Lời mở đầU
Trong thế kỷ XXI, các nhà khoa học trên thế giới đã tiên đoán rằng : Nhân loại sẽ bước từ xã hội công nghiệp sang xã hội “thông tin”, một xã hội sử dụng công nghệ sản xuất ở trình độ cao. Công nghệ thông tin sẽ làm cho thế giới không còn biên giới, sẽ làm cho quan hệ kinh doanh, hội họp, giáo dục xuyên châu lục mà không cần mất nhiều thời gian; công nghệ sinh thái sẽ thay đổi nhanh chóng nền sản xuất nông nghiệp ...; hệ thống điều khiển tự động (người máy-Robot) sẽ chiểm tỷ lệ lớn tr
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1622 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn huyện Từ Liêm 2001 -- 2010 (67tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong công nghiệp, vận chuyển và dịch vụ. Phương pháp sản xuất sẽ cơ bản dựa vào công nghiệp “chuyên sâu”, hiện đại. Phân công lao động xã hội ngày một sâu hơn và nảy sinh nhiều ngành nghề mới, thời gian và sức lao động của con người sẽ được sử dụng ít hơn và được thay thế bằng các công cụ, máy móc tự động... Như vậy, sự giàu có của đất nước trong thế kỷ XXI sẽ được xây dựng chủ yếu dựa trên nền tảng văn minh trí tuệ của con người, nó khác với trước đây là dựa vào sự giàu có của các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, xã hội thời đại mới thế kỷ XXI đòi hỏi phải phát triển tài nguyên con người một cách toàn diện mà bắt đầu từ phát triển kinh tế, giáo dục, văn hoá, để nâng cao khả năng quản lý xã hội thông tin một cách có hiệu quả.
Đối với Từ Liêm là một huyện ngoại thành đang trong quá trình đô thị hoá với tốc độ cao.Huyện Từ Liêm có diện tích 75,15km2, dân số là 177248 người,. Đây là một huyện đất hẹp người đông, bình quân đất nông nghiệp tính trên một lao động nông nghiệp chỉ có 642,28km2, mật độ dân số 2360 người km2 cao nhất huyện ngoại thành Hà Nội .Dự kiến đến năm 2010 toàn huyện sẽ giảm đi gần 3000 ha đất nông nghiệp do chuyển sang các mục đích phi nông nghiệp .Cùng với giải pháp nâng cao nguồn nhân lực trên địa bàn huyện đã đem lại cho huyện một lợi thế để tiến lên công nghiệp hoá . hiện đại hoá cùng cả nước
Chúng ta tiến hành CNH-HĐH với nội dung hết sức phong phú ấy, trong bối cảnh quốc tế ấy, Đảng ta đã xác định : “Muốn tiến hành CNH-HĐH thắng lợi phải phát triển giáo dục-đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững". CNH-HĐH chỉ là ý tưởng tốt đẹp nếu như nền tảng của nó là KH-CN với vai trò quyết định thuộc về con người.
Xuất phát từ yêu cầu nêu trên đối với NNL, em quyết định chọn đề tài
"Các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn huyện Từ Liêm 2001 -- 2010" cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Đây cũng là một vấn đề bức xúc trong chiến lược phát triển NNL của nước ta. Vì vậy, em hy vọng với một mặt nào đó, đề tài mang ý nghĩa thực tiễn, đóng góp vào việc nâng cao và phát triển NNL với chất lượng ngày một cao hơn. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo trong khoa và những ai quan tâm tới vấn đề này.
Nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về nguồn nhân lực và nâng cao nguồn nhân lực
Chương II: Đánh giá thực trạng khi nâng cao chất chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn huyện Từ Liêm
Chương III : Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn huyện Từ Liêm .
Để hoàn thành chuyên đề thực tập ,em xin chân thành cảm ơn thầy TS:LÊ HUY Đức, cùng với cán bộ trong phòng kế hoạch huyện Từ Liêm
đã hướng dẫn tận tình trong thời gian thực tập vừa qua.
Chương I
Một số vấn đề lý luận về nguồn nhân lực
và nâng cao nguồn nhân lực
Các khái niệm :
1.1. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực, theo nghĩa rộng được hiểu như là nguồn lực con người (Human rerousces-HR), giống như các nguồn lực vật chất (Physical rerousces), nguồn lực tài chính (Financial rerousces) cần được huy động, quản lý để thực hiện những mục tiêu đã định. Theo định nghĩa của Liên hợp quốc: Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế-xã hội trong một cộng đồng.
Nguồn nhân lực còn được hiểu theo nghĩa hẹp với tư cách là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu này, NNL là một bộ phận của dân cư, bao gồm những người trong độ tuổi lao động theo quy định của Bộ luật lao động nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Nam từ đủ 15 đến hết 60 tuổi, Nữ từ đủ 15 đến hết 55 tuổi), có khả năng lao động. Đây là lực lượng lao động tiềm năng-nguồn lực quan trọng nhất có thể huy động vào các hoạt động của nền kinh tế-xã hội.
Như vậy, NNL bao gồm 2 bộ phận:
Thứ nhất, là bộ phận NNL có tham gia vào hoạt động kinh tế (còn gọi là lực lượng lao động): là những người có công ăn việc làm, đang hoạt động trong các ngành kinh tế và văn hoá của xã hội, những người chưa có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm.
Thứ hai, là bộ phận NNL không hoạt động kinh tế (NNL dự trữ), bao gồm những người trong độ tuổi lao động nhưng vì những lý do khác nhau họ không tham gia vào các hoạt động kinh tế-xã hội như những người đang làm nội trợ gia đình, người đang đi học, người nghỉ hưu trước tuổi quy định và những người có khả năng lao động nhưng không tích cực tìm việc làm.
Khi xem xét NNL, người ta quan tâm nhiều hơn đến chất lượng NNL vì đây là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của lao động. Điều đó đòi hỏi khái niệm về chất lượng NNL cần được hiểu một cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn cho công tác nghiên cứu. Nội dung dưới đây sẽ nhấn mạnh về bản chất cũng như những yếu tố cấu thành bên trong của nó.
1.2. Chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng NNL là trạng thái nhất định của NNL, thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành bản chất bên trong của NNL. Chất lượng NNL không những là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế, mà còn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về mặt đời sống xã hội, bởi lẽ chất lượng NNL cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ là một nguồn lực của sự phát triển, mà còn thể hiện mức độ văn minh của một xã hội nhất định.
Chất lượng NNL, có thể là một hệ thống các yếu tố về thể lực (sức khoẻ), trí lực (trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn-kỹ thuật) và những yếu tố về năng lực, phẩm chất đạo đức của người lao động.
2.Các chỉ tiêu đánh giá nguồn nhân lực
2.1. Các chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khoẻ của dân cư
Để có được một cơ thể khoẻ mạnh thì yếu tố đầu tiên là phải cung cấp cho cơ thể một lượng chất dinh dưỡng vừa đủ về số lượng và cơ cấu các loại. Nhưng, tuỳ theo từng lứa tuổi mà chất lượng dinh dưỡng cần cung cấp có sự khác nhau.
ỹ Đối với trẻ em (từ 0 đến 155 tháng tuổi): tình trạng dinh dưỡng được đánh giá bằng 3 chỉ tiêu:
+ Chiều cao theo tuổi: là chỉ tiêu biểu hiện mối tương quan giữa chiều cao cần thiết ở một lứa tuổi nhất định cho một cơ thể phát triển bình thường
Công thức tính chiều cao theo tuổi:
HAZ
=
HAit
-
NCHS
HA median,t
dt
NCHS
HAZ
Trong đó:
HAit : Chiều cao thực tế của trẻ em i, tháng tuổi t
dt
NCHS
HAmedian,t : Chiều cao trung vị của quần thể trẻ em Hoa kỳ (quần thể tham khảo NCHS) ở độ tuổi t, có sức khoẻ và chiều cao phát triển bình thường
: Độ lệch chuẩn của chiều cao của trẻ em quần thể tham khảo NCHS
- Nếu HAZ =>- 2: Chiều cao theo tuổi bình thường
- Nếu HAZ -3 : Chiều cao theo tuổi thấp độ I
- Nếu HAZ <-3: Chiều cao theo tuổi thấp độ II
+ Cân nặng theo chiều cao: là chỉ tiêu phản ánh sự tương quan giữa chiều cao với cân nặng cần thiết cho một cơ thể khoẻ mạnh của trẻ em.
Công thức tính cân nặng theo chiều cao:
WHZ
=
WHi,j
-
NCHS
WH median, j
dj
NCHS
Trong đó:
WHi,j : Cân nặng thực tế của trẻ em i theo chiều cao Hj
WHi,j : Cân nặng trung vị của trẻ em có chiều cao Hj của quần thể trẻ em Hoa kỳ (quần thể tham khảo NCSH) có sức khoẻ, trọng lượng và chiều cao phát triển bình thường.
dj : Độ lệch chuẩn cân nặng của trẻ em có chiều cao Hj của quần thể tham khảo NCHS
NCHS
thể tham khảo NCHS
- Nếu WHZ =>-2: Cân nặng theo chiều cao bình thường.
- Nếu WHZ 3: Cân nặng theo chiều cao thấp độ I
- Nếu WHZ <-3: Cân nặng theo tuổi thấp độ II
+ Cân nặng theo tuổi: là chỉ tiêu biểu hiện mối tương quan về cân nặng theo từng độ tuổi cho một cơ thể khoẻ mạnh ở trẻ em.
Công thức tính cân nặng theo tuổi:
NCSH
WAZ
Wait - WA median,t
dt
NCHS
=
Trong đó :
Wait : Cân nặng thực tế của trẻ em i, tháng tuổi t
dt: Độ chênh lệch của cân nặng của trẻ em quần thể tham . khảo NCSH.
NCHS
WAmedian,t : Cân nặng trung vị của quần thể trẻ em Hoa Kỳ (quần thể tham khảo của trung tâm quốc gia thống kê Y tế), tháng tuổi t, có sức khoẻ và cân nặng phát triển bình thường.
khảo NCSH.
- Nếu WAZ =>-2: Cân nặng theo tuổi bình thường
- Nếu WAZ -3: Cân nặng theo tuổi thấp cấp I
- Nếu WAZ <-3: Cân nặng theo tuổi thấp độ II
Đối với người lớn (từ 18 tuổi trở lên): tình trạng dinh dưỡng chủ yếu được đánh giá bằng chỉ số cơ thể BMI (Body Mass Index) để xác định tình trạng béo gầy
Chỉ số cơ thể BMI được tính theo công thức:
BMI (Kg/m2)
Cân nặng (Kg)
[Chiều cao (m)]2
=
Giới tính
Thể trạng
Nam
Nữ
Quá gầy
Gầy
Hơi gầy
Bình thường
Béo
Quá béo
<=16
16,1-18
18,1-20
20-25
25,1-30
>=30
<=16
16,1-18
18,1-18,6
18,7-23,8
23,9-28,6
>=28,6
Dựa vào chỉ số cơ thể BMI, người ta dùng các ngưỡng sau đây để xác
Định tình trạng sức khoẻ của một người.
Nếu như một người quá gầy, có nghĩa là cơ thể thiếu chất dinh dưỡng (người suy dinh dưỡng). Những người này chắc chắn sẽ không thể làm việc với kết quả cao vì thể lực và trí lực đều không phát triển tốt. Họ không có khả năng thích nghi với với môi trường sống khắc nghiệt. Ngược lại, những người quá béo là kết quả của việc đã cung cấp quá nhiều, hoặc cung cấp không đúng thành phần chất dinh dưỡng (người béo phì) sẽ có ảnh hưởng làm cản trở tới quá trình và kết quả lao động của họ.
ở nước ta, phần lớn trẻ em ở tình trạng gầy hoặc quá gầy do việc cung cấp chất dinh dưỡng nghèo nàn, nhất là ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Về người lớn, thường có thể trạng yếu dẫn đến năng suất lao động thấp còn tình trạng béo phì ở người lớn rất ít chỉ trên 0,55% ở các thành phố lớn. Đây là một điều đáng mừng vì ở hầu hết các nước phát triển hiện nay những bệnh tật do béo phì gây ra còn nguy hiểm hơn gấp nhiều lần so với những người gầy.
Ngoài ta, đối với người lớn, người ta còn dùng các chỉ tiêu: chiều cao trung bình, tuổi thọ bình quân để đánh giá tình trạng sức khỏe cơ thể. Chiều cao trung bình thấp sẽ gây khó khăn cho hoạt động về thể lực, đặc biệt là những người nông dân và công nhân lao động chân tay, còn tuổi thọ thấp chứng tỏ một sự xuống dốc về thể lực và trí lực sớm và như vậy có nghĩa là người ta sẽ mất đi khả năng lao động sáng tạo sớm ở tuổi gần với tuổi mà họ có thể sống.
2.2. Các chỉ tiêu thể hiện trình độ văn hoá của người lao động
Trình độ văn hoá của người lao động là sự hiểu biết đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội. Thực tế cho thấy, con người có giỏi về một lĩnh vực chuyên môn nào đó thì bước khởi đầu họ cũng cần có một trình độ chuyên môn nhất định. Trình độ văn hoá không chỉ giúp cho con người nâng cao khả năng lao động mà còn giúp cho họ hưởng thụ những thành quả lao động đó với hiệu quả cao.
Đối với một quốc gia, trình độ văn hoá biểu hiện về mặt bằng dân trí của quốc gia đó. Một đất nước phát triển phải có những con người có ý thức, văn minh, hiểu biết. Trình độ văn hoá cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn.
NNL là một bộ phận của dân cư. Do đó, trình độ văn hoá của dân cư cũng phản ánh một mặt nào đó trình độ văn hoá của nguồn lao động. Khi người dân có trình độ văn hoá cao, có nghĩa là nguồn lao động trong tương lai sẽ có chất lượng tốt, hoặc ở người lớn khả năng tham gia lao động cũng cao hơn.
Các chỉ tiêu phản ánh trình độ văn hoá của dân cư (còn gọi là trình độ dân trí của dân cư) bao gồm:
- Tỷ lệ biết chữ, tỷ lệ mù chữ
- Tỷ lệ đi học ở các bậc học
- Số năm đi học bình quân…
2.3. Chỉ tiêu trình độ chuyên môn kỷ thuật
Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn nào đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học, có khả năng chỉ đạo quản lý một công việc thuộc một chuyên môn nhất định.
Trình độ chuyên môn được đo bằng: tỷ lệ cán bộ trung cấp, tỷ lệ cán bộ cao đẳng, đại học, tỷ lệ cán bộ trên đại học...
Trong mỗi chuyên môn có thể phân chia thành nhiều những chuyên môn nhỏ hơn như đại học: bao gồm kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ, thậm chí trong từng chuyên môn lại chia thành từng chuyên môn nhỏ hơn nữa.
Trình độ kỹ thuật của người lao động thường dùng để chỉ trình độ của người được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định, những kỹ năng thực hành công việc nhất định. Nó được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu: số lao động được đào tạo và lao động phổ thông; số người có bằng kỹ thuật và không có bằng; trình độ tay nghề theo bậc thợ.
Trình độ chuyên môn-kỹ thuật thường kết hợp chặt chẽ với trình độ văn hoá thông qua chỉ tiêu số lao động được đào tạo và không được đào tạo trong từng tập thể NNL.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực
3.1) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Thế nào là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nâng cao chất lượng NNL của một quốc gia là việc thực hiện các biện pháp, chính sách nhằm nâng cao về mặt thể lực (sức khoẻ, điều kiện chăm sóc sức khoẻ), trí lực (trình độ văn hoá, chuyên môn-kỹ thuật) và nâng cao chất lượng, phẩm chất, tư tưởng tác phong làm việc và sinh hoạt của người lao động cùng với việc tạo ra cơ cấu hợp lý cần thiết cho yêu cầu của sự phát triển đất nước.
Nâng cao chất lượng NNL là một lĩnh vực của sự phát triển NNL. Ngày nay, khi nói đến phát triển NNL người ta thường quan tâm nhiều đến việc phát triển về mặt chất lượng hơn là số lượng NNL vì chất lượng NNL mới chính là nguồn gốc tạo ra giá trị của sức lao động, cũng chính là nguồn gốc tạo ra của cải văn hoá vật chất và tinh thần cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người; đặc biệt khi khoa khoa học và công nghệ đã trở thành phương tiện chủ chốt cho nền kinh tế cất cánh.
Tính tất yếu của nâng cao nguồn nhân lực
Để tồn tại và phát triển, con người phải được đáp ứng những nhu cầu nhiều mặt về vật chất và tinh thần. Sự tiêu dùng của con người không chỉ là sự tiêu hao kho tàng vật chất và văn hoá do con người tạo ra mà chính là nguồn gốc của sự phát triển xã hội. Bởi vì, nhu cầu của con người là vô cùng phong phú, đa dạng, nó có tác động mạnh mẽ tới sản xuất, định hướng phát triển sản xuất thông qua quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường. Nếu trên thị trường nhu cầu tiêu dùng của một loại hàng hoá tăng lên, lập tức thu hút lao động cần thiết để sản xuất ra loại hàng hóa đó hay những khu vực đông dân cư, có nhu cầu cao và phong phú, thường là những điểm hấp dẫn cho các nhà đầu tư.
Để không ngừng thoả mãn những nhu cầu vật chất, tinh thần ngày càng được nâng cao về số lượng và chất lượng, con người càng phải phát huy đầy đủ hơn khả năng thể lực và trí lực cho sự phát triển không ngừng kho tàng vật chất và tinh thần đó. Con người với khả năng về thể lực và trí lực của mình là yếu tố cơ bản nhất quyết định sự phát triển của sản xuất xã hội. Dù cho ở bất kỳ trình độ văn minh nào, lao động của con người cũng đóng vai trò quyết định. Ngày nay, với sự phát triển của cơ khí hoá, tự động hoá, áp dụng các công nghệ sinh học, người máy công nghiệp, kỹ thuật vi tính đã dẫn đến sự thay đổi vị trí của người lao động chân tay (thể lực) sang lao động trí tuệ (chất xám) một cách nhanh chóng.
Nhưng mục đích cuối cùng của sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội là nhằm vào phục vụ con người, đáp ứng yêu cầu về mọi mặt, làm cho cuộc sống con người trở nên tốt hơn, con người được phát triển toàn diện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Nói cách khác, con người là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội, không có con người thì sản xuất ra của cải sẽ lãng phí, tốn kém và vô nghĩa. Tóm lại, con người chính là mục tiêu mà mọi hoạt động phát triển đều hướng tới.
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực
3.2.1 Giáo dục -- đào tạo
Giáo dục theo nghĩa hẹp là giáo dục nhà trường. Trên thực tế, giáo dục là một loại hoạt động như sau: Nó là quá trình truyền bá tri thức thông qua các tổ chức, cơ cấu nhà nước và dân gian, nhằm mục đích bồi dưỡng cho người ta các năng lực thích ứng xã hội, thích ứng cuộc sống.
Giáo dục được coi là một dạng quan trọng nhất của sự phát triển tiềm năng của con người theo nhiều nghĩa khác nhau. Yêu cầu chung đối với giáo dục là rất lớn, nhất là đối với giáo dục phổ thông, con người ở mọi nơi đều tin rằng giáo dục rất có ích cho bản thân mình và con cháu họ. Bằng trực giác, mọi người đều có thể nhận thấy mối quan hệ giữa giáo dục và mức thu nhập. Mặc dù không phải tất cả những người, ví dụ như đã tốt nghhiệp cấp III có thu nhập cao hơn những người mới chỉ tốt nghiệp cấp I, nhưng đa số là như vậy, và mức thu nhập của họ đều cao hơn nhiều.
Giáo dục thông thường gồm 3 loại: giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình, giáo dục xã hội. Dù cho dưới hình thức nào thì kết quả của giáo dục cũng làm tăng lực lượng lao động có trình độ cao, tạo ra khả năng thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ, dẫn đến thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giáo dục tác động tới NNL thông qua tăng năng suất lao động của mỗi cá nhân, nhờ đó nâng cao trình độ và tích luỹ kiến thức.
Giáo dục có mối quan hệ mật thiết với đào tạo. Trong khi giáo dục chủ yếu trang bị cho con người những kiến thức phổ thông về xã hội thì đào tạo là để giúp cho con người có được những kỹ năng nhất định về một lĩnh vực nghề nghiệp nào đó. Đào tạo được chia ra: đào tạo mới được áp dụng với những người chưa có nghề, đào tạo lại đối với người đã có nghề song vì lý do nào đó nghề của họ không còn phù hợp nữa, đào tạo nâng cao trình độ lành nghề nhằm bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kinh nghiệm làm viêc để người lao động có thể đảm đương những chức vụ phức tạp hơn.
Giáo dục kết hợp với đào tạo cung cấp tri thức, kỹ năng nghề nghiệp và tính nhân bản cho người lao động, tức là phát triển NNL. Nguồn nhân lực phát triển sẽ nâng cao năng suất lao động xã hội và tăng trưởng kinh tế. Đến lượt mình, thu nhập quốc dân gia tăng sẽ cải thiện đời sống vật chất, văn hoá, y tế, giáo dục cho nhân dân. Trong thời đại ngày nay, giáo dục-đào tạo là nguyên nhân chính thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Đã có một thời gian người ta chỉ coi trọng máy móc thiết bị, coi công nghệ là trung tâm của sự phát triển, coi công nhân chỉ như một yếu tố của hao phí sản xuất và là yếu tố bất định, từ đó tập trung toàn lực cho đổi mới trang thiết bị, hiện đại hoá máy móc công nghệ. Đến đầu thập kỷ 90, người ta mới nhận thức được vai trò quan trọng của con người để tăng năng suất lao động, đã làm thay đổi triết lý kinh doanh, lấy con người làm trung tâm, ưu tiên con người ở khía cạnh tri thức trình độ chuyên môn và động cơ lao động. Từ đó đã chuyển hướng tập trung phát triển giáo dục để nâng cao vai trò của con người.
Vậy giáo dục-đào tạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng tới sự phát triển của mỗi quốc gia. Thực tế cho thấy, những quốc gia có nền kinh tế phát triển đều có sự đầu tư thích ứng cho nguồn vốn nhân lực, còn các quốc gia mới phát triển cũng đang dần hướng sang việc nâng cao chất lượng NNL cho mục tiêu đẩy nhanh sự phát triển kinh tế đất nước.
Dinh dưỡng và sức khoẻ
Giống như giáo dục, dinh dưỡng và sức khoẻ làm tăng chất lượng NNL cả trong hiện tại và tương lai, người lao động có thể lực tốt có thể mang lại lợi nhuận trực tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung trong khi làm việc. Việc nâng cao các chỉ tiêu về sức khoẻ cho dân số là cơ sở nâng cao năng chất lượng NNL, đặc biệt là việc nuôi dưỡng và chăm sóc bà mẹ và trẻ em là yếu tố tác động trực tiếp tác động để chất lượng NNL hiện tại và trong tương lai-cải thiện nòi giống, giúp cho trẻ phát triển khoẻ mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần. Hơn nữa, điều đó còn giúp cho trẻ nhanh chóng đạt được những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho sản xuất thông qua giáo dục nhà trường là cơ sở nâng cao thể lực và trí lực cho người lao động.
So với các nước cùng mức thu nhập, sức khoẻ người Việt Nam tương đối tốt. Theo báo cáo của LHQ, với trình độ phát triển hiện đại, tuổi thọ bình quân của người Việt Nam đã tăng 11 năm so với dự kiến.
Yếu tố tác động tới dinh dưỡng và sức khoẻ của NNL trong tương lai là tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em. Theo báo cáo của Viện dinh dưỡng, hiện nay có khoảng 32% trẻ em Việt Nam suy dinh dưỡng. Chế độ dinh dưỡng được đánh giá qua lượng calo mà một người nhận được trong một ngày, theo tổ chức y tế thế giới: một người dảm bảo dinh dưỡng một ngày trung bình khoảng 2.100 kcalo.
Thực tế cho thấy, không một quốc gia nào, có thể duy trì mức tăng trưởng cao nếu không có nền tảng vững chắc về phát triển con người nói chung và phát triển NNL nói riêng. Đầu tư vào giáo dục-đào tạo nâng cao chất lượng con người về mọi mặt là đầu tư vào tăng trưởng kinh tế. Những quốc gia nào thiếu chăm sóc sức khoẻ bản thân, xuống cấp về giáo dục-đào tạo, không có chiến lược dài hạn cho đào tạo và phát triển con người, sẽ không đảm bảo phát triển bền vững đất nước. Cốt lõi của sự phát triển chính là NNL có tri thức, có kinh nghiệm.
4.Tính cấp thiết khi nghiên cứu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
A,Xu hướng của tiến bộ khoa học công nghệ – nền kinh tế tri thức
Khoa học và công nghệ có tác động vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, nền kinh tế có phát triển nhanh theo hướng hiện đại hay không là còn tuỳ thuộc vào việc ứng dụng khoa học và công nghệ. Đặc biệt, KH-CN có vai trò lớn thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Năm 1994 Paul Krugman có đưa ra các so sánh đối chiếu mức đóng góp của KH-CN cho sự tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ cất cánh của các nước Châu Âu (1850 đến nửa đầu thế kỷ 20), của Mỹ (1890 đến đầu thế kỷ 20) và Nhật Bản (1950-1970) và 4 nước Châu á (Thái Lan, Malayxia, Inđonêxia, Philipin) thì tăng trưởng kinh tế dựa vào nhân tố vốn là 34,4%, vào lao động là 14,8%, và dựa vào KH-CN là 49,8% trong khi ở 4 nước Châu á trong giai đoạn cất cánh (1961-1985), con số tương ứng là 64,3% ; 35,4% ; 0%. Krugman cho rằng các quốc gia Châu á trên đã không phát huy nội lực trong quá trình tăng trưởng kinh tế, đã dựa vào đầu tư tư bản vô độ (đến từ nước ngoài) và sử dụng nguồn lao động hơn 2 lần so với Châu Âu, Mỹ và Nhật Bản thời kỳ cất cánh. Điều đó chứng tỏ rằng KH-CN là nhân tố rất cần thiết mà các nước phải tính đến.
Nhưng KH-CN do đâu mà có, chính là sản phẩm sáng tạo của con người, do con người. Mọi hoạt động sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, rút cuộc đều là những hoạt động của con người lao động; họ phát minh, sáng chế và sử dụng tư liệu lao động, tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho mình và cho xã hội. Nhà kinh tế học danh tiếng E.F.Schumacher trong cuốn sách “Những nguồn lực” đã kết luận rằng: “Toàn bộ lịch sử cũng như kinh nghiệm hàng ngày nhấn mạnh một điều là chính con người chứ không phải là thiên nhiên cung cấp một nguồn lực nền tảng. Nhân tố then chốt của toàn bộ sự phát triển kinh tế là kết quả trí óc của con người”. Nghĩa là không phải con người nói chung mà là con người với trí óc của họ mới là nhân tố then chốt của quá trình phát triển kinh tế xã hội. Tác động và hiệu quả to lớn của KH-CN và ứng dụng chúng trong hoạt động kinh tế không chỉ làm tăng khối lượng của cải vật chất phục vụ cuộc sống con người mà còn làm tăng ý nghĩa vai trò của KH-CN. Người ta còn dự báo rằng tỷ lệ lao động với hàm lượng KH-CN thể hiện trong tri thức, kỹ năng lao động và trang bị kỹ thuật trong sản phẩm sẽ là 90% vào năm 2010 so với tỷ lệ 10% của một thế kỷ trước đó.
Ngày nay, trong số các tiêu chí thể hiện sức mạnh, trình độ phát triển cũng như tính bền vững của sự phát triển kinh tế của một quốc gia đã có mặt tiêu chí về tiềm lực KH-CN như số lượng, cơ cấu, trình độ của đội ngũ nhân lực KH-CN (như lực lượng KH-CN/ nghiên cứu và phát triển trên một vạn dân, tỷ lệ chuyên gia có học hàm, học vị, tỷ lệ tương quan giữa kỹ sư, kỹ thuật viên, và công nhân kỹ thuật cao.
b) Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá với những yêu càu về nguồn nhân lực
Hiện nay, nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, có nhiều ngành nghề xã hội. Đối với một người lao động có trình độ nhất định, năng động sáng tạo thì việc lựa chọn cho mình môt nghề hay một lĩnh vực kinh tế nào đó để hoạt động sản xuất kinh doanh là không khó. Thực tế là nhiều lao động có năng lực ở khu vực sản xuất nông nghiệp co xu hướng chuyển sang các hoạt động thương mại, dịch vụ hoăc sang các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp… trong đó số người chuyển sang hoạt động kinh doanh thương mại và dịch vụ nhiều.
Nói đến NNL để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng đã chỉ rõ: “Nguồn lực con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên (tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý), cơ sở vật chất, tiềm lực KH-CN vốn có, cả nguồn lực ngoài nước (vốn, thị trường, công nghệ kinh nghiệm quản lý..) là không thể thiếu, trong đó NNL là cơ bản quyết định, bởi vì khi đã có NNL tốt mới phát huy được tác dụng của các nhân tố khác.
Vậy để tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đòi hỏi một đội ngũ nhân lực như thế nào?
Hội nghị lần thứ 7 của BCHTWĐCSVN (Khoá VII) đã ra Nghị quyết 07-NQ/TW về “ mục tiêu lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là biến nước ta thành một nước công nghiệp cơ sở vật chất hiện đại, có cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ của sức sản xuất ”.
Điều đó đặt ra yêu cầu phải làm sao có được một đội ngũ lao động công nghiệp (biết làm việc với máy móc, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo) chứ không phải những người làm nông nghiệp (lao động chỉ bằng sức lao động và kết quả lao động phải phụ thuộc vào thiên nhiên), cùng với một cơ cấu kinh tế là công nghiệp-dịch vụ-nông nghiệp thì cơ cấu về lao động cũng cần phải thay đổi.Việc chuyển bớt lao động làm việc từ khu vực nông nghiệp có năng suất lao động thấp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ đòi hỏi có trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ quản lý cao hơn mới có tác động quyết định làm tăng nhanh chóng năng suất lao động xã hội - yếu tố đầu tiên của sự phát triển.
CNH-HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động phổ thông sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đó còn là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ mới cho các ngành sản xuất, trước hết là các ngành then chốt. Vì vậy làm chủ công nghệ mới nhất và công nghệ cao, biến công nghệ nhập thành công nghệ của mình, nắm chắc nó, sử dụng nó; từ đó xây dựng năng lực sáng tạo công nghệ mới là yêu cầu rất cơ bản đối với NNL Việt Nam.
Trong quá trình CNH-HĐH, phải phát triển những ngành có trình độ công nghệ cao, phải thúc đẩy năng lực cạnh tranh và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu và triển khai sản xuất và nghiên cứu thị trường ở quy mô thế giới. Yếu tố quyết định nắm được công nghệ cao là yếu tố trí tuệ của NNL. Khi KH-CN trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì lao động trí óc có vai trò nòng cốt trong sử dụng công nghệ cao.
Không chỉ có sự nghiệp CNH-HĐH mà ngày nay kinh tế tri thức đang được nhiều người nhắc đến như một xu hướng tất yếu của xã hội sau giai đoạn CNH- HĐH. Kinh tế tri thức là nền kinh tế được dẫn dắt bởi tri thức và sản xuất dịch vụ xã hội, được thực hiện trên cơ sở khai thác trí thức mà trục chính là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, năng lượng và vi điện tử.
Từ những đặc trưng nổi bật trên đòi hỏi NNL tương ứng phải được đào tạo đặc biệt về nội dung và phương pháp mới.
- Lao động chân tay chuyển sang lao động trí tuệ nghĩa là phát triển kinh tế liên quan đến sở hữu trí tuệ, sáng tạo và sử dụng thông tin. Do đó đầu tư mạnh vào vốn con người và nhân lực được tri thức hóa.
- Sản xuất vật chất sang sản xuất phi vật chất, những khu công nghiệp cao là nơi tập trung trí tuệ và sự sáng tạo của lực lượng sản xuất tiên tiến.
Những nét khái quát về nền kinh tế CNH-HĐH và kinh tế thị trường đã đủ nhận thấy sẽ xuất hiện một thị trường lao động hết sức đặc biệt với những thách thức mới đối với NNL. Đó là cơ cấu ngành nghề mới do công nghệ-kỹ thuật đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, năng lượng và vi điện tử đòi hỏi. Rõ ràng đội ngũ công nhân kỹ thuật, những nhà quản trị, nhà khoa học và các lập trình viên, chuyên gia công nghệ phần mềm phải giỏi là yêu cầu mới của nhân lực trong thị trường lao động Việt Nam.
NNL tương lai phải được coi trọng giáo dục về tư duy sáng tạo, năng lực tự chủ, tự học hỏi và cần được đào tạo kỹ năng thành thạo, linh hoạt về công nghệ mới, đặc biệt là năng lực kinh doanh.
Vậy giáo dục-đào tạo con người và đào tạo nhân tài là một trong những trọng điểm của chiến lược phát triển NNL, một chính sách quan trọng đối với sự nghiệp CNH- HĐH. NNL có chất lượng cao về trí tuệ và tay nghề ngày càng trở thành lợi thế cạnh tranh cho mỗi quốc gia. Việc vận dụng tiến bộ tri thức khoa học và mở rộng những ngành mới đang dẫn đến tình trạng thiếu nhân tài ở các nước đang phát triển. Để có một đội ngũ nhân tài đáp ứng yêu cầu cao của quá trình CNH-HĐH, nâng cao chất lượng NNL là một tất yếu đối với mọi quốc gia.
4.1. Vấn đề lý luận
Các quan điểm khi nghiên cứu
Văn kiện Hội nghị thứ tư BCHTW khoá VII đã khẳng định: "Chỉ có trên cơ sở tạo ra một nguồn nhân lực bao gồm những người lao động Việt Nam “Phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị-xã hội, về đạo đức, về tình cảm trong sáng” chúng ta mới có được “nguồn lực quan trọng nhất”, ổn định nhất và bền vững nhất cho CNH-HĐH. Theo đó, trong quá trình phát triển nguồn nhân lực Đảng ta luôn đặt vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là vị trí đầu tiên để tiến lên CNH-HĐH.
Văn kiện Đại hội VIII, trong nhiệm vụ tập trung tạo việc làm đã chỉ rõ :
“Khuyến khích các thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề để tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân được tự do hành nghề, thuê mướn công nhân theo pháp luật. Tiếp tục phân bố dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên địa bàn có tính chiến lược về an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở Nông thôn”.
Tiếp tục tại đại hội Đảng IX Đảng và nhà nước ta đã khẳng định : “Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát trển kinh tế xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân._.. Để giải quyết về cơ bản người lao động được có việc làm, phải tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để mọi thành phần kinh tế đầu tư rộng rãi các các cơ sở sản xuất kinh doanh, tạo nhiều việc làm và phát triển thị trường lao động.
Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá các vấn đề xã hội ,tạo động lực phát triển sản xuất ,tăng năng suất lao động ,xã hội ,thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội ,khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp ,khôi phục phát triển các làng nghề đẩy mạnh phong trào thanh niên và đào tạo lao động có nghề
Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định phát huy nguồn lực con người ,ổn định phát triển kinh tế ,làm lành mạnh xã hội ,đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của nhân dân
b) NNL tạo ra tăng trưởng đối với nền kinh tế
Các nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith, David Ricardo, Marx đều cho rằng các yếu tố tác động tới quá trình tái sản xuất bao gồm đất đai, lao động, vốn và tiến bộ kỹ thuật. Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” Adam Smith đã viết “Lao động chứ không phải đất đai, tiền bạc là nguồn gốc tạo ra của cải cho đất nước” còn Marx đặc biệt coi trọng lao động trong việc tạo ra giá trị thặng dư của hàng hoá: là lao động cụ thể, lao động tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá, cũng chính là giá trị sẽ chuyển vào giá trị của hàng hoá (C); còn khi là lao động trừu tượng thì lao động tạo ra giá trị của hàng hóa, cũng chính là giá trị mới được tạo ra trong hàng hoá (M+V).
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế tân cổ điển và hiện đại cũng xác định tổng mức cung của nền kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của sản xuất, đó là nguồn lao động, vốn sản xuất, tài nguyên thiên nhiên và khoa học-công nghệ. Những yếu tố này chính là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế.
Y= f (L,K,R,T)
Trong đó: Y: là đầu ra (GDP)
K: là vốn sản xuất
L: là số lượng lao động
R: là nguồn tài nguyên thiên nhiên
T: là khoa học-công nghệ
g = t + ak + bl + gr
Trong đó: g : là tốc độ tăng trưởng GDP
k,r,l: là tốc độ tăng trưởng các yếu tố đầu vào
t: phần dư còn lại, phản ánh tác động của KH-CN
Các yếu tố đầu vào được kết hợp một tỷ lệ nhất định tuỳ theo từng ngành, lĩnh vực sản xuất và điều kiện nguồn lực của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ phát triển.
c) 1.3. Lao động tác động tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Theo lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu của FISHER (lý thuyết về sự thay đổi cơ cấu lao động ) nền kinh tế chia làm 3 khu vực. Khu vực 1 là các ngành nông nghiệp-lâm nghiệp-khai khoáng thì sản phẩm có nhu cầu co giãn ít; khu vực 2 gồm các ngành công nghiệp và xây dựng cơ bản, sản phẩm của ngành này có nhu cầu co giãn nhiều hơn đặc biệt là khu vực 3 bao gồm các ngành tài chính- ngân hàng, vận tải, thương mại, hoạt động khoa học kỹ thuật công nghệ...có nhu cầu sản phẩm co giãn nhiều nhất. Trong khi năng suất lao động ngày càng tăng ở khu vực 1, dẫn đến nhu cầu lao động ở khu vực này giảm, nhu cầu sản phẩm trong khu vực 2 và 3 lại tăng lên cho nên nhu cầu lao động ở 2 khu vực này tăng, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng lao động ở khu vực 1 giảm, khu vực 2 và 3 tăng lên, khu vực 3 tăng nhanh nhất. Do đó, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng khu vực 1, tăng tỷ trọng khu vực 2 và khu vực 3.
Hiện nay, nhu cầu lao động ở khu vực 2 và 3 rất lớn nhưng vấn đề không phải là số lượng lao động bởi đã có quá nhiều người mong muốn và họ đã cố gắng nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn với hy vọng được làm việc trong khu vực này. Vậy mà trong các ngành này vẫn còn thiếu sót rất nhiều lao động, nhu cầu công việc đòi hỏi cần có những thợ giỏi, các chuyên gia, và những nhà quản lý không thể đáp ứng được ở nước ta và một số nước đang phát triển nói chung.
Vậy, để thực hiện được chiến lược CNH-HĐH, cần nhanh chóng nâng cao chất lượng NNL, tạo một đội ngũ người lao động có chất lượng cao, làm chủ KH-CN.
Chương II
Đánh giá thực trạng khi nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn huyện Từ Liêm
I . Đặc điểm về tự nhiên – kinh tế - xã hội huyện Từ Liêm
Điều kiện tự nhiên
Từ liêm là một trong năm huyện ngoại thành của Hà Nội được thành lập năm 1961 , sau nhiều lần thay đổi địa giới hành chính Từ Liêm đã tách một số xã thị trấn về thành quận như : Cầu Giấy, Thanh Xuân, Tây Hồ. Huyện Từ Liêm hiện nay có diện tích tự nhiên là 7532,1040 ha với dân số khoảng 20 vạn người, có 16 đơn vị hành chính bao gồm 15 xã và một thị trấn, trụ sở cuả huyện năm tại thị trấn Cầu Diễn cách trung tâm thành phố khoảng gần 10 km. Từ Liêm nằm ở phía Tây – Tây Bắc của thành phố Hà Nội, tiếp giáp với nhiều quận huyện của thành phố và các huyện khác của tỉnh Hà Tây. Phía đông của huyện giáp với các quận Tây Hồ, Cầu Giấy, Thanh Xuân. Phía tây và nam giáp với thị xã Hà Đông (Hà Tây), huyện HoàI Đức, Đan Phượng. Phía bắc giáp với huyện Đông Anh có ranh giới tự nhiên là con sông Hồng.
Từ Liêm nằm trong khu vực có nhiều trường đại học, các trung tâm nghiên cứu cho nên có nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp thu tri thức khoa học, tiếp nhận chuyển giao khoa học kỹ thuật. Hơn thế nữa Từ Liêm lại là một cửa ngõ chính của thủ đô với cả hệ thống đường thuỷ và đường bộ như : Đường cao tốc Thăng Long – Nội Bài, cao tốc Láng- Hoà Lạc, đường quốc lộ 32 đi sơn Tây, đường đi Hà Đông ngoàI ra thì còn có cả hệ thống đường sông Hồng để có thể giao lưu với các tỉnh khác trên đất nước rễ ràng cũng như có thể giao lưu với quốc tế.
Với diện tích tự nhiên là 7532,1040 ha, theo kết quả khảo sát thổ nhưỡng thì đất đai trê địa bàn huyện chủ yếu là đất phù xa và đất thịt, thuận tiện cho việc sản xuất nông nghiệp. Về khí hậu thuỷ văn Từ Liêm chịu ảnh hưởng của khí hậu vùng Đông Bắc Bắc Bộ và khu vực Hà Nội trong năm có hai mùa rõ rệt, nhiệt độ trung bình trong năm là 230c.
Theo quy hoạch phát triển không gian của thủ đô Hà Nội tới năm 2002 sẽ có khoảng một nửa diện tích của Từ Liêm trở thành khu vực đô thị và khu công nghiệp. Một bộ phận đất đai của huyện sẽ trở thành một quận mới của thành phố. Như vậy trong một thời gian tới huyện sẽ có chuyển biến lớn về mọi mặt , điều này sẽ có tác động trực tiếp đến quản lý và sử dụng quỹ đất đai trên điạ bàn huyện.
2. Về hoạt động kinh tế :
Từ Liêm là một trong những huyện có vị trí quan trọng trong việc xây dựng và phát triển kinh tế cũng như công tác an ninh – quốc phòng của thành phố. Từ Liêm có 15 xã nhưng sản xuất chủ yếu mang tính thuần nông, thị trấn Cầu Diễn thì chưa được xây dựng hoàn chỉnh, nhưng không vì thế mà Từ Liêm không phát triển nhanh : Riêng 10 năm (1990-2000) giá trị sản xuất xã hộ tăng hơn 2,5 lần, giá trị hàng hoá nông sản/1ha đất nông nghiệp tăng 12,5 lần, văn hoá xã hội ngày càng văn minh hiện đại.
Trong năm 2003 vừa qua với sự phấn đấu nỗ lực, phát huy điểm mạnh, khắc phục khó khăn để triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội , an ninh quốc phòng Từ Liêm đã đạt được kết quả khả quan.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng : Công nghiệp – thương mại – dịch vụ – nông nghiệp. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn huyện là 22% ( cao nhất trong những năm gần đây ), dự kiến cả năm công nghiệp trên địa bàn do huyện quản lý đạt 204.756 triệu đồng tăng 4,8% so với kế hoạch cả năm. Trong đó ngoài quốc doanh đạt 203.806 triệu đồng , tăng 17% so với năm 2002 và vượt 4,8% kế hoạch năm.
Giá trị sản xuất ngành xây dựng cơ bản ước đạt 55.000 triệu đồng, tăng 11,3% so với năm 2002. Đặc biệt, huyện đã hoàn thành việc xây dựng hạ tầng cụm công nghiệp tập trung vừa và nhỏ với diện tích trên 20 ha, thu hút được 31 doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh. Hiện nay đang khẩn trương thực hiện các thủ tục phát triển mở rộng đợt 2 cụm công nghiệp vừa và nhỏ với 21 ha và triển khai xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu cơ quan huyện.
Các hoạt động dịch vụ phát triển khá, đáp ứng được nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Doanh thu thương mại - dịch vụ du- lịch ước đạt 869.200 triệu đồng tăng 21,7% so với năm 2002 và tăng 6% so với kế hoạch năm. Doanh thu ngành giao thông vận tải ước đạt 58.567 triệu đồng tăng 25,4 % so với năm 2002 và tăng 12,6% kế hoạch năm do số lượng đầu ô tô vận tải tăng với xu hướng phát triển là vận chuyển hàng hoá và vật liệu xây dựng.
Giá trị sản xuất nông lâm thuỷ sản tăng 4,5%, ước đạt 180.274 triệu đồng vượt 2,3% so với kế hoạch năm. Giá trị sản xuất trên 1 ha đất nông nghiệp đạt 64,1 triệu/ ha tăng 6 triệu đồng / ha so với năm 2002.
3. Hoạt động văn hoá- xã hội :
Cùng với sự phát triển kinh tế, sự nghiệp văn hoá - xã hội của huyện cũng từng bước chuyển nhanh theo cơ chế mới. Nhiều công trình văn hoá xã hội trường học, cơ sở y tế đã được đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động, công trình lớn nhất mang tầm cỡ quốc gia là khu “ Liên hợp thể thao quốc gia” phục vụ cho seagam 22 vừa qua.
Các hoạt động văn hoá có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.
Từ Liêm đã thực hiện nhiều biện pháp tạo việc làm cho người lao động như đẩy mạnh phát triển kinh tế, mở rộng cho vay giải quyết việc làm, tăng cường đào tạo nghề cho người lao động. Đã giải quyết việc làm cho 4.115 người lao động , đạt 108,3% kế hoạch năm.
II . Thực trạng nguồn nhân lực trong thời gian 2000-2003
Quy mô và cơ cấu nguồn nhân lực
Quy mô nguồn nhân lực :
Theo số liệu điều tra năm 2003, huyện Từ Liêm có 177.248 người trong đó nữ là: 87.840 người chiếm 49,55%; số người trong độ tuổi lao động 117.167 người chiếm 66,10%. Với mật độ dân cư là 2.360 người/km2, huyện Từ Liêm có mật độ dân số cao nhất so với các huyện ngoại thành; gấp 3 lần huyện Sóc Sơn, gấp 1,2 – 1,4 lần so với các huyện khác.
Tỷ lệ tăng dân số của huyện Từ Liêm năm 2003 là 1,2%, tỷ lệ tăng cơ học là 2,8%.
1.2 Cơ cấu nguồn nhân lực
Cơ cấu theo nghành công nghiệp , nông nghiệp , dịch vụ
Mặc dù huyện Từ Liêm đã từng bước nâng cao chất lượng lao động trong khu vực nông thôn ở những năm gần đây nhưng do vẫn còn nhiều hạn chế, nên hầu hết lao động ở nông thôn vẫn là lao động nông nghiệp, số lao động nông nghiệp kiêm thêm các ngành nghề khác và lao động thuộc các ngành nghề phi nông nghiệp chưa nhiều.
Biểu 1: Cơ cấu lao động trong khu vực nông thôn
năm 2003 của huyện Từ Liêm.
Đơn vị: Người
Loại hộ
Số hộ
Số nhân khẩu
Tổng số
Trong đó nữ
Nhân khẩu trong độ tuổi lao động
Tổng số
Trong đó nữ
Tổng số
40.550
117.248
87.840
117.167
57.353
Nông nghiệp
23.555
107.288
53.118
68.917
34.127
Công nghiệp-dịch vụ
3.400
13.470
6.663
8.834
4.371
Thương mại-dịch vụ
2.874
13.151
6.482
8.389
4.101
Công nhân viên chức
8.658
38.817
18.308
28.167
13.283
Các loại khác
2.063
4.522
3.269
2.860
1.471
Nguồn : Thực trạng lao động việc làm của phòng lao động &thương binh xã hội huyện Từ Liêm.
Theo số liệu điều tra ở trên năm 2003 của huyện Từ Liêm ta thấy tổng số lao động nông nghiệp 68.917 người chiếm 58,81% lực lượng lao động của toàn huyện. Đây thực sự là nguy cơ lớn khi quá trình đô thị hoá diễn ra với tốc độ cao, diện tích đất nông nghiệp bị mất quá lớn và quá nhanh. Rõ ràng phần đông nông dân lao động vẫn không thể được đào tạo kịp thời một ngành nghề khác với trình độ cao và như vậy sẽ mất đi cơ hội tham gia và hưởng thụ quá trình đô thị hoá - công nghiệp hoá tại chính quê hương mình.
Như vậy, đại bộ phận lao động nông thôn hoạt động trong các ngành nông-lâm-ngư nghiệp; các ngành công nghiệp-xây dựng và dịch vụ có xu hướng hiện nay là đẩy mạnh đầu tư phát triển các ngành công nghiệp dịch vụ trong nông thôn, nhằm tạo ra việc làm và tăng thu nhập cho người dân, góp phần tích cực vào quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn.
b) Cơ cấu theo thành phần kinh tế
Nghề nghiệp
Tổng
NN
Tập thể
Tư nhân
Cáthể
Hỗn hợp
Nước ngoài
Kxđ
1 lãnh đạo
16247
11120
477
558
0
1581
450
31
2.cm kỷ thuật bậc
158887
142454
1214
2585
2479
5989
4119
47
3.cm kỷ thuật b trung
76061
68873
1126
1158
2626
1841
418
19
4.Nviên kt làm việc vp
36262
29315
877
1264
1909
2311
576
10
5.Nvien dịch vụ cá nhân
138111
27949
1070
3232
102644
2604
574
38
6. lao dộng cókt
28740
2173
17592
47
8910
11
5
2
7.Thợ thủ công có kt
14541
48374
2260
3180
90939
2324
453
20
8.Thợ kỷ thuật lắp rắp
109611
72604
1849
3111
25835
5134
1054
24
Lao động đơn giản
423839
24558
330740
1375
65292
1385
1385
93
Số lao động theo nghề trong các thành phần kinh tế
Biểu 2 cơcấu lao động trong các thành phần kinh tế
Nghề nghiệp
Tổng
NN
Tập thể
Tư nhân
Cáthể
Hỗn hợp
Nước ngoài
Kxđ
Tổng
100
100
100
100
100
100
100
100
1 lãnh đạo
1.4
2.87
0.13
3.55
0.00
6.80
5.54
10.10
2.cm kỷ thuật bậc
13.66
31.21
0.34
15.59
0.82
25.76
50.67
15.31
3.cm kỷ thuật b trung
6.54
15.09
0.32
6.98
0.87
7.92
5.14
6.19
4.Nviên kt làm việc vp
3.12
6.42
0.25
7.62
0.63
9.94
7.09
3.26
5.Nvien dịch vụ cá nhân
11.88
6.12
0.30
19.49
34.10
11.20
7.06
12.38
6. lao dộng cókt
2.47
0.48
4.92
0.28
2.96
0.05
0.06
0.65
7.Thợ thủ công có kt
12.69
10.60
0.63
19.18
30.21
9.99
5.57
6.51
8.Thợ kỷ thuật lắp rắp
9.42
45.90
0.52
18.76
8.587
22.08
12.97
7.82
9Lao động đơn giản
36.44
5.38
92.58
8.29
21.69
5.96
4.82
30.29
10.ld khác
2.38
5.93
0.01
0.25
0.13
0.31
1.08
7.49
Qua biểu đồ cơ cấu ta thấy lao động giản đơn trong huyện chiếm nhiều nhất là lao động giản đơn chiếm 36.44% trong tổng số lao động của cả huyện , lãnh đạo chiếm thấp nhất 1.4% trong tổng số lao động . Lao động kỷ thuật còn thấp và đã xẩy ra một bất cập trong khâu đào tạo là lao động chuyên môn kỷ thuật bậc cao chiếm 13.66% ,trong khi đó lao động chuyên môn kỷ thuật bậc trung chỉ chiếm 6.54% và thợ thủ công chiếm 9 – 12% đó là hiện tượng thừa thầy thiếu thợ ,có nhiều điều chưa hợp lý trong cơ cấu lao động trong các năm qua
Theo số liệu điều tra thống kê huyện thì hiện nay nhóm tuổi từ 15-25 chiếm khá đông =38647 người (khoảng 39,98% số người trong độ tuổi lao động); nhóm tuổi 25-55 khoảng 53385 người (chiếm 45,56% số người trong độ tuổi lao động); còn lại là số người trong độ tuổi từ 56-60 và trên 60 tuổi. Trong 4 năm :2000,2001,2002,2003 số người trong độ tuổi lao động tăng nhanh, lực lượng lao động của huyện trẻ, đó là một trở ngại lớn trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Mặc dù vậy, trong 4 năm qua toàn huyện cũng đã tạo nên 14812 chỗ làm việc mới. Tỷ lệ thất nghiệp ở huyện trong năm 2003 giảm xuống còn 6550 người = 5.6%, tỉ lệ lao động thiếu việc làm giảm xu còn 4,3% . Số lao động có việc làm đầy đủ là 87756 người = 75.7% so với lao động.
Sau đây ta xem xét sự phân bố lực lượng lao động làm việc trong các ngành kinh tế qua các năm như thế nào thông qua số liệu bảng.
Biểu3 : Lao động làm việc trong các ngành kinh tế qua các năm
ở huyện Từ Liêm
Đơn vị : Người %
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
Số lượng
% so với
tổng số
Số lượng
% so với
tổng số
Số lượng
% so với
tổng số
Ngành công nghiệp-xây dựng.
Ngành nông lâm thuỷ sản .
Ngành du lịch – dịch vụ
4. Khu vực hành chính sự nghiệp, Đảng, đoàn thể
5. Tổng số
10.101
50.153
6.812
10.057
77.123
13,09
65,03
8,83
13,05
100
13.145
48.789
8.128
10.837
80.899
16,24
59,07
10,04
14,65
100
15.102
46.985
10.756
9.917
82760
18,3
56,77
13
11,93
100
Bảng 3 cho ta thấy, trong 3 nhóm ngành : Nông – Lâm – Ngư nghiệp; Công nghiệp – Xây dựng; Du lịch- Dịch vụ thì số lao động làm việc trong ngành Nông – Lâm – Ngư nghiệp là nhiều nhất chiếm 60% mặc dù tỷ lệ này đến năm 2002 có giảm đi =2,3%. Do có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng lao động cho sản xuất công nghiệp và dịch vụ, giảm lao động Nông – lâm – Ngư nghiệp. Nên tỷ lệ lao động tham gia vào các ngành kinh tế này cũng thay đổi theo. Đặc biệt, do kết quả của việc cải cách hành chính nên lao động làm việc trong khu vực hành chính sự nghiệp, Đảng, đoàn thể cũng giảm theo, và hiện nay chỉ còn 11,93% lao động làm việc trong khu vực này.
Lao động chủ yếu tập chung vào các ngành Nông – Lâm- Thuỷ sản do vậy đóng góp vào tổng sản phẩm của nhóm ngành này cũng khá lớn chỉ sau nhóm ngành Công nghiệp và Xây dựng. Điều này cho thấy tỷ trọng giá trị sản phẩm tạo ra của nhóm ngành Nông – Lâm nghiệp vẫn là lớn trong GDP , mà huyện trong thời gian tới đất đai trong nông nghiệp sẽ bị mất đi nhiều do quá trình đô thị hoá nên vấn đề đặt ra với các cấp lãnh đạo của huyện là phải tìm ra hướng giải quyết việc làm cho lao động trong nông nghiệp khi quá trình đô thị hoá của huyện diễn ra mạnh.
Biểu 4 : Cơ cấu thu nhập theo ngành qua các năm của huyện :
Dơn vị : tỷ đồng
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
Số lượng
% so với tổng số
Số lượng
% so với tổng số
Số lượng
% so với tổng số
1. Ngành CNXD
303.770
41,7
34.6961
43,9
394.000
44,3
2. Ngành nông lâm thuỷ sản
241.466
33,2
229.300
29,0
254.500
28,6
3. Ngành DL- DV
182.994
25,1
213.980
27,1
240.000
27,0
4. Tổng số
728.230
100
790.241
100
888.500
100
Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực
2.1. Thể lực của người lao động
- Nguồn nhân lực của huyện đánh giá là kém cả về tầm vóc và thể lực, do thể trạng người Việt Nam , mặt khác do những năm trước đây điều kiện kinh tế còn kém nên chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em cũng như việc cung cấp chất dinh dưỡng ở người lớn còn nhiều hạn chế., qua chỉ số cơ thể (BMI) ở người lớn bình quân là 19,83kg/m2 trong đó ở thành thị là 20,18kg/m, ở khu vực nông thôn là 19,545kg/m2, chỉ số của nữ thấp hơn của nam (Nam:19,76kg/m2, Nữ : 19,68kg/m2). Trong tổng số người từ 18 tuổi trở lên có 48,24% số người có sức khoẻ ở mức bình thường (không béo cũng không gầy).
Bảng 5: Tình trạng dinh dưỡng của người lớn tính theo chỉ số
cơ thể BMI phân theo giới tính, khu vực thành thị và nông thôn
Đơn vị: %
Quá gầy
Gầy
Hơi gầy
B.thường
Béo
Quá béo
T.bình
Kg/m2
CHUNG
3,52
18,44
24,09
48,24
5,18
0,55
19,83
Giới tính
Nam
2,23
17,50
39,56
38,18
2,43
0,10
19,76
Nữ
4,69
19,29
10,02
57,38
7,68
0,95
19,68
Khu vực
Thành thị
2,67
15,69
19,42
53,22
6,75
1,25
20,65
Nông thôn
5,44
20,53
25,14
46,35
2,38
0,15
19,65
Tình trạng thể lực của nguồn nhân lực thông qua chiều cao trung bình và tuổi thọ bình quân của dân số của huyện cũng cho thấy mặt hạn chế của nguồn nhân lực.
Để chuẩn bị tốt nguồn nhân lực trong tương lai thì vấn đề chăm sóc sức khoẻ trẻ em là vô cùng quan trọng, vì nó sẽ quyết định phần lớn sức khoẻ và khả năng trí tuệ của con người sau này. "Trẻ em hôm nay chính là sự phát triển của NNL trong tương lai”.
Trong những năm gần đây, do có sự quan tâm của Đảng và điều kiện cuộc sống được cải thiện nên trẻ em có điều kiện chăm sóc nhiều hơn. Theo ĐTMS 97-98 tình tạng dinh dưỡng của trẻ em hiện nay được đánh giá như sau:
Về chiều cao theo tuổi: Có 41,52% trẻ em (từ 0-155 tháng tuổi) có chiều cao thấp so với tuổi (thấp còi), giảm 6,94% so với năm 92-93. Trong đó, tỷ lệ thấp còi của trẻ em thành thị thấp hơn ở nông thôn (Thành thị: 22,68%, nông thôn: 45,24%), của trẻ em nam cao hơn trẻ em nữ (Nam: 43,86%, Nữ: 39,08%). Trong số trẻ em thấp còi, nhóm trẻ em độ tuổi 0-5 tháng có tỷ lệ thấp còi thấp nhất, và thấp hơn hẳn nhóm trẻ em 6-155 tháng (xem bảng .6).
Bảng 2.6: Chiều cao theo tuổi của trẻ em từ 0-155 tháng tuổi phân theo nhóm tháng tuổi, khu vực thành thị, nông thôn và giới tính
Đơn vị:%
Chung
Thành thị
Nông thôn
Bình
thường
Suy DD
độ I
Suy DD
độ II
Bình
thường
Suy DD
độ I
Suy DD
độ II
Bình
thường
Suy DD
độ I
Suy DD
độ II
CHUNG
58,48
29,41
12,11
77,32
17,46
5,22
54,76
31,76
13,48
Tháng tuổi
0-5
95,69
3,20
1,11
97,26
2,74
0,00
95,31
3,30
1,39
6-11
92,40
4,59
3,01
96,75
0,00
3,25
91,37
5,68
2,95
12-23
55,53
28,02
16,45
70,99
20,46
8,55
52,35
29,57
18,08
24-35
68,12
23,13
8,75
78,83
13,12
8,05
65,67
25,42
8,91
36-47
62,79
24,46
12,75
84,52
11,31
4,11
57,77
27,50
14,73
48-59
52,27
34,21
13,52
80,84
18,17
0,99
47,16
37,07
15,77
60-71
57,93
29,60
12,47
77,67
14,69
7,64
54,14
32,47
13,39
72-83
55,53
32,65
11,82
68,04
23,35
8,61
52,81
34,68
12,51
84-95
61,12
29,43
9,45
80,82
13,25
5,93
57,61
32,31
10,08
96-107
62,63
28,40
8,97
79,24
17,96
2,80
59,91
30,11
9,98
108-119
62,32
28,22
9,46
79,25
19,14
1,61
58,66
30,19
11,15
120-131
51,70
35,71
12,59
69,14
24,20
6,66
48,29
37,96
13,75
132-143
49,21
33,54
17,25
77,17
21,44
1,39
44,41
35,62
19,97
144-155
46,77
35,40
17,83
69,81
20,61
9,58
42,16
38,36
19,48
Giới tính
Nam
56,14
31,20
12,66
76,83
17,96
5,21
52,04
33,82
14,14
Nữ
60,92
27,54
11,54
77,84
16,94
5,22
57,60
29,62
12,78
Nguồn: ĐTMS 97-98
Về cân nặng theo chiều cao: Có 8,98% trẻ em có cân nặng thấp so với chiều cao (còm), tăng 7,92% so với KSMS 92-93. Con số trong bảng cho thấy trẻ em còm chiếm tỷ lệ ít hơn trẻ em thấp còm nhưng lại có xu hướng tăng sau 5 năm. Trong số trẻ em còm, ở khu vực thành thị chiếm 9,33%, nông thôn là 9,91%, ở nam là 8,64% và nữ là 9,39%. Tình trạng trẻ em còm thấp nhất ở nhóm tuổi 0-5 tháng (xem bảng 2.7).
Bảng 2.7: Cân nặng theo chiều cao của trẻ em từ 0-155 tháng tuổi phân theo nhóm tháng tuổi, khu vực thành thị, nông thôn và
theo giới tính
Đơn vị: %
CHUNG
Thành thị
Nông thôn
Bình thường
Suy DD
độ I
Suy DD
độ II
Bình thường
Suy DD
độ I
Suy DD
độ II
Bình thường
Suy DD
độ I
Suy DD
độ II
CHUNG
91,02
7,62
1,36
90,67
8,03
1,30
91,09
7,53
1,38
Tháng tuổi
0-5
92,92
1,57
5,51
95,57
0,00
4,43
92,24
1,98
5,78
6-11
87,84
9,45
2,71
97,43
2,57
0,00
85,55
11,09
3,36
12-23
85,51
11,92
2,57
80,21
17,80
1,99
86,60
10,71
2,69
24-35
86,28
11,06
2,66
91,19
6,85
1,96
85,16
12,02
2,82
36-47
90,70
7,30
2,00
94,43
2,50
3,17
89,86
8,41
1,73
48-59
91,34
7,61
1,05
93,43
5,69
0,88
90,97
7,95
1,08
60-71
91,76
6,34
0,90
95,80
4,20
0,00
92,18
6,75
1,07
72-83
91,51
7,36
1,13
92,59
6,12
1,29
91,28
7,63
1,09
84-95
92,05
6,48
1,47
87,31
10,62
2,07
92,89
5,75
1,36
96-107
90,74
8,75
0,51
85,61
13,76
0,63
91,58
7,94
0,48
108-119
91,90
7,40
0,70
86,62
12,83
0,55
93,02
6,25
0,73
120-131
...
...
...
...
...
...
...
...
...
132-143
...
...
...
...
...
...
...
...
...
144-155
...
...
...
...
...
...
...
..
...
Giới tính
Nam
91,36
7,35
1,29
91,56
7,36
1,08
91,31
7,36
1.52
Nữ
90,61
7,94
1,45
89,52
8,90
1,58
90,82
7,75
1,43
Nguồn: ĐTMS 97-98
Cân nặng theo tuổi: cũng là chỉ tiêu đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em. Có 40,13% trẻ em (từ 0-155 tháng) có cân nặng theo tuổi thấp. Tỷ lệ trẻ em theo tuổi thấp ở khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị (Thành thị : 24,5%, Nông thôn: 43,20%), ở nam cao hơn ở nữ (Nam: 41,83%, Nữ: 38,34%). Nhóm trẻ em độ tuổi 0-5 tháng tuổi có tỷ lệ cân nặng thấp so với tuổi thấp nhất và thấp hơn hẳn so với nhóm trẻ em 6-155 tháng tuổi (xem bảng 2.8).
Bảng 2.8: Cân nặng theo tuổi của trẻ em từ 0-155 tháng tuổi phân theo nhóm tháng tuổi, khu vực thành thị, nông thôn và theo giới tính
Đơn vị :%
Chung
Thành thị
Nông thôn
Bình thường
Suy DD
độ I
Suy DD
độ II
Bình thường
Suy DD
độ I
Suy DD
độ II
Bình thường
Suy DD
độ I
Suy DD
độ II
Chung
59,87
36,10
4,03
75,43
22,54
2,03
56,80
38,77
4,43
Tháng tuổi
0-5
96,59
2,58
0,83
100,00
0,00
0,00
95,75
3,22
1,03
6-11
84,78
13,74
1,48
92,25
7,75
0.00
83,00
15,17
1,83
12-23
59,22
31,29
9,49
75,89
17,26
6,85
55,79
34,18
10,03
24-35
60,04
30,81
9,15
72,28
21,30
6,42
57,21
33,01
9,78
36-47
60,54
33,16
6,30
82,74
16,44
0,82
55,41
37,03
7,56
48-59
57,59
36,27
5,94
79,63
19,49
0,88
53,88
39,27
6,85
60-71
57,35
37,67
4,98
75,12
24,05
0,83
53,95
40,27
5,78
72-83
55,51
38,50
5,99
64,57
32,31
3,12
53,54
39,84
6,62
84-95
59,32
35,83
4,85
70,31
26,73
2,96
57,36
37,45
5,19
96-107
60,90
36,72
2,38
73,68
24,82
1,50
58,80
38,68
2,52
108-119
61,09
37,64
1,27
77,30
22,70
0,00
57,59
40,87
1,54
120-131
56,80
41,42
1,78
73,07
25,85
1,08
53,62
44,46
1,92
132-143
56,72
42,28
1,00
76,71
23,29
0,00
53,29
45,51
1,18
144-155
55,57
41,41
3,02
71,29
24,89
3,82
52,42
44,2
2,86
Giới tính
Nam
58,17
37,44
4,39
74,56
23,15
2,29
54,91
40,29
4,80
Nữ
61,66
34,67
3,67
76,43
21,90
1,76
58,57
37,19
4,04
Nguồn: ĐTMS 97-98
Qua số liệu bảng (6-7-8) cho thấy, trẻ em có cân nặng theo tuổi và chiều cao theo tuổi tăng nhưng cân nặng theo chiều cao giảm chứng tỏ chiều cao trẻ em Việt Nam đã tăng. Đây là một lợi thế để nâng cao chiều cao cho nguồn nhân lực trong thời gian tới. Mặt khác các điều kiện sinh hoạt, giải trí và làm việc của người lao động đang dần được cải thiện, tạo môi trường tốt cho sự phát triển thể lực con người, làm tăng khả năng lao động và tuổi thọ, góp phần phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư.
Trình độ văn hoá và chuyên môn của người dân huyện Từ Liêm
Qua phân tích, đánh giá trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật của lưc lượng lao động huyện Từ Liêm ta có thể biết được chất lượng đội ngũ lao động ở đây ra sao? Nghĩa là, xem xét và phân tích kết quả của quá trình đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghề nghiệp, trình độ quản lý, khả năng ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất của lực lượng lao động trong huyện như thế nào? Để có thể tạo việc làm phù hợp với trình độ và khả năng lao động của người lao động. Do vây, đánh giá chất lượng lao động của huyện Từ Liêm cần xem xét tới các khía cạnh sau:
- Trình độ văn hoá của lực lượng lao động:
Bởi vì, trình độ văn hoá là yếu tố quan trọng tạo điều kiện cho người lao động hình thành nhân cách cần thiết, giúp họ nâng cao trình độ hiểu biết, tiếp thu kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để vận dụng nó. ở huyện Từ Liêm, qua số liệu ở bảng 1 sẽ cho ta biết trình độ văn hoá của lực lượng lao động hay số người trong độ tuổi lao động ở huyện ra sao?
Biểu 1: Trình độ văn hoá của người lao động trong độ tuổi lao động phân theo nhóm tuổi và trình độ học vấn năm 2003.
Đơn vị: Người
Độ tuổi
Nhân khẩu trong độ tuổi lao động
Trình độ học vấn phổ thông
Tổng số
Trong đó nữ
Mù chữ
Cấp I
Cấp II
Cấp III
Tổng số
117.167
57.353
1.136
10.755
68.460
36.816
Từ 15 đến 18 tuổi
14.925
6.949
158
885
7.702
6.338
Từ 19 đên 25 tuổi
23.722
17.667
192
1.414
8.414
13.702
Từ 26 đến 45 tuổi
53.385
25.851
249
4.562
35.477
13.097
Từ 46 đến 60 tuổi
25.135
6.772
537
10.951
9.564
4.119
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Từ Liêm
Số liệu trên cho thấy trình độ học vấn phổ thông của người trong độ tuổi lao động huyện Từ Liêm còn thấp.
+ Mù chữ là 1.136 người chiếm 0,97%
+ Cấp I là 10.755 người chiếm 9,18%
+ Cấp II là 68.460 người chiếm 58,43%
+ Cấp III là 38.816 người chiếm 31,42%
- Trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Có thể nói lực lượng lao động huyện Từ Liêm phần lớn lao động phổ thông không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Hàng năm tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng rất chậm, thể hiện qua số liệu bảng2.
Biểu 2 : Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động
huyện Từ Liêm trong năm 2003.
Đơn vị: Người
Độ tuổi
Số nhân khẩu trong độ tuổi
Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Không bằng cấp
Sơ cấp
Trung cấp
CN kỹ thuật
Đại học cao đẳng
Trên đại học
Tổng số
117.167
92.339
2.694
5.869
11.025
5.038
175
Từ 15 – 18 tuổi
14.925
14.486
17
89
313
20
0
Từ 19 – 25 tuổi
23.772
17.479
448
1.635
2.174
1.949
37
Từ 26 – 45 tuổi
53.385
42.036
1.241
2.396
5.629
1.973
47
Từ 46 – 60 tuổi
25.135
18.338
988
1.776
2.846
1.096
91
Nguồn : Phòng lao động và thương binh xã hội huyện Từ Liêm.
Qua số liệu bảng trên cho ta thấy trình độ chuyên môn kỹ thuật của số lao động chủ yếu là không bằng cấp :
+ Không bằng cấp là 92.336 người chiếm 78,81%
+ Sơ cấp là 2694 người chiếm 2,30%
+ Công nhân kỹ thuật là11.025 người chiếm 9,41%
+ Trung cấp là 5.869 người chiếm 5,03%
+ Đại học, cao đẳng là 5.038 người chiếm 4.30%
+ Trên đại học là 175 người chiếm 0,15%
Với số liệu trên cho thấy, lực lượng lao động của Từ Liêm tuy đông về số lượng nhưng về chất lượng còn nhiều hạn chế.
Trình độ chuyên môn của huyện Từ Liêm so với mặt bằng của cả nước thì còn thấp nhất là những người cótình độ từ sơcấp trở lên ,còn ở huyện chênh lệch giữa những ngưòi không bằng cấp và những ngườig có bằng cấp là quá lớn lao đọng chủ yếu ở huyện là lao động không có bằng cấp
Bảng : Cơ cấu lao động có TĐCM theo cấp bậc của cả nước
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
1997
1999
2001
Người
%
Người
%
Người
%
Trong nền kinh tế
4586996
100
5241734
100
6733012
100
1.Sơ cấp/chứng chỉ hành nghề
546390
11,92
572886
10,94
757464
11,25
2.CNKT không bằng
742996
16,2
889033
16,96
116548
17,31
3.CNKT có bằng
847710
18,48
880166
16,8
1168178
17,35
4.THCN
1380110
30,1
1593551
30,4
1946514
28,91
5.CĐ-ĐH trở lên
1069790
23,2
1306098
24,9
2744308
25,18
Nguồn : Điều tra lao động-việc làm 1997,1999,2001
Nguồn lao động của Từ Liêm phần lớn lạc hậu, không được đào tạo trình độ chuyên môn tay nghề thấp, khả năng thích ứng trình độ khoa học kỹ thuật, thích ứng với nền sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị trường kém vì vậy lao động huyện Từ Liêm gặp khó khăn trong việc tiếp cận với những công việc đòi hỏi phải có trình độ kỹ thuật tay nghề những công việc có thu nhập cao.
Như vậy, qua xem xét trên 2 khía cạnh trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động lao động lao động huyện Từ Liêm ta nhận thấy rằng chất lượng nguồn lao động của huyện còn nhiều hạn chế mặc dù về số lượng thì dồi dào. Do vậy lao động cần phải nỗ lực học tập , nâng cao trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật hơn nữa thì mới đáp ứng đòi hỏi của thị trường lao động cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của huyện.
Đánh giá chất lượng về nguồn nhân lực
1.Những thành tựu đạt được
Được sự quan tâm của lãnh đạo huyện, sự giúp đỡ của các ban ngành cấp uỷ Đảng và nhân dân chủ động khắc phục khó khăn tích cực phấn đấu đẩy nhanh phát triển kinh tế xã hội, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, bộ mặt đô thị được đổi mới nhanh chóng, các vấn đề xã hội như giáo dục, y tế, VHTT- TT, chính sách xã hội được quan tâm giải quyêt, đời sống nhân dân ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NKT093.Doc