trình -80- độ phát triển dẫn đến phát triển theo 12.Ngân sách nhà nước phải trả lãi phần giải ngân chiều rộng chậm ODA, trái phiếu và công trái chính phủ Qua sơ đồ trên, GS.TSKH Nguyễn Ngọc Trân đã đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong xây dựng cơ bản như sau: • Cần quản lý vĩ mô tốt hơn việc sử dụng nguồn vốn nhà nước đầu tư cho xây dựng cơ bản vì sự phát triển có chất lượng và bền vững; sử dụng vốn đúng trọng tâm trọng điểm hơn, có lộ trình thực hiện theo thứ tự ưu tiên. Cần quy định việc đánh giá hiệu quả của mỗi dự án đầu tư xây dựng cơ bản là khâu cuối cùng của việc thực hiện dự án đó. • Sử dụng tối ưu nguồn vốn ngân sách nhà nước còn có nghĩa cần và biết huy động các nguồn vốn khác, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn ODA, vốn của các thành phần kinh tế khác vào các công trình kết cấu hạ tầng thích hợp bằng các chính sách và hình thức thích hợp. • Cần làm rõ trách nhiệm và quyền hạn của tập thể và cá nhân trong công tác quy hoạch, thẩm định và quyết định phê duyệt dự án công trình. Phân cấp nhiều hơn cho địa phương là đúng, nhưng kèm theo là kỷ cương, tinh thần liên kết, phối hợp, tránh nếp tư duy sản xuất nhỏ, cá thể. Khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh. • Cần đổi mới những cơ chế quản lý làm phát sinh tư tưởng cục bộ trong quy hoạch, khiến các địa phương - cho dù không có cơ sở - vẫn xin trung ương cơ chế chính sách “đặc thù” cho mình, thay vì khuyến khích các địa phương liên kết, hợp tác với nhau để phát huy thế mạnh của vùng và để cùng phát triển. Chính các cơ chế này là nhân tố nội sinh của sự dàn trải trong đầu tư xây dựng cơ bản. • Trước mắt, mọi dự án phải đưa ra đấu thầu công khai và ngay từ khâu lựa chọn công ty tư vấn khảo sát thiết kế lập dự án; hạn chế tối đa sự khép kín trong cùng một bộ ngành chủ quản. Mọi công trình đều phải được nghiệm thu từng giai đoạn và nghiệm thu cuối cùng với đầy đủ trách nhiệm của các bên, và mọi sai phạm phải bị chế tài nghiêm minh theo pháp luật. • Chính phủ cần chỉ đạo Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Bộ Tài chính thực hiện đúng Luật ngân sách, cụ thể là hai dòng ngân sách đầu tư xây dựng cơ bản và chi thường xuyên cần được quản lý thống nhất, quy định rõ bộ nào chịu trách nhiệm cuối cùng trước Chính phủ và trước Quốc hội về hiệu quả sử dụng vốn nhà nước chi cho xây dựng cơ bản./. Phụ lục 2 Tỷ lệ lãng phí và thất thoát vốn nhà nước chi cho XDCB -81- 1. Công trình khối nhà ở trên biển BK4 của Vietsovpetro có giá trị 17 triệu USD, nhưng số tiền mà những kẻ tham nhũng chia chác, lại quả cho nhau đã lên tới 6-7 triệu USD. Tỷ lệ thất thoát đã vượt xa cái ngưỡng 30% (phát biểu của Thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng tại hội nghị toàn ngành Kế hoạch và Đầu tư-Hà Nội 25/6/2005). 2. Thất thoát hàng trăm tỉ đồng ở 9 cảng cá: Cà Mau (Cà Mau), Trần Đề (Sóc Trăng), Tắc Câu (Kiên Giang), Côn Đảo, Cát Lở (Bà Rịa-Vũng Tàu), Phan Thiết (Bình Thuận), Thuận Phước (Đà Nẵng), Sông Gianh (Quảng Bình), Thuận An (Thừa Thiên-Huế). Trong đó, Cảng cá Cát Lở có dự toán và quyết toán được duyệt là 218,655 tỉ đồng, còn Hội đồng định giá lại xác định giá trị thực chỉ có 72,654 tỉ đồng. Như vậy thấp hơn giá trị quyết toán 146,001 tỉ đồng. Điều đó có nghĩa tỷ lệ thất thoát khoảng 66% (Kết quả thanh tra của Chính Phủ năm 2004). 3. Theo báo cáo của Thanh tra Chính Phủ 2003 đã thanh tra 14 dự án và phát hiện sai phạm 1.235 tỉ đồng, tỷ lệ thất thoát là 19,1% tổng số vốn. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có công trình bỏ 3,7 tỉ đồng mà bị tham ô 1,3 tỉ đồng, tương đương tỷ lệ thất thoát trên 35%. 4. Đầu tư XDCB năm 2004 khoảng 57.000 tỉ đồng, có người cho rằng tỷ lệ thất thoát 35%, người thì nói 10%... Nếu bình quân là 15% thì thất thoát cũng đã 7.000-8.000 tỉ đồng rồi. Đó là chưa kể các lãng phí khác như: hội họp, tiệc tùng, chi phí hành chính… (phát biểu của đại biểu Quốc hội Lê Thanh Long-Bí thư tỉnh ủy Long An). 5. “Trên 56 tỉ đồng… phơi nắng” đó là công trình thuỷ lợi 3/2, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang; có tổng vốn đầu tư trên 56,97 tỉ đồng bằng vốn ngân sách trung ương và ngân sách tỉnh, công trình đã hoàn thành nhưng không sử dụng được. 6. Các nhà máy đường “âm thầm tháo chạy”, khu vui chơi giải trí bỏ hoang, Cảng cá chết chìm, thiết bị y tế đắp chiếu, hợp đồng lòng vòng đến tận B “3 phẩy”, các công trình phục vụ Sea Games tại Hà Nội… đã đạt kỷ lục về tỷ lệ thất thoát đầu tư. 7. Thất thoát trong đầu tư XDCB của thành phố Hồ Chí Minh không thể là 5-7% như các Sở chuyên ngành báo cáo mà có thể lên đến 30%. Đó là đánh giá của Ô.Phan Phùng Sanh – Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kỷ thuật Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh có 50 năm kinh nghiệm trong nghề xây dựng (báo Tuổi trẻ 13/10/2004). 8. Bên cạnh công trình thất thoát 5-6% lại có cả công trình bị móc ruột tới 54%, thậm chí đạt kỷ lục 100% - công trình Nhà hát Chèo chưa sử dụng đã phá đi xây lại. Đó là đánh giá của Bà.Dương Thu Hương – Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch và Ngân sách của Quốc hội (báo Tuổi trẻ 26/9/2004). 9. Báo cáo của Chính Phủ do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Võ Hồng Phúc trình bày trước Quốc hội: * Tình trạng thất thoát, lãng phí còn lớn, hiệu quả đầu tư chưa cao (năm 2002 kiểm tra 17 dự án phát hiện thất thoát 13,6%; năm 2003 kiểm tra 14 dự án phát hiện thất thoát 19%; 6 tháng đầu năm 2004 kiểm tra phát hiện thất thoát 539 tỉ đồng) -82- * Sử dụng vốn tín dụng phát triển, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả (1.551 dự án nợ quá hạn ở Quỹ Hỗ trợ phát triển, trong đó đặc biệt là nợ kéo dài của các dự án thuộc “Chương trình đánh bắt xa bờ” và “Chương trình mía đường” chiếm tới 40%. * Tổng số nợ đọng XDCB: 11.000 tỉ đồng, trong đó các Bộ, ngành trung ương nợ 3.500 tỉ đồng (chủ yếu Bộ Giao thông Vận tải và Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn) và các địa phương là 7.4444 tỉ đồng. * Số nợ đọng tính đến 31/12/2002 cần tiếp tục rà soát, xem xét biện pháp xử lý: 4.977 tỉ đồng, trong đó trung ương là 2.000 tỉ đồng và địa phương là 2.977 tỉ đồng; năm 2003 số nợ này của trung ương là 869 tỉ đồng và địa phương là 3.735 tỉ đồng. Phụ lục 3 CẢNH BÁO VỀ TĂNG TRƯỞNG (Báo Thanh niên số 71, thứ bảy ngày 12/3/2005) Năm 2005, Quốc hội đề ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8,5%. Đây là mục tiêu rất cao, không những cao nhất tính từ năm 1997 đến nay, cao hơn 0,8% so với tốc độ tăng của năm trước, mà còn rất cao khi xét đến các yếu tố tác động từ đầu vào đến đầu ra, nhất là yếu tố đầu tư. Đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, chẳng khác gì “có bột mới gột nên hồ”. Để GDP tăng 8,5%, nếu suất đầu tư đạt bằng năm trước (4,7 lần), thì lượng vốn đầu tư phát triển phải đạt xấp xỉ 40% GDP, cao hơn nhiều so với tỷ lệ 36,3% đã đạt cao nhất trong năm 2004 và chỉ có Trung Quốc - một nước hằng năm có tới 60 tỷ USD đầu tư nước ngoài và có tỷ lệ tiết kiệm nội địa rất cao - mới đạt được. Nếu lượng vốn đầu tư phát triển so với GDP chỉ đạt 36,5% như mục tiêu đề ra, thì suất đầu tư phải giảm xuống chỉ còn 4,3 lần, cũng là mức thấp nhất tính từ năm 1998 đến nay. Như vậy, để đạt tốc độ tăng trưởng GDP theo mục tiêu thì một mặt phải tăng lượng vốn đầu tư, mặt khác và quan trọng hơn là giảm suất đầu tư, tăng mạnh hiệu quả đầu tư. Song từ tình hình những tháng đầu năm thì cần phải cảnh báo về hiệu quả đầu tư chuyển biến chậm, biểu hiện trên nhiều mặt. Tình trạng phân bổ vượt kế hoạch còn diễn ra ở nhiều địa phương. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho nợ đọng xây dựng cơ bản diễn ra trong thời gian qua lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng; kết quả làm cho kế hoạch vốn có thể tăng lên nhưng khối lượng thi công lại tăng không tương ứng, số nợ này rồi cũng lại đến tay nhà nước phải trả, còn các đơn vị thi công luôn luôn thiếu vốn hoạt động. Tình trạng phân bổ vốn cho các dự án chưa đủ thủ tục đầu tư vẫn còn diễn ra ở nhiều bộ, ngành, địa phương. Hiện có 13 dự án chưa có quyết định đầu tư, 154 dự án chưa có thiết kế kỹ thuật tổng dự toán nhưng đã được ghi kế hoạch vốn. -83- Tình trạng dàn trải trong đầu tư xây dựng cơ bản đã bị phê phán nhiều nhưng việc khắc phục vẫn chưa triệt để. Cả nước hiện còn 62 dự án nhóm B của các bộ, ngành, địa phương nhưng bố trí kế hoạch vốn quá 4 năm; trên 60 dự án nhóm C bố trí kế hoạch vốn trên 2 năm… Đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản năm 2005 sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính Phủ cũng còn lắm vấn đề. Nguồn vốn này Chính phủ vay dân với lãi suất cao và tính lãi ngay từ đầu vay, nhưng việc giải ngân còn rất chậm, chủ yếu là do khâu phê duyệt thiết kế dự toán chưa xong, do việc giải phóng mặt bằng vẫn chậm; do các nhà thầu không có năng lực tài chính nên khi vốn về thì bị ngân hàng khấu trừ… Về tình trạng thất thoát trong đầu tư xây dựng đã được đã được nói rất nhiều, nhưng việc khắc phục xem ra rất chậm. Mới nhất, điển hình nhất là vụ rút ruột công trình xây dựng nhà tái định cư bởi nó là bằng chứng và cách làm thất thoát mà xưa nay các nhà đầu tư, nhà thầu vẫn “đánh đố” là “bằng chứng đâu”? Nếu không tìm cách nâng cao hiệu quả đầu tư, giảm suất đầu tư thì dù lượng vốn kế hoạch có tăng thì tăng trưởng kinh tế cũng không tăng tương ứng./. -84- Phụ lục 4 ĐẦU TƯ NHIỀU - HIỆU QUẢ KÉM Hệ số ICOR (số vốn cần thiết để tạo ra 1 đồng tăng trưởng thêm trong GDP) của Việt nam hiện nay được các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước nhận định là đang ở mức khá cao, có nghĩa hiệu quả đầu tư đang thấp. (theo Thời báo Kinh tế Sài gòn số 45 ngày 3/11/2005) Theo Ngân hàng Thế giới (WB), hệ số ICOR đối với khu vực đầu tư của Nhà nước là ở mức gần 7, khu vực tư nhân có thấp hơn. Còn theo các chuyên gia của Việt Nam, hệ số này đang ở mức trên dưới 5 (hệ số ICOR ở mức 2-3 là trung bình và càng thấp thì càng hiệu quả). Như vậy hiệu quả của nền kinh tế còn thấp vì để đạt được tăng trưởng vẫn phải cần một lượng đầu tư nhiều hơn mức bình thường. Hay nói cách khác, đóng góp vào tăng trường chủ yếu vẫn là yếu tố vốn chứ khoa học công nghệ hay cải thiện năng suất chưa thật sự có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, các chuyên gia của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng để nhìn nhận thực chất hiệu quả của nền kinh tế nói chung và hiệu quả của đầu tư hiện nay cần phải đánh giá ICOR trong một chuỗi thời gian phát triển của nền kinh tế. Đóng góp lớn nhưng tác động lan tỏa chưa tốt. Theo ông Võ Trí Thành, Trưởng ban Nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế quốc tế thuộc CIEM, vào những đầu thập niên 1990, ICOR của Việt nam chỉ ở mức 2-3. Đây là kết quả của quá trình cải cách và mở cửa nền kinh tế được thực hiện từ những năm cuối thập niên 1980 và xuất phát điểm lại thấp. Từ nửa cuối thập niên 1990 đến nay, ICOR có xu hướng tăng dần theo đà gia tăng đầu tư phát triển của toàn xã hội. Nhìn vào thực chất các luồng đầu tư này, có một số vấn đề rất đáng quan tâm. Trước hết, trên thực tế các dự án đầu tư lớn từ vốn ngân sách, ODA như phát triển hệ thống thuỷ lợi, hệ thống giao thông quan trọng, hạ tầng viễn thông… và các dự án đầu tư của các thành phần kinh tế đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng, giảm tỷ lệ đói nghèo, thay đổi diện mạo đất nước… Tuy nhiên, tỷ trọng và phân bổ đầu tư còn nhiều bất cập do tập trung quá nhiều vào các khu vực đô thị và trung tâm lớn cùng các vùng phụ cận, lại chưa tạo ra sự thúc đẩy mang tính toàn vùng. Ví dụ quốc lộ 55 được nâng cấp giúp các tỉnh và thành phố dọc tuyến đường này phát triển nhanh, nhưng lại thiếu các tuyến giao thông tốt mang tính liên kết với các địa phương khác trong khu vực để tạo hiệu ứng lan tỏa. Kết quả là các tỉnh khác cận kề bị tụt hậu. Điều này cũng diễn ra trong khu vực đầu tư kinh doanh: sáu tỉnh thuộc hai vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam chiếm tới 70% tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); một số tỉnh nhờ vậy chỉ trong một thời gian ngắn đã vươn lên và lọt -85- vào câu lạc bộ các tỉnh có thu ngân sách một ngàn tỷ đồng trở lên, nhưng có tỉnh cận kề đó đến giờ vẫn phải trông đợi bù chi ngân sách cân đối từ Trung ương. Kế đến là nền kinh tế đang đi vào thị trường hoá với mức độ ngày càng sâu nhưng hiện tổng đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm tới 53-55% tổng đầu tư của toàn xã hội. Ông Thành cho rằng:”Đây là điều rất lạ lẫm với kinh tế thị trường vì càng thị trường hoá thì đầu tư của tư nhân càng phát triển mới đúng”. Theo ông Thành, nguyên nhân hoàn toàn không phải do khu vực tư nhân không có khả năng mà vì nhiều lĩnh vực đầu tư hiện nay Nhà nước chưa cho khu vực tư nhân được tiếp cận, vẫn để doanh nghiệp nhà nước ôm đồm; nhiều lĩnh vực, doanh nghiệp tư nhân còn ngại nhảy vào vì cơ chế chính sách không rõ ràng, không hấp dẫn, như phát triển hạ tầng vùng sâu, vùng xa, dịch vụ công cộng… Bên cạnh đó, ông Thành cũng cảnh báo một hiện tượng đáng lo ngại diễn ra ở nhiều nơi: Có những nhóm lợi ích khác nhau đang tìm mọi cách để chia chác “miếng bánh ngân sách nhà nước”; họ lợi dụng quan điểm về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước để dành phần lớn các dự án phát triển cho doanh nghiệp nhà nước, từ đó có điều kiện phục vụ cho lợi ích cá nhân. Đồng thời có địa phương vì muốn thoát nhanh khỏi nghèo nàn đã tập trung đầu tư phát triển quá nhiều mà không tính toán đến hiệu quả thực sự, từ đó rơi vào tình trạng nợ nần, nảy sinh nhiều bức xúc xã hội do không kiểm soát được tham nhũng. Đầu tư thiên lệch, nhiều cơ hội bị bỏ lỡ. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong giai đoạn 2001-2005, cơ cấu đầu tư toàn xã hội đã có những dịch chuyển tích cực theo hướng tập trung cho các mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế xã hội, trong đó đầu tư cho lĩnh vực kinh tế chiếm hơn 70% tổng mức đầu tư cả giai đoạn này. Tuy nhiên, mức đầu tư cho giáo dục và khoa học công nghệ giai đoạn này chỉ chiếm chưa đến 5%, một mức đầu tư rất khiêm tốn. Theo các chuyên gia của CIEM, mức đầu tư không tương xứng này đã gây nên hiện tượng mất cân đối trong phát triển mà điển hình là: năng lực quản lý (thể hiện ở trình độ của lực lượng lao động, trình độ ứng dụng công nghệ và khả năng phát huy hiệu quả của thiết bị ứng dụng…) đã không theo kịp tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Đây là một nguyên nhân quan trọng khiến tiến trình cải cách nền kinh tế bị chậm lại, hay gặp phải các khó khăn nảy sinh mới như thực tế đã và đang diễn ra. Theo ông Võ Trí Thành, nếu nhìn tổng thể nền kinh tế, đấy chính là những chi phí cơ hội phải trả trong các dự án được đầu tư mà thiếu sự tính toán mang tính thị trường; có thể là do năng lực của địa phương yếu kém trong công tác nghiên cứu, khảo sát, quản lý và giám sát quá trình đầu tư, cộng với các hiện tượng tham nhũng khiến các dự án đã không được đầu tư và vận hành theo ý muốn. Biểu hiện rõ nhất là rất nhiều các dự án thuộc nhóm B và C ở các địa phương đã đầu tư thiếu hiệu quả. Mặt khác, hàng trăm dự án được đầu tư xong, phát huy hiệu quả nhưng không được quan tâm bảo dưỡng, bảo trì hoặc nghiên cứu để nâng cấp giúp dự án bền vững hơn, khiến cùng với thời gian, nhiều dự án nhanh chóng bị xuống cấp nghiêm trọng, -86- không phát huy hiệu quả được lâu dài. Hệ thống đê hiện nay đã không chịu nổi một số trận bão, lụt thời gian gần đây là một minh chứng khá rõ ràng. Chi phí cơ hội cao dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp còn thể hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế mà nguyên nhân chủ yếu, theo phân tích của các chuyên gia CIEM, do năng lực của bộ máy điều hành kém. Như kế hoạch huy động trái phiếu của Chính phủ thời gian gần đây luôn đạt kết quả khá cao, nhưng công tác giải ngân nguồn vốn này vào các dự án, công trình cụ thể luôn gặp khó khăn; thậm chí đã có lúc nguồn vốn này bị đọng tới gần hai năm vì không có cơ chế giải ngân phù hợp cho dự án. “Chi phí cơ hội trong những trường hợp này là rất lớn vì các công trình này bị chậm đưa vào khai thác khiến nhiều dự án, lĩnh vực khác có liên quan bị phát sinh chi phí, kém hiệu quả hoặc bị đình trệ. Đây cũng là một nguyên nhân khiến mức đầu tư làm 1 km đường ở Việt Nam có nơi cao gấp hàng chục lần nước ngoài” ông Thành nhận xét. Ông cho rằng để đầu tư của xã hội có hiệu quả hơn, ngoài các biện pháp cần làm như tính toán chặt chẽ nhu cầu đầu tư, giám sát và quản lý quá trình đầu tư, khuyến khích nhiều hơn khu vực tư nhân tham gia vào đầu tư phát triển… thì Nhà nước cũng cần tính đến việc phân luồng đầu tư theo hướng nên chú trọng đầu tư vào nghiên cứu phát triển, giáo dục và dịch vụ khuyến nông trong điều kiện của Việt Nam hiện nay. Bởi trên thực tế các luồng đầu tư vào đây luôn mang lại lợi suất cao nhất và có tác dụng lan tỏa nhanh chóng./. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA0781.pdf
Tài liệu liên quan