Các giải pháp mở rộng tín dụng phát triển & đổi mới công nghệ tại Ngân hàng Công thương Đống Đa

Mục lục Lời Nói Đầu Trang 4 Chương I : Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với quá trình phát triển và đổi mới công nghệ I Tín dụng ngân hàng 1. Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng ngân hàng Vài nét về hoạt động ngân hàng thương mại Tín dụng ngân hàng Vai trò của tín dụng ngân hàng với nền kinh tế 2. Các hình thức tín dụng ngân hàng 2.1 Phân loại theo nghiệp vụ 2.2 Phân loại theo kỳ hạn tín dụng II Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với quá trình phát

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1253 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp mở rộng tín dụng phát triển & đổi mới công nghệ tại Ngân hàng Công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triển và đổi mới công nghệ Công nghệ Khái niệm về công nghệ và các thành phần công nghệ Đặc trưng công nghệ phần cứng Phân loại công nghệ Đổi mới công nghệ Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với quá trình phát triển và đổi mới công nghệ ở nước ta Nhu cầu khách quan phải đổi mới công nghệ Tín dụng ngân hàng, nguồn tài trợ quan trọng cho phát triển và đổi mới công nghệ Đặc trưng của tín dụng ngân hàng phục vụ đổi mới công nghệ III Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm tăng cường phát triển và đổi mới công nghệ 1. Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô Quy định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Chính sách vĩ mô của Chính phủ Chiến lược phát triển ngành, chiến lược phát triển khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ Các nhân tố thuộc môi trường vi mô Các nhân tố thuộc về phía doanh nghiệp Các nhân tố thuộc về phía ngân hàng Chương II Thực trạng hoạt động tín dụng Đổi mới công nghệ tại NHCT Đống Đa I khái quát hoạt động của NHCT Đống Đa Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của NHCT Đống Đa Nghiệp vụ huy động vốn Nghiệp vụ tín dụng II Cơ sở pháp lý, môi trường kinh doanh đối với hoạt động cho vay đổi mới công nghệ Những quy định, chính sách của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Quy định của Nhà nước về cho vay đổi mới công nghệ Chính sách vĩ mô của Chính phủ Khả năng cạnh tranh của chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong cho vay đổi mới công nghệ Khả năng cạnh tranh của của ngân hàng thương mại quốc doanh III Thực trạng hoạt động tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ tại NHCT Đống Đa Hoạt động cho vay đổi mới công nghệ tại NHCT Đống Đa Tình hình nợ quá hạn Kết quả hoạt động IV Đánh giá hoạt động tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ tại NHCT Đống Đa Điểm mạnh của NHCT Đống Đa trong cho vay đổi mới công nghệ Những hạn chế, tồn tại vướng mắc Về phía ngân hàng Về cơ chế chính sách Chương III Các giải pháp mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới và phát triển công nghệ I Định hướng hoạt động tín dụng đổi mới và phát triển công nghệ tại NHCT Đống Đa II Một số giải pháp mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới và phát triển khoa học công nghệ tại NHCT Đống Đa 1. Giải pháp đối với NHCT Đống Đa Ngân hàng cần có hình thức huy động vốn thích hợp và đa dạng hoá hình thức huy động vốn. Hoàn thiện công tác kế hoạch hoá dài hạn Cần phát triển chiến lược khách hàng trong cho vay đổi mới công nghệ Vận dụng, đưa ra mức lãi suất mềm dẻo, linh hoạt NHCT Đống Đa cần ban hành tài liệu tham khảo nội bộ Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng Thành lập bộ phận marketting ngân hàng Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ 2. Giải pháp với các cơ quan cấp trên Giải pháp đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Giải pháp đối với NHCT Việt nam Kết luận lời nói đầu Sau hơn 10 năm chuyển sang kinh tế thị trường, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Chúng ta đã từng bước có được nền kinh tế mở, hợp tác đa phương và phát triển mạnh sản xuất trong nước. Mức sống của người dân không ngừng được nâng cao, tích luỹ trong xã hội ngày càng tăng và tăng trưởng kinh tế cao. Ngân hàng và các doanh nghiệp chính là hai nhân tố chủ chốt trong nền kinh tế đã đóng góp cho sự thành công đó. Doanh nghiệp với sự tài trợ của ngân hàng đã không ngừng mở rộng sản xuất, cung ứng khối lượng hàng hoá lớn cho thị trường trong nước cũng như quốc tế. Bên cạnh đó, các việc làm được tạo ra đã giải quyết được một phần lớn sức ép về lao động đang ngày càng nặng nề trong xã hội. Tuy vậy, cùng với những kết quả đáng mừng thu được sau 10 năm đổi mới, chúng ta nhận thấy những khó khăn mới nảy sinh, đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa các bên hữu quan để giải quyết vấn đề. Các doanh nghiệp trong nước đang gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá . Trong những nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan, chúng ta phải thừa nhận một nguyên nhân rất căn bản là chất lượng sản phẩm làm ra của doanh nghiệp là thấp so với sản phẩm cùng loại của nước ngoài . Theo đánh giá của Bộ khoa học công nghệ và môi trường, thiết bị sản xuất của chúng ta lạc hậu trung bình là 30 năm so với các thiết bị sản xuất trên thế giới. Hậu quả tất yếu là các doanh nghiệp trong nước không thể giữ được thế chủ động trong vấn đề chất lượng sản phẩm, một vũ khí cạnh tranh có thể được coi là rất mạnh trong thời đại ngày nay. Vấn đề này đã được nhiều doanh nghiệp nhận thức ra, nhưng một trở lực lớn cho họ chính là vấn đề tài chính. Thiếu tài chính khiến họ bị bó buộc , những chiến lược phát triển kinh doanh không thể đưa vào triển khai. Nếu tình trạng này tiếp tục tái diễn, chúng ta sẽ phải trải qua một giai đoạn đổ vỡ hàng loạt của các doanh nghiệp trong nước. Trong khi đó, tình trạng ứ đọng vốn do không tìm được dự án tốt để đầu tư, tình trạng tài chính thiếu lành mạnh do suy thoái kinh tế và sút giảm kinh doanh của doanh nghiệp đang đẩy ngân hàng vào giai đoạn khó khăn. Nếu không có biện pháp khắc phục kịp thời, quy mô của ngân hàng sẽ dần dần bị thu hẹp, khó có cơ hội phát triển. Nếu ngân hàng có được biện pháp thích hợp, sự phát triển của doanh nghiệp sẽ kéo theo sự phồn vinh của ngân hàng, và đó cũng là sự đảm bảo vững chắc nhất cho sự phát triển lâu dài của ngân hàng. Có thể nói, trong thời gian qua, ngân hàng và doanh nghiệp cũng như các cơ quan chức năng của Chính phủ đã có nhiều nỗ lực để tháo gỡ vấn đề. Tuy vậy, kết quả đạt được chưa dúng như mong đợi. Làm thế nào để tháo gỡ cho doanh nghiệp cũng như ngân hàng đang là câu hỏi mở. Một trong số biện pháp đó, mở rộng tín dụng cho đầu tư đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp có thể được xem là chìa khoá cho việc giải quyết thách thức này. Sau một quá trình nghiên cứu dài, kết hợp với chương trình thực tập tại Ngân hàng Công thương Đống Đa, tôi đã đi đến lựa chọn đề tài “Các giải pháp mở rộng tín dụng phát triển và đổi mới công nghệ tại NHCT Đống Đa” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. Luận văn này được viết với hy vọng sẽ đóng góp được những nghiên cứu, những ý kiến cá nhân vào công việc của các doanh nghiệp, của ngân hàng, của Chính phủ cũng như sự nghiệp của toàn Đảng toàn dân ta trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhu cầu đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp rất đa dạng. Căn cứ vào tình hình đổi mới công nghệ và hoạt động ngân hàng tại nước ta, trong đề tài này tôi chỉ tập trung nghiên cứu tín dụng ngân hàng tài trợ cho các dự án đổi mới công nghệ và nghiên cứu,chế tạo công nghệ mới, trong đó công nghệ là công nghệ phần cứng. Luận văn này gồm 3 chương : - Chương I : Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với quá trình đổi mới và phát triển công nghệ. - Chương II : Thực trạng hoạt động tín dụng đổi mới công nghệ tại NHCT Đống Đa . - Chương III : Các giải pháp mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới và phát triển công nghệ chương I tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với quá trình phát triển và đổi mới công nghệ I Tín dụng ngân hàng 1. Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng của ngân hàng 1.1 Vài nét về hoạt động của ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại ra đời cùng với quá trình phát triển của kinh tế hàng hoá. Khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện ở các nước châu Âu thì cũng là lúc thương mại giữa các nước khá phát triển. Đối với bất kỳ quốc gia nào, thương mại quốc tế là một phần quan trọng không thể thiếu trong toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Trong những thế kỉ trước, vàng là phương tiện thanh toán quốc tế hữu hiệu nhất. Để hạn chế bất tiện do mang vàng qua các quốc gia, những thương gia nước ngoài sau khi thu được tiền đã tìm ra một giải pháp, đó là gửi tiền tại nhà thợ vàng. Những người thợ vàng thông minh nhận thấy mặc dù những người gửi vàng có thể rút vàng ra bất kỳ lúc nào nhưng trong két của họ vẫn luôn có một khoản tiền lớn. Từ đó họ nảy ra ý định cho vay và thu lãi một phần vàng đang được gửi. Hoạt động này mang lại lợi nhuận lớn nên họ đã khuyến khích gửi vàng vào ngân hàng bằng cách trả lãi cho số vàng huy động được. Như vậy, những người thợ vàng đã thực hiện hai nghiệp vụ cơ bản : nhận tiền gửi và cho vay.Đó chính là tiền thân của ngân hàng thương mại. Do đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của nền kinh tế nên ngành ngân hàng dần dần trở thành một ngành kinh tế rất quan trọng. Nghiệp vụ của ngành ngân hàng ngày càng đa dạng cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Luật các tổ chức tín dụng ở nước ta quy định: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.” Nghiệp vụ cơ bản đầu tiên của ngân hàng là nghiệp vụ huy động vốn. Ngân hàng thương mại huy động tiền gửi từ dân cư và các tổ chức kinh tế nhưng quan trọng nhất là từ dân cư. Hình thức huy động tiền gửi của ngân hàng rất đa dạng, có thể huy động tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi ngắn hạn, trung và dài hạn. Lãi suất huy động vốn được xác định theo nguyên tắc: thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Những người gửi tiền vào ngân hàng vì các mục đích khác nhau như mục đích lợi nhuận, mục đích thanh toán hoặc đơn giản chỉ vì an toàn và tiết kiệm chi tiêu. Hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng là nghiệp vụ tín dụng. Ngân hàng cấp tín dụng cho các cá nhân, các tổ chức và hưởng tiền lãi. Lãi suất tín dụng là thu nhập lớn nhất của các ngân hàng thương mại. Hình thức tín dụng ngân hàng rất đa dạng và tuỳ thuộc vào chiến lược của mình, ngân hàng sẽ lựa chọn hình thức tín dụng phù hợp với ngân hàng nhất. Ngoài 2 nghiệp vụ cơ bản trên, ngân hàng thương mại còn thực hiện nhiều nghiệp vụ khác về dịch vụ tài chính. Những nghiệp vụ này đem lại cho ngân hàng thu nhập đáng kể. Chúng ta có thể kể đến một số nghiệp vụ như nghiệp vụ thanh toán hộ, nghiệp vụ chuyển tiền, nghiệp vụ đầu tư, nghiệp vụ tư vấn, nghiệp vụ bảo quản tài sản có giá. Đối với bất kỳ quốc gia nào, dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển, ngành ngân hàng luôn là một ngành kinh tế quan trọng. Hoạt động của hệ thống ngân hàng đóng góp rất lớn vào tăng trưởng kinh tế xét trên nhiều phương diện. Ngân hàng còn góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đảm bảo cho đất nước phát triển bền vững. 1.2 Tín dụng ngân hàng Tín dụng ngân hàng ra đời cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá và gắn liền với quan hệ sở hữu. Quyền sở hữu được tách ra thành quyền chiếm hữu, quyền sử dụng khai thác và quyền định đoạt. Người có quyền sở hữu tư liệu sản xuất giao quyền chiếm hữu, quyền sử dụng cho người khác và hưởng tiền lãi. Người sở hữu là người cấp tín dụng. Tín dụng có thể hiểu là mối quan hệ kinh tế trong đó một người chuyển cho người khác quyền sử dụng một lượng giá trị hoặc hiện vật nào đó với những điều kiện nhất định mà hai bên đã thoả thuận, trong đó, điều kiện cơ bản nhất là có hoàn trả. Kinh tế hàng hoá càng phát triển thì quan hệ tín dụng càng mở rộng. Kinh tế phát triển sẽ mở ra nhiều cơ hội kinh doanh.Trong nền kinh tế tồn tại nghịch lý là có những nơi vốn nhàn rỗi nhưng có những nơi thiếu vốn để sản xuất kinh doanh. Tín dụng là một trong những biện pháp khắc phục nghịch lý đó. Tín dụng thường xuất hiện giữa những người có quan hệ thương mại với nhau. Tuy nhiên, quy mô tín dụng thương mại rất nhỏ do bị giới hạn bởi không gian và khả năng tài chính. Nhu cầu vốn của nền kinh tế đòi hỏi phải có một tổ chức chuyên cấp tín dụng. Tín dụng ngân hàng ra đời đã đáp ứng yêu cầu đó . Tín dụng ngân hàng là giao dịch giữa ngân hàng với cá nhân hay tổ chức kinh tế nào đó ,trong đó ngân hàng cam kết cho phép cá nhân, tổ chức kinh tế đó được quyền sử dụng vốn hoặc tài sản của ngân hàng theo nguyên tắc có hoàn trả. Tín dụng ngân hàng cũng như các loại tín dụng thương mại phát sinh dựa trên cơ sở bên cấp tín dụng tin tưởng vào khả năng trả nợ của bên nhận tín dụng. Do đó, rủi ro tín dụng luôn luôn đi cùng với tín dụng ngân hàng. 1.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế Ngân hàng thương mại hoạt động trên 3 nghiệp vụ chính: nghiệp vụ huy động vốn, nghiệp vụ tín dụng và nghiệp vụ thanh toán, trong đó nghiệp vụ tín dụng là trung tâm của hoạt động ngân hàng. Nghiệp vụ tín dụng có hiệu quả là cơ sở cho các nghiệp vụ khác đạt chất lượng cao và phát triển. Khi nhu cầu tín dụng ngân hàng lớn, nếu xét thấy có hiệu quả thì ngân hàng sẽ tăng cường huy động vốn bằng cách đem lại nhiều lợi ích hơn cho người gửi tiền. Một trong những biện pháp tăng cường huy động vốn là phát triển tài khoản thanh toán, khuyến khích khách hàng gửi tiền để thanh toán qua hệ thống ngân hàng và do đó nghiệp vụ thanh toán phát triển. Ba mặt hoạt động của ngân hàng đều quan trọng nhưng tín dụng ngân hàng là quan trọng nhất vì có tác dụng toàn diện và chi phối đến các hoạt động khác. Ngân hàng có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế nhờ các nghiệp vụ ngân hàng nhưng trước hết là tín dụng. Tín dụng ngân hàng đóng góp rất lớn vào hai mục tiêu chủ yếu của nền kinh tế : tăng trưởng kinh tế và lạm phát hợp lý. Trước hết : tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Theo quan điểm của nhiều nhà kinh tế học,tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào tốc độ tăng đầu tư. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là nguồn vốn lớn. Ngoài ra các doanh nghiệp có thể tăng đầu tư từ nguồn vốn khấu hao và lợi nhuận để lại . Nhưng những nguồn vốn này không đáp ứng đủ nhu cầu vốn nền kinh tế. Để tăng vốn, các doanh nghiệp có thể huy động vốn từ kênh tài chính trực tiếp : thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán ở các nước đang phát triển chưa được hình thành hoặc mới chỉ ở dạng sơ khai, chưa phát triển mạnh. Chỉ có các công ty cổ phần làm ăn có hiệu qủa trong nhiều năm mới được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn cho doanh nghiệp. Hơn nữa, không phải bất kỳ công ty cổ phần nào cũng muốn phát hành cổ phiếu khi có nhu cầu vốn. Công ty phải cân nhắc những yếu tố như lãi suất ngân hàng, thuế thu nhập, tình hình tài chính của công ty .... trước khi ra quyết định có nên phát hành cổ phiếu hay không. Như vậy, ở các nước đang phát triển, nguồn vốn thu hút qua kênh tài chính trực tiếp không lớn. Từ phân tích trên, ta có thể khẳng định tín dụng ngân hàng là nguồn tài trợ rất quan trọng cho các doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn đa dạng cho các doanh nghiệp, có thể đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn lẫn dài hạn. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp năng động hơn và làm ăn có hiệu quả. Doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để tận dụng cơ hội kinh doanh nhưng phải trả lãi nên rất chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Tín dụng ngân hàng góp phần vào cơ cấu lại nền kinh tế. Để giảm thiểu rủi ro tín dụng, ngân hàng chỉ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Khi cấp tín dụng, ngân hàng đã phân bổ nguồn lực quan trọng của xã hội là vốn đến các doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả. Các ngành kinh tế có triển vọng sẽ phát triển nhanh hơn. Tín dụng ngân hàng đã góp phần tạo ra cơ cấu kinh tế mới sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn. Tín dụng ngân hàng kích thích cầu của nền kinh tế. Ngân hàng không những cho vay thương mại mà còn cho cá nhân vay nhằm mục đích tiêu dùng dưới hình thức tín dụng trả góp, tín dụng bất động sản... Người dân có thể tăng chi tiêu ngay cả khi họ không đủ tiền. Tín dụng ngân hàng kích thích nhu cầu tiêu dùng ,do đó kích thích các nhà sản xuất tăng cung hàng hoá. Tín dụng ngân hàng cũng là điều kiện để hệ thống ngân hàng thực hiện chức năng tạo tiền và là công cụ để thực thi chính sách tiền tệ. Khi ngân hàng cấp tín dụng càng nhiều thì lượng tiền lưu thông càng tăng. Lượng tiền cung ứng tăng nhanh sẽ dẫn đến nguy cơ lạm phát cao. Vì vậy,để thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ, NHTW thường áp dụng các biện pháp trực tiếp và gián tiếp tác động đến tín dụng ngân hàng. 2. Các hình thức tín dụng ngân hàng Nghiệp vụ tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng. Trong suốt quá trình hoạt động, ngân hàng đa dạng hoá các hình thức tín dụng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu tín dụng của khách hàng. Tín dụng ngân hàng có thể phân chia theo các tiêu thức sau : 2.1 Phân loại theo nghiệp vụ a/ Cho vay Cho vay là nghiệp vụ tín dụng trong đó ngân hàng cho khách hàng sử dụng tiền của ngân hàng căn cứ vào hợp đồng tín dụng theo nguyên tắc có hoàn trả. Cho vay là nghiệp vụ tín dụng phổ biến nhất. Các khoản cho vay được phân loại theo những tiêu thức sau. Phân loại theo mục đích sử dụng vốn vay Khách hàng vay vốn sử dụng tiền của ngân hàng vào các mục đích sau: - Cho vay kinh doanh : khách hàng vay vốn sử dụng tiền vay ngân hàng để sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Khách hàng vay vốn phải đạt điều kiện do ngân hàng yêu cầu như tình hình tài chính lành mạnh, phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Mọi thành phần kinh tế đều được quyền vay vốn ngân hàng. Doanh nghiệp vay vốn để bổ sung nguồn vốn lưu động, thực hiện dự án đầu tư hoặc tăng nguồn vốn hoạt động dài hạn. - Cho vay tiêu dùng : Khách hàng vay vốn chủ yếu là cá nhân sử dụng tiền của ngân hàng để đầu tư vào bất động sản hoặc mua tài sản tiêu dùng lâu bền. Hình thức cho vay này có đặc điểm là các khoản cho vay không lớn và tài sản mà khách hàng dùng tiền của ngân hàng mua được chỉ thuộc sở hữu của khách hàng khi họ trả hết nợ. Đây là hình thức tín dụng quan trọng ở các nước phát triển. Khách hàng muốn vay vốn phải chứng tỏ rằng họ có nguồn thu nhập ổn định trong tương lai. Phân loại theo phương thức hoàn trả Các khoản cho vay của ngân hàng có thể được hoàn trả một lần hoặc trả nhiều lần. - Cho vay trả một lần là những khoản cho vay mà khách hàng phải trả toàn bộ một lần khi hết thời hạn vay. Tiền lãi có thể được trả từng kỳ trong suốt thời hạn vay hoặc được trả toàn bộ một lần. Phương thức này có ưu điểm là thủ tục đơn giản, rất thích hợp với cho vay vốn lưu động. - Cho vay trả nhiều lần là những khoản cho vay mà kỳ hạn trả nợ được phân bổ thành nhiều đợt trong suốt thời hạn cho vay.Tiền lãi thường được trả theo định kỳ. Số tiền trả mỗi kỳ bao gồm nợ gốc và tiền lãi. Để thuận tiện cho khách hàng, ngân hàng thường quy định số tiền trả mỗi lần bằng nhau (niên kim cố định). Phương thức cho vay này có ưu điểm là nợ được hoàn trả dần dần nên không gây ảnh hưởng lớn đến tài chính của người vay. Phương thức này được áp dụng chủ yếu trong cho vay trung và dài hạn, cho vay trả góp. Phân loại theo phương thức cấp tiền vay Ngân hàng có thể cho khách hàng vay 1 lần hoặc cho vay nhiều lần. Phương thức cho vay được quy định trong hợp đồng tín dụng. - Phương thức cho vay 1 lần là phương thức mà ngân hàng cho khách hàng vay toàn bộ số tiền trong hợp đồng tín dụng trong 1 lần. Theo phương thức này, lãi được tính vào thời điểm ngân hàng cho vay. - Phương thức cho vay nhiều lần là phương thức mà ngân hàng cho khách hàng vay số tiền ghi trong hợp đồng tín dụng trong nhiều lần. Mỗi lần vay vốn, khách hàng phải lập khế ước nhận nợ. Khách hàng chưa sử dụng vốn ngân hàng thì chưa phải trả lãi tính trên khoản vốn đó. Ưu điểm của phương thức cho vay này là tiết kiệm chi phí cho khách hàng. Trường hợp đặc biệt của phương thức cho vay nhiều lần là cho vay theo hạn mức tín dụng. Cho vay theo hạn mức tín dụng là phương thức cho vay nhiều lần trong đó tổng số tiền vay không vượt quá hạn mức tín dụng trong 1 khoảng thời gian cụ thể nào đó. Phương pháp này đem lại lợi ích cho khách hàng vì khách hàng sẽ không phải chịu phạt vi phạm hợp đồng tín dụng do không sử dụng hết số tiền ghi trên hợp đồng tín dụng . Theo phương thức này, cán bộ ngân hàng khi quyết định cho vay không biết chính xác số tiền khách hàng vay nên hạn mức tín dụng không lớn. Với mục đích tăng cường tín dụng theo phương thức này, ngân hàng đã đưa ra nhiều biện pháp hấp dẫn khách hàng. Ngân hàng đã áp dụng tiến bộ công nghệ và cho ra đời phương thức cho vay bằng thẻ tín dụng. Theo phương thức này, ngân hàng sẽ cấp thẻ tín dụng cho khách hàng và trên thẻ tín dụng có ghi hạn mức tín dụng. Khách hàng được cấp thẻ tín dụng thuộc mọi thành phần kinh tế, các cá nhân. Thẻ tín dụng cũng đồng thời là phương tiện thanh toán. Khách hàng dùng thẻ tín dụng để mua hàng hoá tại những nơi chấp nhận thẻ tín dụng hoặc rút tiền mặt tại ngân hàng đại lý hay máy rút tiền tự động ATM. Phân loại theo bảo đảm tín dụng Bảo đảm tín dụng là phương tiện tạo cho ngân hàng một sự bảo đảm rằng sẽ có một nguồn khác nữa dùng để hoàn trả nếu khách hàng không có khả năng thanh toán nợ ngân hàng. Các khoản cho vay có thể có hoặc không có bảo đảm tín dụng. Cho vay có bảo đảm tín dụng thường được ngân hàng yêu cầu trong trường hợp tình hình tài chính của doanh nghiệp không được tốt như mong muốn . Đây là biện pháp giúp cho ngân hàng có thể thu hồi lại toàn bộ hoặc phần lớn các khoản nợ nếu rủi ro xảy ra. Có rất nhiều loại bảo đảm được ngân hàng chấp nhận nhưng thường được chia làm 2 nhóm : bảo đảm hữu hình và bảo đảm vô hình. Bảo đảm hữu hình là bảo đảm dựa trên tài sản hữu hình của người đi vay do ngân hàng quản lý. Bảo đảm hữu hình bao gồm những loại sau : bảo đảm bằng cổ phiếu, cổ phần ; bất động sản; bảo lãnh của bên thứ ba được hậu thuẫn bằng tài sản hữu hình ... Bảo đảm vô hình là những tài sản phi vật chất của người đi vay, thường dưỡi dạng các giấy tờ có giá trị pháp lý do ngân hàng nắm giữ. Bảo đảm vô hình có thể là : bảo lãnh của bên thứ 3 mà không có tài sản ký gửi tại ngân hàng ; các khoản tiền bên thứ 3 nợ người vay; uỷ thác những hàng hoá hoặc tài sản nằm ngoài phạm vi kiểm soát của ngân hàng . Hình thức cho vay bảo đảm bằng tiền của bên thứ ba nợ người vay đã phát triển mạnh và có xu hướng tách ra thành nghiệp vụ riêng biệt : nghiệp vụ factoring hay bao thanh toán. Doanh nghiệp bán hàng cho cho một doanh nghiệp khác thường chưa được thanh toán ngay. Theo hợp đồng mua bán , thời hạn thanh toán có thể kéo dài từ 1 đến 3 tháng, thậm chí lâu hơn. Trong thời gian đó, vốn bị ứ đọng làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngân hàng sẽ cho doanh nghiệp vay 1 khoản tiền tương ứng với khoản tiền mà doanh nghiệp bán chịu. b/ Thấu chi Thấu chi là nghiệp vụ tín dụng trong đó khách hàng vay vốn bằng cách rút tiền quá số dư trong tài khoản vãng lai của người đó trong hạn mức đã được thoả thuận. Nghiệp vụ này đem lại cho khách hàng nhiều thuận lợi. Tài khoản vãng lai chủ yếu để thu hút tiền gửi của khách hàng nhưng nếu có nhu cầu khách hàng có thể rút tiền quá số dư bất kỳ lúc nào mà anh ta muốn trong hạn mức tín dụng. Khách hàng cũng có thể trả nợ bất cứ lúc nào bằng cách gửi tiền vào tài khoản vãng lai. Hạn mức tín dụng trong nghiệp vụ thấu chi không lớn. Do khách hàng có thể rút tiền vượt quá số dư bất cứ lúc nào mà không cần phải làm đơn xin vay vốn nên ngân hàng không thể kiểm soát tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng. Hạn mức tín dụng được đặt ra trên cơ sở tín nhiệm của ngân hàng với khách hàng nói chung. Ngoài ra, ngân hàng có thể phân loại khách hàng và cứ mỗi nhóm khách hàng lại có một hạn mức tín dụng riêng. c/ Chiết khấu hối phiếu Hối phiếu là lệnh trả tiền vô điều kiện do người ký phát gửi cho người bị ký phát, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu phải trả ngay hoặc sau một thời hạn nhất định khi hối phiếu đáo hạn. Hối phiếu ra đời khi quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển mạnh, lưu thông hàng hoá được mở rộng. Người bán và người mua có thể cách xa nhau về mặt địa lý nên thời điểm người bán gửi hàng cho người mua và thời điểm thanh toán diễn ra không đồng thời. Để tăng lượng hàng hoá bán ra, người bán khuyến mại người mua bằng cách cho người mua nhận nợ. Người bán lập hối phiếu và gửi cho người mua. Nếu hối phiếu là hối phiếu trả ngay, người mua khi nhìn thấy hối phiếu phải thanh toán ngay cho người bán. Nếu người bán đồng ý cho người mua nợ , người bán sẽ lập hối phiếu kỳ hạn và người mua trả tiền cho người bán khi hối phiếu đáo hạn. Hối phiếu kỳ hạn có thể chuyển nhượng nếu người mua đồng ý. Người giữ hối phiếu có thể thu hồi khoản tín dụng trước khi hối phiếu đáo hạn bằng cách bán hối phiếu có thể chuyển nhượng. Người mua hối phiếu đó đã thực hiện nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu. Ngân hàng tham gia nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu. Chiết khấu hối phiếu là nghiệp vụ tín dụng trong đó ngân hàng mua lại hối phiếu nghĩa là mua lại khoản tín dụng của khách hàng . Khi thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận dựa vào chênh lệch giữa mệnh giá và thị giá hối phiếu. Chiết khấu hối phiếu là nghiệp vụ phổ biến của kinh tế thị trường. Nó đem lại lợi ích cho các bên liên quan. - Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu được nợ trước khi đáo hạn. - Là hình thức tín dụng đơn giản ,ít rủi ro cho ngân hàng vì thời hạn tín dụng ngắn. Ngân hàng chỉ chiết khấu thương phiếu khi biết chắc tình hình tài chính của người bị ký phát lành mạnh hoặc có nhiều bên bảo đảm bằng cách ký hậu vào hối phiếu. - Khi gặp khó khăn về vốn, ngân hàng có thể bán hối phiếu ra thị trường tiền tệ hoặc bán cho NHTW. d/ Tín dụng thuê mua Tín dụng thuê mua là nghiệp vụ tín dụng trong đó ngân hàng sẽ cho khách hàng thuê tài sản dài hạn và khi hết thời hạn thuê, khách hàng có quyền mua lại tài sản hoặc trả lại ngân hàng. Đặc điểm tín dụng thuê mua là thời hạn thuê dài (ít nhất là 3 /4 thời gian khấu hao). Tài sản thuê là tài sản cố định, giá trị lớn. Bên thuê tài sản có trách nhiệm trả tiền thuê cho ngân hàng theo định kỳ. Số tiền này bao gồm tiền lãi và khấu hao tài sản. Ngân hàng hoặc các công ty tài chính trực thuộc ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này. Nghiệp vụ này có nhiều ưu điểm : - Về phía doanh nghiệp : Đây là khoản tín dụng có kỳ hạn dài, đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể lựa chọn kỹ lưỡng tài sản cố định phù hợp với doanh nghiệp, chất lượng bảo đảm. - Về phía ngân hàng : Tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng nên ngân hàng có thể thu hồi lại nếu doanh nghiệp không có khả năng trả nợ. Là một hình thức mang lại nhiều lợi nhuận. Hình thức này cũng gây bất lợi đối với ngân hàng . Đó là tính lỏng của tài sản cố định không cao. Do tính chất đặc biệt của tài sản cố định chỉ phục vụ cho một ngành nào đó nên những tài sản cố định ngân hàng thu hồi lại trong trường hợp doanh nghiệp không có khả năng trả nợ rất khó bán hoặc cho thuê. Trong thời gian chờ đợi, vốn ngân hàng sẽ ứ đọng, chi phí cơ hội rất lớn. e/ Bảo lãnh Bão lãnh ngân hàng là nghiệp vụ gián tiếp có 3 bên tham gia, trong đó ngân hàng tức là bên bảo lãnh đồng ý chịu trách nhiệm về khoản nợ của bên thứ hai là khách hàng của ngân hàng nếu khách hàng không trả được nợ cho bên thứ nhất. Thực chất của bảo lãnh ngân hàng là ngân hàng đem uy tín của mình ra bảo đảm cho khoản nợ của khách hàng. Ngân hàng được hưởng tiền lãi tính trên số tiền bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng thường xảy ra giữa các doanh nghiệp có quan hệ kinh tế không tin tưởng nhau hoặc thiếu thông tin về nhau. Người bán không tin tưởng vào việc người mua sẽ thanh toán . Bảo lãnh ngân hàng là một hình thức tín dụng. Trong hợp đồng bảo lãnh, ngân hàng cam kết sẽ trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả được nợ. Quan hệ tín dụng chỉ thực sự nảy sinh giữa ngân hàng và khách hàng khi ngân hàng trả nợ thay cho khách hàng. Nghiệp vụ bảo lãnh có ưu điểm là ngân hàng chỉ cần sử dụng uy tín của mình, không cần sử dụng vốn mà vẫn thu được lợi nhuận. Tuy nhiên, nghiệp vụ này cũng chứa đựng đầy rủi ro. Khi doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ đúng hạn, ngân hàng phải trả nợ thay cho doanh nghiệp. Khoản tín dụng này có rủi ro rất cao. 2.2 Phân loại theo kỳ hạn tín dụng Khi ngân hàng cấp tín dụng thì ngân hàng phải xác định khách hàng sẽ hoàn trả nợ vào thời điểm nào. Kỳ hạn trả nợ càng dài thì rủi ro càng cao. Mỗi loại tín dụng, ngân hàng sẽ quy định một mức lãi suất và quy trình tín dụng riêng. a/ Tín dụng ngắn hạn Là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm và thường được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân b/ Tín dụng trung hạn Là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín dụng này được cấp để mua sắm tài sản cố định, mở rộng và xây dựng các công trình có thời gian thu hồi vốn nhanh. c/ Tín dụng dài hạn Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng dài hạn được sử dụng để cấp vốn cho các công trình xây dựng cơ bản như đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ... II Vai trò tín dụng ngân hàng đối với quá trình phát triển và đổi mới công nghệ 1. Công nghệ 1.1 Khái niệm về công nghệ và các thành phần công nghệ Sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ trên thế giới đã làm thay đổi nhận thức của con người về công nghệ. Mỗi sản phẩm được tạo thành từ nhiều loại công nghệ khác nhau nên những người sử dụng công nghệ trong những điều kiện hoàn cảnh khác nhau sẽ dẫn đến sự hiểu biết của họ về công nghệ không thể giống nhau. Điều đó đã lý giải vì sao hiện nay có rất nhiều cách hiểu về công nghệ. Công nghệ không chỉ đơn giản là thiết bị sản xuất .Công nghệ có 4 đặc trưng cơ bản: công nghệ là máy biến đổi, là công cụ, là kiến thức và công nghệ hiện thân trong vật thể. Vậy công nghệ là gì ? Theo Uỷ ban kinh tế xã hội Châu á - Thái Bình Dương, khái niệm công nghệ rất rộng. Theo uỷ ban này: công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến thông tin. Định nghĩa này không coi công nghệ phải gắn chặt với quá trình sản xuất ,chế tạo ra sản phẩm cụ thể mà mở rộng khái niệm công nghệ ra lĩnh vực quản lý và dịch vụ. Theo tổ chức phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO): công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và sử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp. Định nghĩa của UNIDO đứng trên giác độ một tổ chức phát triển công nghiệp, nhấn mạnh tính khoa học là thuộc tính của công nghệ và khía cạnh hiệu quả khi xem xét sử dụng công nghệ vào mục đích nào đó. Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm giải pháp mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ vào sản xuất nên ta có thể hiểu công nghệ theo định nghĩa của UNIDO. Ngoài ra, ta có thể sử dụng định nghĩa trong lĩnh vực chuyể._.n giao công nghệ : công nghệ là hệ thống những kiến thức ( bao gồm thông tin, bí quyết, máy móc thiết bị) được áp dụng để sản xuất một sản phẩm hoặc dịch vụ. Bất kỳ công nghệ nào cũng bao gồm 4 thành phần công nghệ : vật tư kĩ thuật, con người , thông tin và tổ chức. Phần vật tư kĩ thuật : bao gồm mọi phương tiện vật chất như các công cụ, máy móc thiết bị, vật liệu, phương tiện vận chuyển, nhà máy... Trong công nghệ chế tạo, các máy móc thiết bị thường lập thành dây chuyền công nghệ (phần cứng). Phần vật tư kĩ thuật là cốt lõi của công nghệ . Phần con người : bao gồm mọi năng lực của con người về công nghệ như kỹ năng, kinh nghiệm, tính sáng tạo, sự khôn ngoan, khả năng lãnh đạo, đạo đức lao động. Con người làm cho công nghệ hoạt động, làm cho máy móc thiết bị phải phát huy tính năng của chúng. Nhờ tính năng động sáng tạo, con người sử dụng, cải tiến, thích nghi, đổi mới các thiết bị máy móc. Con người đóng vai trò chủ động sáng tạo song lại chịu sự chi phối của tổ chức và thông tin. Phần thông tin : thể hiện tri thức tích luỹ trong công nghệ. Công nghệ hàm chứa trong các kiến thức có tổ chức được tư liệu hoá như các lý thuyết, các khái niệm, các phương pháp, các thông số , công thức, bí quyết... Nhờ các tri thức này mà con người rút ngắn thời gian học và làm, đỡ tốn thời gian và sức lực khi giải quyết nhiệm vụ liên quan đến công nghệ. Cùng 1 thiết bị nhưng với kiến thức khác nhau sử dụng trong sản xuất sẽ làm ra các sản phẩm khác nhau. Thông tin (hay bí quyết) được coi là sức mạnh công nghệ. Phần tổ chức : công nghệ hàm chứa trong các thể chế, tạo nên bộ khung tổ chức của công nghệ như thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ, sự phối hợp, mối liên kết. .. Phần tổ chức đóng vai trò điều hoà, phối hợp các phần trên để thực hiện một cách có hiệu quả mọi hoạt động biến đổi. Nó giúp cho việc quản lý, lập kế hoạch tổ chức bộ máy nhân lực, động viên, thúc đẩy và kiểm soát các hoạt động liên kết để đạt kết quả mong muốn. Phần tổ chức phụ thuộc vào độ phức tạp của vật tư kĩ thuật và thông tin song bản thân nó quyết định sự cấu thành các bộ phận còn lại của công nghệ. Phần tổ chức mang tính động lực của công nghệ. Công nghệ mà phần vật tư kĩ thuật là chủ yếu gọi là công nghệ phần cứng. Công nghệ mà các phần con người, thông tin, tổ chức chiếm ưu thế so với phần vật tư kĩ thuật là công nghệ phần mềm. 1.2 Đặc trưng công nghệ phần cứng a/ Vòng đời vật tư kĩ thuật Quá trình hình thành phần cứng công nghệ bắt đầu từ nghiên cứu nhu cầu, thiết kế, chế tạo, sản xuất thử, sau đó sản xuất hàng loạt, truyền bá và cuối cùng bị thay bởi công nghệ mới . b/ Chu kỳ sống công nghệ phần cứng Chu kỳ sống của công nghệ mô tả quy luật phát triển từ lúc bắt đầu, phát triển cho đến lúc kết thúc công nghệ theo thời gian. Các công nghệ phần cứng có quy luật của chu kỳ sống tương tự như sản phẩm thông thường. Xuất phát từ nhu cầu về một loại sản phẩm hoặc do một phát minh khoa học nhiều ý đồ được nảy sinh song chỉ có một ý đồ khả thi được sử dụng. ỳ đồ về công nghệ sẽ trở thành công nghệ và được bán trên thị trường- giai đoạn giới thiệu công nghệ. Trong giai đoạn này, số người áp dụng công nghệ ít do giá thành công nghệ cao và rủi ro cao khi áp dụng công nghệ. Sau một thời gian, do kết quả sử dụng công nghệ, nhiều người có nhu cầu sẽ mua công nghệ này và tạo ra nhu cầu cao với công nghệ, đó là giai đoạn tăng trưởng công nghệ. Tiếp theo là giai đoạn công nghệ chín muồi. Hầu hết những người có nhu cầu đã áp dụng công nghệ. Công nghệ chỉ được bán cho những người ít vốn, chậm đổi mới. Sau giai đoạn này là giai đoạn suy vong. Đó là giai đoạn mà công nghệ mới đã thay thế công nghệ cũ. 1.3 Phân loại công nghệ Công nghệ là khái niệm rất rộng. Căn cứ vào mục đích của đề tài, ta có thể phân loại công nghệ theo trình độ hiện đại và nguồn hình thành. a/ Phân loại công nghệ theo trình độ hiện đại - Công nghệ cổ điển : là loại công nghệ có mức độ phức tạp của thiết bị máy móc không cao. Công nghệ này sử dụng nhiều lao động, trình độ tự động hoá chưa cao. - Công nghệ hiện đại : là công nghệ mới ra đời, đang trong giai đoạn tăng trưởng. Đặc điểm của công nghệ hiện đại là tính tự động hoá, máy tính hoá rất cao. Công nghệ này đòi hỏi ít người vận hành nhưng yêu cầu trình độ cao. Sản phẩm tạo ra có chất lượng tốt. - Công nghệ trung gian : là công nghệ nằm giữa 2 loại công nghệ trên. Đây là loại công nghệ đã có tính tự động hoá. b/ Phân loại công nghệ theo nguồn hình thành - Công nghệ hình thành do mua : Phần lớn các nhà sản xuất có công nghệ do mua. Các nhà sản xuất ở các nước đang phát triển thường nhập công nghệ từ nước ngoài . Ưu điểm của hình thức này là các nhà sản xuất có công nghệ mà không cần bỏ công nghiên cứu chế tạo. Các nhà sản xuất được tự do lựa chọn công nghệ phù hợp với đặc điểm kinh doanh của họ. Nhược điểm của hình thức này là nhà sản xuất rất khó làm chủ công nghệ. Trình độ con người không cao thì không thể khai thác tối đa năng lực công nghệ. Công nghệ sau khi mua vẫn phải phụ thuộc vào người bán như khâu lắp đặt sửa chữa, mua phụ tùng khi có hỏng hóc. Đây là thực tế đang xảy ra ở Việt nam. - Công nghệ hình thành do tự nghiên cứu chế tạo: Các nhà sản xuất vận dụng kiến thức, năng lực khoa học công nghệ hiện có để tạo ra công nghệ mới. Nhà sản xuất có thể dùng công nghệ đó phục vụ sản xuất hoặc đem bán. Ưu điểm của hình thức này là nhà sản xuất có thể làm chủ được công nghệ. Nhà sản xuất khai thác tối đa năng lực công nghệ, cải tiến, đổi mới công nghệ thường xuyên hoặc bán công nghệ thu lợi nhuận. Hình thức này đòi hỏi vốn đầu tư tương đối lớn, rủi ro cao. Nếu không tạo ra công nghệ phù hợp với nhu cầu thì có nguy cơ mất toàn bộ số vốn đã bỏ ra. 1.4 Đổi mới công nghệ a/ Đổi mới công nghệ là gì ? Công nghệ chỉ tồn tại trong khoảng thời gian nhất định. Đến một lúc nào đó công nghệ trở nên lỗi thời và không còn tạo ra lợi nhuận. Các nhà sản xuất phải đổi mới công nghệ. Đổi mới công nghệ là một tiến bộ về công nghệ. Tiến bộ đó dưới dạng phương pháp mới về sản xuất, kỹ thuật mới , tổ chức, quản lý, marketing mà nhờ chúng sản phẩm sản xuất ra có năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn, chi phí sản xuất thấp. Đổi mới công nghệ thường gắn với đổi mới máy móc thiết bị. Với một lượng đầu vào vốn và lao động, công nghệ mới sẽ tạo ra sản lượng cao hơn. Kết quả của đổi mới công nghệ là nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng sản xuất. Vấn đề đặt ra là lựa chọn công nghệ nào ? Có phải công nghệ càng hiện đại càng tốt hay không ? b/ Công nghệ thích hợp Công nghệ thích hợp là công nghệ thoả mãn mọi nhu cầu kinh tế xã hội đặt ra trên cơ sở phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế. Công nghệ thích hợp không phải là tính chất nội tại của công nghệ mà phụ thuộc vào môi trường kinh tế xã hội . Đánh giá tính phù hợp của công nghệ cần phải xem xét những tiêu thức sau : Tiêu thức đầu tiên để đánh giá tính phù hợp của công nghệ là mục tiêu đặt ra cho công nghệ. Nếu các sản phẩm dịch vụ dự kiến phải tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì công nghệ tiên tiến sẽ phù hợp. Nếu nhiệm vụ đặt ra là tuyển dụng lao động thì công nghệ được lựa chọn phải phục vụ nhu cầu đó, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, cần phải xem xét đến khía cạnh thời gian. Một công nghệ có thể đáp ứng nhu cầu trước mắt nhưng không thoả mãn được những đòi hỏi của tương lai. Có công nghệ chưa phát huy tác dụng ngay nhưng lại có hiệu quả cao trong tương lai. Tiếp theo là môi trường, điều kiện tiếp thu công nghệ địa phương. Công nghệ hiện đại thường có hiệu quả lớn ở các nước phát triển nhưng khó phát huy tác dụng trong điều kiện các nước đang phát triển vì những đòi hỏi vốn đầu tư lớn dẫn đến khó thu hồi vốn, cơ sở hạ tầng phát triển, trình độ tay nghề cao, trình độ tổ chức tốt. Tính thích hợp của công nghệ còn bị chi phối bởi mục tiêu chiến lược quốc gia. Có quốc gia coi trọng mục tiêu tự lực tự cường nhưng có quốc gia coi trọng giải pháp nhập khẩu công nghệ. 2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với quá trình phát triển và đổi mới công nghệ ở nước ta 2.1 Nhu cầu khách quan phải đổi mới công nghệ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã thực sự trở thành điểm mốc đáng ghi nhớ, đánh dấu bước ngoặt quan trọng, mở ra thời kỳ phát triển kinh tế . Từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế nước ta đang dần dần chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, mở cửa và hội nhập với thế giới bên ngoài. Việt nam đã được kết nạp vào khối AFTA, APEC, và chuẩn bị mọi điều kiện để gia nhập WTO. Đất nước ta đang đứng trước một cơ hội phát triển chưa từng có. Đó là cơ hội phát triển của đất nước, còn đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cũng vậy. Doanh nghiệp tư nhân được khuyến khích và đã tìm được chỗ đứng trên thương trường. Bên canh đó, các doanh nghiệp nhà nước sau một thời gian bỡ ngỡ đã thích ứng với cơ chế thị trường và đóng vai trò ngày càng quan trọng với nền kinh tế. Những thuận lợi đối với nền kinh tế nước ta là cơ bản nhưng thách thức không nhỏ. Xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta quá thấp. Nước ta vẫn là một nước nghèo nàn lạc hậu, nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Hàng tiêu dùng do các doanh nghiệp trong nước sản xuất không thể so sánh được về mặt chất lượng, mẫu mã với hàng nước ngoài. Hàng sản xuất trong nước không những xuất khẩu hạn chế mà còn bị hàng ngoại nhập lấn át ngay tại thị trường trong nước. Tình hình càng trở nên khó khăn hơn khi nước ta phải cắt giảm thuế nhập khẩu theo thoả thuận gia nhập AFTA, APEC. Vậy vì sao khả năng cạnh tranh của hàng hoá nước ta kém? Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó nhưng nguyên nhân cơ bản là công nghệ sản xuất quá lỗi thời. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có nguồn vốn kinh doanh quá nhỏ, chủ yếu hoạt động thương mại và dịch vụ. Công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước cũ kĩ, phần lớn đã hết khấu hao. Hậu quả là sản phẩm không đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng, kiểu dáng. Nếu công nghệ sản xuất không được đổi mới kịp thời thì hàng hoá nước ta không thể ngăn chặn được sự lấn át của hàng ngoại nhập. Đổi mới công nghệ còn là cơ hội để các doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường. So với các nước trên thế giới, Việt nam có lợi thế so sánh là vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao động rẻ và dồi dào. Đổi mới công nghệ sẽ cho phép các doanh nghiệp tận dụng lợi thế so sánh đó nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ. Thị trường Việt nam vẫn còn trống nên đổi mới công nghệ là cơ hội cho các doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường trước khi các đối thủ cạnh tranh nước ngoài vào cuộc. Tóm lại, đổi mới công nghệ là nhu cầu khách quan đối với nước ta hiện nay. Số lượng các dự án đổi mới công nghệ tăng lên trong thời gian qua đã chứng tỏ điều đó. Đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Để chất lượng sản phẩm tăng lên đáng kể, doanh nghiệp phải bỏ vốn lớn . Vậy doanh nghiệp lấy vốn từ đâu để tài trợ cho dự án phát triển và đổi mới công nghệ? 2.2 Tín dụng ngân hàng, nguồn tài trợ quan trọng cho phát triển và đổi mới công nghệ Cho đến nay, nước ta chưa có thị trường chứng khoán hoàn chỉnh. Các doanh nghiệp trừ một số lượng ít ỏi các công ty cổ phần không thể thu hút vốn trực tiếp từ dân cư. Do đó không thể coi kênh tài chính trực tiếp là nguồn tài trợ cần thiết cho đổi mới công nghệ. Đề đổi mới công nghệ, trước hết doanh nghiệp sẽ sử dụng nguồn vốn tự có. Nguồn vốn này bao gồm vốn khấu hao cơ bản và lợi nhuận để lại dưới dạng các quỹ phát triển kinh doanh. Nếu sử dụng nguồn vốn này, các doanh nghiệp không phải lo trả nợ và lãi. Nguồn tài trợ thứ hai là nguồn ngân sách Nhà nước. Hầu như chỉ các các doanh nghiệp Nhà nước mới được sử dụng nguồn vốn này. Đây là một trong những biện pháp mà Nhà nước tăng vốn tự có cho doanh nghiệp. Nhà nước có thể cấp tiền hoặc chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp. Nguồn tài trợ này rất cần thiết, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn tự có thấp. Những nguồn tài trợ trên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển và đổi mới công nghệ tại doanh nghiệp. Nguồn vốn tự có tài trợ cho đổi mới công nghệ không nhiều. Trên thực tế, máy móc thiết bị tại các doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ khấu hao hàng năm rất thấp. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn không lớn. Ngân sách nhà nước hạn hẹp nên không thể tăng vốn đầu tư lớn vào doanh nghiệp. Trong kinh doanh một doanh nghiệp năng động không chỉ sử dụng nguồn vốn tự có. Mọi nguồn lực bỏ ra đều có chi phí. Doanh nghiệp sử dụng vốn tự có mặc dù không phải trả nợ và lãi nhưng chi phí cơ hội của vốn không nhỏ. Nếu doanh nghiệp không bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh , doanh nghiệp có thể gửi tiền vào ngân hàng để hưởng tiền lãi. Doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn tài trợ khác để đạt được cơ cấu vốn tối ưu với chi phí vốn thấp. Tín dụng ngân hàng là nguồn tài trợ quan trọng cho các dự án phát triển và đổi mới công nghệ. Tín dụng ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp có phương án khả thi. Các hình thức tín dụng ngân hàng rất đa dạng, có thể đáp ứng nhu cầu vốn cả nội tệ lẫn ngoại tệ. Ngoài ra, ngân hàng có thể cung cấp các dịch vụ hỗ trợ như dịch vụ thanh toán với nước ngoài, dịch vụ tư vấn. Tín dụng ngân hàng còn là phương thức để doanh nghiệp đạt được cơ cấu vốn tối ưu. Doanh nghiệp vay vốn ngân hàng phải trả lãi. Doanh nghiệp phải tìm cách sử dụng nguồn vốn vay có hiệu quả sao cho lợi nhuận thu được từ khoản vốn đó cao hơn chi phí vay vốn. Theo quy định của nhà nước, tiền lãi được tính vào chi phí. Khi doanh nghiệp sử dụng vốn vay ngân hàng, chi phí tăng lên và lợi nhuận giảm so với khi doanh nghiệp sử dụng vốn tự có. Doanh nghiệp chỉ phải nộp thuế lợi tức thấp hơn. Chi phí vốn vay thực tế của doanh nghiệp rõ ràng là nhỏ hơn tiền lãi phải trả cho ngân hàng. 3 . Đặc trưng của tín dụng ngân hàng phục vụ đổi mới công nghệ Tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển và đổi mới công nghệ là hình thức tín dụng có mục đích tài trợ cho các dự án đổi mới công nghệ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả trong tương lai. Hình thức tín dụng này có những đặc trưng sau: a/ Tài trợ cho các dự án đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm gắn liền với mở rộng sản xuất. Để tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp phải đáp ứng tốt nhu cầu thị trường. Ngày nay, khả năng sản xuất đã vượt quá cầu nên thị trường đòi hỏi ngày càng khắt khe. Công nghệ mà các doanh nghiệp có không thể thoả mãn nhu cầu thị trường. Doanh nghiệp phải đầu tư vào công nghệ thích hợp, những công nghệ hiện đại hơn công nghệ mà doanh nghiệp đang có. Công nghệ thích hợp đảm bảo thực hiện mục tiêu đặt ra của doanh nghiệp. Công nghệ thích hợp tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, thoả mãn tốt hơn nhu cầu thị trường . Doanh nghiệp sẽ có cơ hội bán được nhiều sản phẩm hơn, mở rộng thị trường tiêu thụ ,tăng lợi nhuận. Chính vì vậy, công nghệ được đầu tư thường có công suất cao hơn công nghệ cũ. b/ Bao gồm cả hình thức tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn nhưng tín dụng trung và dài hạn là chủ yếu Đổi mới công nghệ là một sự tiến bộ về công nghệ. Đổi mới công nghệ thường gắn với quá trình mua máy móc thiết bị hiện đại vì máy móc thiết bị chính là cốt lõi của công nghệ. Nếu giá trị máy móc thiết bị không lớn hoặc các nguồn vốn khác mà doanh nghiệp huy động được gần đủ để thanh toán cho người bán thì doanh nghiệp có thể vay vốn ngắn hạn của ngân hàng. Ngoài ra, sau khi nhập máy móc thiết bị, để khai thác tối đa năng lực công nghệ, doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn của ngân hàng để nâng cao các thành phần khác của công nghệ : con người , thông tin, tổ chức . Tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển và đổi mới công nghệ chủ yếu dưới hình thức tín dụng trung và dài hạn. Đổi mới công nghệ cần có vốn đầu tư lớn. Số vốn này lớn hơn khả năng tài chính của doanh nghiệp rất nhiều và doanh nghiệp buộc phải vay vốn ngân hàng. Công nghệ mới nhập chưa thể phát huy tối đa hiệu quả. Máy móc thiết bị có thời gian khấu hao dài . Nguồn lợi nhuận và nguồn khấu hao dùng để trả nợ trong thời gian ngắn tích luỹ không đáng kể. Doanh nghiệp không thể trả vốn vay trong thời gian ngắn. Do đó, khi có nhu cầu đổi mới công nghệ, doanh nghiệp thường vay vốn trung và dài hạn. c/ Rủi ro cao Rủi ro là khả năng xảy ra những sự cố bất lợi trong khi thực hiện một hoạt động nào đó. Khi rủi ro xảy ra nghĩa là khả năng đó đã trở thành hiện thực. Ngân hàng khi cấp tín dụng cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ phải đứng trước những rủi ro sau : Thứ nhất : rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là xác suất các doanh nghiệp không có khả năng hoàn trả nợ ngân hàng theo đúng hợp đồng tín dụng. Rủi ro tín dụng là rủi ro nguy hiểm, gây thiệt hại lớn cho ngân hàng vì ngân hàng không thu hồi được vốn theo dự kiến ban đầu. Trong trường hợp xấu nhất, ngân hàng mất toàn bộ số vốn cho doanh nghiệp vay. Tín dụng ngân hàng phục vụ đổi mới công nghệ có rủi ro tín dụng rất cao. Nguyên nhân quan trọng nhất là các doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới công nghệ quá phụ thuộc vào dự án đổi mới công nghệ. Chúng ta biết rằng rủi ro cao có thể hạn chế bằng đa dạng hoá. Đa dạng hoá có thể loại bỏ rủi ro có hệ thống. Trên thực tế, các doanh nghiệp rất ít khả năng đa dạng hoá. Đầu tư đổi mới công nghệ đòi hỏi vốn lớn nên phần lớn nguồn lực của doanh nghiệp dành cho dự án này. Doanh nghiệp thường đổi mới công nghệ có liên quan đến sản phẩm chính của công ty. Khi dự án đổi mới công nghệ có sự cố thì toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị ảnh hưởng xấu. Doanh nghiệp sẽ không tìm được nguồn nào để trả nợ đúng hạn và rủi ro tín dụng xảy ra. Lý do thứ hai giải thích rủi ro tín dụng cao là ngân hàng thường cho vay vốn lớn, thời hạn cho vay dài. Thời hạn càng dài thì các nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến dự án càng có nhiều khả năng xảy ra hơn. Nguyên nhân thứ ba là có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến dự án đầu tư phát triển và đổi mới công nghệ : các nhân tố về thị trường, tổ chức, kỹ thuật, môi trường bên ngoài... Các nhân tố này có mối quan hệ khăng khít lẫn nhau.Chính vì vậy, những người thẩm định dự án không thể liệt kê đầy đủ các sự cố bất lợi có thể xảy ra cũng như đánh giá xác suất xuất hiện sự cố đó và các sự cố đó có ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả dự án. Thông tin thu được từ các nhân tố đó không đầy đủ, chất lượng không cao, trong khi người thẩm định lại không đủ năng lực, quyền hạn. Cuối cùng là các biện pháp hạn chế rủi ro chưa hiệu quả. Các doanh nghiệp chưa dự kiến hết các rủi ro xảy ra nên thường bị động khi rủi ro xảy ra. Mặt khác, các doanh nghiệp còn khá chủ quan khi xem xét rủi ro nên không có biện pháp đề phòng. Thứ hai : rủi ro lãi suất Rủi ro lãi suất là khả năng lãi suất thị trường cao hơn lãi suất cho vay đã được quy định trong hợp đồng tín dụng. Nếu rủi ro lãi suất xảy ra, ngân hàng đã mất đi cơ hội đầu tư vào các dự án khác mang lại lợi nhuận lớn hơn. Rủi ro lãi suất tuy không nguy hiểm bằng rủi ro tín dụng nhưng cũng làm giảm lợi nhuận ngân hàng. Rủi ro lãi suất thường xảy ra trong tín dụng ngân hàng phục vụ đổi mới công nghệ vì thời gian trả nợ kéo dài. Lãi suất trên thị trường hay thay đổi. Thời hạn cho vay càng dài thì càng có nhiều khả năng lãi suất thị trường cao hơn so với lãi suất quy định khi cho vay. Rủi ro lãi suất gây thiệt hại lớn hơn cho ngân hàng nếu ngân hàng sử dụng vốn ngắn hạn để tài trợ cho dự án trung và dài hạn. Lãi suất thị trường phụ thuộc vào nhiều nhân tố như tỉ lệ lạm phát, quy định của nhà nước về lãi suất cho vay, chi phí hoạt động ngân hàng, lãi suất tiền gửi, lãi suất chiết khấu, mức cung cầu vốn vay... Cán bộ tín dụng khi thẩm định dự án tín dụng cho đổi mới công nghệ không thể dự đoán chính xác lãi suất trong tương lai dẫn đến rủi ro lãi suất cao. Thứ ba : rủi ro hối đoái Rủi ro hối đoái đối với ngân hàng là xác suất tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Việt nam và đồng ngoại tệ ( đồng nội tệ là đồng yết giá, đồng ngoại tệ là đồng định giá) giảm xuống khi ngân hàng giữ ngoại hối. Nếu rủi ro hối đoái sảy ra thì ngân hàng đã đầu tư vào lĩnh vực đem lại lợi nhuận kém hơn so với giữ đồng tiền Việt nam. Tín dụng ngân hàng phục vụ đổi mới công nghệ có rủi ro hối đoái. Các doanh nghiệp thường đổi mới công nghệ bằng cách nhập công nghệ từ nước ngoài về. Doanh nghiệp phải thanh toán với phía nước ngoài ngoại tệ. Trong những trường hợp xảy ra cơn sốt ngoại tệ, giá trị ngoại tệ bị đẩy lên cao hơn giá trị danh nghĩa của nó thì nguồn ngoại tệ của ngân hàng rất khó khăn. Các ngân hàng không thể lấy nguồn tiền gửi ngoại tệ để bán. Doanh nghiệp phải vay ngoại tệ của ngân hàng . Đến kỳ hạn trả nợ, doanh nghiệp trả bằng ngoại tệ. Nếu tỷ giá hối đoái lúc đó giảm thì rủi ro hối đoái xảy ra đối với ngân hàng. d/ Lợi ích thu được từ tín dụng ngân hàng phục vụ đổi mới công nghệ lớn. Lợi nhuận thu được từ tín dụng ngân hàng phục vụ đổi mới công nghệ rất cao nếu rủi ro không xảy ra. Loại hình tín dụng này chủ yếu là tín dụng trung và dài hạn nên lãi suất cao hơn lãi suất ngắn hạn. Vốn đầu tư dành cho một dự án tương đối lớn nên nếu ngân hàng cho vay một dự án thành công, ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận đáng kể. Mặt khác, nếu ngân hàng có biện pháp tốt hạn chế tối đa rủi ro tín dụng thì ngân hàng sẽ có cơ hội tăng doanh số cho vay, đáp ứng nhu cầu tín dụng của nhiều doanh nghiệp hơn. Lợi nhuận của ngân hàng sẽ tăng lên rất nhiều. Lợi ích của tín dụng ngân hàng phục vụ đổi mới công nghệ không chỉ là lợi nhuận lớn. Nhu cầu đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp rất bức xúc. Mặc dù hiện nay, doanh số cho vay phục vụ đổi mới công nghệ không lớn nhưng chắc chắn trong tương lai đây sẽ là thị trường lớn. Ngân hàng nào đáp ứng nhu cầu thị trường này thì ngân hàng đó sẽ mở rộng được thị trường, uy tín ngân hàng được nâng cao. Mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp phát triển. Doanh nghiệp đổi mới công nghệ sẽ tăng khả năng sản xuất. Nhu cầu vốn lưu động tăng và doanh nghiệp sẽ tìm đến ngân hàng để vay vốn lưu động. Tín dụng ngân hàng phục vụ đổi mới công nghệ góp phần tăng cường tín dụng ngắn hạn. Tóm lại, khả năng cạnh tranh của ngân hàng sẽ tăng lên và ngân hàng sẽ kiếm được nhiều lợi nhuận hơn trong tương lai. III Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm tăng cường phát triển và đổi mới công nghệ Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tín dụng ngân hàng nhằm tăng cường phát triển và đổi mới công nghệ. Nhìn chung, các nhân tố này thuộc 2 nhóm cơ bản : các nhân tố thuộc môi trường vi mô và các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô. 1. Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô 1.1Quy định của chính phủ, ngân hàng nhà nước Tín dụng ngân hàng chịu sự điều tiết, kiểm soát của chính phủ. Tín dụng ngân hàng nói chung, tín dụng ngân hàng phục vụ đổi mới công nghệ nói riêng có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Chính phủ nhận thấy cần phải can thiệp vào hệ thống ngân hàng để thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Chính phủ can thiệp vào hệ thống ngân hàng thông qua các văn bản pháp quy. Đây là điều kiện tiên quyết, là căn cứ để các ngân hàng quyết định cho vay hay không. 1.2 Chính sách vĩ mô của chính phủ Chính sách vĩ mô của chính phủ có tác động đến hoạt động tín dụng ngân hàng theo 2 hướng : Thứ nhất : chính sách vĩ mô tác động đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Thứ hai : chính sách vĩ mô tác động đến chất lượng thẩm định tín dụng của ngân hàng. Sau đây là một số chính sách có ảnh hưởng lớn nhất. a/ Chính sách tiền tệ Ngân hàng nhà nước là cơ quan của chính phủ chịu trách nhiệm thực hiện chính sách tiền tệ. Mục tiêu quan trọng nhất của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền. Chính sách tiền tệ được coi là thành công nếu tỉ lệ lạm phát ổn định và phù hợp với tăng trưởng kinh tế, tỷ giá hối đoái ổn định và vận động theo tín hiệu thị trường. Lạm phát và tỷ giá hối đoái hợp lý sẽ giảm rủi ro trong tín dụng ngân hàng phục vụ đổi mới công nghệ. Trước hết, lạm phát và tỷ giá hối đoái ổn định giúp cho người lập kế hoạch đầu tư tại các doanh nghiệp đưa ra các dự đoán hợp lý, đúng đắn, và đáng tin cậy đặc biệt là có ý nghĩa rất lớn khi doanh nghiệp ra quyết định đầu tư trung và dài hạn. Các số liệu doanh nghiệp dự đoán sẽ dựa trên một tỷ lệ lạm phát và tỷ giá hối đoái gần với lạm phát và tỷ giá hối đoái trong tương lai. Trong kinh tế thị trường, giá cả các yếu tố đầu vào sẽ quyết định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu tỉ lệ lạm phát tương đối ổn định, doanh nghiệp sẽ dự đoán giá cả các yếu tố đầu vào và đầu ra dễ dàng hơn. Thứ hai : lạm phát ổn định là nhân tố quan trọng để kinh tế tăng trưởng bền vững. Doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường kinh doanh thuận lợi sẽ hoạt động hiệu quả hơn. Những dự án doanh nghiệp vay vốn ngân hàng có chất lượng cao nên rủi ro tín dụng ngân hàng sẽ giảm. Về phía ngân hàng, công tác thẩm định dự án cũng dễ dàng hơn nên ngân hàng có thể tập trung vốn vào những dự án hiệu quả cao. Lạm phát và tỷ giá ổn định làm giảm rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái cho ngân hàng. Nếu lạm phát không ổn định và giả sử tăng lên. Lãi suất danh nghĩa cũng tăng lên để đảm bảo lãi suất thực dương. Lãi suất cho vay trên thị trường sẽ cao hơn lãi suất thoả thuận trước đó giữa doanh nghiệp và ngân hàng nên rủi ro lãi suất sẽ xảy ra. Tỷ giá hối đoái không ổn định cũng là nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất. Lạm phát và tỷ giá hối đoái ổn định giúp ngân hàng dự đoán được lãi suất và tỷ giá hối đoái chính xác hơn. Rủi ro của ngân hàng giảm là điều kiện quan trọng để ngân hàng mạnh dạn hơn trong cho vay phục vụ đổi mới công nghệ . b/ Chính sách thương mại Chính sách thương mại có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp và do đó có tác động không nhỏ đến tín dụng ngân hàng phục vụ đổi mới công nghệ. Chính phủ có thể lựa chọn chính sách tự do hoá thương mại ,bảo hộ mậu dịch hoặc kết hợp giữa hai chính sách này. Mỗi chính sách đều tạo ra những cơ hội thuận lợi cho đổi mới công nghệ nếu doanh nghiệp tận dụng tốt và sẽ tạo ra những thách thức không nhỏ trong trường hợp ngược lại. Nếu chính phủ theo đuổi chính sách bảo hộ mậu dịch, chính phủ sẽ hạn chế nhập khẩu bằng các biện pháp như tăng thuế nhập khẩu, cấp quota nhập khẩu hoặc cấm nhập khẩu... Bảo hộ mậu dịch ngăn chặn lượng hàng hoá tràn vào nước ta nên cung hàng hoá giảm . Các nhà sản xuất có cơ hội tăng lượng hàng sản xuất để đáp ứng nhu cầu trong nước. Doanh nghiệp sẽ tăng được lợi nhuận nhờ chính sách này và có nhu cầu và khả năng đổi mới công nghệ để mở rộng sản xuất. Chính sách bảo hộ mậu dịch giúp doanh nghiệp phát huy tối đa công suất của công nghệ nên vốn đầu tư thu hồi đúng kế hoạch. Chính sách bảo hộ mậu dịch có tác dụng bảo vệ các doanh nghiệp trước sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng ngoại nhập. Tuy nhiên, chính sách bảo hộ mậu dịch nếu duy trì quá lâu sẽ không có hiệu quả như mong muốn. Do không có sự cạnh tranh với hàng ngoại nhập, các doanh nghiệp chủ quan với kết quả đạt được, chậm đổi mới, sử dụng lãng phí các nguồn lực, giá thành sản phẩm cao, lợi nhuận giảm dần. Số lượng sản phẩm tiêu thụ thấp nên doanh nghiệp không có nhu cầu đổi mới công nghệ. Chính sách tự do hoá thương mại sẽ đặt các doanh nghiệp vào tình thế phải cạnh tranh gay gắt. Doanh nghiệp phải nỗ lực đáp ứng nhu cầu thị trường, thâm nhập vào thị trường mới. Những doanh nghiệp chậm đổi mới sẽ bị loại ra khỏi thương trường. Để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp là tăng khả năng cạnh tranh, tăng lợi nhuận trong tương lai, doanh nghiệp phải đầu tư đổi mới công nghệ. Nâng cao chất lượng sản phẩm là điều kiện tốt nhất để doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường nước ngoài, tăng lượng hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, khi phải cạnh tranh với hàng ngoại nhập, chỉ có các doanh nghiệp mạnh mới có thể thực hiện mục tiêu. Nếu Chính phủ vội vã áp dụng chính sách này, nhiều doanh nghiệp không thích ứng kịp thời sẽ bị phá sản. Một số doanh nghiệp khác buộc phải hạ giá bán và lợi nhuận tích luỹ thấp. Chính phủ các nước đang phát triển cũng như Chính phủ Việt nam thường kết hợp hai chính sách này nhưng xu thế chung là tự do hoá thương mại. 1.3 Chiến lược phát triển ngành, chiến lược phát triển khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ. a/ Chiến lược phát triển ngành, chiến lược phát triển khoa học công nghệ Chiến lược phát triển ngành cũng như chiến lược phát triển khoa học công nghệ là cơ sở để doanh nghiệp lập kế hoạch đổi mới công nghệ. Mục tiêu của các chiến lược này là lựa chọn đúng đắn các lĩnh vực ưu tiên phát triển trong từng giai đoạn. Căn cứ vào các chiến lược này, doanh nghiệp có thể đánh giá nhu cầu thị trường, công nghệ thích hợp với doanh nghiệp, các đối thủ cạnh tranh, các nguồn đầu vào của sản xuất cần khai thác. Chiến lược phát triển ngành và khoa học công nghệ đưa ra các giải pháp về phía nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Dựa vào các chính sách đó, doanh nghiệp sẽ phân tích những điều kiện thuận lợi từ đó ra quyết định đầu tư đổi mới công nghệ. Cán bộ ngân hàng trong quá trình thẩm định dự án có thể tham khảo những chiến lược này. Đây là những thông tin rất hữu ích giúp ngân hàng phân tích tốt hơn tính hiệu quả của dự án. b/ Cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ Cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ có ảnh hưởng lớn đến tiến trình đổi mới công nghệ. Cơ sở hạ tầng khoa học của đất nước được đánh giá dựa trên một số chỉ tiêu như số lượng công nhân kĩ thuật, số lượng kĩ sư, các cán bộ có trình độ khoa học cao, số lượng và chất lượng các cơ quan nghiên cứu triển khai, các cơ sở vật chất khác phục vụ đổi mới công nghệ như trung tâm thông tin chuyển giao công nghệ, quỹ hỗ trợ chuyển giao công nghệ. Nếu những chỉ tiêu trên đạt yêu cầu, nước nhập công nghệ mới làm chủ được công nghệ nhập, tiến tới cải tiến, thích nghi công nghệ, phát triển công nghệ và tạo ra công nghệ mới. Trong trường hợp ngược lại, nước nhập công nghệ đầu tư vốn lớn nhưng vẫn không làm chủ được công nghệ hoặc công nghệ nhập không phù hợp với yêu cầu. Nếu có sự cố nào đó xảy ra, nước nhập công nghệ phải thuê chuyên gia nước ngoài hoặc mua phụ tùng nước ngoài với chi phí lớn. Công nghệ nhập không thể phát huy hết công suất nên không có hiệu quả. Cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ là căn cứ để quyết định trình độ hiện đại của công nghệ nhập. Công nghệ thích hợp phụ thuộc._.àng. Chiến lược khách hàng chính là những bước đi cụ thể nhằm lôi kéo khách hàng mới, đáp ứng nhu cầu khách hàng về đổi mới và phát triển công nghệ, mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng. Cán bộ tín dụng sẽ căn cứ vào chiến lược khách hàng để điều chỉnh hành động cho phù hợp với mục tiêu mở rộng tín dụng đổi mới công nghệ. NHCT Đống Đa cần lập chiến lược khách hàng theo các bước sau: a/ Lựa chọn khách hàng Trước hết, trong giai đầu mở rộng tín dụng đổi mới công nghệ, ngân hàng cần lựa chọn những khách hàng tốt và những khách hàng này sẽ trở thành những khách hàng chủ yếu của ngân hàng. Đó là những khách hàng có có tình hình tài chính lành mạnh, có nhiều tiềm năng sản xuất. Muốn thu hút được những khách hàng này, NHCT Đống Đa cần phân loại khách hàng. Có rất nhiều tiêu thức để phân loại khách hàng nhưng NHCT Đống Đa nên dựa vào những tiêu thức sau: Thứ nhất : theo hình thức sở hữu. NHCT Đống Đa chia khách hàng của mình thành 2 nhóm : - Doanh nghiệp nhà nước,các viện nghiên cứu triển khai - Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thực tiễn cho thấy, các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước thường có nhiều khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn tín dụng của ngân hàng hơn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chất lượng tín dụng ở nhóm các doanh nghiệp nhà nước bao giờ cũng cao hơn chất lượng tín dụng ở nhóm các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thứ hai : Phân loại theo tình hình tài chính và tiềm năng sản xuất của khách hàng. NHCT Đống Đa cần phân loại theo tiêu thức này vì sau khi phân loại, ngân hàng sẽ biết rõ chỗ đứng, vị thế của từng doanh nghiệp, từ đó đưa ra cách sử lý thích hợp. Việc phân loại doanh nghiệp dựa trên hệ thống chỉ tiêu của doanh nghiệp trong 2-3 năm trước đó. Thứ hạng doanh nghiệp được đánh giá theo thang điểm.Ta có thể phân loại doanh nghiệp theo thứ hạng A,B,C,D. Doanh nghiệp loại A là những doanh nghiệp có năng lực tín dụng, có khả năng thanh toán cao, tình hình tài chính ổn định. Doanh nghiệp loại B là doanh nghiệp có tình hình tài chính khá ổn định, thực hiện các giải pháp phòng chống rủi ro, có triển vọng cải thiện hoạt động trong tương lai. Doanh nghiệp loại C là doanh nghiệp có những căng thẳng về tài chính, tiềm ẩn rủi ro, năng lực tín dụng hạn chế. Doanh nghiệp loại D là doanh nghiệp có độ rủi ro cao, không có khả năng thanh toán, nằm trên bờ vực phá sản. Ngân hàng tuyệt đối không cho loại khách hàng này vay. Ngân hàng phân tích tình hình tài chính dựa trên 4 nhóm chỉ tiêu: kết quả kinh doanh, mức độ tự chủ về tài chính, vòng quay vốn, khả năng thanh toán. Trong các chỉ tiêu đánh giá tiềm năng sản xuất của doanh nghiệp, ngân hàng cần chú ý đến các chỉ tiêu về phương hướng hoạt động công ty, hệ thống chiến lược - kế hoạch, vị trí trên thị trường, chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm, đặc tính các luồng tiêu thụ sản phẩm của công ty. Ngân hàng cần phân tích cơ cấu nhân sự của doanh nghiệp, trong đó đặc biệt chú ý đến trình độ khoa học kỹ thuật của cán bộ nhân viên doanh nghiệp. Các chỉ tiêu có thể được cho điểm như sau : tốt được 1 điểm, trung bình được 2 điểm, xấu được 3 điểm. Sau khi cho điểm, ngân hàng có thể kết luận doanh nghiệp thuộc thứ hạng nào. Riêng đối với các Viện nghiên cứu triển khai, cần có một cách xếp loại khác. Viện nghiên cứu loại A là những viện nghiên cứu trực thuộc các Tổng công ty mạnh được xếp hạng cao hoặc có bảo đảm tín dụng. Viện nghiên cứu loại B là những viện nghiên cứu còn lại. Ngân hàng cần hướng mọi nỗ lực về phía các khách hàng tốt. Đó là các doanh nghiệp được xếp loại A, B. Đối với khách hàng thuộc loại C, ngân hàng cần thận trọng khi thẩm định phương án đổi mới công nghệ. b/ Tiếp xúc với khách hàng Sau khi lựa chọn xong khách hàng, công việc tiếp theo mà NHCT Đống Đa phải làm là tiếp xúc với khách hàng. Ngân hàng có thể thực hiện các phương pháp sau: - Quảng cáo hình thức tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ của ngân hàng đối với các doanh nghiệp, các viện nghiên cứu triển khai. - Gửi bưu phẩm đến doanh nghiệp để thông báo với khách hàng về dịch vụ ngân hàng. Hình thức này cho phép ngân hàng tiếp xúc rộng rãi, đúng đối tượng, tiết kiệm thời gian, tiền bạc. - Tổ chức buổi toạ đàm để giới thiệu về NHCT Đống Đa cũng như về hình thức tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ. Phương pháp này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có trình độ cao để giải thích, giới thiệu, trả lời khách hàng cũng như phải được chuẩn bị kỹ lưỡng. Những người được mời tham dự phải là những nhà quản trị cao cấp của doanh nghiệp. Phương pháp này có tính thuyết phục rất cao. - Tiếp xúc qua điện thoại. Bằng phương pháp này, ngân hàng có thể tiếp xúc trực tiếp trên diện rộng và có thể biết ngay kết quả sau khi tiếp xúc. - Tiếp xúc cá nhân : thường được sử dụng sau khi đã có thoả thuận sơ bộ về cuộc gặp mặt. Trong quá trình tiếp xúc cá nhân, cán bộ tín dụng cần chiếm được tình cảm, lòng tin của khách hàng. c/ Phát hiện nhu cầu của khách hàng Sau khi ngân hàng đã có những tiếp xúc ban đầu, cán bộ tín dụng cần chuẩn bị thông tin cho cuộc gặp gỡ chính thức để phát hiện nhu cầu của họ. Trong cuộc gặp gỡ chính thức, cán bộ ngân hàng cần thu thập thông tin về nhu cầu tín dụng nhằm đổi mới và phát triển công nghệ, các ngân hàng đang phục vụ khách hàng đó. Cán bộ tín dụng cần tìm hiểu mối quan hệ của doanh nghiệp với ngân hàng đang phục vụ, đánh giá mặt mạnh và mặt yếu của ngân hàng, khả năng thu hút khách hàng này của ngân hàng đó. Cần đánh giá mức độ trung thành của khách hàng với ngân hàng đó. Tiếp theo, cán bộ tín dụng cần xem xét lại NHCT Đống Đa có đủ khả năng lôi kéo khách hàng đó hay không. Cần phải phân tích những yếu tố như lãi suất, chất lượng dịch vụ, các dịch vụ bổ sung hiện tại của NHCT Đống Đa có ưu việt hơn ngân hàng đang phục vụ khách hàng hay không? Nếu muốn lôi kéo khách hàng này, NHCT Đống Đa phải bỏ chi phí bao nhiêu, có nên đưa ra mức lãi suất ưu đãi hay không, lợi nhuận dự tính thu được từ khách hàng này là bao nhiêu? Sau khi phân tích, cán bộ tín dụng sẽ quyết định NHCT Đống Đa nên hay không nên lôi kéo khách hàng này. d/ Lựa chọn chiến lược đối với khách hàng Sau bước phân loại, thiết lập mối quan hệ với khách hàng, NHCT Đống Đa cần đưa ra chiến lược đối với từng nhóm khách hàng. Ngân hàng cần phân tích khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên lĩnh vực tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ. Theo tôi, khả năng cạnh tranh của NHCT Đống Đa trên lĩnh vực này ở mức trung bình, không bằng Ngân hàng đầu tư phát triển và một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài nếu các chi nhánh này thoát khỏi khó khăn như đã đề cập ở chương II. Vì vậy, ngân hàng cần theo đuổi chiến lược như sau : Đối với khách hàng có độ hấp dẫn cao ( doanh nghiệp được xếp loại A ), mgân hàng cần duy trì, củng cố và phát triển mối quan hệ với nhóm khách hàng này. Muốn vậy, ngân hàng cần nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Đối với khách hàng có độ hấp dẫn trung bình ( doanh nghiệp được xếp loại B), ngân hàng cần phục vụ có chọn lọc nhóm khách hàng này. Đối với khách hàng có độ hấp dẫn thấp (doanh nghiệp được xếp loại C), ngân hàng chỉ nên duy trì hạn chế. Những phương án đổi mới công nghệ của nhóm khách hàng này cần được xem xét thận trọng và có thể yêu cầu bảo đảm tín dụng. Đối với các viện nghiên cứu - triển khai, ngân hàng có thể thực hiện chiến lược duy trì nếu như viện nghiên cứu - triển khai trực thuộc các Tổng công ty mạnh được xếp loại A, nghiên cứu ứng dụng theo đơn đặt hàng, và là viện nghiên cứu có uy tín cao. Nếu chỉ thoả mãn một trong 3 điều kiện trên thì ngân hàng áp dụng chiến lược phục vụ có chọn lọc. Sau khi lựa chọn chiến lược phù hợp với khách hàng, cần phải lập kế hoạch hành động đối với từng khách hàng. Trong kế hoạch này, ngân hàng cần xác định những yếu tố sau : - Mục tiêu : xác định mức cho vay đối với khách hàng đó, mức độ thoả mãn yêu cầu của khách hàng. - Biện pháp đạt mục tiêu : ngân hàng cần xác định nguồn vốn cho vay lấy từ đâu, cần phải làm gì để phục vụ yêu cầu khách hàng. - Kế hoạch lôi kéo khách hàng : ngân hàng căn cứ vào chiến lược khách hàng, phát hiện nhu cầu khách hàng để đưa ra kế hoạch lôi kéo khách hàng phù hợp nhất. 1.4 Vận dụng, đưa ra mức lãi suất một cách mềm dẻo, linh hoạt Lãi suất ngân hàng phụ thuộc vào nhiều nhân tố như nhu cầu khách hàng, lãi suất của đối thủ cạnh tranh, quy định của Chính phủ, chi phí hoạt động của ngân hàng, lãi suất huy động, lợi nhuận ngân hàng... Mục đích của việc thiết lập chính sách lãi suất là mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ, lợi nhuận hợp lý. Vì vậy, ngân hàng cần tìm mọi biện pháp giảm chi phí hoạt động, giảm lãi suất cho vay. Ngoài ra, ngân hàng có thể thực hiện những biện pháp sau : Thứ nhất :NHCT Đống Đa nên áp dụng chính sách phân biệt lãi suất cho từng đối tượng khách hàng. Đối tượng cần được xem xét giảm lãi suất là: - Những khách hàng được xếp loại A, có phương án đổi mới công nghệ khả thi và nhu cầu vay vốn lớn. - Những khách hàng truyền thống, có mối quan hệ lâu dài với ngân hàng. Ngân hàng nên giảm lãi suất cho những khách hàng này để khuyến khích sự trung thành của khách hàng với ngân hàng. Ngoài ra, để khuyến khích doanh nghiệp trả nợ ngân hàng đúng hạn, ngân hàng có thể đưa ra khoản chiết khấu đối với các doanh nghiệp này. Biện pháp này tương tự như cắt giảm lãi suất nhưng có tác dụng nâng cao chất lượng tín dụng . Doanh nghiệp chỉ được hưởng khoản tiền chiết khấu này khi đã trả xong nợ và tiền lãi cho ngân hàng. Đối với những dự án có độ rủi ro cao nhưng vẫn có thể chấp nhận, ngoài biện pháp thông thường là yêu cầu phải có bảo đảm tín dụng, ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng trả thêm một khoản phí. Khoản phí này sẽ được đưa vào quỹ phòng ngừa rủi ro của ngân hàng. Thứ hai : ngân hàng áp dụng lãi suất biến đổi đối với các dự án đổi mới công nghệ cần vay vốn trung và dài hạn. Lãi suất biến đổi theo lãi suất thị trường sau một kỳ hạn trả tiền. Biện pháp này nếu được áp dụng thì NHCT Đống Đa có thể dùng một phần nguồn vốn ngắn hạn dư thừa để tài trợ cho dự án vay vốn trung và dài hạn vì rủi ro lãi suất sẽ không xảy ra. Biện pháp này có nhược điểm là doanh nghiệp không thể biết trước tiền lãi phải trả ngân hàng trong mỗi kỳ nên gây khó khăn cho việc lập kế hoạch trả nợ. Vì vậy, ngân hàng cần nghiêm cứu kỹ doanh nghiệp trước khi đưa ra hình thức này. Ví dụ, ngân hàng có thể áp dụng với các doanh nghiệp có lợi khi chỉ số lạm phát tăng. 1.5 NHCT Đống Đa cần ban hành các tài liệu tham khảo nội bộ Tài liệu tham khảo nội bộ là một văn bản bao gồm các tiêu chuẩn, hướng dẫn và các giới hạn để chỉ đạo quy trình nghiệp vụ cho vay. Chính sách tín dụng là một công cụ rất quan trọng trong việc liên lạc giữa nội bộ ngân hàng và là tài liệu hướng dẫn cán bộ tín dụng trong khi quá trình tín dụng, đặc biệt là các cán bộ tín dụng chưa có kinh nghiệm. Cán bộ tín dụng căn cứ vào tài liệu tham khảo để hành động cho phù hợp. NHCT Đống Đa nên lập tài liệu tham khảo không quá chi tiết đén mức hạn chế tính sáng tạo của cán bộ tín dụng. Tài liệu tham khảo được lập dựa trên kết quả của các bước trên và được xem xét lại hàng năm . Những nội dung chính của tài liệu tham khảo nội bộ là : a/ Nêu mục tiêu - Tăng trưởng tín dụng - Lợi nhuận - Chất lượng danh mục đầu tư: giữ cho khoản thua lỗ ở một tỷ lệ nhất định. - Phục vụ xã hội b/ Thiết lập mức độ thẩm quyền - Trách nhiệm của giám đốc - Trách nhiệm của cán bộ tín dụng c/ Các tiêu thức tín dụng - Quy định các khoản cho vay có thể chấp nhận được và không thể chấp nhận được. - Giới hạn các yếu tố tín dụng cần xem xét và đưa ra các quyết định cho vay. - Đưa ra danh mục tài sản thế chấp có thể chấp nhận được. d/ Các thủ tục kiểm soát - Miêu tả các thông tin và tài liệu chứng từ cần duy trì trong hồ sơ tín dụng và các thông tin bổ sung giữa kỳ cần cập nhật. - Đặt ra tiêu chuẩn giám sát tín dụng, bao gồm việc thường xuyên thăm nơi kinh doanh của khách hàng, kiểm tra xem xét hồ sơ tín dụng thường kỳ, giám sát sự tuân thủ, lịch trình hoàn trả. - Nêu thủ tục báo các các rủi ro tiềm ẩn cho ban quản trị. e/ Các tiêu thức thu hồi khoản cho vay - Xác định điều kiện cần thiết để thu hồi các khoản cho vay - Thủ tục kế toán xử lý khoản thu hồi 1.6 Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng. Chất lượng thẩm định tín dụng là điều kiện để ngân hàng mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ. Nếu chất lượng thẩm định không tốt, ngâ hàng có nhiều khả năng gặp rủi ro khi theo đuổi chính sách mở rộng tín dụng. Chất lượng thẩm định cao sẽ giúp cán bộ tín dụng tự tin hơn khi thẩm định khách hàng mới và qua đó mở rộng thị trường. Ngân hàng cần thực hiện những biện pháp sau để nâng cao chất lượng thẩm định. a/ Nâng cao chất lượng thông tin trong thẩm định dự án Hiệu quả của công tác tín dụng phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thông tin. Thông tin là cơ sở để ngân hàng tính toán hiệu quả kinh tế của dự án. Nguồn thông tin đầu tiên là nguồn thông tin do khách hàng cung cấp. Nhưng nguồn thông tin này có thể không chính xác vì rất ít các doanh nghiệp được kiểm toán. Ngân hàng nên thu thập thông tin như sau: Thứ nhất : phỏng vấn trực tiếp người đi vay Thông qua phỏng vấn, nhờ kinh nghiệm và óc nhạy bén, cán bộ tín dụng có thể biết thêm một số thông tin mà trong hồ sơ xin vay không được đề cập hay phát hiện những mâu thuẩn giữa những thông tin thu thập được. Cán bộ tín dụng tập trung vào những nội dung sau: - Tính cách giám đốc doanh nghiệp hoặc chủ dự án xin vay vốn. Ngân hàng phải đánh giá tính trung thực, đạo đức của người vay và những yếu tố khác như mục tiêu, động cơ người vay. Cán bộ tín dụng đánh giá người vay chủ yếu qua thái độ và hồ sơ của họ. Đồng thời, cán bộ tín dụng phải luôn nhớ rằng uy tín và đạo đức người vay là một yếu tố quan trọng để đánh giá, nhận biết trách nhiệm trả nợ của người vay. - Năng lực quản lý : ngày nay, một doanh nghiệp muốn thành công phải có trình độ cao về hoạch định, quản lý nhân sự, kỹ thuật sản xuất, marketing, cũng như quản lý tài chính. Cán bộ tín dụng phải thu thập thông tin về trình độ học vấn của ban giám đốc, số lượng công nhân kỹ thuật, số kỹ sư,số người có trình độ trên đại học cũng như mô hình quản trị doanh nghiệp, các phương pháp lập kế hoạch, chiến lược, thu nhập của người lao động. - Mối quan hệ của công ty: cán bộ tín dụng cần tìm hiểu xem doanh nghiệp có quan hệ với bao nhiêu ngân hàng, các nhà cung cấp chính cho doanh nghiệp, ai là khách hàng chính... Công việc phỏng vấn đòi hỏi phải được chuẩn bị kỹ càng. Cán bộ tín dụng cần mềm mỏng, tế nhị để có được thái độ hợp tác của người vay. Sau khi phỏng vấn xong, cán bộ tín dụng phải trực tiếp điều tra cơ sở sản xuất. Thứ hai : thu thập thông tin từ nguồn bên ngoài Ngoài hình thức phỏng vấn trực tiếp, cán bộ tín dụng cần thu thập thông tin từ bên ngoài doanh nghiệp để kiểm tra những thông tin thu thập được và phát hiện những thông tin mới. Ngân hàng có thể thu thập thông tin từ những nguồn sau : - Các trung tâm phòng ngừa rủi ro. Đây là nơi lưu trữ các thông tin về việc doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng nào đó, với số lượng bao nhiêu, sử dụng tài sản gì để thế chấp. - Các nhà cung cấp, các khách hàng chính của công ty. Ngân hàng đánh giá uy tín của doanh nghiệp, khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong tương lai. - Tài liệu về chủ trương, chính sách của nhà nước liên quan đến dự án. b/ Liên hệ với các chuyên gia kỹ thuật trong ngành công nghiệp Phân tích kỹ thuật của dự án đổi mới công nghệ hoặc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất đòi hỏi người thẩm định phải có trình độ chuyên sâu về công nghệ đó. Cán bộ tín dụng không đủ trình độ để thẩm định kỹ thuật và thường chỉ dựa vào phân tích của doanh nghiệp. Hơn nữa, trong các dự án đổi mới công nghệ, phân tích kỹ thuật giữ vai trò rất quan trọng. Phân tích kỹ thuật thành công thì phân tích tài chính mới có ý nghĩa. Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đổi mới công nghệ, cán bộ tín dụng cần thuê các chuyên gia kỹ thuật trong ngành để tư vấn. c/ Cần thiết lập hệ thống quy trình thẩm định riêng, mang đầy đủ đặc trưng của tín dụng phục vụ đổi mới và phát triển công nghệ Hiện nay, khi thẩm định các dự án tín dụng nhằm đổi mới công nghệ, cán bộ tín dụng thường chỉ căn cứ vào hướng dẫn thẩm định của NHCT Việt nam. Hướng dẫn thẩm định này áp dụng cho toàn hệ thống NHCT Việt nam, do vậy không chứa đựng đầy đủ những đặc trưng của tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ cũng như đặc điểm của NHCT Đống Đa. Chính vì vậy, NHCT Đống Đa nên lập một hệ thống quy trình thẩm định riêng về tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Quy trình thẩm định này cần được thiết lập chi tiết nhưng chỉ mang tính chất tham khảo. Trong nhiều trường hợp, cán bộ tín dụng có thể phát huy tính sáng tạo của mình. Trong quy trình thẩm định, cán bộ tín dụng cần liệt kê, phân tích những yếu tố thuộc môi trường bên trong, bên ngoài ảnh hưởng đến dự án. Cần phân tích những nhân tố đó ảnh hưởng như thế nào đến dự án, xác suất xảy ra sự cố, hướng khắc phục của doanh nghiệp. Cán bộ tín dụng cần định lượng các nhân tố ảnh hưởng, các rủi ro. Từ đó, cán bộ tín dụng sẽ đánh giá một cách chính xác hơn rủi ro của dự án và quyết định có cho vay hay không. NHCT Đống Đa nên yêu cầu mỗi cán bộ tín dụng lập riêng một bản quy trình thẩm định đổi mới công nghệ. Sau đó tổ chức một buổi thảo luận trong nội bộ ngân hàng về vấn đề này. NHCT Đống Đa lấy những ý kiến hợp lý nhất và than khảo ý kiến của các chuyên gia, căn cứ vào quy trình thẩm định của NHCT Việt nam để lập ra quy trình thẩm định của ngân hàng. 1.7 Thành lập bộ phận marketting ngân hàng Nhiệm vụ của bộ phận này là góp phần tích cực vào việc xây dựng kế hoạch chiến lược ngân hàng, lập kế hoạch marketting. Bộ phận marketting là bộ phận không thể thiếu được của quản trị ngân hàng. Những giải pháp nêu trên đều dựa trên cơ sở vận dụng kiến thức marketting vào hoạt động ngân hàng. Bộ phận marketting sẽ giúp ngân hàng tránh được những sai lầm, phát huy tối đa điểm mạnh, hạn chế những điểm yếu của ngân hàng, nắm bắt thời cơ. Đây cũng chính là bộ phận hướng dẫn, thúc đẩy cán bộ tín dụng ngân hàng thực hiện mục tiêu. Cán bộ của bộ phận marketting phải là những người có trình độ cao về nghiệp vụ ngân hàng cũng như nghiệp vụ marketting. Đồng thời họ phải là những người có tầm nhìn xa trông rộng, năng động, nhiệt tình với công việc, gắn bó với ngân hàng. 1.8 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Cán bộ tín dụng chính là người trực tiếp lôi kéo khách hàng và thẩm định tín dụng. Do đó, mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới và phát triển công nghệ phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ cán bộ ngân hàng. Trình độ và tư cách đạo đức của đội ngũ cán bộ ngân hàng là cơ sở để các nhà quản trị lập hệ thống kế hoạch hoá, thiết lập mục tiêu của ngân hàng. Đây cũng là những nhân tố bảo đảm sự thành công của hệ thống kế hoạch hoá. Thực tiễn cho thấy, hạn chế của NHCT Đống Đa trong mở rộng tín dụng đổi mới công nghệ một phần do trình độ cán bộ tín dụng chưa cao. Ngân hàng cần có kế hoạch nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Cán bộ tín dụng phải đạt được những điều kiện sau: - Phải có tinh thần luôn học hỏi, hoàn thiện bản thân. Đây là điều kiện để rất quan trọng để trình độ cán bộ ngân hàng sẽ không bị lạc hậu trong khi môi trường xung quanh luôn biến đổi. - Phải có kiến thức nghiệp vụ chuyên môn vững vàng,có hiểu biết về pháp luật, trình độ ngoại ngữ khá, có tính chủ động sáng tạo. Thiếu điều kiện này thì cán bộ tín dụng sẽ rất dễ mắc sai lầm trong quá trình cho vay, gây ra tổn thất cho ngân hàng. - Phải thường xuyên theo dõi những diễn biến của toàn bộ nền kinh tế, có khả năng phân tích những ảnh hưởng của môi trường bên ngoài đến hoạt động tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ. - Có tinh thần tập thể, gắn bó với ngân hàng. Bên cạnh thường xuyên khuyến khích cán bộ tín dụng nâng cao trình độ, NHCT Đống Đa nên áp dụng những biện pháp sau : - Lập một thư viện nhỏ chứa các sách, tạp chí về ngân hàng. Hàng ngày, cho phép cán bộ tín dụng nghỉ vào một giờ nhất định để đọc sách, báo nhằm nâng cao trình độ. - Trang bị mỗi phòng phải có ít nhất một máy vi tính, trong đó lưu giữ những thông tin chi tiết về quy trình tín dụng mà mỗi cán bộ tín dụng phải làm, những ví dụ cụ thể, hồ sơ về doanh nghiệp, những bài học kinh nghiệm, những thông tin về tình hình kinh tế. - Lập kế hoạch đào tạo nhân sự hàng năm. - Hàng năm hoặc 6 tháng một lần, NHCT Đống Đa nên phối hợp với các trường đại học yêu cầu cán bộ tín dụng làm bài kiểm tra. Cần gắn kết quả của bài kiểm tra với mức thưởng. - Trích một phần nhỏ doanh số thu nợ thưởng cho cán bộ tín dụng quản lý dự án đó. Mặt khác, thu hồi lại các khoản tiền thưởng nếu cán bộ tín dụng cho vay dẫn đến nợ khó đòi và trách nhiệm thuộc về cán bộ tín dụng. - Bổ nhiệm những người có trình độ cao, làm việc có hiệu quả tốt vào những vị trí cao. 2. Giải pháp đối với các cơ quan cấp trên Trên đây là những giải pháp đối với NHCT Đống Đa. Tuy nhiên, việc mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ sẽ thuận lợi hơn nếu môi trường kinh doanh được cải thiện. Xin được đề xuất một số giải pháp đối với các cơ quan cấp trên. 2.1 Giải pháp đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước a/ Chính phủ cần khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ bằng vật chất Trên thực tế, các doanh nghiệp đều nhận thấy đổi mới công nghệ là cần thiết nhưng doanh nghiệp có thể gặp nhiều khó khăn khi lập phương án khả thi. Đổi mới công nghệ đòi hỏi thời gian thu hồi vốn dài.Trong khi đó, doanh nghiệp phải hoàn trả vốn ngân hàng trong một khoảng thời gian thường ít hơn 5 năm. Điều này gây bất lợi cho doanh nghiệp vì lợi nhuận sau thuế cộng với tiền khấu hao trong những năm đầu tiên không đủ trả nợ. Vì vậy, nhà nước cần có những chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp trả nợ đúng hạn, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Những biện pháp đó là : Thứ nhất : cho phép các doanh nghiệp được khấu hao nhanh công nghệ mua hoặc tự sản xuất. Thay vì thời gian khấu hao của công nghệ thường là trên 10 năm thì chính phủ nên cho phép doanh nghiệp được khấu hao công nghệ mới trong thời gian nhanh hơn. Như vậy, luồng tiền ròng của doanh nghiệp sẽ tăng vì tiền khấu hao tăng lên nhiều hơn là mức giảm lợi nhuận sau thuế. Trong trường hợp doanh nghiệp kinh doanh có lãi, luồng tiền tăng lên chính bằng mức tăng khấu hao nhân với thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ dùng luồng tiền ròng này để trả nợ ngân hàng. Thứ hai : miễn giảm thuế lợi tức cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ tăng lợi nhuận, tăng nguồn tiền trả nợ ngân hàng. Biện pháp này có tác dụng khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Thứ ba : Chính phủ lập quỹ hỗ trợ đổi mới công nghệ và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Khi khách hàng vay vốn ngân hàng để đổi mới công nghệ hoặc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, khách hàng sẽ được hưởng mức lãi suất ưu đãi. Quỹ hỗ trợ này sẽ bù đắp khoản chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất ưu đãi cho ngân hàng cấp tín dụng. Như vậy, khách hàng vay vốn chỉ phải trả tiền lãi thấp hơn so với các khoản vay thông thường. Quỹ hỗ trợ đổi mới công nghệ và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất sẽ do Ngân hàng nhà nước quản lý. Lãi suất ưu đãi được áp dụng theo nguyên tắc không được thấp quá vì doanh nghiệp có thể mang tâm lý ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước, không muốn đổi mới công nghệ khi nhà nước chưa đồng ý cho phép vay với lãi suất ưu đãi. Lãi suất ưu đãi quá thấp sẽ dẫn đến doanh nghiệp cố tình trì hoãn trả nợ, thậm chí chấp nhận lãi suất quá hạn vì lãi suất quá hạn vẫn còn thấp hơn lãi suất thị trường. Vì vậy, lãi suất ưu đãi nên áp dụng ở mức bằng 70% lãi suất cho vay trên thị trường. Ngoài ra, cần phải xác định thời gian khách hàng được hưởng mức lãi suất ưu đãi. Theo tôi, thời gian này không nên kéo dài, nhất là đối với các dự án cần vay vốn lớn vì gây khó khăn cho quỹ và ngăn chặn tình trạng doanh nghiệp kéo dài thời gian vay vốn. Trước mắt, đối tượng được hưởng lãi suất ưu đãi sẽ là các doanh nghiệp nhà nước, hoạt động trong môi trường cạnh tranh, các viện nghiên cứu triển khai. Nguồn vốn cho quỹ hoạt động sẽ lấy từ ngân sách nhà nước, các nguồn tài trợ của nước ngoài... b/ Chính phủ cần phát triển cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ Theo phân tích ở chương I, cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ có ảnh hưởng rất quan trọng đến làm chủ công nghệ nhập, nghiên cứu chế tạo công nghệ mới. Sau đây là một số biện pháp phát triển cơ sở hạ tầng khoa học công nghệ: Chính phủ cần có chính sách bồi dưỡng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, ngăn chặn tình trạng chảy máu chất xám. Cần đầu tư mạnh vào các viện nghiên cứu triển khai. Mặt khác, cần bồi dưỡng kiến thức kinh tế cho đội ngũ các nhà khoa học để nâng cao tính chủ động sáng tạo của họ trong việc tạo ra công nghệ phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Cần xây dựng những trung tâm thông tin và hỗ trợ chuyển giao công nghệ. Nhiệm vụ của trung tâm này là cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp về công nghệ nhập, đánh giá công nghệ nhập, phân tích xem công nghệ nhập có phải là công nghệ thích hợp với doanh nghiệp không. Chi phí dịch vụ của trung tâm nên ở mức vừa phải để khuyến khích doanh nghiệp hoặc ngân hàng cho vay sử dụng dịch vụ này.Nếu có thua lỗ thì ngân sách nhà nước sẽ cấp bù. c/ Ngân hàng nhà nước cần hoàn thiện quy chế cho vay đổi mới công nghệ Nếu doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để nhập khẩu công nghệ thì Ngân hàng Nhà nước nên mở rộng thời hạn cho vay so với hiện nay. Hầu hết các dự án nhập khẩu công nghệ có thời gian thu hồi vốn trên 5 năm. Nên chăng, Ngân hàng Nhà nước mở rộng thời hạn cho vay tới 7 năm. Trong trường hợp khách hàng vay vốn là các viện nghiên cứu triển khai, thời hạn cho vay vốn có thể kéo dài từ 3-5 năm. Sau 5 năm, công nghệ nghiên cứu chế tạo có thể đã lỗi thời và không phát huy hiệu quả. Nếu doanh nghiệp tự nghiên cứu sản xuất công nghệ để phục vụ cho nội bộ doanh nghiệp thì thời hạn vay vốn có thể kéo dài hơn. Ngân hàng Nhà nước cũng nên trao quyền cho các ngân hàng thương mại trong việc quyết định có hay không có bảo đảm tín dụng. Trên thực tế, các viện nghiên cứu triển khai rất khó đáp ứng điều kiện là phải có bảo đảm tín dụng. Ngân hàng thương mại có thể căn cứ vào nhiều điều kiện khác nhau để quyết định cho vay hay không chứ không nhất thiết chỉ dựa vào bảo đảm tín dụng. d/ Ngân hàng nhà nước cần có quy định rõ ràng về trách nhiệm của cán bộ tín dụng Nhà nước không nên quy kết trách nhiệm cho cán bộ tín dụng nếu rủi ro xảy ra do nguyên nhân khách quan hoặc không thuộc phạm vi trách nhiệm của cán bộ tín dụng. Ví dụ, trong quá trình phân tích, thẩm định dự án, cán bộ tín dụng phải sử dụng thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó có những nguồn thông tin được coi là đáng tin cậy nhất như thông tin về chiến lược phát triển khoa học công nghệ, chiến lược phát triển ngành, những thông tin do trung tâm hỗ trợ chuyển giao công nghệ, ý kiến của các chuyên gia có uy tín... Nếu rủi ro xảy ra do những thông tin này không hợp lý, kém chính xác thì không nên quy hết trách nhiệm cho cán bộ tín dụng. 2.2 Giải pháp đối với NHCT Việt nam NHCT Việt nam nên trao quyền hạn rộng rãi hơn cho NHCT Đống Đa. Những thành công của NHCT Đống Đa trong những năm qua chính là đảm bảo cho sự phát triển đúng hướng. Hơn nữa, chỉ có NHCT Đống Đa mới hiểu được điểm mạnh và điểm yếu của ngân hàng, những diễn biến thực tế trên thị trường mà ngân hàng đang hoạt động. Nhưng điều đó không có nghĩa là NHCT Việt nam buông lỏng quản lý với NHCT Đống Đa. NHCT Việt nam nên thực hiện những biện pháp giám sát từ xa. Cơ chế quản lý của NHCT Việt nam thực hiện như thế nào ? Theo tôi, NHCT Việt nam yêu cầu NHCT Đống Đa trình bày những chiến lược tổng thể của ngân hàng bao gồm chiến lược kinh doanh, chiến lược marketting, kế hoạch đào tạo nhân sự, kế hoạch tài chính. Sau khi thông qua chiến lược này, NHCT Việt nam cho phép NHCT Đống Đa được toàn quyền hành động. NHCT Đống Đa phải báo cáo thường xuyên tiến trình thực hiện những chiến lược đó,các báo cáo tài chính, cung cấp thông tin khi cần thiết cho NHCT Việt nam, đề nghị NHCT Việt nam những biện pháp tháo gỡ khó khăn. Kết luận Qua phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh của NHCT Đống Đa, ta thấy những kết quả đạt được của NHCT Đống Đa rất đáng biểu dương. NHCT Đống Đa đã bước đầu thành công trong nền kinh tế thị trường, đổi mới hoạt động ngân hàng và trở thành chi nhánh ngân hàng đạt hiệu quả cao nhất trong hệ thống NHCT Việt nam. Những kết quả đạt được bước đầu đã khẳng định những chính sách quan trọng của NHCT Đống Đa là đúng đắn. Cùng với sự biến đổi không ngừng của môi trường kinh doanh, NHCT Đống Đa cũng phải luôn luôn đổi mới hoạt động. Đây là điều kiện tiên quyết để duy trì, phát triển và thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ ngân hàng là : “kinh tế phát triển, an toàn vốn, tôn trọng pháp luật, lợi nhuận hợp lý”. Luận văn với đề tài : “Các giải pháp góp phần mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới và phát triển công nghệ tại NHCT Đống Đa ” đã cố gắng đi sâu vào tìm hiểu, phân tích những kết quả của tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ tại NHCT Đống Đa và đã áp dụng kiến thức marketting ngân hàng để phân tích môi trường kinh doanh, từ đó đề ra giải pháp. Luận văn này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu định hướng mở rộng tín dụng phục vụ đổi mới công nghệ. Để thực hiện chiến lược này có hiệu quả cần phải hoạch định một hệ thống kế hoạch cụ thể chi tiết và đòi hỏi nghiên cứu sâu hơn. Hơn nữa, do thời gian thực tập có hạn, trình độ còn hạn chế nên luận văn này không tránh khỏi những sai sót.Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của thầy cô và các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo, PTS Lê Đức Lữ. Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các cán bộ Phòng Tín dụng công nghiệp NHCT Đống Đa và cô Nguyễn Lê Phương đã quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này. Tài liệu tham khảo 1. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại David cox Giáo trình công nghệ và quản lý công nghệ Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam Ngân hàng thương mại Cẩm nang tín dụng Mai Siêu 6. Marketting ngân hàng Banking commercial management Tạp chí ngân hàng Thời báo kinh tế Việt Nam Hướng dẫn nghiệp vụ cho vay của NHCT Việt nam ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0048.doc
Tài liệu liên quan