Các giải pháp mở rộng hoạt động động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng TCB

LờI NóI ĐầU Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu. Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế của Đất nước, công tác phục vụ xuất nhập khẩu trong thời gian gần đây đã được các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng TCB không ngừng đổi mới và hoàn thiện. Trong đó công tác thanh toán quốc tế được coi là mục tiêu trọng tâm trong các hoạt động phục vụ kinh tế đối ngoại của TCB. Để đạt được mục tiêu này trong thời gian vừa qua Ngân hàng TCB đã liên tục cải tiến và đổi mới các hoạt động của mình nhằm

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1573 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp mở rộng hoạt động động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng TCB, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nâng cao hiệu quả trong các hoạt động thanh toán quốc tế. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một trong những phương thức thanh toán phổ biến nhất trong thanh toán quốc tế. Bên cạnh những ưu điểm so với phương thức thanh toán khác, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ còn là một hình thức tài trợ thương mại cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như các đơn vị kinh tế tham gia vào các hoạt động thương mại quốc tế. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đã được Ngân hàng TCB áp dụng và bước đầu đã đóng góp vào hiệu quả kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng. Song trên thực tế hiệu quả sử dụng phương thức này còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của khách hàng. Một mặt, bản thân Ngân hàng chưa đáp ứng được những yêu cầu có tính phức tạp của nghiệp vụ, do các thanh toán viên chưa nắm vững và vận dụng thành thạo tác nghiệp. Mặt khác, về phía khách hàng các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng chưa hiểu biết thấu đáo về phương thức thanh toán này. Dưới giác độ quản lí vĩ mô, còn có nhiều vướng mắc liên quan đến cơ chế chính sách của Nhà nước... Do đó, hiệu quả sử dụng phương thức thanh toán này đã bị hạn chế rất nhiều. Tìm kiếm giải pháp, nhằm nâng cao hịệu quả sử dụng phương thức tín dụng chứng từ là một yêu cầu cấp bách cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và được sự chỉ bảo tận tình của Thầy giáo Tiến sĩ Tô Ngọc Hưng cũng như sự giúp đỡ của các anh chị, cán bộ phòng thanh toán quốc tế Ngân hàng TCB nên em đã chọn đề tài: “Các giải pháp mở rộng hoạt động động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng TCB” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu. Qua cơ sở lí luận và thực tiễn hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ của Ngân hàng TCB, đề xuất một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng TCB. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. _ Nghiên cứu cơ sở lí luận về phương thức tín dụng chứng từ. _Nghiên cứu thực trạng hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng TCB. 4. Phương pháp nghiên cứu. Các phương pháp sử dụng trong quá trình nghiên cứu là: phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê… 5. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: _ Chương 1: Tổng quan về hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của Ngân hàng Thương mại. _ Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng TCB. _Chương 3: Những giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại TCB. Để hoàn thành được khoá luận, bản thân em mong muốn đóng góp một chút kiến thức nhỏ bé của mình để phần nào khắc phục hạn chế và mở rộng hoạt động thanh toán L/C. Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp, hơn nữa em mới chỉ là một sinh viên và do những hạn chế như: khả năng của bản thân, hạn chế về thời gian, cũng như nguồn tài liệu để tham khảo. Do đó bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót và chưa thể đáp ứng được mong muốn của thực tế. Do vậy, em rất mong nhận được sự ủng hộ, góp ý của các thầy cô giáo, các bạn những ai quan tâm đến vấn đề này đề này. Chương 1 tổng quan về hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của Ngân hàng thương mại 1.1. Ngân hàng thương mại và hoạt động thanh toán quốc tế. 1.1.1. Ngân hàng thương mại và các nghiệp vụ chủ yếu của nó. Định nghĩa Ngân hàng thương mại. Có nhiều định nghĩa khác nhau về NHTM, theo luật Ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: “Ngân hàng được coi là những xí nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác những khoản tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hoặc nghiệp vụ tài chính”. Theo luật Ngân hàng của ấn độ: “Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư”. ở Việt Nam, để tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt động của các Ngân hàng và Tổ chức tín dụng tạo thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của các cá nhân. Điều 20, Luật các Tổ chức tín dụng Việt Nam có nêu: “Tổ chức tín dụng là donh nghiệp được thành lập theo quyết định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Mặc dù, có nhiều cách thể hiện khác nhau nhưng khai thác nội dung các định nghĩa đó, người ta dễ nhận thấy các Ngân hàng đều có chung một tính chất, đó là việc nhận tiền ký thác, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các nghiệp vụ kinh doanh khác của Ngân hàng. Đặc trưng hoạt động của Ngân hàng thương mại. Khác với các doanh nghiệp, NHTM không trực tiếp tham gia sản xuất và lưu thông hàng hoá nhưng nó góp phần phát triển nền kinh tế xã hội thông qua việc cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, thực hiện chức năng trung gian thanh toán và dịch vụ Ngân hàng. Đặc trưng hoạt động của NHTM bao gồm: Là chủ thể thường xuyên nhận và kinh doanh tiền gửi. Hoạt động của NHTM gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ và hoạt động thanh toán của mối quốc gia. Hoạt động của NHTM đa dạng phong phú và có phạm vi rộng lớn. Các nghiệp vụ đối ngoại của NHTM. Bên cạnh những nghiệp vụ truyền thống của một Ngân hàng, NHTM còn có những nghiệp vụ đối ngoại của một Ngân hàng hiện đại: Nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong ngoại thương. Thanh toán quốc tế trong ngoại thương là việc chi trả tiền hàng hoá, dịch vụ đối với nước ngoài phát sinh từ các hoạt động trao đổi hàng hoá, dịch vụ theo hệ thống giá cả quốc tế, được thực hiện theo những quy tắc nhất định hoặc theo tập quán thương mại quốc tế. Các hoạt động thanh toán thương mại quốc tế đều được thực hiện qua các hình thức thanh toán quốc tế cụ thể do các chủ thể thanh toán đã lựa chọn và có sự tham gia thanh toán của các Ngân hàng ở các nước. Nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu và tín dụng quốc tế của NHTM. Trong nền kinh tế thị trường, xuất nhập khẩu trở thành vấn đề quan trọng của mỗi quốc gia. Sản xuất ngày càng phát triển, nhu cầu về thị trường tiêu thụ hàng hoá và thị trường đầu tư ngày càng mở rộng. Do khả năng tài chính có hạn, vì vậy các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không phải lúc nào cũng có đủ tiền để thanh toán hàng nhập hoặc có đủ vốn để thu mua chế biến hàng xuất khẩu. Từ đó nảy sinh hình thức tài trợ của Ngân hàng đối với hoạt động XNK. Các nghiệp vụ đối ngoại khác. Ngoài hai nghiệp vụ đối ngoại chủ yếu trên các Ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ khác nhằm: đa dạng hoá các hoạt động, phân tán rủi ro; Tăng lãi; Tận dụng lợi thế là một trung gian tài chính. Các hoạt động này được thực hiện trên thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán và lĩnh vực khác. Trong các nghiệp vụ đó hoạt động thanh toán quốc tế là trọng tâm trong mục tiêu hoạt động đối ngoại của Ngân hàng để phục vụ cho quá trình hội nhập của Đất nước. 1.1.2. Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại. 1.1.2.1. Khái niệm thanh toán quốc tế. Trong điều kiện quốc tế hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, mỗi quốc gia cần phải tích cực và chủ động tham gia để đạt tới vị trí thuận lợi trong sự phân công lao động quốc tế và trao đổi thương mại quốc tế. Điều đó có nghĩa là mỗi quốc gia cần phải phát triển mạnh mẽ lĩnh vực kinh tế đối ngoại, bao gồm ngoại thương, hợp tác về kinh tế, khoa học - công nghệ, đầu tư quốc tế, du lịch quốc tế, thông tin liên lạc quốc tế và xuất nhập khẩu hàng hoá... Qúa trình tiến hành các hoạt động kinh tế nêu trên, tất yếu nảy sinh những nhu cầu chi trả, thanh toán tiền tệ giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau. Từ đó nảy sinh nhu cầu thực hiện các hoạt động thanh toán quốc tế . Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ, nảy sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức hay cá nhân nước này với tổ chức cá nhân nước khác, hoặc giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các Ngân hàng có liên hệ. Cùng với xu hướng không ngừng mở rộng quan hệ thương mại và các mối quan hệ khác giữa các quốc gia trên thế giới, đòi hỏi hoạt động thanh toán quốc tế cũng phải được mở rộng, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu phục vụ tốt hơn. 1.1.2.2 Vai trò của thanh toán quốc tế. Các hoạt động xuất - nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ không bao giờ tách rời nhau mà chúng thường có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Việc mua hàng xuất bán hàng nhập bằng nội tệ trên thị trường trong nước là khâu mở đầu và kết thúc cho việc bán hàng xuất và mua hàng nhập bằng ngoại tệ trên thị trường thế giới. Xuất khẩu là hành vi nội tệ biến thành hàng nhập khẩu để lấy ngoại tệ và nhập khẩu lại hành vi ngoại tệ chuyển hoá thành hàng nhập khẩu. Toàn bộ hoạt động xuất nhập khẩu của một nước tạo thành một chu kỳ khép kín, chu kỳ có dạng: “Nội tệ - Ngoại tệ - Hàng nhập khẩu”. Đó là mối quan hệ giữa hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá nhập khẩu, giữa giá nội tệ và giá ngoại tệ. Các quan hệ hàng hoá và tiền tệ nói trên chỉ có thể thực hiên được thông qua trao đổi quốc tế. Để đảm bảo việc thu chi ngoại tệ có kết quả tốt, các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu đều phải thành thạo công tác thanh toán quốc tế vì thanh toán quốc tế là việc chi trả tiền tệ giữa các đối tác thuộc các nước khác nhau trong quan hệ kinh tế quốc tế. Trong buôn bán, dù ở hình thức nào, luôn tồn tại một mâu thuẫn: người nhập khẩu muốn nhận được hàng hoá trước khi trả tiền, còn người xuất khẩu lại muốn có tiền rồi mới giao hàng. Mở rộng sang buôn bán quốc tế, việc giải quyết mâu thuẫn này càng cần thiết hơn vì khoảng cách về thông tin, không gian giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu. Để giải quyết, người ta thường dùng một biện pháp thoả hiệp: trả tiền đồng nghĩa với việc giao chứng từ chứng nhận quyền sở hữu hàng hoá hay quyền kiểm soát hàng hoá thông qua bên thứ ba độc lập - được cả hai bên là người nhập khẩu và nguời xuất khẩu tin tuởng làm trung gian thực hiện việc trả tiền và giao chứng từ. ở đây sự tin tưởng đóng vai trò quan trọng. Các Ngân hàng với khả năng tài chính dồi dào, uy tín cao được yêu cầu tham gia với tư cách bên thứ ba nói trên. Ngân hàng sẽ cam kết có điều kiện với người nhập khẩu là sẽ trả tiền khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp và đưa ra những quy định yêu cầu người nhập khẩu tuân thủ. Cách thức này bảo đảm một cách hợp lý quyền lợi chính đáng của hai bên - bên mua và bên bán. Thanh toán bằng tín dụng chứng từ còn có một ưu điểm là cả các doanh nghiệp mới bước vào kinh doanh xuất nhập khẩu và các doanh nghiệp đã có kinh nghiệm trong lĩnh vực này đều có thể sử dụng một cách hiệu quả. 1.1.2.3. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu. Trên thực tế có nhiều phương thức thanh toán quốc tế khác nhau. Dưới đây là các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu mà các NHTM Việt Nam đang áp dụng: - Phương thức chuyển tiền - Remittance : Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán mà trong đó khách hàng (người trả tiền) yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho người khác (người huởng lợi) ở một địa điểm và thời gian nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu. Đây là một trong những hình thức đơn giản nhất, việc thanh toán ở đây là trực tiếp giữa các bên, các Ngân hàng chỉ là trung gian. 8Các bên tham gia trong hình thức chuyển tiền: Người chuyển tiền là người yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình chuyển tiền ra nước ngoài. Người thụ hưởng là người nhận tiền do người chuyển tiền chỉ định. Ngân hàng chuyển tiền là Ngân hàng thực hiện yêu cầu chuyển tiền, thường là Ngân hàng ở nước người chuyển tiền. Ngân hàng trung gian (nếu có) là Ngân hàng chỉ định giữa Ngân hàng chuyển tiền và Ngân hàng nhận tiền. Ngân hàng nhận tiền là Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng. Nhược điểm của phương thức chuyển tiền là việc chi trả tiền cho người bán phụ thuộc hoàn toàn vào người mua. Bởi vậy, quyền lợi của bên bán không được bảo đảm. Ngược lại, bên bán nhận được tiền trước thì bên mua lại phải chịu rủi ro không nhận được hàng hoặc nhận được hàng không đúng hợp đồng. Trong phương thức này, Ngân hàng chỉ là trung gian thực hiện việc thanh toán theo uỷ quyền uỷ nhiệm để hưởng thủ tục phí (hoa hồng) và không bị ràng buộc gì cả. Người ta áp dụng phương thức thanh toán này trong thanh toán các khoản tương đối nhỏ như thanh toán chi phí có liên quan đến xuất nhập khẩu: chi phí vận chuyển, bảo hiểm, bồi thường thiệt hại hoặc trong thanh toán phi mậu dịch, chuyển vốn, chuyển lợi nhuận đầu tư về nước... Phương thức nhờ thu - Collection. Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh toán trong đó người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng sẽ ký phát hối phiếu uỷ thác cho Ngân hàng thu hộ tiền trên cơ sở hối phiếu đã lập ra. Có hai loại nhờ thu: nhờ thu trơn (Clean collection) và nhờ thu kèm chứng từ (Documentary collection). Trong phương thức nhờ thu trơn, người xuất khẩu sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng sẽ lập chứng từ hàng hoá gửi trực tiếp chứng từ cho người nhập khẩu để họ nhận hàng, sau đó gửi hối phiếu đến Ngân hàng nhờ thu tiền. Phương thức này không đảm bảo quyền lợi cho bên bán bởi vì giữa việc nhận hàng và thanh toán của người mua không có một sự ràng buộc nào. Người mua có thể nhận hàng rồi không chịu thanh toán hoặc kéo dài thời gian thanh toán. Khác nhờ thu trơn, nhờ thu kèm chứng từ là phương thức thanh toán trong đó, bên bán uỷ nhiệm cho Ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền ở người mua không chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá gửi kèm theo, với yêu cầu là Ngân hàng chỉ trao bộ chứng từ hàng hoá cho người mua sau khi họ đã thanh toán tiền (nếu là phương thức D/P - Documentary against Payment - Trả tiền trao chứng từ) hoặc ký chấp nhận trả tiền (nếu là phương thức D/A - Documentary against Acceptance - Chấp nhận trả tiền trao chứng từ). Như vậy, so với nhờ thu trơn, phương thức này đảm bảo quyền lợi cho bên bán hơn vì đã có sự ràng buộc chặt chẽ giữa việc thanh toán tiền và việc nhận hàng của người mua. Nhược điểm của phương thức nhờ thu là người bán thông qua Ngân hàng mới chỉ khống chế được quyền định đoạt hàng hoá của người mua chứ chưa khống chế được việc trả tiền của người mua, người mua có thể kéo dài thời gian thanh toán bằng việc dây dưa chưa nhận chứng từ sớm hoặc có thể không trả tiền nếu tình hình thị trường bất lợi cho họ, hoặc người mua gặp khó khăn về tài chính, chưa thể thanh toán ngay. Ngoài ra, việc trả tiền còn quá chậm, từ khi giao hàng đến khi được thanh toán có khi kéo dài hàng tháng, thậm chí hàng năm. Trong phương thức này, Ngân hàng chỉ đóng vai trò là người trung gian thu tiền hộ mà không có trách nhiệm gì khác. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ - Documentary credit. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó một Ngân hàng (Ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó, khi người này xuất trình cho Ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán, phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng. Như đã phân tích ở trên, phương thức chuyển tiền và phương thức nhờ thu có một số những nhược điểm như vậy. Chính vì thế mà trong số những phương thức thanh toán trên thì Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức phổ biến nhất được các bên tham gia hợp đồng ngoại thương ưa chuộng vì nó bảo vệ quyền lợi cho cả người bán và người mua. Hiện nay ở Việt Nam và các nước đang phát triển, tỷ trọng thanh toán bằng L/C chiếm khoảng 80% trong tổng kim ngạch hàng hoá XNK. 1.2. Nội dung thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của NHTM. 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ. 1.2.1.1. Khái niệm. Tín dụng chứng từ là bất kỳ một thoả thuận nào mà theo đó một Ngân hàng (Ngân hàng phát hành) hành động theo yêu cầu và theo chỉ thị của một khách hàng (người yêu cầu phát hành tín dụng) hoặc nhân danh chính mình. i. Phải tiến hành việc chi trả tiền hoặc trả tiền theo lệnh của một người thứ ba (người hưởng lợi) hoặc phải chấp nhận và phải trả tiền các hối phiếu do người hưởng lợi ký phát, hoặc ii. Uỷ quyền cho một Ngân hàng khác tiến hành thanh toán như thế hoặc chấp nhận và trả tiền các hối phiếu như thế, hoặc iii. Uỷ quyền cho một Ngân hàng khác chiết khấu khi (các) chứng từ quy định được xuất trình với điều kiện là các điều kiện của tín dụng chứng từ được thực hiện đúng. Để thực hiện các mục đích của các điều kiện này, các chi nhánh của một Ngân hàng ở các nước khác nhau được coi là Ngân hàng khác. 1.2.1.2. Đặc điểm. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (Documentary Credit - D/C) được thực hiện thông qua một công cụ hết sức quan trọng đó là thư tín dụng (Letter of Credit - L/C) nó quyết định đến sự ra đời tồn tại và phát triển của phương thức thanh toán này. Điều 3 trong “Quy tắc và thống nhất về tín dụng chứng từ” bản sửa đổi năm 1993 số 500 của Phòng thương mại quốc tế (UCP 500), qui định: “Các thư tín dụng về bản chất là những giao dịch riêng biệt với hợp đồng này có thể làm cơ sở cho L/C, nhưng các Ngân hàng không hề có liên quan gì hoặc không hề bị ràng buộc bởi những hợp đồng đó, thậm chí ngay cả khi có bất kỳ một điều dẫn chiếu nào đến hợp đồng đó được ghi vào L/C” 8Như vậy một L/C có những đặc điểm sau: - Hợp đồng mua bán là cơ sở để thiết lập thư tín dụng. Đây là một đặc trưng rất cơ bản đối với một thư tín dụng vì: + Việc áp dụng phương thức thanh toán bằng L/C phải được hai bên mua và bán thống nhất, và được quy định trong hợp đồng mua bán. Khi hợp đồng quy định áp dụng L/C thì người mua mới có trách nhiệm yêu cầu Ngân hàng mở L/C cho người bán hưởng. Sau khi L/C đã được mở và được người bán chấp nhận, nghĩa vụ giao hàng mới được người bán thực hiện. + Về bản chất L/C là một chứng thư thể hiện cam kết của Ngân hàng phục vụ người mua đối với người bán về nghĩa vụ trả tiền theo quy định trong điều khoản thanh toán của hợp đồng mua bán. Vì vậy L/C phải được mở trên cơ sở nội dung của hợp đồng. Căn cứ vào nội dung hợp đồng mua bán, người mua gửi yêu cầu mở L/C cho Ngân hàng đã được hai bên chỉ định trong hợp đồng. Trong trường hợp hợp đồng không quy định, người mua có quyền lựa chọn một Ngân hàng thích hợp. + Người bán có trách nhiệm kiểm tra khi nhận được L/C căn cứ vào nội dung của hợp đồng mua bán mà hai bên đã thống nhất. Khi nội dung của L/C phù hợp với nội dung của hợp đồng mua bán thì người bán sẽ thực hiện nghĩa vụ giao hàng của mình. Trong trường hợp có những điều kiện và điều khoản chưa phù hợp thì người bán có quyền yêu cầu người mua sửa đổi L/C cho phù hợp với hợp đồng trước khi giao hàng. + Trong quá trình thực hiện, nếu hợp đồng mua bán được hai bên thống nhất điều chỉnh thì việc sửa đổi L/C cũng phải được tiến hành cho phù hợp với những điều chỉnh của hợp đồng chính đã điều chỉnh. - Sau khi ra đời, thư tín dụng hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Đặc trưng này có thể giải thích như sau: + Khi người bán xuất trình bộ chứng từ phù hợp với L/C sẽ được Ngân hàng phát hành trả tiền, còn bộ chứng từ ấy có phù hợp với hợp đồng hay không Ngân hàng không chịu trách nhiệm. + Một số hợp đồng mà nội dung của nó không thể phản ánh đầy đủ vào L/C, ví dụ điều khoản về quy cách phẩm chất thì được bản quy tắc dẫn chiếu trong hợp đồng. Trong trường hợp này Ngân hàng cũng chỉ căn cứ vào nội dung của L/C mà không căn cứ vào nội dung của hợp đồng. + Người mua và Ngân hàng phát hành từ chối trả tiền cho người bán chỉ căn cứ vào chứng từ có phù hợp với L/C hay không chứ không căn cứ vào chứng từ có phù hợp với hợp đồng hay không. + Nếu sửa đổi hợp đồng mà không sửa đổi L/C thì Ngân hàng vẫn chỉ căn cứ vào L/C để thực hiện nghĩa vụ của mình, không quan tâm đến hợp đồng nói trên. Ngược lại thông qua Ngân hàng để sửa đổi L/C nhưng không quan tâm sửa đổi hợp đồng, đến khi xuất trình bộ chứng từ tuy phù hợp với hợp đồng nhưng trái với L/C thì Ngân hàng phát hành vẫn có quyền từ chối trả tiền bộ chứng từ đó. + Trường hợp hợp đồng đã bị huỷ bỏ nhưng L/C vẫn còn hiệu lực thì Ngân hàng vẫn còn trách nhiệm đối với L/C đó, trách nhiệm này chỉ được huỷ bỏ khi người được hưởng là người đề nghị huỷ bỏ và phải có sự đồng ý của người yêu cầu mở L/C. Những đặc điểm trên đây của L/C đã tạo cho L/C có những đặc thù riêng có và tạo ra lợi thế mà các phương thức thanh toán khác không có được. ƒ Các bên tham gia trong Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Người xin mở thư tín dụng, người nhập khẩu, người mua trong thư tín dụng gọi chung là “The appicant for the credit”. - Người hưởng lợi thư tín dụng, người xuất khẩu, người bán hay bất cứ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định trong thư tín dụng gọi chung là “Beneficiary”. - Ngân hàng phát hành thư tín dụng (The Issuring Bank, The Opening Bank) là Ngân hàng đại diện cho nhà nhập khẩu, cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu. Ngân hàng phát hành thường có địa điểm tại nước người nhập khẩu. Nó chịu trách nhiệm phát hành L/C và chịu trách nhiệm trả tiền cho người thụ hưởng; có thể uỷ quyền cho Ngân hàng khác trả tiền thay, chấp nhận trả hộ hoặc chiết khấu hộ hối phiếu, và có trách nhiệm hoàn trả cuối cùng cho các Ngân hàng mà nó uỷ quyền. - Ngân hàng thông báo thư tín dụng (The Advising Bank) là Ngân hàng ở nước người thụ hưởng. Nó đảm bảo quyền lợi và đại diện quyền lợi cho người bán. Ngoài ra trong qúa trình thương lượng, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ còn xuất hiện các bên: + Ngân hàng xác nhận L/C (The Confirming Bank) là Ngân hàng đứng ra xác nhận L/C do Ngân hàng phát hành mở ra; xác nhận khả năng thanh toán của Ngân hàng phát hành; hoặc xác nhận theo yêu cầu của người bán. + Ngân hàng chiết khấu bộ chứng từ (The Negotiating Bank) là Ngân hàng có thể được thoả thuận hoặc không trong L/C, có nhiệm vụ đứng ra chiết khấu hoặc mua lại tất cả các hối phiếu do người hưởng lợi ký phát. + Ngân hàng thanh toán (The Paying Bank) xuất hiện khi Ngân hàng phát hành uỷ quyền cho nó và trách nhiệm của Ngân hàng này giống Ngân hàng phát hành. Trong thực tế, Ngân hàng phát hành thường là Ngân hàng thanh toán và Ngân hàng thông báo thường cũng đảm nhận việc chiết khấu và xác nhận (nếu có yêu cầu của người thụ hưởng thông qua Ngân hàng phát hành). 1.2.2. Phương tiện được sử dụng trong thanh toán tín dụng chứng từ. 1.2.2.1 Các loại thư tín dụng. Trong thanh toán quốc tế có thể áp dụng nhiều hình thức thanh toán khác nhau, mỗi hình thức thanh toán có những rủi ro riêng với người mua, người bán và Ngân hàng. Vì vậy, đối với thanh toán theo phương thức L/C người ta phân ra nhiều loại L/C khác nhau, theo mỗi loại thì quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia cũng khác nhau. Dưới đây là một số L/C đang được sử dụng rộng rãi: - L/C không huỷ ngang (Irrevocable L/C): là loại L/C mà sau khi đã được mở thì Ngân hàng phát hành không được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ trong thời hạn hiệu lực của L/C, trừ khi có sự thoả thuận khác của các bên tham gia L/C. Hiện nay loại L/C này được dùng rất phổ biến trên thế giới. - L/C huỷ ngang (Revocable L/C): là loại L/C mà Ngân hàng phát hành có thể được sửa đổi hoặc huỷ bỏ tại bất cứ thời điểm nào mà không cần thông báo trước cho người hưởng lợi, nhưng muốn sửa đổi, huỷ bỏ phải tiến hành trước khi người hưởng lợi thực hiện L/C và xuất trình bộ chứng từ cho Ngân hàng thông báo. - L/C không huỷ ngang và không có xác nhận (IrevocableL/C without confirm): L/C không huỷ ngang được coi là không có xác nhận khi được thông báo cho người hưởng lợi qua một Ngân hàng khác và không có sự cam kết nào khác về phía Ngân hàng phát hành L/C. - L/C không huỷ ngang và có xác nhận (Irrevocable confirmed L/C): là loại L/C không thể huỷ bỏ mà nhà xuất khẩu ngoài sự đảm bảo thanh toán theo cam kết của Ngân hàng khác có uy tín hơn đảm bảo trả tiền theo yêu cầu của Ngân hàng mở. Thực tế loại L/C này ít được sử dụng vì nó làm giảm uy tín của Ngân hàng mở L/C. - L/C không huỷ ngang miễn truy đòi (Irrevocable without recourse L/C): là loại L/C mà sau khi người hưởng lợi đã được trả tiền thì Ngân hàng phát hành L/C không có quyền đòi lại tiền người hưởng lợi trong bất cứ trường hợp nào. L/C này cũng được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế. - L/C chuyển nhượng (Tranferable L/C): là loại L/C không thể huỷ bỏ, trong đó quy định quyền của người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu Ngân hàng phát hành L/C chuyển nhượng quyền thực hiện L/C cho một hay nhiều người khác (gọi là người hưởng lợi thứ hai). L/C chuyển nhượng chỉ được chuyển nhượng một lần và chi phí chuyển nhượng thường do người hưởng lợi đầu tiên chịu. - L/C tuần hoàn (Revolving L/C): là loại L/C không thể huỷ bỏ, sau khi sử dụng xong thì nó tự động có giá trị như cũ, và cứ như vậy cho đến khi nào tổng giá trị hợp đồng được thực hiện. L/C tuần hoàn thường được sử dụng khi các bên tin cậy nhau, mua hàng thường xuyên theo định kỳ, khối lượng lớn và trong thời gian dài. - L/C giáp lưng (Back to back L/C): Sau khi nhận được L/C do nhà nhập khẩu mở cho mình, người xuất khẩu dùng L/C này để thế chấp mở một L/C cho người hưởng lợi khác hưởng với nội dung gần giống L/C ban đầu, L/C mở sau gọi là L/C giáp lưng. - L/C đối ứng (Reciprocal L/C): là loại L/C chỉ bắt đầu có hiệu lực khi L/C kia đối ứng với nó đã mở ra. Loại này thường được sử dụng trong phương thức mua bán hàng đổi hàng. - L/C điều khoản đỏ (Red clause L/C): là loại L/C trong đó quy định một điều khoản đặc biệt - uỷ nhiệm cho Ngân hàng thông báo hoặc Ngân hàng xác nhận ứng trước tiền cho người hưởng trước khi xuất trình chứng từ. L/C dự phòng (Stand-by L/C): Việc Ngân hàng mở L/C đứng ra thanh toán tiền hàng cho người xuất khẩu là thuộc khái niệm trước đây về tín dụng chứng từ, nhưng trong thời đại ngày nay không loại trừ khả năng người xuất khẩu nhận được L/C nhưng không có khả năng giao hàng. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi của nhà nhập khẩu, Ngân hàng của người xuất khẩu sẽ phát hành một L/C trong đó cam kết với nhà nhập khẩu sẽ thanh toán lại cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo L/C đã đề ra - đó gọi là L/C dự phòng. - L/C trả chậm (Deferred payment L/C): là L/C không thể huỷ bỏ, trong đó Ngân hàng phát hành L/C hay là Ngân hàng xác nhận L/C cam kết với người hưởng lợi sẽ thanh toán (hoặc dần dần) toàn bộ số tiền của L/C tại một (hoặc những) thời điểm xác định trong tương lai, (những) thời điểm này đã được xác định cụ thể trong L/C. 1.2.2.2 Nội dung chủ yếu của một thư tín dụng. * Số hiệu, địa điểm và ngày mở L/C. - Tất cả các L/C đều phải có số hiệu riêng của nó. Tác dụng của nó để phân biệt giữa các loại L/C khác nhau, nhằm tạo điều kiện thuận tiện trong việc trao đổi thông tin giữa các bên có liên quan trong quá trình giao dịch, thanh toán. Số hiệu này cũng được dùng để ghi vào các chứng từ liên quan trong bộ chứng từ thanh toán. - Địa điểm mở L/C là nơi Ngân hàng mở L/C viết cam kết trả tiền cho người xuất khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn luật pháp áp dụng để giải quyết những bất đồng xảy ra (nếu có). - Ngày mở L/C là ngày bắt đầu phát sinh và có hiệu lực về cam kết của Ngân hàng mở thư tín dụng đối với người xuất khẩu; là ngày Ngân hàng mở chính thức chấp nhận đơn xin mở thư tín dụng của nhà nhập khẩu; là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của thư tín dụng và cũng là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem nhà nhập khẩu có thực hiện việc mở thư tín dụng đúng thời hạn như thoả thuận trong hợp đồng thương mại không. * Loại thư tín dụng : Đây là một nội dung quan trọng của một L/C, vì mỗi loại L/C có tính chất và nội dung khác nhau. Do đó, khi mở L/C, người yêu cầu mở phải xác định cụ thể loại L/C cần mở. * Tên, địa chỉ các bên liên quan đến L/C. Các bên liên quan đến L/C được chia làm hai bên: ° Các thương nhân: người nhập khẩu (người yêu cầu mở L/C) và người xuất khẩu (người hưởng lợi). ° Các Ngân hàng liên quan: Ngân hàng mở L/C, Ngân hàng thông báo, Ngân hàng xác nhận (nếu có). * Số tiền của L/C: - Số tiền của L/C phải vừa được ghi bằng số, vừa phải được ghi bằng chữ và phải thống nhất với nhau. - Tên của đơn vị tiền tệ phải được ghi rõ ràng. - Trị giá của L/C phải phản ánh trị giá của lô hàng giao theo hợp đồng. Tuy nhiên, cần phải chú ý đến khả năng thực hiện việc giao hàng. Bởi lẽ, đối với một số mặt hàng rời như quặng, than, gỗ, gạo... số lượng hàng giao khó có thể chính xác như L/C qui định, từ đó có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của lô hàng. Do đó, để tránh tình trạng này, một L/C có thể cho phép dung sai trong số tiền cũng như số lượng hàng giao. Tuy nhiên, UCP 500 đã tránh tình trạng này bằng việc quy định đối với các loại hàng rời, nếu L/C không quy định cụ thể thì số lượng hàng giao vẫn được phép dung sai 5%, miễn là không vượt quá giá trị L/C. Do đó, một L/C nên ghi số tiền tối đa và cho phép dung sai, thì người xuất khẩu sẽ dễ dàng hơn trong việc thực hiện L/C. * Thời hạn hiệu lực, thời hạn xuất trình chứng từ, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng. - Thời hạn hiệu lực của L/C là thời hạn mà Ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ thanh toán trong thời hạn đó và phù hợp với điều kiện của L/C. Thời hạn hiệu lực của L/C bắt đầu từ ngày mở L/C (date of issue) đến ngày hết hiệu lực của L/C (date of expiry). - Thời hạn xuất trình chứng từ là khoảng thời gian người xuất khẩu được sử dụng để hoàn tất bộ chứng từ để gửi đi thanh toán. Thông thường thời hạn này được tính cụ thể là một số ngày nhất định sau ngày giao hàng. Việc xuất trình chứng từ của người xuất khẩu, không những phải nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C mà còn phải tuân theo thời hạn xuất trình được phép. - Thời hạn trả tiền phụ thuộc vào qui định của hợp đồng. Nếu việc đòi tiền bằng hối phiếu thì thời hạn trả tiền được qui định ở yêu cầu k._.ý phát hối phiếu. Ví dụ: “Available against presentation of draft at sight on Bank X” (thanh toán khi xuất trình hối phiếu trả ngay). Thời hạn trả tiền có thể nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C nếu là trả tiền ngay, hoặc có thể nằm ngoài thời hạn hiệu lực của L/C nếu là L/C trả chậm. Nhưng những hối phiếu có kỳ hạn vẫn phải được xuất trình để chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của L/C. - Thời hạn giao hàng cũng được qui định rõ trong L/C và do hợp đồng mua bán qui định. Thời hạn giao hàng có quan hệ chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của L/C. ngày giao hàng phải nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C và không đựơc trùng với ngày hết hạn hiệu lực của L/C. Ngày mở L/C phải trước ngày giao hàng một thời gian hợp lý, không được trùng với ngày giao hàng. * Những nội dung về hàng hoá: Tên hàng hoá, số lượng, trọng lượng, qui cách phẩm chất, giá cả, bao bì , kí hiệu... cũng được qui định cụ thể trong L/C. * Những nội dung về vận tải giao nhận hàng hoá: Các điều kiện cơ sở giao hàng (FOB, CIF,C&F...), nơi gửi hàng, cách vận chuyển, cách giao hàng... cũng được qui định cụ thể trong L/C. * Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình. Đây là nội dung then chốt của L/C, bởi vì bộ chứng từ thanh toán qui định trong L/C là bằng chứng của người xuất khẩu chứng minh rằng mình đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và làm đúng như điều kiện của L/C. Đó là căn cứ để yêu cầu Ngân hàng mở L/C thanh toán tiền hàng. Do đó, yêu cầu khắt khe của việc thực hiện thanh toán bằng phương thức này là sự phù hợp hoàn toàn của các chứng từ với tất cả các điều kiện của L/C. Chứng từ phải thoả mãn ba yêu cầu: số loại chứng từ, số lượng mỗi loại và yêu cầu về việc ký phát chứng từ đó như thế nào. Thông thường một bộ chứng từ bao gồm: - Hối phiếu (Draft of Exchange). - Hoá đơn (Commercial Invoice). - Chứng từ vận tải (Bill of Lading). - Hợp đồng bảo hiểm (Insurance Policy/ Certificate). - Chứng nhận xuất xứ (Certificate of Original). - Bản khai đóng gói hàng (Packing list). - Giấy chứng nhận chất lượng (Certificate of quality). -Giấy chứng nhận số lượng/ trọng lượng (Certificate of quantity/weight). - Các giấy chứng nhận phân tích (Certificate(s) of analysis) - Giấy chứng nhận kiểm dịch, kiểm nghiệm... * Sự cam kết trả tiền của Ngân hàng mở L/C. Điều khoản này ràng buộc trách nhiệm của Ngân hàng mở L/C đối với L/C này. * Những điều khoản đặc biệt khác. Ngoài những nội dung nêu trên, khi cần thiết, Ngân hàng mở L/C và người nhập khẩu có thể thêm những nội dung khác như cho phép đòi hoàn trả bằng điện, qui định thêm về đóng gói... Tuy nhiên, các Ngân hàng mở L/C được khuyến cáo rằng, không nên mở một L/C quá rườm rà bằng cách ghi thêm quá nhiều điều khoản phụ vào L/C. Những điều khoản phụ được coi là các điều khoản không chứng từ (non documents condition). * Chữ ký trên L/C hay mã khoá. L/C thực chất là cam kết trả tiền có điều kiện của Ngân hàng mở L/C. Vì vậy, người ký L/C phải là người có đủ năng lực hành vi, năng lực pháp lý để tham gia và thực hiện một quan hệ dân luật. Cho nên nếu L/C được mở và gửi cho người xuất khẩu bằng thư thì người ký nó phải là người có chữ ký uỷ quyền. Nếu L/C được gửi bằng điện telex thì L/C phải có mã khoá đúng với qui định giữa hai bên thì L/C mới có giá trị thực hiện. Văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ. Khác với hoạt động thanh toán nội địa, trong quan hệ thanh toán quốc tế, không chỉ đòi hỏi các chủ thể tuân thủ những quy định pháp lý quốc gia, mà còn phải tuân thủ cả những quy định pháp lý, các hiệp định, hiệp ước quốc tế, cũng như tập quán và thông lệ ở mỗi nước có quan hệ đối tác. Điều đó nhiều khi lại gây trở ngại cho thương mại quốc tế vì mỗi quốc gia lại có hệ thống pháp luật, tập quán riêng và thể chế chính trị khác biệt. Vì vậy, cần phải có những qui định mang tính thống nhất cho tất cả các quốc gia tham gia thanh toán tín dụng chứng từ. Bản “Qui tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ của phòng thương mại quốc tế” (The Uniform customer and practice for documentary credits, ICC) - UCP ra đời là sự tất yếu của sự phát triển thanh toán quốc tế bằng L/C. UCP là tập quán quốc tế thống nhất điều chỉnh về tín dụng chứng từ. UCP không phải là luật quốc tế mà chỉ là những qui tắc được ấn hành bởi ICC - một Tổ chức phi Chính phủ có ảnh hưởng sâu rộng, đặc biệt là trong lĩnh vực Thương mại - Tài chính - Ngân hàng trên thế giới. Việc UCP được chấp nhận một cách rộng rãi trên thế giới là một mô tả đầy sức thuyết phục về khả năng của giới kinh doanh ở các nước có hệ thống pháp luật khác nhau có thể áp dụng các cơ chế thực tiễn của mình vào việc tiến hành mua bán. Kể từ ngày ra đời vào năm 1933 cho đến nay, UCP đã qua 5 lần sửa đổi vào các năm 1951, 1962, 1974, 1983 và 1993 với mục đích theo kịp sự phát triển chung của nền kinh tế, nền công nghiệp vận tải và truyền thông trên thế giới. Hiện nay, hầu hết các nước đều sử dụng UCP ấn bản số 500 - năm 1993 (Gọi tắt là UCP 500). ở Việt Nam việc áp dụng UCP 500 trong các tổ chức tín dụng, Ngân hàng được phép thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế gần như tuyệt đối mà không bị bất kỳ sự điều chỉnh nào, chỉ đến khi có các vụ việc phát sinh cụ thể thì toà án mới can thiệp. Cho đến nay, nước ta vẫn chưa có văn bản quy định nào, hướng dẫn áp dụng UCP và các thông lệ khác trong giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu bằng L/C để các NHTM áp dụng vào thực tế. Các văn bản như vậy rất cần thiết không chỉ đối với Ngân hàng mà còn là cơ sở để toà án, trọng tài áp dụng khi xét xử các vụ án tranh chấp giữa các đối tác trong giao dịch tín dụng chứng từ. Bên cạnh đó, do sự khác biệt về địa lý giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu, do sự biến động về tỷ giá tiền tệ trong điều kiện lạm phát đang trở thành hiện tượng phổ biến ở các nước như hiện nay, sự biến động về lãi suất, năng lực tài chính của chủ thể tham gia các hoạt động trao đổi, mua bán ngoại thương có thể đẩy họ phải đối phó với các rủi ro, ảnh hưởng tới lợi ích của các bên xuất phát từ việc thanh toán tiền hàng hoá xuất nhập khẩu và các dịch vụ đối ngoại cung ứng. Từ đó, các chủ thể phải quan tâm tới các điều kiện như: _ Điều kiện về tiền tệ và đảm bảo ngoại hối. _ Điều kiện về thời gian thanh toán. _ Điều kiện về địa điểm thanh toán. _ Điều kiện về phương thức thanh toán. Trong đó, phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng nhất, tuy nhiên xét cho cùng việc lựa chọn phương thức nào cũng xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu được tiền nhanh chóng, đầy đủ đúng hạn, còn yêu cầu của người mua là nhận hàng kịp thời đúng số lượng và chất lượng. 1.2.4 Quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ. Thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến và áp dụng rộng rãi nhất nhờ rất nhiều ưu điểm của nó. Hình thức thanh toán này được sử dụng rộng rãi đối với các thị trường đang phát triển như Việt Nam. Trong phương thức tín dụng chứng từ, thư tín dụng là một công cụ hết sức quan trọng, nó quyết định đến sự ra đời, tồn tại và phát triển của phương thức thanh toán này. Dưới đây là trình tự tiến hành nghiệp vụ thanh toán bằng L/C. Sơ đồ : Quy trình nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ. (6) (5) (2) Ngân hàng mở L/C Ngân hàng thông báo (6) (5) (3) (8) (7) (1) (4) Người nhập Khẩu Người xuất Khẩu HĐTM Bước 1: Người nhập khẩu viết đơn xin mở thư tín dụng và gửi tới Ngân hàng phục vụ mình yêu cầu mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng. Bước 2: Căn cứ vào yêu cầu và nội dung của đơn xin mở thư tín dụng, Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu sẽ lập một L/C và thông báo qua Ngân hàng đại lý của mình ở nước ngoài để thông báo việc mở thư tín dụng và chuyển thư tín dụng đến người xuất khẩu. Bước 3: Khi nhận được thông báo của Ngân hàng mở thư tín dụng, Ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở thư tín dụng đó. Khi nhận được bản gốc L/C do Ngân hàng mở chuyển đến, nếu L/C được mở bằng thư (mail) thì trước hết, Ngân hàng thông báo phải kiểm tra mẫu chữ ký xác thực, nếu đúng thì chuyển L/C cho người xuất khẩu; nếu L/C được mở bằng điện thì Ngân hàng thông báo phải kiểm tra mã điện (testkey), sau đó, khẩn trương chuyển L/C đó thông báo cho người xuất khẩu. Bước 4: Người xuất khẩu kiểm tra kỹ nội dung của L/C xem các điều khoản có phù hợp với nội dung của hợp đồng đã ký kết hay không. Nếu phù hợp thì người xuất khẩu tiến hành làm thủ tục giao hàng cho nhà nhập khẩu. Trong trường hợp người xuất khẩu phát hiện ra một số chi tiết không hợp lý hoặc sai sót trong L/C thì phải trực tiếp thông qua Ngân hàng mở L/C đề nghị nhà nhập khẩu sửa đổi, bổ sung thư tín dụng cho phù hợp. Mọi nội dung sửa đổi chỉ có hiệu lực khi và chỉ khi có sự xác nhận của Ngân hàng mở L/C. Văn bản sửa đổi sẽ trở thành một bộ phận cấu thành không thể tách rời L/C cũ. Bước 5: Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ đầy đủ theo quy định và gửi tới Ngân hàng phục vụ mình đề nghị thanh toán. Bộ chứng từ phải được gửi đến Ngân hàng trong thời gian quy định. Nếu xuất trình chậm trễ so với thời hạn quy định thì người xuất khẩu phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Bước 6: Ngân hàng thông báo kiểm tra sơ bộ bộ chứng từ, nếu phát hiện có sai sót thì yêu cầu người xuất khẩu khẩn trương sửa lại. Nếu bộ chứng từ phù hợp thì Ngân hàng lập lệnh đòi tiền gửi kèm bộ chứng từ đến Ngân hàng mở L/C. Ngân hàng này sẽ kiểm tra bộ chứng từ một lần nữa về số lượng chứng từ, tính hợp pháp của từng loại và sự phù hợp giữa các loại chứng từ, sau đó đối chiếu với từng điều khoản trong L/C. Nếu bộ chứng từ có sai sót thì Ngân hàng sẽ từ chối thanh toán. Ngược lại, nếu bộ chứng từ phù hợp thì Ngân hàng sẽ thanh toán cho người xuất khẩu. Bước 7: Ngân hàng phát hành L/C sau khi thanh toán cho người xuất khẩu sẽ thông báo cho nhà nhập khẩu biết là bộ chứng từ đã đến để người này đến Ngân hàng nhận bộ chứng từ để đi nhận hàng. Bước 8: Người nhập khẩu sẽ xem xét bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp thì thanh toán cho Ngân hàng hoặc chấp nhận thanh toán và nhận lại bộ chứng từ để đi nhận hàng. Nếu phát hiện bộ chứng từ có sai sót thì lúc này người nhập khẩu vẫn có quyền từ chối thanh toán cho Ngân hàng. Sau khi người nhập khẩu thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho Ngân hàng phát hành L/C và nhận lại bộ chứng từ thì quy trình nghiệp vụ thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ sẽ kết thúc nhưng quan hệ thương mại giữa hai bên xuất khẩu và nhập khẩu vẫn còn tiếp tục. Mọi tranh chấp thương mại sau này sẽ do hai bên tự giải quyết với nhau, các Ngân hàng lúc này coi như không còn liên quan gì nữa. Những nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của NHTM. Năng lực và đạo đức kinh doanh của các nhà xuất nhập khẩu. Đây là yếu tố quyết định sự suôn sẻ hay không của cuộc thanh toán quốc tế. Thanh toán sẽ diễn ra tốt đẹp khi mà các bên tham gia tôn trọng hợp đồng đã ký và thực hiện nghĩa vụ của mình trong cả chu trình đó. Người nhập khẩu là người có trách nhiệm trả tiền cho người xuất khẩu. Họ có nghĩa vụ phải thông qua Ngân hàng để mở thư tín dụng hợp lệ, chủ động trong việc thanh toán, nhận hàng, mua bảo hiểm, thuê tàu (nếu có)…Nếu người nhập khẩu, do năng lực hạn chế, không thực hiện tốt nghĩa vụ trên thì quá trình thanh toán diễn ra không thuận lợi. Tương tự, nếu người nhập khẩu không có thiện ý tốt, anh ta sẽ tìm mọi cách gây khó khăn cho Ngân hàng cũng như cho người xuất khẩu như bắt bẻ mọi sơ suất dù là nhỏ nhất để từ chối thanh toán hoặc kéo dài thời gian thanh toán hoặc tự ý phá bỏ hợp đồng bằng cách không đến Ngân hàng nhận bộ chứng từ để đi nhận hàng…Trong các trường trên thì quy trình thanh toán sẽ bị gián đoạn, ảnh hưởng tới quyền lợi của các bên. Đối với người xuất khẩu năng lực và hành vi của họ cũng ảnh hưởng nhiều tới quy trình thanh toán. Nghĩa vụ của người xuất khẩu là: kiểm tra thư tín dụng do người nhập khẩu mở, giao hàng đúng hợp đồng, lập bộ chứng từ phù hợp với các điều khoản của L/C…Trong đó, lập bộ chứng từ phù hợp là khâu gặp nhiều trở ngại nhất vì người xuất khẩu phải qua nhiều công đoạn thủ tục. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến trường hợp người xuất khẩu lập bộ chứng từ giả mạo, trốn tránh việc kiểm tra chất lượng hàng hoá của cơ quan có thẩm quyền để lừa gạt người nhập khẩu. Hoặc, người xuất khẩu không nghiêm túc khi thực hiện hợp đồng, lập bộ chứng từ phù hợp nhưng trong thực tế giao hàng lại không đúng với quy định trong hợp đồng. Từ đó, dẫn đến quá trình thanh toán bị chậm lại, thậm chí có khi phải huỷ bỏ hợp đồng đã ký. Như vậy năng lực và đạo đức kinh doanh của các bên có ảnh hưởng nhiều đến chất lượng thanh toán tín dụng chứng từ. Nếu người mua và người bán có kiến thức và kinh nghiệm trong thương mại quốc tế thì quy trình thanh toán trở nên nhanh chóng và thuận lợi hơn. Ngược lại, nếu một trong hai bên hoặc cả hai đều không có kinh nghiệm thì dễ bị đối phương lừa đảo hoặc dễ vi phạm các quy định thanh toán tín dụng chứng từ, dẫn đến làm cản trở cả quy trình thanh toán. Vì vậy, sự hiểu biết rộng, có kinh nghiệm và làm việc nghiêm túc của cả hai bên người xuất khẩu và người nhập khẩu là những yêu cầu cần thiết để thúc đẩy nhanh quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ . Trình độ của cán bộ Ngân hàng. Tham gia vào quy trình thanh toán, các Ngân hàng là những trung gian không thể thiếu được. Nếu là Ngân hàng phục vụ người mua thì Ngân hàng có trách nhiệm mở thư tín dụng, cam kết trả tiền cho người bán đồng nghĩa với việc Ngân hàng cấp cho người mua một khoản tín dụng. Vì vậy, trước khi phát hành L/C, Ngân hàng phải phân tích, đánh giá tình hình tài chính của người mua, xem hiệu quả hoạt động của họ như thế nào, có uy tín hay không, từ đó quyết định xem người mua có cần phải thực hiện điều kiện đảm bảo tiền vay hay không. Thực hiện các khâu trên đòi hỏi cán bộ Ngân hàng phải là những người có kinh nghiệm, có năng lực chuyên môn vững vàng, có khả năng phân tích và tổng hợp tốt.. để thu hút thêm khách hàng mới ngoài những khách hàng có uy tín và làm ăn lâu dài với Ngân hàng. Tương tự, nếu là Ngân hàng phục vụ người bán thì Ngân hàng có trách nhiệm thông báo thư tín dụng cho người xuất khẩu và tiếp nhận bộ chứng từ từ người này. Với trách nhiệm là Ngân hàng được uỷ thác thanh toán, Ngân hàng này phải đặc biệt lưu ý khâu kiểm tra tính hợp lý của bộ chứng từ. Vì đây là khâu quyết định xem người bán có thực hiện thanh toán hay không nên cán bộ phụ trách klhâu này phải hết sức cẩn thận, làm việc tập trung và có trách nhiệm. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp do trình độ của cán bộ Ngân hàng hạn chế làm cho quy trình thanh toán bị chậm lại. Chẳng hạn như, các điều khoản trong L/C thường được thể hiện bằng ngôn ngữ nước ngoài nên nếu trình độ cán bộ Ngân hàng hạn chế thì sự hiểu lầm là điều không thể tránh khỏi. Hay như trong khâu kiểm tra bộ chứng từ do người bán gửi đến, cán bộ Ngân hàng kiểm tra quá lâu vừa gây chậm trễ thanh toán cho người xuất khẩu, làm ảnh hưởng đến chất lượng hàng hoá và kế hoạch sử dụng vốn của người xuất khẩu. Có thể nói bản thân các Ngân hàng tham gia có ảnh hưởng lớn đến sự nhanh chậm của quá trình thanh toán, trong đó, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như phong cách phục vụ khách hàng của cán bộ Ngân hàng là yếu tố quyết định. Đây là yếu tố phản ánh rõ nét nhất và ảnh hưởng sâu sắc nhất đến chất lượng của dịch vụ thanh toán quốc tế của Ngân hàng. Quan hệ đại lý của Ngân hàng. Nếu Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu và Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu có quan hệ đại lý thì sẽ giao dịch trực tiếp với nhau. Điều này sẽ giúp tiết kiệm chi phí cho khách hàng và rút ngắn thời gian thanh toán. Ngược lại, nếu các Ngân hàng không có quan hệ đại lý với nhau sẽ dẫn đến kéo dài thời gian thanh toán, làm tăng chi phí hoạt động. Như vậy, nếu các Ngân hàng thiết lập được quan hệ đại lý rộng rãi thì chất lượng thanh toán tín dụng chứng từ sẽ được nâng cao. Công nghệ thanh toán Ngân hàng. Đây là yếu tố phản ánh tính chất hiện đại và sự tiện lợi của hệ thống thiết bị, công nghệ kỹ thuật được sử dụng trong quy trình thanh toán quốc tế. Hệ thống công nghệ càng hiện đại thì quy trình thanh toán diễn ra càng nhanh, chất lượng càng được đảm bảo. Theo xu hướng hiện nay, các Ngân hàng chủ yếu thanh toán qua mạng viễn thông liên Ngân hàng quốc tế – SWIFT. Việc mở và thông báo L/C bằng SWIFT có tác dụng rút ngắn tối đa khoảng thời gian, tránh thất lạc tài liệu và đảm bảo thông tin được truyền đi một cách đầy đủ, chính xác. Trong khi đó, việc mở rộng và thông báo L/C bằng thư tuy có ưu điểm như chi phí thấp nhưng lại kéo dài thời gian của quy trình thanh toán, hơn nữa, khả năng thất lạc thư từ là điều có thể xảy ra. 1.2.5.5 Trình độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trình độ phát triển của một quốc gia cho biết sức mạnh và tầm cỡ của quốc gia đó trên trường quốc tế là như thế nào. Các nước phát triển là những nước có khối lượng giao dịch ngoại thương lớn. Do vậy, những người xuất khẩu và các Ngân hàng ở các nước này có nhiều kinh nghiệm nhất trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, ngoài ra, các Ngân hàng lại được trang bị bởi những thiết bị hiện đại nhất, tối tân nhất. Đương nhiên trong điều kiện như vậy thì chất lượng thanh toán tín dụng chứng từ sẽ hơn hẳn so với những nước kém phát triển hơn mà ở đó, các chủ thể tham, gia thiếu kinh nghiệm, năng lực cũng như các điều kiện khách quan bị hạn chế. Cho nên, trong thực tế, các vụ tranh chấp kiện tụng trong thanh toán tín dụng chứng từ chủ yếu xảy ra đối với những chủ thể thuộc các nước có trình độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Các nhân tố vĩ mô và các nhân tố bất khả kháng. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ được sử dụng chủ yếu trong thanh toán xuất nhập khẩu, mà quan hệ này lại phụ thuộc nhiều vào môi trường vĩ mô của hai nước xuất nhập khẩu như: chính trị, xã hội, môi trường kinh tế, tình hình an ninh… Bên cạnh đó, các chính sách kinh tế cũng như các chính sách quản lý của từng quốc gia đều có tác động ảnh hưởng mạnh mẽ, chẳng hạn như việc ban bố chính sách hạn chế nhập khẩu hay chính sách kiểm soát ngoại hối thắt chặt sẽ có tác động làm ảnh hưởng lớn đến quá trình thanh toán. Gía trị thanh toán xuất nhập khẩu được tính bằng ngoại tệ nên tỷ giá hối đoái thường xuyên biến động sẽ gây thiệt hại cho cả hai bên. Vì vậy, trong điều kiện các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội… ổn định thì chất lượng thanh toán tín dụng chứng từ sẽ được đảm bảo và ngược lại. Ngoài ra, phương thức tín dụng chứng từ còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bất khả kháng như bất kỳ một quan hệ kinh tế nào. Các hiện tượng như: chiến tranh, đình công, khủng bố, thiên tai, các vụ tấn công nhà băng… được coi là những trường hợp mà Ngân hàng có thể thoát khỏi trách nhiệm thanh toán cho người hưởng lợi, chấm dứt ngay quy trình thanh toán nhưng với thiệt hại thuộc về hầu như tất cả các bên. Nhìn một cách tổng quát, quy trình thanh toán tín dụng chứng từ bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố. Quy trình thanh toán này khá phức tạp và đòi hỏi sự nỗ lực và thiện chí của các bên tham gia. Để mở rộng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, chúng ta phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng để từ đó có thể điều chỉnh với khả năng tốt nhất của mình. Tóm tắt: Cùng với công cuộc đổi mới và phát triển nền kinh tế Đất nước, hoạt động đối ngoại của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua được mở rộng và phát triển đa dạng. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã chủ động, tích cực phát triển quan hệ với các định chế kinh tế - tài chính toàn cầu và khu vực, quan hệ song phương, quan hệ với các thị trường tài chính tiền tệ quốc tế và đã giành được uy tín và vị thế nhất định trong cộng đồng tài chính tiền tệ quốc tế, góp phần nâng cao và mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại của Đất nước. Cùng với sự phát triển đó, hoạt động thanh toán cũng phát triển theo. Trong số các phương thức thanh toán quốc tế đang được áp dụng hiện nay thì phương thức thanh toán L/C là phương thức thanh toán được áp dụng phổ biển trong thanh toán quốc tế, bởi lẽ đây là phương thức thanh toán dung hoà được quyền lợi giữa người mua và người bán. Với mục đích muốn đi sâu nghiên cứu nội dung của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ nên trong chương 1, em đã tập trung giải quyết các vấn đề như: các khái niệm, nội dung chủ yếu, đặc điểm và quy trình. Các nội dung trên có tác dụng làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản, mang tính lý luận liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ. Điều này củng cố cơ sở lý luận và là cơ sở để tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại TCB trong thời gian tới. Chương 2 Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHTMCP Kỹ Thương 2.1 Khái quát về hoạt động kinh doanh của NHTMCP Kỹ Thương. 2.1.1. Sự hình thành và phát triển của NHTMCP Kỹ Thương. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ Thương Việt Nam (Vietnam Technological and Commercial Joint Stock Bank-TCB), là một trong những Ngân hàng được thành lập sớm sau khi hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời. TCB chính thức hoạt động từ ngày 27 tháng 9 năm 1993 theo giấy phép số 0040/NH-GP do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 06/08/1993. Từ một Ngân hàng với số vốn điều lệ ban đầu chỉ có 20 tỷ đồng Việt Nam. Đến nay, sau gần 10 năm hoạt động, vốn điều lệ của TCB đã tăng lên gấp gần 6 lần là 117,870 tỷ đồng. Việc TCB tăng nhanh vốn điều lệ là nhờ vào sự tín nhiệm của khách hàng đối với Ngân hàng. Qúa trình tăng vốn cũng đồng thời với quá trình đại chúng hoá Ngân hàng, không chỉ với cổ đông mà còn đối với các khách hàng. Vốn điều lệ tăng nhanh đã giúp cho TCB có khả năng về tài chính để hiện đại hoá hoat động Ngân hàng cũng như tăng nhanh quy mô hoạt động. Cùng với việc tăng nhanh quy mô vốn tự có và vốn hoạt động, TCB đặc biệt quan tâm đến việc mở rộng địa bàn hoạt động. Hiện nay, Hội sở chính đặt tại 15 Đào Duy Từ Hà Nội. Tính đến ngày 31/12/2002, TCB đã có 14 điểm giao dịch bao gồm: Hội sở chính Hà Nội, 9 chi nhánh, 4 phòng giao dịch. Các điểm giao dịch của TCB đóng trên các địa bàn Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng. Như vậy, bước đầu TCB đã thực hiện được kế hoạch phát triển mạng lưới trên các địa bàn kinh tế trọng điểm trong cả nước để nâng cao khả năng phục vụ và mở rộng thị phần. Đối tượng của TCB thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau, chủ yếu là thuộc các lĩnh vực: Công nghiệp, Thương nghiệp, Dịch vụ, Giao thông vận tải, Xây dựng, nhằm để phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá và ổn định tiền tệ. Với phương châm “Chăm lo để bạn thành công”(Caring for your success) TCB đã thực sự góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển và thành đạt của các doanh nghiệp thông qua các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu sau: Sản phẩm và dịch vụ bán lẻ: + Các sản phẩm tiền gửi dành cho dân cư: tiết kiệm không kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm định kỳ. + Tín dụng dành cho cá nhân: cho vay kinh doanh hộ gia đình, cho vay cổ phần hoá, cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay “Nhà mới”, “Ô tô xịn”, cho vay “Du học nước ngoài” và “Du học tại chỗ”, cho vay tiêu dùng, cho vay cầm cố bằng sổ tiết kiệm và các chứng từ có giá. + Dịch vụ Ngân hàng: Thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển tiền nội địa, mua bán ngoại tệ, chuyển tiền kiều hối (TCB là đại lý của Western Union), chuyển tiền phi mậu dịch quốc tế. - Sản phẩm dịch vụ dành cho khách hàng doanh nghiệp: + Các sản phẩm tiền gửi: Tài khoản tiền gửi thanh toán, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn. + Tín dụng doanh nghiệp: Cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay trung dài hạn và cho vay đồng tài trợ. + Dịch vụ Ngân hàng trọn gói: dịch vụ chuyển tiền nội địa, bảo lãnh, thanh toán quốc tế, dịch vụ ngoại hối, chiết khấu chứng từ có giá, dịch vụ ngân quỹ và một số dịch vụ đặc biệt khác. Dịch vụ dành cho các địch chế tài chính: Dịch vụ trên thị trường liên Ngân hàng (giao dịch thông qua hệ thống Reuters tại Singapore, London, Tokyo, Frankfurt, Sydney), dịch vụ Ngân hàng đại lý. Dịch vụ Ngân hàng đầu tư: Dịch vụ tư vấn, dịch vụ uỷ thác. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế là nghiệp vụ đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng. Trong đó, phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ đang được mở rộng và phát triển. Với tập thể lãnh đạo đầy tâm huyết và đội ngũ nhân viên trẻ trung, ham học hỏi, phấn đấu vươn lên hoàn thiện mình kể từ khi đi vào hoạt động đến nay TCB đã và đang dần khẳng định vai trò một NHTMCP hàng đầu Việt Nam. 2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHTMCP Kỹ Thương trong thời gian qua. Bước vào thế kỷ 21, trong bối cảnh quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá các nền kinh tế diễn ra mạnh mẽ, cộng với sự suy thoái kinh tế mang tính toàn cầu sau các sự kiện đầy kịch tính ở Mỹ, Nga, Trung Đông, nước ta cũng không thể thoát khỏi những thách thức đầy cam go như các nước khác trong khu vực. Đầu tư nước ngoài giảm, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, giá cả hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam giảm dẫn đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng không đáng kể. Trong bối cảnh đó các Ngân hàng của Việt Nam ngoài việc phải luôn giữ được tốc độ tăng trưởng ổn định, lại còn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trong hệ thống Ngân hàng. Tại thời điểm hiện nay ở Hà Nội có: 4 NHTMQD, 48 NHTMCP, 4 NH liên doanh và 19 NH nước ngoài đang hoạt động. Mặc dù trong bối cảnh như vậy, NHTMCP Kỹ Thương vẫn nỗ lực không ngừng vươn lên đạt những kết quả đáng khích lệ - khẳng định vai trò một Ngân hàng cổ phần đô thị đa năng. Năm 2000, thị trường mở được khai trương hoạt động với tư cách là một công cụ tài chính quan trọng của chính sách tài chính tiền tệ sẽ góp phần điều hoà tiền tệ trên thị trường và tác dụng tích cực đối với vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, giúp các tổ chức này sử dụng vốn hiệu quả và linh hoạt hơn. Sau nhiều năm chuẩn bị, trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động và đang chuẩn bị khai trương sàn giao dịch thứ hai tại Hà Nội. Nền kinh tế nước nhà còn có nhiều khó khăn thử thách, đặc biệt với ngành tài chính Ngân hàng, nhưng những nét khởi sắc trong bức tranh kinh tế nước nhà đã tạo nên đà mới cho các doanh nghiệp và các Ngân hàng. TCB đã đạt những kết quả đáng khích lệ như: nguồn vốn không ngừng phát triển, TCB là Ngân hàng có thế mạnh trong kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế, đa dạng hoá các sản phẩm Ngân hàng. TCB đã vượt lên chính mình và có những bước phát triển tốt. 2.1.2.1. Tình hình huy động vốn. Năm 2001 là năm TCB đã có nhiều cố gắng để bổ sung hệ thống các sản phẩm từ dân cư, một số sản phẩm mới đã được phát triển để đáp ứng nhu cầu tiết kiệm đa dạng của khách hàng. Các sản phẩm như “tiết kiệm dài hạn” bằng Dollar Mỹ và tiết kiệm bằng Euro tuy mới tung ra thị trường nhưng đã thành công ở mức nhất định, góp phần điều chỉnh cơ cấu vốn của Ngân hàng mạnh hơn. Chiếm 64,4% trong tổng nguồn vốn huy động từ thị trường I của TCB - nguồn vốn huy động tiết kiệm đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của TCB. Trong những tháng đầu năm, dù lãi suất huy động ngoại tệ liên tục giảm song mức lãi suất đó vẫn tương đối cao so với cùng kỳ năm 2000, và vẫn hấp dẫn so với lãi suất huy động bằng VND. Vì vậy, 6 tháng đầu năm nguồn vốn huy động tiết kiệm của TCB đã tăng trưởng khá tốt. Tuy nhiên, việc liên tục giảm này bắt đầu từ tháng 8 và nhất là sau sự kiện ngày 11/9 tại Mỹ làm cho lãi suất huy động ngoại tệ giảm với tốc độ nhanh hơn 1,5%/năm, ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ huy động của TCB nhất là tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bảng 1: Tình hình huy động vốn của TCB . đơn vị: tỷ VND. Chỉ tiêu 31/12/2001 31/12/2002 Tăng giảm(+/-) Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng 1.Đồng Việt Nam 2.Ngoại tệ quy VND 1,477.95 751.97 66.28% 33.27% 2504.8 1,336.73 65.17% 34.83% 1,026.85 586.76 Tổng quy VND 2,229.92 100% 3,843.53 100% 1,613.61 (Nguồn: Báo cáo thường niên của TCB) Năm 2002, TCB tiếp tục đưa ra thị trường nhiều sản phẩm huy động mới, nhằm tăng tỷ trọng nguồn vốn huy động như hình thức thu tiền tại chỗ cho các Tổng công ty, các hệ thống siêu thị, các hãng bảo hiểm cũng như mở thêm nhiều hình thức gửi tiết kiệm như: “tiết kiệm phát lộc”, tiết kiệm tích luỹ. Nguồn vốn huy động trên thị trường liên Ngân hàng cũng tăng lên. Tính đến 31/12/2002, tổng nguồn vốn huy động đạt 3,843.53 tỷ đồng tăng 1,613.61 tỷ đồng, vượt kế hoạch 34,19% so với năm 2001. Vào thời điểm đó, mặc dù các Ngân hàng TMQD đồng loạt triển khai các loại trái phiếu có kỳ hạn và lãi suất hấp dẫn. Tuy nhiên, do việc điều chỉnh kịp thời về lãi suất huy động cũng như việc chủ động triển khai các sản phẩm huy động vốn đã phần nào hạn chế sự ảnh hưởng và tăng dần mức ảnh hưởng. Vì vậy, tổng nguồn vốn huy động vẫn hoàn thành và vượt kế hoạch đề ra. Chính sự tăng trưởng ổn định của nguồn vốn huy động đã khẳng định uy tín và tạo thế ổn định nguồn vốn lâu dài cho sự phát triển của TCB. 2.1.2.2 Tình hình sử dụng vốn. Trong khi, nền kinh tế thế giới đang tăng trưởng chậm lại rõ rệt, nền kinh tế một số nước phát triển như Nhật, Mỹ suy thoái. Tuy vậy nền kinh tế Việt Nam lại liên tục tăng trưởng qua các năm từ năm 98 và đến năm 2002, GDP của Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất là 7,04%. Đây là một động lực kích cầu các sản phẩm tín dụng của các Ngân hàng. Để chống chọi với khó khăn toàn thế giới và tận dụng cơ hội tăng trưởng của kinh tế Việt Nam, TCB đã triển khai hàng loạt kế hoạch: chuyển dịch cơ cấu khách hàng về phía doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển sản phẩm mới, nâng cấp đổi mới, tái cấu trúc cơ chế quản lý và bước đầu thiết lập hệ thống quản lý rủi ro tín dụng trong toàn hệ thống. Kết quả là, dư nợ cho của TCB đã không ngừng tăng lên tại hầu hết các chi nhánh trong hệ thống. Trong đó, tăng nhanh nhất là của Hội sở chính, tiếp đến là chi nhánh Thăng Long, Đà Nẵng...( xem bảng 2). Bảng 2: Dư nợ tín dụng của toàn hệ thống. đơn vị: tỷ VND Đơn vị 2000 2001 2002 Hội sở 353.20 658.83 860.31 TCB Hồ Chí Minh 348.71 527.46 457.88 TCB Thăng Long 105.88 149.49 210.63 TCB Đà Nẵng 42.95 86.09 132.18 TCB Hoàn Kiếm 0.00 0.00 298.55 TCB Chương Dương 0.00 0.00 46.80 TCB Thanh Khê 0.00 0.00 12.88 T._.i ngoại tệ lớn, thời hạn dài, Ngân hàng có quà tặng vào dịp lễ, tết... Đối với các trường hợp khác, khi có nhu cầu rút ngoại tệ trước hạn hoặc có nhu cấu vay ngoại tệ thì Ngân hàng nên đáp ứng một cách kịp thời, thủ tục thuận tiện với lãi suất hợp lý. Để thực hiện chính sách khách hàng đạt hiệu quả, TCB thường xuyên quán triệt, nhắc nhở đội ngũ cán bộ, thanh toán viên phải tích cực học tập nâng cao nhận thức, năng lực công tác, tạo lập phong cách giao tiếp hiện đại lịch sự. bTăng cường công tác tư vấn cho khách hàng. - Nếu doanh nghiệp là người xuất khẩu: Trước hết cần chú ý đến Ngân hàng phát hành, bởi Ngân hàng phát hành là người chịu trách nhiệm thanh toán. Nếu bộ chứng từ xuất trình đòi tiền Ngân hàng, mà Ngân hàng đó lại bị giải thể hay phá sản thì doanh nghiệp khó có thể thu được tiền; vì vậy, nên yêu cầu một Ngân hàng phát hành lớn, có uy tín (có thể tham khảo ý kiến của Ngân hàng phục vụ để doanh nghiệp lựa chọn Ngân hàng phát hành L/C). Doanh nghiệp có thể lựa chọn Ngân hàng phát hành là Ngân hàng nước ngoài có chi nhánh hoạt động tại Việt Nam, để có thể nắm bắt thông tin hoặc khi cần thiết, có thể có các biện pháp can thiệp; nếu cần thiết có thể yêu cầu một L/C do Ngân hàng Việt Nam xác nhận. Các điều khoản và điều kiện của L/C phải rõ ràng, dễ hiểu, bộ chứng từ yêu cầu xuất trình đơn giản, dễ lập. Trường hợp nội dung L/C mập mờ không rõ nghĩa hoặc L/C có những điều khoản và điều kiện khó thực hiện, chứng từ yêu cầu xuất trình khó có khả năng đáp ứng thì cần phải liên hệ ngay với người mua để có yêu cầu tu chỉnh. Doanh nghiệp không nên chủ quan chấp nhận một L/C khó có khả năng lập được một bộ chứng từ hoàn hảo chỉ vì người mua là khách hàng có tín nhiệm, bởi trên thực tế thương trường, khách hàng nay có thể tốt, có tín nhiệm nhưng mai có thể hoàn toàn ngược lạ. Các chứng từ liên quan đến việc nhận hàng của người mua nên đặt dưới sự kiểm soát của Ngân hàng, chẳng hạn như B/L nên lập theo lệnh của Ngân hàng phát hành, bởi vì nếu vận đơn được theo lệnh của Ngân hàng phát hành, người mua hàng cần phải được Ngân hàng phát hành ký hậu B/L hoặc bảo lãnh cho người mua đi nhận hàng thì Ngân hàng phát hành sẽ có trách nhiệm thanh toán cho người thụ hưởng kể cả trong trường hợp bộ chứng từ có sai sót. Việc vận đơn được lập theo lệnh của Ngân hàng phát hành còn hạn chế được rủi ro trong trường hợp vận đơn bị mất hoặc bị thất lạc, bởi nếu vận đơn lập theo lệnh Ngân hàng thì cho dù bất chấp vận đơn đó rơi vào tay ai, cũng không thể nhận được hàng hoá nếu không qua Ngân hàng phát hành. Trường hợp vận đơn lập theo lệnh của người mua hoặc vận đơn lập theo lệnh ký hậu để trống thì nói chung khá rủi ro, đặc biệt nếu một phần bộ vận đơn được gửi trực tiếp đến người mua, bởi người mua có thể nhận hàng mà hoàn toàn không gắn trách nhiệm với Ngân hàng phát hành; trong trường hợp đó, nếu bộ chứng từ xuất trình có sai sót sẽ bị Ngân hàng phát hành từ chối thanh toán mặc dù người mua đã nhận hàng. Trong trường hợp nếu vận đơn phải lập theo lệnh bắt buộc của người mua hoặc lập theo lệnh ký hậu để trống thì cả bộ vận đơn phải được gửi về Ngân hàng phát hành. - Doanh nghiệp là người nhập khẩu. Ngân hàng tham mưu cho khách hàng trong việc mở và thanh toán L/C. Ngân hàng có thể tư vấn cho doanh nghiệp về các điều khoản của hợp đồng. Ngân hàng có thể tư vấn về các điều kiện và điều khoản của L/C; giúp doanh nghiệp lập bộ chứng từ phù hợp với L/C hoặc kiểm tra sự phù hợp của bộ chứng từ cũng như giải quyết những tranh chấp phát sinh, nhờ đó mà doanh nghiệp có thể hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Nội dung L/C phải chặt chẽ rõ ràng, các chứng từ xuất trình phải rất cụ thể. Để tránh tình trạng không trung thực của người bán, bộ chứng từ thanh toán phải có một số chứng từ do bên thứ ba lập, chẳng hạn giấy chứng nhận chất lượng, nên yêu cầu nhà sản xuất phát hành, chứng nhận xuất xứ nên yêu cầu phòng công nghiệp Việt Nam phát hành... nếu giao hàng bằng đường biển, đường hàng không, đường sắt thì cần phải xuất trình vận đơn; nếu giao hàng bằng đường bộ thì nên yêu cầu xuất trình biên bản bản giao nhận hàng giữa người mua và người bán. Trong trường hợp nhập khẩu máy móc thiết bị, nếu phía nước ngoài yêu cầu phải đặt cọc thì giá trị đặt cọc chỉ nên ở mức 5% đến 10% giá trị hợp đồng. Chuyển tiền đặt cọc thì yêu cầu phải có bảo lãnh tiền đặt cọc, do một Ngân hàng có uy tín phát hành và cần phải được xác thực và thông báo qua một Ngân hàng tại Việt Nam (để tránh trường hợp thư bảo lãnh giả). Bảo lãnh phải cho phép đòi tiền vô điều kiện và có hiệu lực đến khi người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Đồng thời để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng cần yêu cầu có một bảo lãnh thực hiện hợp đồng với giá trị khoảng 10% đến 15% giá trị hợp đồng, bảo lãnh này phải cho phép đòi tiền vô điều kiện và có hiệu lực từ khi người mua phát hành L/C đến khi dây chuyền thiết bị đã được lắp đặt hoàn tất, đưa vào hoạt động và có biên bản nghiệm thu. Đối với L/C nhập các dây chuyền thiết bị, không nên tháo khoán cho người bán toàn bộ số tiền còn lại khi nhận được bộ chứng từ xuất trình theo L/C, mà nên giữ khoảng 10% giá trị hợp đồng cho đến khi có biên bản nghiệm thu và có bảo lãnh bảo hành. 3.2.3. Đa dạng hóa các hình thức L/C. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu và của Đất nước, với khả năng của mình, trong thời gian tới TCB tạm thời nên chú ý vào các nghiệp vụ sau: * Mở L/C trong nước: L/C trong nước được mở như nguyên tắc mở L/C giáp lưng (Back to back L/C). Việc hình thành loại L/C này tạo điều kiện thuận lợi để nhà sản xuất gián tiếp tiếp cận với xuất khẩu qua các đầu mối là các doanh nghiệp lớn chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp này sẽ thu mua hàng từ các doanh nghiệp sản xuất sau đó xuất ra nước ngoài. Như vậy, hiện nay số nhà xuất khẩu gián tiếp ở Việt Nam là rất lớn nhưng họ chưa được hưởng các nguồn tín dụng ưu đãi dành cho xuất khẩu. Bởi vậy việc đưa dịch vụ mở L/C trong nước, vốn không quá phức tạp là cấp bách nhằm đưa tín dụng nhiều hơn nữa tới các doanh nghiệp giúp họ khắc phục những khó khăn trong quá trình sản xuất hàng xuất khẩu * Đẩy mạnh dịch vụ mở L/C, chiết khấu L/C. Việc đẩy mạnh những hoạt động này sẽ giúp TCB có thêm nhiều khách hàng thanh toán L/C và thêm lợi nhuận từ việc thu phí. Để phát triển dịch vụ này, yêu cầu TCB phải thực hiện đồng bộ những biện pháp sau; Nghiên cứu kỹ về khách hàng, về tính khả thi của dự án, về thị trường nước nhập khẩu, Ngân hàng của nhà nhập khẩu. Trong quá trình thực hiện, TCB nên tư vấn cho khách hàng về loại mở L/C, thời hạn hiệu lực, thời hạn thanh toán, địa điểm thanh toán, loại tiền dùng để thanh toán. Để phát triển rộng rãi nghiệp vụ mở và chiết khấu L/C TCB nên quy định mức ký quỹ, mức phí phù hợp đối với mỗi khách hàng. Hiện nay, mức phí mở L/C của TCB < 0,1% tuy đã thấp hơn nhiều so với Ngân hàng khác (tối đa là 300 USD cho một L/C) nhưng vẫn nên hạ thấp hơn để thu hút thêm nhiều khách hàng có giao dịch vừa và lớn. Việc chiết khấu thường chỉ được thực hiện khi khách hàng có trong tay bộ chứng từ hoàn hảo, tức là họ đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Như vậy, vô hình chung nó đã làm giảm đi tính hấp dẫn vì cách thức này không hỗ trợ kịp thời cho nhà sản xuất khi họ cần vốn để mua hàng hoá, nhưng nếu cho người xuất khẩu vay trước khi giao hàng thì lại sai nguyên tắc và nguy cơ rủi ro cũng cao hơn. Do vậy, TCB có thể kết hợp cả hai hình thức chiết khấu và ứng trước tiền hàng. 3.2.4. Coi trọng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện phân phối thu nhập theo kết quả lao động. Có thể nói con người luôn giữ vai trò trọng tâm trong mọi hoạt động kinh tế xã hội. Do vậy, số lượng và trình độ nghiệp vụ của các thanh toán viên là một trong những vấn đề quyết định đảm bảo cho bộ chứng từ được thanh toán suôn sẻ và nhanh chóng, đảm bảo phục vụ khách hàng một cách tốt nhất và tăng khả năng cạnh tranh. Nhận thức được điều đó, TCB luôn coi trọng chú ý công tác đào tạo nhân sự, tích cực bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ và cần tiếp tục: Tiếp tục đào tạo và đào tạo lại đội ngũ thanh toán viên hiện có, đào tạo về mọi mặt nhất là chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học, trao đổi kiến thức về UCP 500 và các thông lệ liên quan khác... Nhiệm vụ đào tạo được chú trọng từ khâu tuyển dụng - sử dụng đề bạt, nên hàng năm TCB cần lập quy hoạch cán bộ và quản lý cán bộ theo kế hoạch. Cử người tham gia các cuộc hội thảo, hội nghị chuyên đề về thanh toán quốc tế trong và ngoài nước để tiếp cận với kiến thức mới. Tổ chức cán bộ đi học ở nước ngoài đề tiếp thu học hỏi kiến thức của họ. Tổ chức các đợt đi thăm quan các Ngân hàng bạn cả trong và ngoài nước để tiếp thu học hỏi những điểm mạnh và rút kinh nghiệm những điểm yếu của họ. Xây dựng môi trường làm việc tạo thuận lợi cho sự học hỏi công tác. Thực hiện thi đua lao động sáng tạo giữa các phòng ban. Thực hiện khuyến khích và động viên kịp thời về vật chất cũng như tinh thần một cách thoả đáng để cán bộ nhân viên phát huy tối đa khả năng sáng tạo. Thực hiện phân phối thu nhập theo kết quả lao động: Đưa ra một quy chế cho điểm rõ ràng, định mức lao động được giao cụ thể, có sự ràng buộc chỉ tiêu này với chỉ tiêu khác, cuối tháng mỗi người đối chiếu công việc của mình với quy chế cho điểm để tự đánh giá kết quả đồng thời Ngân hàng thực hiện bình xét phân phối kết quả cho từng người. Phân phối công bằng và hợp lý là động lực thúc đẩy mạnh mẽ mọi hoạt động của các thành viên. 3.2.5 Tiếp tục đầu tư mua sắm trang thiết bị, tài sản phục vụ hoạt động kinh doanh và hiện đại hoá công nghệ. Các xu hướng thương mại quốc tế trong thời gian qua cho thấy, những sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ kỹ thuật cao ngày càng thắng thế, nhất là trong trao đổi thương mại giữa các nước phát triển. Với cơ sở trang thiết bị hiện có TCB cần tiếp tục: Tập trung đầu tư các cơ sở hạ tầng cơ bản chuẩn bị bước phát triển mở rộng những năm tiếp theo. Đầu tư hạ tầng công nghệ với hệ thống tin học viễn thông hiện đại, đầu tư hệ thống trang thiết bị đồng bộ đảm bảo yêu cầu cầu làm việc cung ứng dịch vụ phục vụ khách hàng. Khai thác triệt để việc chuyển tiền và thanh toán qua mạng SWIFT, phấn đấu đẩy nhanh hơn nữa, đảm bảo giao dịch nhanh chóng chính xác an toàn và hiệu quả. Thường xuyên cập nhật kỹ thuật hiện đại về SWIFT. Triển khai chương trình phần mềm Globus dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng giám đốc đã tích cực phối hợp với Công ty Temenus để thực hiện kế hoạch này. Để thực hiện thành công chương trình phần mềm Globus. TCB và Công ty Temenos cùng khảo sát và phân tích yêu cầu của nghiệp vụ trong các hoạt động của TCB. Điều chỉnh chương trình Globus phù hợp với yêu cầu nghiệp vụ của TCB. Trên cơ sở đó xúc tiến chạy thử và kiểm tra sản phẩm cũng như phối hợp với phía Temenos để chỉnh sửa yếu tố chưa phù hợp. 3.2.6 Tiếp tục mở rộng mạng lưới chi nhánh. Chúng ta phải công nhận rằng, với Ngân hàng mạng lưới rộng là cần thiết bởi lẽ, mạng lưới rộng tạo điều kiện mở rộng thị trường và cung ứng dịch vụ, tiếp cận khách hàng. Ngoài ra, mạng lưới rộng cho các Ngân hàng khả năng tốt trong việc ứng cứu hệ thống khi thị trường biến động... Hiện nay TCB có tất cả là 9 chi nhánh và 4 phòng giao dịch, chủ yếu tập trung ở những khu dân cư. Như vậy, quy mô của TCB còn nhỏ bé và chưa vươn xa được ra những địa bàn có điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp như: khu chế xuất, khu công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... Việc mở rộng quy mô còn giúp Ngân hàng thu hút khách hàng và huy động thêm được nguồn vốn, phục vụ cho những khách hàng thiếu vốn. 3.2.7 Trao quyền tự chủ cho các chi nhánh. Hiện nay, tại TCB hoạt động thanh toán quốc tế còn tập trung chủ yếu tại Hội sở. Điều này phần nào làm giảm thị phần của hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ nói riêng của TCB. Khiến cho các doanh nghiệp muốn có quan hệ thanh toán xuất nhập khẩu với Ngân hàng tại các chi nhánh sẽ khó khăn khi tiếp cận với dịch vụ này của Ngân hàng. Vì họ không thể đến tận Hội sở để giao dịch trực tiếp khi có nhu cầu. Khi đó Ngân hàng sẽ mất khách hàng, vì họ sẽ đến giao dịch với Ngân hàng khác gần địa bàn của họ. Do đó TCB cần dần trao quyển tự chủ cho các chi nhánh trong hoạt động thanh toán quốc tế. Điều đó vừa giúp cho các chi nhánh nâng cao trình độ cho thanh toán viên vừa giúp thu hút khách hàng và quảng bá hình ảnh của Ngân hàng. 3.2.8 Tăng cường thêm nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ của Ngân hàng. Tăng trưởng nguồn vốn huy động nói chung, nguồn vốn ngoại tệ nói riêng là mục tiêu hàng đầu trong mọi chiến lược phát triển của các Ngân hàng. Nguồn vốn lớn và vững chắc là nền tảng để Ngân hàng phát triển hơn nữa các loại hình dịch vụ cung ứng cho khách hàng, xét cả về số lượng cũng như chất lượng, trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng vốn, TCB cần hoàn thiện các hình thức huy động vốn truyền thống như tiết kiệm, tiền gửi. Bên cạnh đó, Ngân hàng nên mở rộng các hình thức khác như: phát hành trái phiếu dài hạn, vốn uỷ thác... Để thu hút có hiệu quả, điều cần thiết là TCB phải có chính sách lãi suất hợp lý bởi lãi suất thường là mối quan tâm đầu tiên khi khách hàng đến gửi tiền. Đưa ra mức lãi suất tiền gửi hấp dẫn, linh hoạt trong từng thời kỳ không phải là vấn đề đơn giản bởi vì Ngân hàng vừa phải đảm bảo khối lượng vốn huy động, vừa phải giữ cho chi phí huy động không quá cao và không ảnh hưởng tới lợi nhuận kinh doanh. Muốn vậy Ngân hàng phải căn cứ vào vốn của nền kinh tế trong từng thời kỳ để đưa ra mức lãi suất huy động phù hợp, tránh tình trạng ứ đọng vốn, đồng thời phải luôn theo dõi tình hình lãi suất các Ngân hàng khác để điều chỉnh lãi suất cạnh tranh với mặt bằng lãi suất trên thị trường. Ngoài ra, TCB cần tiếp tục phát huy những sáng kiến trong công tác huy động như việc đưa ra các sản phẩm tiết kiệm trong những năm gần đây: tiết kiệm phát lộc... 3.2.9 Tăng cường hoạt động Marketing. Thành lập một bộ phận Marketing thường xuyên tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, tiếp xúc với khách hàng. TCB cũng nên tổ chức hội nghị khách hàng thường xuyên hơn để cùng trao đổi, rút kinh nghiệm, cùng tìm hiểu về UCP 500, tìm hiểu về thị trường... Các hội nghị này không những giúp khách hàng trong công tác thanh toán quốc tế mà còn là cơ hội khuếch trương quảng cáo cho các sản phẩm mới của TCB. Khi đó, sẽ thu hút các doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, có hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hoặc có nhu cầu mua bán ngoại tệ đến giao dịch và thanh toán tại TCB . 3.2.10. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát. Thực hiện giám sát thường xuyên với hoạt động thanh toán quốc tế và đặc biệt là thanh toán tín dụng chứng từ. Lựa chọn các cán bộ tham gia kiểm tra, kiểm soát là những người công tâm, thiết tha với sự nghiệp phát triển của TCB để kiểm tra kiểm soát hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu đạt hiệu quả cao. Phát hiện uốn nắn kịp thời để nâng cao nhận thức cho thanh toán viên. Giải quyết dứt điểm nghiêm khắc các vụ việc vi phạm tuỳ theo mức độ, hoàn cảnh để duy trì một tập thể trong sạch. Hợp tác và nâng cao tinh thần cảnh giác với âm mưu chống phá từ bên ngoài như các vụ lừa đảo, và từ bên trong như tham nhũng lãng phí. 3.3 một số kiến nghị. 3.3.1 Kiến nghị với khách hàng. o Nâng cao trình độ với cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp cần chú trọng hơn trong việc đào tạo cán bộ xuất nhập khẩu và bản thân các nhà xuất nhập khẩu cần có ý thức tự học hỏi trau dồi nghiệp vụ để đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Có thể nói, kiến thức về xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế là mảng kiến thức khá tổng hợp, liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau, không chỉ đơn thuần là các quy trình thanh toán mà còn có những yếu tố về thị trường, giá cả yếu tố về quản lý, sự nhạy bén trong kinh doanh... Một khi hiểu rõ vai trò của công việc đào tạo cán bộ thì những trở ngại khó khăn trong lúc thực hiện chỉ là nhân tố thứ yếu. Nếu kinh phí thời gian công sức bỏ ra cho ngày hôm nay không phải là ít nhưng kết quả thu được lại là con số lớn hơn gấp nhiều lần thì việc đầu tư này là vô cùng cần thiết và có lợi. Nó không chỉ đảm bảo cho việc kinh doanh của bản thân khách hàng suôn sẻ, tránh được những rủi ro, tạo lập uy tín đối với bạn hàng quốc tế mà nó sẽ góp phần to lớn trong việc hỗ trợ công tác thanh toán quốc tế tại Ngân hàng có hiệu quả. o Lựa chọn đối tác. Đây là việc làm đầu tiên và hết sức quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Nếu lựa chọn được đối tác làm ăn trung thực, có thiện chí thì các vướng mắc phát sinh trong qúa trình kinh doanh xuất nhập khẩu có dễ dàng giải quyết thông qua thương lượng. Để hạn chế rủi ro, nên chọn khách hàng truyền thống, khách hàng ở những nước có ít rủi ro, khách hàng có chi nhánh hoặc văn phòng giao dịch tại Việt Nam, hạn chế việc mua bán qua trung gian. Đối với khách hàng mới giao dịch lần đầu, trước khi ký kết hợp đồng cần tìm hiểu thông tin về lịch sử, về năng lực và tình hình tài chính của khách hàng... Việc tìm hiểu thông tin có thể qua thương vụ của Việt Nam ở nước đó, có thể thông qua hệ thống Ngân hàng và khi cần thiết có thể mua thông tin từ cơ quan cung cấp thông tin độc lập. Ngay cả khi khách hàng quen biết cũng nên quan tâm đến diễn biến tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của họ. o Chọn Ngân hàng phục vụ. Các chuyên gia Ngân hàng giỏi về lĩnh vực thanh toán quốc tế có thể tư vấn giúp doanh nghiệp rất nhiều trong hoạt động kinh doanh xuất L/C hoặc kiểm tra sự phù hợp của bộ chứng từ cũng như giải quyết các tranh chấp phát sinh, nhờ đó mà doanh nghiệp có thể hạn chế các rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Vì vậy, nên lựa chọn Ngân hàng phục vụ có uy tín và nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. o Giành quyền thuê tàu và mua bảo hiểm. Việc giành quyền thuê tàu giúp doanh nghiệp biết được lai lịch của tàu và chủ tàu; vì vậy, tránh được những trường hợp lừa đảo của đối tác như không giao hàng nhưng vẫn lập bộ chứng từ đòi tiền, hoặc trường hợp đối tác thuê tàu không đảm bảo an toàn trong quá trình vận chuyển hàng hoá. Giành quyền mua bảo hiểm giúp doanh nghiệp có thể lựa chọn được hãng bảo hiểm có uy tín, đồng thời rất thuận tiện trong việc đòi bồi hoàn khi xảy ra tổn thất và có thể tiết kiệm được chi phí. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước. Như chúng ta đã biết, Nhà nước có vai trò điều tiết nền kinh tế, các chính sách kinh tế của Nhà nước tác động trực tiếp đến mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi tổ chức, cá nhân trong nước đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu do đó tác động mạnh đến hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng. Việc đề ra một chính sách kinh tế phù hợp cho hoạt động xuất nhập khẩu là điều cần thiết đảm bảo cho công tác thanh toán L/C của NHTM nói chung và của TCB đạt hiệu quả cao. Do đó công tác thanh toán L/C được hoàn chỉnh nhanh chóng, chính xác, Nhà nước cần: p Đẩy mạnh chính sách sử dụng và quản lý ngoại tệ phục vụ xuất nhập khẩu: Kêu gọi vốn nước ngoài, nhất là vốn trung và dài hạn dưới mọi hình thức, vay vốn từ các tổ chức quốc tế, các tổ chức Chính phủ, phi Chính phủ, các cá nhân nước ngoài, khai thác triệt để mọi khoản tài trợ của các tổ chức nước ngoài nhằm đổi mới công nghệ Ngân hàng và đào tạo cán bộ. Tổ chức triển khai các dự án có chất lượng, theo đúng hiệp định đã ký kết với nước ngoài, với các tổ chức quốc tế lớn như WB, ADB... Các nhà doanh nghiệp thực hiện thành công hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của mình, thì các yếu tố như chất lượng hàng hoá, uy tín của doanh nghiệp cũng như mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng nước ngoài thì một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng là vấn đề tài chính phục vụ kinh doanh xuất nhập khẩu. Sử dụng nguồn ngoại tệ vay luân chuyển Ngân hàng nước ngoài hoặc hạn mức mở L/C. Đề nghị Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cho sử dụng nguồn vốn ưu đãi từ quỹ đầu tư xuất khẩu. p Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thanh toán quốc tế có vai trò đặc biệt trong hệ thống cán cân thanh toán của cả nước. Tình trạng của nó ảnh hưởng quyết định đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái đến tình trạng ngoại hối của các nước và toàn bộ nền kinh tế của các nước. Tình trạng cán cân thanh toán liên quan đến quan hệ cung cầu, tỷ giá hối đoái... Vì vậy, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế có vai trò quan trọng. ở nước ta hiện nay, hướng cải thiện cán cân thanh toán quốc tế là: - Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hạn chế nhập khẩu. - Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, quản lý chặt chẽ vay nợ nước ngoài. p Hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ liên Ngân hàng. Thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng là thị trường trao đổi, cung cấp ngoại tệ nhằm giải quyết các mối quan hệ về ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại với nhau. Việc hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng là một trong những điều kiện quan trọng để các Ngân hàng thượng mại mở rộng dịch vụ kinh doanh ngoại tệ giữa khách hàng với Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế. Thông qua thị trường này, Ngân hàng Trung Ương có thể điều hành tỷ giá cuối cùng. Tiếp tục đổi mới chính sách tiền tệ bằng cách xây dựng cơ chế lãi suất hợp lý, thu hẹp biên độ giữa lãi suất tín dụng ngoại tệ và nội tệ... Đổi mới chính sách tỷ giá hối đoái, quản lý ngoại hối. 3.3.3 Kiến nghị với Chính phủ và các ngành có liên quan trong việc hoàn thiện và bổ sung các văn bản pháp lý. Hiện nay, một hệ thống văn bản pháp lý nhằm hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ tín dụng chứng từ mang tính chất thống nhất cho toàn hệ thống NHTM ở Việt Nam còn thiếu thậm chí chưa có. Việc thiếu văn bản pháp lý mang tính chất quốc gia hoặc văn bản không cụ thể, không rõ ràng đã là một trong nhiều nguyên nhân gây nên những vụ tranh chấp kiện tụng kéo dài nhiều năm, còn các toà án lại gặp phải khó khăn khi xét xử hoặc phán xét thiếu chính xác thiếu cơ sở pháp lý. Thanh toán XNK bằng phương thức tín dụng chứng từ được các Ngân hàng trên thế giới thực hiện trên cơ sở áp dụng UCP 500. Nhưng UCP chỉ là một thông lệ, tập quán (Custom), chứ không phải là một luật (Law), hay công ước quốc tế (Convertion), UCP không có giá trị pháp lý bắt buộc mà chỉ mang tính chất hướng dẫn sử dụng với các bên. Hiện nay, lừa đảo là một vấn đề ngày càng gia tăng trong giao dịch tín dụng chứng từ ở các nước cũng như ở Việt Nam. Do vậy: Thứ nhất: Để tạo lập hành lang pháp lý cho các giao dịch tín dụng chứng từ giữa Ngân hàng phát hành và khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng, người NK) cần phải quy định giá trị pháp lý của các loại giấy tờ như: giấy yêu cầu mở L/C, giấy cam kết thanh toán, đơn xin bảo lãnh nhận hàng và ký nhận vận đơn, thông báo thư tín dụng đơn xin chiết khấu thư tín dụng... Về bản chất, các loại giấy tờ này là một loại hợp đồng dịch vụ giữa Ngân hàng và khách hàng, nhưng hiện nay chúng đơn giản chỉ là chứng từ giao dịch của Ngân hàng không thể hiện tính ràng buộc giữa các bên nên đã gây nhiều khó khăn cho tòa án khi xét xử tranh chấp. Hơn nữa các chứng từ này lại nằm ngoài sự điều chỉnh của UCP 500. Thứ hai: Cần phải quy định rõ về thủ tục giải quyết tranh chấp về thư tín dụng. Chúng sẽ được giải quyết theo thủ tục nào, luật nào: kinh tế hay dân sự? Các cơ quan giải thích pháp luật cần xác định rõ thư tín dụng có phải là hợp đồng kinh tế theo luật Việt Nam hay không và xác định rõ thủ tục giải quyết thư tín dụng: Nếu không làm rõ vấn đề này, sẽ gây bế tắc trong giải quyết tranh chấp phát sinh từ thư tín dụng và làm cho các doanh nghiệp nước ngoài mất tin tưởng vào môi trường pháp lý của Việt Nam, không có lợi trong việc phát triển quan hệ thương mại với nước ngoài. Thứ ba: Hiện tại do nhiều nguyên nhân khác nhau, các quy định pháp luật về trọng tài nước ta còn chưa hoàn thiện. Một yêu cầu cấp thiết đặt ra là Nhà nước cần ban hành một luật trọng tài quy định đầy đủ các vấn đề như phạm vi trọng tài, hiệu lực của thoả thuận trọng tài và các điều khoản của trọng tài, thủ tục chỉ định và thay thế trọng tài, lựa chọn nơi trọng tài, lựa chọn luật trong tài và việc thi hành các quyết định của trọng tài... Nếu các vấn đề này không được quy địng rõ thì việc giải quyết các tranh chấp về tín dụng chứng từ bằng con đường trọng tài sẽ còn gặp nhiều khó khăn. Việc vận dụng UCP 500 của các trọng tài viên khi giải quyết các tranh chấp cũng không đạt được mục đích bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên tham gia nếu giá trị pháp lý của các phán quyết trọng tài không được quy định rõ ràng. Kết luận Với chính sách mở cửa, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cũng ngày càng trở nên sôi động mang lại nhiều lợi ích và cơ hội cho các doanh nghiệp - những người trực tiếp tham gia và các đơn vị liên quan, trong đó có các Ngân hàng. Tuy vậy hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu có tính rủi ro cao. Thực tế đã không ít doanh nghiệp phải gánh chịu hậu quả nặng nề do không chú ý đến việc phòng ngừa các rủi ro. Nhưng rủi ro lớn nhất và có tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp là rủi ro thanh toán. Nhiều doanh nghiệp đã xuất hàng đi rồi mà không thu được tiền. Nhất là trong tình hình hiện nay, khi mà các doanh nghiệp Việt Nam mới ra nhập thị trường thế giới không lâu, việc hiểu đối tác nước ngoài chưa nhiều, và những hàng rào phi thuế quan luôn được các nước nghĩ ra nhiều hơn để hạn chế nhập khẩu hàng hoá của nước khác, để bảo vệ nền sản xuất trong nước họ. Khi đó một phương thức thanh toán an toàn, là tiêu chí đầu tiên được các doanh nghiệp lựa chọn. Hiện nay, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đang là sự lựa chọn số một của các doanh nghiệp. Bởi những ưu điểm nổi trội của nó. Nhận thức được điều đó, TCB đã và đang tích cực đẩy mạnh các biện pháp để tăng nhanh doanh số của phương thức thanh toán này. Với sự cố gắng của toàn thể Ban lãnh đạo, nhất là của đội ngũ cán bộ nhân viên phòng thanh toán quốc, TCB đã ngày càng thu được những kết quả khả quan. Tuy vậy, bên cạnh đó, vẫn còn những khó khăn mà yêu cầu trong thời gian tới phải được TCB khắc phục, để phương thức thanh toán này trở thành phương thức thanh toán được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Sau một thời gian tìm hiểu về lý luận cũng như những thực tế tại TCB, với khả năng, và thời gian còn hạn chế, em cũng đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại TCB. Em hy vọng, những giải pháp đó có thể là những gợi ý nho nhỏ để phương thức thanh toán này có thể đem lại những lợi ích lớn hơn với TCB và với các chủ thể tham gia vào phương thức thanh toán này tại TCB. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, Ban lãnh đạo và các anh chị phòng thanh toán quốc tế của TCB cùng tất cả những ai đã động viên, ủng hộ em để em có thể hoàn thành tốt khoá luận của mình. danh mục tài liệu tham khảo. Báo cáo thường niên của TCB các năm 2000 – 2002. Báo cáo thanh toán quốc tế của TCB các năm 2000 - 2002. Tờ tin nội bộ – TCB hàng quý. Quy trình phương thức thanh toán tín dụng chứng từ của TCB. Tạp chí Ngân hàng. Nguyễn Ninh Kiều - MBA - Trường Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh - Giáo trình Tiền Tệ - Ngân hàng. PTS. Đỗ Linh Hiệp – PTS. Ngô Hướng - Học Viện Ngân hàng - Phân Viện TP. Hồ Chí Minh - Giáo trình – Thanh Toán Quốc Tế - Tài Trợ Ngoại Thương & Kinh Doanh Ngoại Hối. Giáo trình Hướng Dẫn Cách Sử Dụng Thư Tín Dụng Trong Ngoại Thương- Trường Đại Học Ngoại Thương. Xuất bản năm 1990. những cụm từ viết tắt XK : Xuất khẩu. NK : Nhập khẩu. L/C : Thư tín dụng (Letter of Credit). B/L : Chứng từ vận tải (Bill of Lading). XNK : Xuất nhập khẩu. TCB : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ Thương Việt Nam. HĐTM : Hợp đồng thương mại. SWIFT : Tổ chức viễn thông tài chính quốc tế toàn cầu. UCP 500 : Bản điều lệ và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ, ấn phẩm số 500. TTQT : Thanh toán quốc tế. VCB : Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. ICB : Ngân hàng Công thương Việt Nam. NHTMQD: Ngân hàng Thương mại Quốc doanh. NHTM : Ngân hàng thương mại. Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế tại đơn vị thực tập. Tác giả ký tên. mục lục lời nói đầu 1 CHƯƠNG 1: Tổng quan về hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của NHTM. 3 1.1: Ngân hàng thương mại và hoạt động thanh toán quốc tế. 3 1.1.1: Ngân hàng thương mại và các nghiệp vụ chủ yếu của nó. 3 1.1.2: Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại 5 1.2 Nội dung thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của NHTM 9 1.2.1: Khái niệm và đặc điểm của phương thức thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của NHTM 9 1.2.2 Phương tiện được sử dụng trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ 13 1.2.3: Văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ 18 1.2.4: Quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ. 23 1.2.5: Những nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của NHTM. 25 CHƯƠNG 2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín chứng từ tại NHTMCP Kỹ Thương 31 2.1: Khái quát về hoạt động kinh doanh của NHTMCP Kỹ Thương trong thời gian qua 31 2.1.1: Sự hình thành và phát triển của NHTMCP Kỹ Thương 31 2.1.2: Tình hình hoạt động kinh doanh của NHTMCP Kỹ Thương trong thời gian qua. 33 2.2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHTMCP Kỹ Thương 37 2.2.1: Quy trình thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHTMCP Kỹ Thương. 37 2.3: Đánh giá tình hình hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của NHTMCP Kỹ Thương 47 2.3.1: Những kết quả đạt được 47 2.3.2: Những tồn tại và nguyên nhân 48 CHƯƠNG 3: Những giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHTMCP Kỹ Thương 52 3.1: Định hướng phát triển của NHTMCP Kỹ Thương đến năm 2005 52 3.2: Các giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ tại NHTMCP Kỹ Thương 57 3.3: Một số kiến nghị 61 Kết luận 66 Danh mục tài liệu tham khảo Nhận xét của cơ quan thực tế ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0024.doc
Tài liệu liên quan