Lời mở đầu
Ngày nay, khi bước chân ra khỏi nhà, nếu bạn chú ý hơn đến đường phố thì có thể thấy được ở bất cứ không gian nào, từ các tòa nhà cao ba bốn tầng, các ngã tư và các trung tâm giao thông, các đường cao tốc cho đến các nhà chờ xe buýt, các buồng điện thoại công cộng… đâu đâu bạn cũng có thể bắt gặp những chiếc biển quảng cáo của đủ các loại sản phẩm khác nhau với kích cỡ và hình ảnh đa dạng, đẹp mắt. Đó chính là các loại hình của quảng cáo ngoài trời. Theo nghiên cứu của công ty Nghiê
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp Marketing trong hoạt động kinh doanh dịch vụ Quảng cáo ngoài trời tại Công ty Thương mại và Mỹ thuật Hà Thái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n cứu thị trường và giải pháp Marketing TNS thì có đến 80% người dân thành phố là những người thường xuyên ra đường, đó chính là nguyên do cho sự phát triển ngày càng mạnh đến mức được ví như sự “bùng nổ” của loại hình quảng cáo ngoài trời.
Mặt khác, trong thời đại hiện nay, quảng cáo đã trở thành một sức mạnh mà trong kinh doanh phải tính đến. Trước hết quảng cáo đóng vai trò mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Việc quảng cáo qua thông tin đại chúng và mở rộng thị trường tiêu thụ đem lại lợi ích cho cả hai phía: người tiêu dùng và nhà sản xuất. Nó giúp nhà sản xuất bảo đảm được thị phần của mình; giữ vững nhu cầu cũ, tạo nhu cầu mới, chiếm lòng tin của khách hàng, tăng lượng bán do đó tăng khả năng sinh lời; giúp nhà sản xuất có thể hỗ trợ trong quá trình phân phối sản phẩm của các trung gian; đồng thời, quảng cáo giúp người sản xuất kiểm soát được tập quán mua hàng của người tiêu dùng. Mặt khác, đối với người tiêu dùng, quảng cáo đảm bảo lợi ích của họ thông qua việc cung cấp đầy đủ thông tin cho khách hàng, đảm bảo chất lượng hàng hóa, giúp giá sản phẩm thấp hơn, bãi bỏ khâu trung gian, khuyến khích người tiêu dùng mua những sản phẩm sẵn có, tạo điều kiện dễ dàng cho người tiêu dùng trong việc mua hàng và tiết kiệm thời gian mua hàng của họ, hơn nữa, quảng cáo còn có giá trị giáo dục đối với người tiêu dùng. Với những lợi ích như thế, quảng cáo còn được coi là một công cụ chiến lược của các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp có tiềm lực tài chính còn mạnh tay chi đến 30% ngân sách cho quảng cáo. Tuy nhiên, để có đạt được hiệu quả cao trong chiến lược quảng cáo thì các doanh nghiệp thường cân nhắc việc lựa chọn phương tiện quảng cáo một cách kĩ lưỡng. Với ưu thế là đạt hiệu quả cao nhưng chi phí lại thấp nên loại hình quảng cáo ngoài trời luôn được các doanh nghiệp dành một mức chi phí nào đó trong ngân sách quảng cáo của mình.
Với dự tính của các chuyên gia thì doanh thu quảng cáo đến năm 2020 có thể đạt tới 24.000 tỷ đồng. Đây là một con số rất lớn và là cơ hội của ngành quảng cáo trong những năm trước mắt. Chính vì vậy, chuyên đề tốt nghiệp này hướng vào đề tài “Các giải pháp Marketing trong hoạt động kinh doanh dịch vụ Quảng cáo ngoài trời tại công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái” với hi vọng góp phần hoàn thiện hoạt động Marketing của công ty.
Đối tượng nghiên cứu trong chuyên đề này là các đặc điểm của sản phẩm và thị trường trong kinh doanh dịch vụ quảng cáo và vận dụng Marketing vào lĩnh vực kinh doanh đặc thù, đó là dịch vụ quảng cáo ngoài trời với phạm vi nghiên cứu là dịch vụ quảng cáo của công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái trên thị trường miền Bắc từ năm 2002 trở lại đây và xu hướng phát triển trong những năm sắp tới. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong chuyên đề này chủ yếu là hai phương pháp, đó là phân tích tổng hợp và phương pháp phân tích thống kê các số liệu thứ cấp.
Ngoài lời nói mở đầu và phần kết luận thì nội dung chuyên đề được chia làm ba chương:
Chương I: Đặc điểm của thị trường và sản phẩm trong kinh doanh dịch vụ quảng cáo ngoài trời.
Chương II: Thực trạng kinh doanh và hoạt động Marketing của công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái.
Chương III: Hoàn thiện những giải pháp Marketing của công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái.
Chương I
Đặc điểm của thị trường và sản phẩm trong kinh doanh dịch vụ Quảng cáo ngoài trời
Khái quát chung về loại dịch vụ Quảng cáo ngoài trời.
Quảng cáo ngoài trời, như đã nói ở trên, là phương tiện quảng cáo lâu đời nhất. Dạng quảng cáo ngoài trời sơ khai và đơn giản nhất đó là các mẩu tin rao bán nô lệ hay thông báo về các sự kiện tại đấu trường La Mã. Vậy thế nào là quảng cáo ngoài trời? Nó được định nghĩa như sau: “quảng cáo ngoài trời là bất kỳ một bản tin quảng cáo nào hoặc một dấu hiệu nhận dạng nào được đặt ở nơi công cộng”, hay một định nghĩa khác: “hoạt động quảng cáo tiếp cận với khán giả mục tiêu bên ngoài nhà của mình được gọi là quảng cáo ngoài trời”. Do vậy, quảng cáo ngoài trời phát triển gắn liền với việc mở rộng và phát triển mạng lưới giao thông cũng như quy hoạch đô thị. Mạng lưới giao thông càng phát triển hay các đô thị lớn càng mở ra thì quảng cáo ngoài trời lại càng có cơ hội phát triển. Sở dĩ như thế là vì mạng lưới giao thông phát triển, quy hoach đô thị diễn ra đem theo những con đường mới, những địa điểm tập trung đông dân cư, đông người qua lại, đồng thời tạo ra những địa điểm đẹp cho phương tiện quảng cáo ngoài trời sử dụng.
Phương tiện quảng cáo ngoài trời có sự khác biệt so với các phương tiện quảng cáo khác. Thứ nhất, phương tiện quảng cáo ngoài trời không phải là phương tiện truyền phát các thông điệp. Quảng cáo ngoài trời không đem đến cho đối tượng nhận tin mà chính đối tượng nhận tin phải đến với quảng cáo đó trong khi họ đang tiến hành các hoạt động khác. Thứ hai, các đối tượng nhận tin không phải nỗ lực gì khi xem quảng cáo ngoài trời. Và cuối cùng, họ tiếp nhận thông điệp quảng cáo bằng thị giác là chủ yếu.
Với đặc điểm “được đặt ở nơi công cộng” nên nó có ưu thế nổi trội là tần suất lặp lại cao và chỉ số tiếp cận đối tượng nhận tin cao. Giả dụ, trên đường đi làm của bạn có 1 tấm biển quảng cáo tấm lớn, hàng ngày đi qua bạn đều nhìn thấy nó, 1 ngày 2 lần, như vậy 1 tháng đi làm, bạn có thể nhìn thấy tấm biển đó ít nhất là 20-25 lần., số lần này sẽ tăng gấp đôi nếu bạn đi làm và đi về trên cùng 1 con đường. Đây là một trong những tần số lặp lại mà ít có phương tiện quảng cáo nào có thể đạt được. Thông điệp quảng cáo được đặt ở đó suốt cả ngày, và nếu được đặt ở nơi đông người thì chỉ số tiếp cận có thể đạt vài nghìn người/ngày.
Các loại Quảng cáo ngoài trời:
Hàng ngày, bạn có thể nhìn thấy rất nhiều những pano, áp phích được dán trên tường trong các quán ăn, các bức tường trống ở ngoài đường, các biển tấm lớn ở bên đường bạn đi qua, các hình vẽ quảng cáo trên các chiếc xe bus, những tấm quảng cáo trên các tam giác khối xoay tròn ở các điểm đèn giao thông…Đó chính là các loại hình của quảng cáo ngoài trời. Mỗi hình thức quảng cáo ngoài trời có những ưu, nhược điểm riêng, có cách sử dụng và sáng tạo riêng, chi phí riêng, nó có thể gây được sự bất ngờ và chú ý đối với đối tượng nhận tin nếu như lựa chọn đúng phương thức, địa điểm, kỹ thuật và sự sáng tạo.
Quảng cáo ngoài trời với sự đa dạng và phong phú của mình đã và đang góp phần mang lại bộ mặt mới cho thành phố nói riêng và cho nền quảng cáo nước nhà nói chung. Trong chuyên đề tốt nghiệp này đề cập đến 4 loại hình quảng cáo ngoài trời phổ biến sau:
Áp phích/Panô
Các biển bảng tấm lớn bên đường
Quảng cáo trên các phương tiện giao thông
Các biển bảng tại các cửa hang, điểm bán.
Đặc điểm các loại Quảng cáo ngoài trời:
Sau đây ta đi vào nghiên cứu sơ lược về từng loại hình quảng cáo ngoài trời trên:
2.1. Áp phích/pano:
Mục đích: áp phích/pano là phương tiện truyền thông thông tin về sản phẩm, doanh nghiệp, tổ chức gắn liền với các sự kiện như các chiến dịch truyền thông, khuyến mại sản phẩm, giới thiệu sản phẩm mới hoặc một đặc tính mới của sản phẩm, hay các sự kiện thể thao, văn hóa…Tuy nhiên, các nhà chiến lược Marketing thường chọn phương tiện này để quảng cáo cho loại sản phẩm mới tung ra thị trường hoặc quảng cáo cho những sự kiện sắp diễn ra. Ngoài ra, áp phích/pano còn là công cụ giúp cho những đại lý, cửa hàng tiêu thụ trong việc tác động đến quyết định “mua” của đối tượng khi so sánh với các sản phẩm cùng loại.
Mô tả: Áp phích (poster panel) là một bảng quảng cáo ngoài trời cỡ nhỏ, giống như các bức tranh có các kích cỡ khác nhau, nhỏ nhất là cỡ A4, ngoài ra còn có cỡ A3 và A2, tùy thuộc vào mục đích của người quảng cáo. Chúng được làm nổi bật hay bình thường và quan trọng nhất là để người qua lại nhìn thấy. Và đây là loại hình quảng cáo có chi phí thấp nhất tính trên một đơn vị.
Áp phích/pano có mặt ở khắp mọi nơi trong thành phố, khu trung tâm và ở cả các địa phương. Ở nước ta, các pano/áp phích thường được dán trên các cột điện, các bức tường trống ở ngoài đường, trong các quán ăn, quán café, các tiệm uốn, cắt tóc…ở một số các nước khác, các pano/áp phích còn được dán dưới đất, trên nóc nhà (như tại Triển lãm quảng cáo ở Bắc Kinh, người ta còn dán các áp phích trên mặt đất), nó thường xuất hiện ở những nơi mà quảng cáo tấm lớn không thể nào xuất hiện được.
Lời thông điệp đầu tiên của nó thường được in trên các tấm bạt hoặc in trên lụa hay một tờ giấy rất lớn, sau đó được đóng khung lên tấm pano. Còn bây giờ các tấm pano/áp phích thường được in trên giấy lụa hoặc giấy bóng.
Thời gian hợp đồng đối với áp phích quảng cáo ngoài trời thường là 30 ngày không kể thời gian hợp đồng, hết hợp đồng thì người cho thuê địa điểm có thể tự động tháo dỡ xuống, và cũng thông thường, sau 30 ngày hết hợp đồng thì các áp phích/pano lại được thay đổi và sự thể hiện sự sáng tạo có thể được thay đổi vào lúc không còn biến đổi nào nữa. Nhưng ở Việt Nam thì thường các doanh nghiệp không phải tốn kém cho việc làm hợp đồng thuê địa điểm để dán áp phích/pano, vì các áp phích được dán một cách tự do tại những nơi công cộng mà không gặp trở ngại gì, hay các nhân viên đi dán áp phích/pano chỉ cần “xin phép” chủ cửa hàng để được dán ở các quán ăn, quán nước…của họ mà thôi. Do vậy chi phí cho loại hình này áp dụng ở nước ta lại càng rẻ so với các loại hình khác.
Hình 1: Áp phích của công ty May 10
- Ưu điểm của loại hình quảng cáo ngoài trời là pano/áp phích:
+ Áp phích/pano là loại hình quảng cáo có chi phí trên một đơn vị là thấp nhất trong các loại hình quảng cáo.
+ Khác với báo hàng ngày có thời gian tồn tại chỉ một thời gian ngắn là 1 hay 2 ngày tùy theo lịch phát hành của báo, áp phích/pano lại có thời gian tồn tại dài, thường là khoảng 30 ngày và còn có thể lâu hơn thế. Vì ở nước ta, các pano/áp phích vẫn còn chưa bị quản lý nhiều, những pano/áp phích được dán ở các nơi công cộng hay tại các cửa hàng thì sau một thời gian, nó có thể bị thay thế bởi những pano/áp phích mới của chính hãng, hay những pano/áp phích của đối thủ cạnh tranh, và cũng có thể nó cứ tồn tại ở mãi đó vì chẳng ai buồn bỏ nó xuống, nhiều chủ cửa hàng còn coi đó là vật trang trí cho cửa hàng mình.
+ Khả năng lựa chọn địa lý cao vì các công ty quảng cáo có thế dễ dàng thay đổi nội dung và hình ảnh cho phù hợp với những khu vực thị trường đã được phân đoạn. Như cùng quảng cáo bia, nhưng ở nội thành, các pano/áp phích có thể lựa chọn những nhân vật minh họa là những người sành điệu, trong khi đó, ở vùng nông thôn thì có thể thiết kế các pano/áp phích có các ông nông dân điển hình để minh hoạ.
+ Cũng do có tính linh hoạt cao như vậy mà các nhà quảng cáo cũng có thể dễ dàng in địa chỉ những đại lý, cửa hàng bán buôn của mình tại các khu vực khác nhau thì khác nhau, do đó, có thể làm tăng lòng tin của khách hàng nhận tin với các trung gian của chủ quảng cáo. Trong khi đó, khi quảng cáo trên truyền hình thì việc thêm địa chỉ của các trung gian là một khó khăn.
+ Pano/áp phích cũng là một phương tiện có khả năng gây ấn tượng mạnh mẽ. Nó dễ thể hiện trên các tấm tranh cỡ lớn như cỡ A3, màu sắc đẹp, hài hòa và có nội dung gây sự chú ý cao so với loại hình thư trực tiếp chỉ có hình ảnh mờ nhạt, không gây được ấn tượng gì sâu sắc với người nhận tin.
- Một số nhược điểm của áp phích/pano:
+ Thư trực tiếp có thể gửi tới đối tượng nhận tin một cách đầy đủ và chi tiết những thông tin về doanh nghiệp, sản phẩm hay chương trình xúc tiến của chủ thể quảng cáo. Nhưng áp phích/pano thì không làm được điều đó, do nó bị hạn chế về mặt bằng diện tích của tờ áp phích/pano, và nếu đưa quá nhiều thông tin trong tờ áp phích/pano thì sẽ gây mất mỹ thuật, rối mắt và người nhận tin sẽ không đủ kiên nhẫn để đọc hết những thông tin đó.
+ Một nhược điểm nữa mà áp phích/pano không thể làm được khi so sánh với thư trực tiếp, đó là không thể thực hiện riêng cho từng đoạn thị trường riêng biệt. Thư trực tiếp được thực hiện dưới dạng gửi tận tay đến những đối tượng nhận tin mục tiêu, do đó khả năng tiếp cận đối tượng mục tiêu là rất cao.
Với những ưu điểm và nhược điểm trên thì áp phích/pano thường được sử dụng để làm phương tiện quảng cáo bổ sung cho các phương tiện quảng cáo khác trong chiến lược quảng cáo các sản phẩm mới sắp tung ra trên thị trường hoặc quảng cáo cho những sự kiện sắp diễn ra. Và áp phích/pano thường được quảng cáo các sản phẩm tiêu dùng mà sản phẩm đó được phân phối tập trung và người mua thường dựa vào nhãn hiệu hàng hóa để lựa chọn sản phẩm.
2.2. Các biển bảng tấm lớn bên đường (billboards):
Mục đích của tấm lớn bên đường: nhằm thông tin cho đối tượng nhận tin những thông điệp về sản phẩm, doanh nghiệp, các chương trình khuyến mãi, khuyếch trương, các sự kiện…Nhưng do các tấm lớn bên đường có thời gian tồn tại rất lâu nên thông điệp quảng cáo thường không được cập nhập thường xuyên nên tấm lớn bên đường thường được sử dụng để quảng cáo về sản phẩm và doanh nghiệp nhằm mục đích nhắc nhở đối với đối tượng nhận tin.
Mô tả: Các biển tấm lớn bên đường là những tấm biển có kích cỡ khổng lồ, có kết cấu vững chắc và được lắp đặt trên các đường phố, bên các lề đường cao tốc, trên các nhà cao tầng…Sở dĩ biển tấm lớn có kết cấu vững chắc là do kích cỡ của biển rất lớn, có thể lên tới 200 m2 và với chất liệu cũng không nhẹ nên để đảm bảo cho sự an toàn của khu vực xung quanh thì người ta thường phải xây các khung từ thép định hình có kết cấu chịu lực tốt với đường viên ngăn chuẩn hóa hoặc xây đặc biệt. Các biển tấm lớn được thiết kế ấn tượng với màu sắc và hình ảnh bắt mắt để có thể gây được sự chú ý và sự ghi nhớ của mọi người qua đường. Khi đó bảng quảng cáo cũng như thông điệp của quảng cáo sẽ được mọi người biết đến và lưu giữ trong trí nhớ họ một cách tự nhiên. Đặc biệt khi mà tần suất họ đi qua con đường đó càng nhiều thì mức độ ghi nhớ của đối tượng nhận tin với biển quảng cáo đó càng sâu đậm.
* Giống như áp phích/pano thì biển quảng cáo tấm lớn cũng có những ưu điểm và nhược điểm như vậy vì đôi khi biển quảng cáo tấm lớn cũng có thể coi như một một pano/áp phích, chỉ có điều hơi khác, đó là nó có kích thước lớn hơn. Ngoài ra, biển quảng cáo tấm lớn còn có những ưu, nhược điểm khác như sau:
Ưu điểm của biển bảng quảng cáo tấm lớn bên đường:
+ Do biển quảng cáo tấm lớn thường có kích thước rất lớn và được đặt ở những địa điểm có nhiều xe cộ qua lại nên sự chú ý của mọi người lớn hơn rất nhiều so với pano/áp phích, do vậy chỉ số tiếp cận của loại hình này lớn hơn rất nhiều. Nếu một biển quảng cáo tấm lớn này được đặt ở những đầu nút giao thông quan trọng như ở một ngã tư, hàng ngày có hàng nghìn người đi qua con đường đó và sẽ có ít nhất là 70% người trong số họ bắt buộc phải nhìn thấy nó khi họ đi ngang qua hay đèn đỏ dừng lại. Hơn nữa, với một tỷ lệ nào đó những xe cộ đi qua biển quảng cáo tấm lớn đó trong ngày hôm nay sẽ khác với những ngày mai, ngày kia, do đó tổng số người đã xem quảng cáo sẽ tăng mỗi ngày.
+ Vì biển quảng cáo tấm lớn rất lớn và cồng kềnh nên việc lắp đặt đòi hỏi tốn nhiều thời gian và chi phí nên hợp đồng cho loại hình quảng cáo này thường rất dài, có thể từ 1-3 năm, thời gian tồn tại lâu như thế sẽ đem đến cho chủ thể quảng cáo một lượng lớn những khán giả nhận tin từ biển quảng cáo đó và tần suất họ xem cũng sẽ khá lớn. Điều đó dẫn tới sự ghi nhớ về biển quảng cáo là rất sâu. Một tờ báo ngày thường thì chúng ta chỉ đọc một lần rồi để đấy, ít khi coi lại nữa, còn một tờ tạp chí, tuy thời gian song lâu hơn, khoảng 1 tuần đến 1 tháng, nhưng chúng ta vẫn ít khi xem quảng cáo đó không quá 3 lần, vậy thì sự nhắc nhở của biển quảng cáo tấm lớn đối với đối tượng nhận tin là rất nhiều. Chính vì thế loại hình quảng cáo này thường được sử dụng nhằm mục đích nhắc nhở sự để tâm của công chúng về doanh nghiệp và sản phẩm.
- Nhược điểm của biển quảng cáo tấm lớn bên đường:
+ Cũng như áp phích/pano, biển quảng cáo tấm lớn bên đường bị hạn chế về thông tin đăng tải trên biển. Nhưng lý do không giống như áp phích/pano, biển quảng cáo tấm lớn có kích thước lớn, nhưng nó có một khoảng cách nhất định với khán giả xem nó nên mức độ thông tin vì thế mà bị hạn chế. Khi bạn đi ngang qua một tấm biển quảng cáo bên đường hay thậm chí là biển quảng cáo tại các đoạn có đèn xanh đèn đỏ, bạn phải dừng lại và bạn có thể nhìn thấy biển quảng cáo đó lâu hơn, nhưng thời gian để bạn xem nó cũng không quá 60 giây, vậy nên nếu thông tin dày đặc với cỡ chữ nhỏ sẽ làm bạn ngại và khó chịu khi xem tấm quảng cáo đó, vả lại, bạn cũng không có đủ thời gian để đọc hết những thông tin trên tấm quảng cáo đó.
+ Một nhược điểm khác cũng giống như nhược điểm của pano/áp phích, đó là khả năng lựa chọn đối tượng mục tiêu kém, vì để ở nơi công cộng nên bất kỳ ai đi qua đều có thể trông thấy.
+ Chi phí của loại hình này cũng không rẻ, ngoài chi phí thiết kế và làm biển quảng cáo tấm lớn, chủ thể quảng cáo còn phải chi cho những khoản xây dựng, lắp đặt địa điểm đặt biển và tiền thuê/mua địa điểm đặt biển, ngoài chi phí đó còn có chi phí bảo dưỡng, bảo trì biển bảng nữa. Với những địa điểm “đẹp” thì tiền thuê/mua địa điểm đặt bảng lại càng tăng. So với quảng cáo trên các báo hang ngày thì loại hình này còn tốn kém hơn rất nhiều.
Khi sử dụng loại hình quảng cáo ngoài trời là biển tấm lớn này, các nhà quảng cáo phải đặc biệt quan tấm đến việc lựa chọn vị trí đặt biển quảng cáo, và các vấn đề khác như khả năng dễ nhìn, khoảng cách tiếp cận, tốc độ đi lại của xe cộ ở đoạn đường đó. Để tính toán được khoảng cách tiếp cận hợp lý thì các nhà quảng cáo phải tính toán dựa trên nghiên cứu cụ thể và công thức toán học. Các nhà quảng cáo cũng tổ chức các cuộc nghiên cứu Marketing để xác định được mức độ quan tâm, địa điểm nào dễ gây chú ý của người qua đường và con đường nào có nhiều người qua lại nhất.
2.3. Quảng cáo trên các phương tiện giao thông:
- Mục đích: quảng cáo trên các phương tiện giao thông cũng là một loại hình của quảng cáo ngoài trời nên nó cũng nhằm mục đích truyền thông điệp về sản phẩm, doanh nghiệp hay các sự kiện của chủ quảng cáo. Nhưng cũng giống như biển tấm lớn, quảng cáo trên các phương tiện giao thông không thể cập nhập hay thay mới thường xuyên nên nó thường được sử dụng để quảng cáo về những sản phẩm mới của chủ quảng cáo hay doanh nghiệp quảng cáo để người qua lại có thể biết và nhớ về doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp.
- Mô tả: Đây là một dạng của pano/áp phích nhưng loại hình quảng cáo này lại được trưng bày ở các phương tiện giao thông như là trên các thân xe buýt, phía trong xe, các điểm chờ xe buýt, các biển lật xoay 3 mặt hình tam giác ở các góc phố, biển quảng cáo hộp đèn tại các giải phân cách. Nó thường được sử dụng để quảng cáo cho các sản phẩm tiêu dùng thiết yếu và các dịch vụ như là khách sạn, taxi, vận chuyển…Cơ cấu chi phí của vị trí quảng cáo ngoài đường tùy thuộc vào thời gian và quy mô quảng cáo, cấp hạng của phương tiện và giá trị của phương tiện đó.
- Ưu và nhược điểm của loại hình quảng cáo trên các phương tiện giao thông:
+ Chỉ số tiếp cận cao do các phương tiện giao thông có thể di chuyển đến khắp nơi nhưng đặc điểm này lại đồng thời đem đến nhược điểm đó là, do di chuyển đến nhiều nơi và không cố định ngày nào cũng lặp lại trên cùng một lộ trình nên những người nhìn thấy quảng cáo này lúc này sẽ khác so với những người nhìn thấy quảng cáo này lúc khác, những người xem quảng cáo này hôm nay cũng khác so với những người xem quảng cáo ngày mai nên tần số lặp lại không nhiều, và do vậy người xem quảng cáo cũng không ghi nhớ nhiều về quảng cáo đó. Trong khi đó quảng cáo trên truyền hình, radio thì tần số lặp lại cũng ít nhất 1 ngày một lần (chưa kể những hãng có tiềm lực tài chính, họ thuê quảng cáo trên truyền hình với tần suất lớn, khoảng 5-10 lần/ngày/kênh), thêm vào đó là sự kết hợp giữa hình và tiếng nên dễ gây chú ý và sự ghi nhớ của công chúng hơn.
+ Trong trường hợp nội dung và thông điệp quảng cáo được sơn trực tiếp lên phương tiện giao thông như thân xe thì họ phải thực hiện một số công việc rắc rối để “gỡ bỏ” quảng cáo đó xuống nên thời gian hợp đồng thuê vị trí thường kéo dài, có nghĩa là thời gian tồn tại của thông điệp được kéo dài.
Đây là phương tiện mới được sử dụng ở Việt Nam trong mấy năm gần đây, nó xuất hiện khi mà hệ thống xe buýt công cộng ra đời, còn trước đó, loại hình quảng cáo này chỉ có tính tự phát, tức là doanh nghiệp tự vẽ hay thuê vẽ những thông tin ngắn gọn về doanh nghiệp hay sản phẩm, dịch vụ của mình lên các xe tải chở hàng của mình để tự quảng cáo nên ít mang tính chuyên nghiệp và không có chiến lược quảng cáo rõ ràng. Tiềm năng phát triển của phương tiện này là rất lớn, vì hệ thống xe công cộng ở nước ta mới trong quá trình hình thành.
2.4. Các biển bảng tại các cửa hàng, điểm bán:
- Mục đích: truyền những thông điệp về sản phẩm, doanh nghiệp hay những chương trình khuyến mãi, xúc tiến…của doanh nghiệp. Với địa điểm là tại cửa hàng, các địa điểm bán nên nó nhằm mục đích cung cấp những thông tin về sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm mới để tác động và giúp khách hàng nắm những thông tin cần thiết cho sự lựa chọn của mình.
- Mô tả: đây có thể coi là hình thức kết hợp giữa xúc tiến và quảng cáo. Quảng cáo tại điểm bán được phân loại như sau, trong đó chỉ có biển bảng và biểu ngữ được xếp và loại quảng cáo ngòai trời, còn 2 loại còn lại là trưng bày sản phẩm và sản phẩm mẫu, thưởng thì không thuộc hệ thống quảng cáo ngoài trời, nhưng ở đây, vẫn được nhắc đến để giới thiệu một cách đầy đủ về loại hình quảng cáo tại điểm bán:
+ Biển bảng và biểu ngữ: nó cũng giống như các biển quảng cáo tấm lớn bên đường nhưng kích thước có thể nhỏ hơn. Và nó không mất chi phí thuê địa điểm đặt bảng. Biển bảng này thường được đặt ở trước cửa hàng, điểm bán. Thông tin được đưa ra là những thông tin về doanh nghiệp như tên doanh nghiệp, trụ sở chính, số điện thoại và số fax của công ty, có thể bao gồm cả câu slogan của doanh nghiệp. Ngoài thông tin về doanh nghiệp, thông tin đưa ra còn có thông tin về sản phẩm/dịch vụ. Biển bảng này giúp khách hàng nhận biết được đây là điểm bán của doanh nghiệp.
+ Trưng bày sản phẩm: đó là cách sắp đặt, bố trí và bày biện sản phẩm một cách đẹp mắt và thuận tiện nhằm thu hút khách hàng đến với gian hàng của doanh nghiệp. Yêu cầu của việc trình bày này là độc đáo, đẹp và đặc biệt là thu hút sự chú ý của người qua lại đối với cửa hàng, gian hàng.
+ Mẫu và thưởng: đây là những công cụ xúc tiến bán hang. Mẫu là sản phẩm để người tiêu dùng có thể kiểm tra và đánh giá chất lượng của sản phẩm. Mẫu có thể được tặng tận tay người tiêu dùng hay đặt ở các điểm bán để người tiêu dùng có thể thử ngay tại chỗ, hoặc mẫu cũng có thể được đính kém với sản phẩm cùng loại, sản phẩm khác. Hình thức mẫu này có chi phí cao nhưng đồng thời nó lại đem lại hiệu quả cao nếu như sản phẩm có chất lượng tốt. Còn thưởng là những hàng hóa được chào với giá thấp hoặc tặng không cho khách hàng để khuyến khích họ mua nhiều sản phẩm hay mua sản phẩm chủ yếu của cửa hàng.
- Ưu điểm của hình thức quảng cáo là biển bảng bên ngoài điểm bán:
+ Quảng cáo ở điểm bán rất có hiệu quả với những sản phẩm mà việc mua hàng mang tính chất tùy hứng, tạo khả năng cho sự lựa chọn giữa các nhãn hiệu sản phẩm khác nhau của khách hàng. Nó có hiệu quả đặc biệt đối với các sản phẩm mới và hình thức bán hàng tự động. Có thể bạn đã quảng cáo rất nhiều trên tivi, báo chí, ngoài đường và khách hàng cũng đã biết đến sản phẩm của bạn, nhưng như thế không có nghĩa là họ đã lựa chọn sản phẩm, dịch vụ của bạn khi mua hàng. Vì thế, ở giai đoạn cuối của quá trình mua hàng thì quảng cáo lúc này có thể tác động đến quyết định mua của họ.
+ Các biển, bảng quảng cáo được đặt ngay trước điểm bán có thể gây sự chú ý của người qua đường, và khi đó, họ có thể xem trực tiếp sản phẩm ngay tại đó khiến họ quan tâm và ghi nhớ tốt hơn đối với sản phẩm. Không như các hình thức quảng cáo khác, như quảng cáo trên tạp chí chẳng hạn, khi người tiêu dùng đọc thấy quảng cáo về sản phẩm trên báo thì điều đầu tiên họ muốn là được nhìn và sờ tận tay sản phẩm đó. Nhưng họ chỉ nhìn thấy hình ảnh của nó trên tờ báo mà thôi. Ngoài ra, biển đặt tại nơi bán hàng còn có tác dụng hỗ trợ tích cực cho hành vi mua của khách hàng, rút ngắn “con đường đi từ ý định mua đến hành vi mua”.
+ Đối với biển bảng đặt ở bên ngoài cửa hàng thì có ưu điểm là có thể tiết kiệm chi phí thuê địa điểm vì địa điểm này thuộc về sở hữu của doanh nghiệp hay của các trung gian.
- Nhược điểm của hình thức quảng cáo là biển bảng bên ngoài điểm bán:
+ Quảng cáo tại điểm bán này có tính cố định và vị trí đặt biển quảng cáo ngoài cửa hàng thường không có nhiều sự lựa chọn nên có thể không có được vị trí tốt như mong muốn và chỉ số tiếp cận không lớn như pano/áp phích hay biển quảng cáo tấm lớn.
Biển bảng hay biểu ngữ bên ngoài điểm bán, cửa hang là một hình thức quảng cáo sơ khai và đã có từ rất lâu, trước cả áp phích/pano ở nước ta. Tuy nhiên nó không được hiểu chính xác là một loại hình quảng cáo ngoài trời mà chỉ coi như một biển quảng cáo giới thiệu đây là cửa hàng có tên là gì hay thuộc công tee nào, và cửa hàng này bán sản phẩm nào mà thôi. Nên các biển bảng này thường được làm đơn giản, kích thước vừa phải so với bề mặt ngoài cửa hàng. Hiện nay thì các biển bảng này đã được các doanh nghiệp và cả những cửa hang nhỏ lẻ quan tâm hơn nên hình thức, chất liệu và kích thước cũng được thiết kế độc đáo để có thể gây được sự chú ý của người qua đường (Có nhiểu biển kích thước còn chiếm cả một bề mặt tầng 2 và có khi cả tầng 3 của địa điểm bán).
Thị trường và khách hàng mục tiêu của các dịch vụ Quảng cáo ngoài trời.
Thị trường của loại dịch vụ quảng cáo ngoài trời:
Trong nền kinh tế thị trường không phải cứ sản xuất ra sản phẩm là có doanh thu, có lợi nhuận được mà doanh nghiệp còn cần có cả một chiến lược Marrketing lâu dài và tổng thể bao gồm cả những chiến lược về sản phẩm, về chính sách giá cũng như hệ thống phân phối và các chương trình xúc tiến hỗn hợp…Bên cạnh đó thì các doanh nghiệp cũng phải xây dựng những kế hoạch về hoạt động quảng cáo, bởi không một doanh nghiệp nào muốn làm ăn có lãi mà lại không biết tới hiệu quả mà quảng cáo đem lại cho kết quả kinh doanh của lại, và cũng chính vì thế mà không một doanh nghiệp nào làm kinh doanh lại không làm quảng cáo, thậm chí nhiều doanh nghiệp còn sẵn sàng dành một ngân sách khá lớn cho quảng cáo. Nhất là những doanh nghiệp có công ty mẹ ở nước ngoài có thể bảo trợ tiền tiếp thị, quảng cáo cho công ty con ở trong nước với số tiền quảng cáo trên 30% doanh thu mà không tính chuyện lời lãi. Giám đốc đối ngoại hang Oloria Jeans cho rằng: “chi phí quảng cáo không phải là khoản tiền bỏ phí, thậm chí cả trong trường hợp khoản tiền ấy không quay lại két sắt của bạn”. Các doanh nghiệp có thể quảng cáo ở trên khắp các phương tiện như báo, ti vi, radio, trên các con đường, các tòa nhà, các xe buýt…với các tần suất, vị trí và diện tích, thời lượng khác nhau tùy thuộc vào khả năng tài chính của bản thân doanh nghiệp, ví dụ như tập đoàn Unilever đã chi tới 25 triệu USD cho quảng cáo và dẫn đầu về ngân sách dành cho quảng cáo tại Việt Nam. Số liệu trong hai bảng sau (bảng 2 và bảng 3) sẽ minh chứng cho nhu cầu về quảng cáo của các doanh nghiệp:
Bảng 2 - 10 Nhãn hiệu quảng cáo nhiều nhất trên báo chí (năm 2004)
STT
Nhãn hiệu
Chi phí
(1.000 USD)
Số lần quảng cáo
1
FORD
638
572
2
Điện thoại di động SAMSUNG
563
449
3
Ô Tô TOYOTA
551
260
4
Điện thoại di động NOKIA
510
328
5
Bia TIGER
501
354
6
MERCEDES – BENZ
479
515
7
INTEL
459
296
8
Mỹ phẩm PON’D
392
187
9
Đồ điện tử gia dụng SAMSUNG
344
272
10
Bia HEINIKEN
343
267
(Nguồn: Thống kê của Hiệp hội quảng cáo Việt Nam)
Bảng 3 - 10 Nhãn hiệu quảng cáo nhiều nhất trên truyền hình (năm 2004)
STT
Nhãn hiệu
Chi phí
(1.000 USD)
Số lần quảng cáo
1
Bia TIGER
3.218
4.911
2
Mỹ phẩm PON’D
1.851
3.288
3
Dầu gội SUNSILK
1.822
3.325
4
Bột giặt OMO
1.718
4.078
5
TOBICOM & DOLODON
1.543
917
6
Dầu gội CLEAR
1.479
2.600
7
Bia HEINIKEN
1.476
2.117
8
Băng vệ sinh KOTEXSOFTINA
1.465
2.231
9
TOSHIBA
1.380
3.381
10
PEPSI
1.329
2.477
(Nguồn: Thống kê của Hiệp hội quảng cáo Việt Nam)
Với nhu cầu lớn như vậy về quảng cáo thì đã có thể đem lại một doanh thu rất lớn đối với ngành công nghiệp quảng cáo đang trên đà tăng trưởng. Theo báo Người Lao Động, dẫn nguồn của AC Nielsen Việt Nam, doanh số quảng cáo trong 6 tháng đầu năm 2005 tại nước ta đã đạt 136,3 triệu USD, tăng 23% so với cùng kỳ 2004 với giá trị quảng cáo cả nước là khoảng 5.000 tỷ đồng/năm. Như vậy doanh số quảng cáo từ con số khiêm nhường là 300 tỷ đồng vào năm 1994, để 10 năm sau đó, doanh số đã đạt trên 5.000 tỷ đồng trong năm 2005 và có xu hướng tăng nhanh, tỷ lệ thuận với mức tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân. Trong đó, có 3 thương hiệu đứng đầu trong quảng cáo là: điện thoại di động Nokia (2,75 triệu USD), bia Tiger (2,34 triệu USD), và Sunsilk (2,26 triệu USD).
Đồ thị 4 - Doanh thu quảng cáo tại Việt Nam năm 1999 – 2003
(Nguồn: Hiệp hội quảng cáo Việt Nam năm 2003)
Doanh số quảng cáo hằng năm tăng đều với chỉ số tăng trưởng cao đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng GDP cả nước. Nếu như trước đây hai loại hình quảng cáo là truyền hình và báo chí chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của cả toàn ngành thì giờ đây nó đã bị chia xẻ cho loại hình quảng cáo ngoài trời. Doanh số của quảng cáo ngoài trời ngày càng tăng mạnh do tính hiệu quả và khả năng nhắc nhở cao, cho phép quảng cáo ngoài trời là phương tiện hỗ trợ tuyệt vời cho các phương tiện quảng cáo khác. Có thể dễ dàng nhận thấy điều này thông qua biểu sau:
Bảng 5 - Ngân sách cho hoạt động quảng cáo tại Việt Nam năm 2004
(Đơn vị tính: tỷ đồng)
Thị trường
Các hoạt động truyền thông xây dựng Thương hiệu (xây dựng thương hiệu cả gói, phim truyền hình, Media…)
Biển quảng cáo tấm lớn
Thiết kế và in ấn
Khác
Tổng
(100%)
Mức
%
Mức
%
Mức
%
Mức
%
Miền Bắc
1200
60
500
25
300
15
200
10
2000
Miền Trung
300
60
100
20
50
10
50
10
500
Miền Nam
2500
62.5
700
17.5
500
12.5
300
7.5
4000
Tổng
4000
59.7
1300
19.4
850
12.7
550
8.2
6700
(Nguồn: Hiệp hội quảng cáo Việt Nam)
Ngoài ra, sự phát triển của các vật liệu mới và các kỹ thuật khoa học điện tử ngày càng được áp dụng vào ngành._. quảng cáo ngoài trời, thay vì các biển bảng được vẽ hay in đơn giản như trước kia thì giờ đây các phương tiện quảng cáo ngoài trời còn kể đến những bảng điện tử Led, những bảng xoay cho phép đưa thêm những thông tin và gây ấn tượng thu hút hơn đối với người qua lại. Thêm vào đó, sự đa dạng của phương tiện giao thông và sự sang tạo trong việc tìm địa điểm để đặt quảng cáo như trong sân vận động, các cabin điện thoại…tất cả chúng đều tạo ra những cơ hội lớn cho mọi doanh nghiệp có thể quảng bá thương hiệu của mình với chi phí không cao, điều đó cũng có nghĩa là mở ra nhưng cơ hội phát triển cho những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực quảng cáo ngoài trời.
Tuy nhiên, theo ông Trần Quý Cáp, Chủ tịch Hiệp hội quảng cáo Tp.HCM cho biết trên Vnexpress thì tổng giá trị quảng cáo của cả nước khoảng 5.000 tỷ đồng/năm, trong đó TP.HCM chiếm hơn 2.000 tỷ đồng. Và riêng chi phí cho quảng cáo ngoài trời là 300 tỷ đồng, tức là khoảng 15%, nhưng tính đến nay, đối với loại hình quảng cáo ngoài trời thành phố chỉ đạt 100 tỷ đồng. Như thế, so với cung, cầu vẫn còn thiếu trầm trọng và đòi hỏi sự nỗ lực của các nhà quảng cáo ngoài trời.
Khách hàng mục tiêu của dịch vụ quảng cáo ngoài trời:
Ai là khách hàng mục tiêu của dịch vụ quảng cáo ngoài trời? Liệu đó có phải là những công chúng mà thông điệp quảng cáo nhắm tới không? Câu trả lời ở đây là không mặc dù công chúng chính là cái đích mà thông điệp quảng cáo hướng tới, nhưng họ lại không phải là những người thuê và trả tiền cho các hãng quảng cáo này mà đó là các chủ thể quảng cáo, hay còn gọi là bên thuê quảng cáo. Họ là những người muốn bán sản phẩm hoặc tác động đến hành vi tiêu dùng của một nhóm đối tượng nào đó, họ hình thành lên các mục tiêu để đạt được kết quả này và tiếp xúc với các công ty quảng cáo để truyền đạt mục tiêu của mình. Khi doanh nghiệp thuê quảng cáo chọn được một công ty quảng cáo thay mình làm việc này thì họ đã trở thành khách hàng của công ty quảng cáo.
Có hai hình thức để chủ thể quảng cáo lựa chọn một công ty quảng cáo. Một là chọn công ty quảng cáo độc lập, hai là lập nên một bộ phận quảng cáo trong nội bộ doanh nghiệp, tức là doanh nghiệp tự mình làm lấy. Tuy nhiên, lựa chọn thứ 2 thường chỉ có những doanh nghiệp lớn, có những nhân viên chuyên nghiệp trong lĩnh vực quảng cáo mới lựa chọn. Còn đối với phần lớn doanh nghiệp thì họ lựa chọn phương án 1. Lý do là vì: Thứ nhất, không phải công ty nào cũng có khả năng tự thiết kế maket và thực hiện quảng cáo; Thứ hai, họ muốn tiết kiệm chi phí, họ không thể thực hiện các hoạt động quảng cáo một cách chuyên nghiệp như các chuyên gia về quảng cáo như các hoạt động: nghiên cứu đối tượng nhận tin, thiết kế, lựa chọn phương tiện quảng cáo, tổ chức các sự kiện …; Thứ ba, họ có thể nhận được những tư vấn, đóng góp quí báu từ các chuyên gia có kinh nghiệm và am hiểu thị trường quảng cáo.
Trong mối quan hệ giữa công ty quảng cáo và bên thuê quảng cáo thì bên thuê quảng cáo có vai trò là người xác định thông điệp quảng cáo, còn công ty quảng cáo có nhiệm vụ mã hóa những mục tiêu của doanh nghiệp thuê quảng cáo sang những hình ảnh, âm thanh, từ ngữ… rồi đưa các thông điệp được mã hóa này lên các phương tiện truyền thông để tiếp cận với khán giả mục tiêu hay là những khách hàng mục tiêu của bên thuê quảng cáo. Mối quan hệ này có thể ví như mối quan hệ vợ chồng, một khi mối quan hệ được hình thành thì nó không đơn thuần chỉ để hoàn thành công việc mà nó còn sản xuất ra những mẫu quảng cáo đẹp, mới mẻ và sáng tạo làm tăng đáng kể doanh số của chủ thể quảng cáo. Nhưng mối quan hệ này ít khi được kéo dài nhiều thập kỉ, thông thường thì mối quan hệ này thường xuyên thay đổi.
Sơ đồ 6 - Mối quan hệ giữa công ty quảng cáo và công ty thuê quảng cáo:
Doanh nghiệp thuê quảng cáo
Công ty quảng cáo
Phương tiện truyền thông
Khán giả mục tiêu
Hình thành thông điệp
Mã hóa thông điệp
Chuyển tải thông điệp
Giải mã và lĩnh hỗi thông điệp
Công ty quảng cáo cũng giống như các doanh nghiệp sản xuất khác, họ cũng phải xác định khách hàng mục tiêu cho mình. Việc xác định này cũng dựa trên sự phân đoạn thị trường của công ty với 3 tiêu thức chính sau:
Tính chất sản xuất hay thương mại của doanh nghiệp.
Tính chất của sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra.
Quy mô kinh doanh hay ở đây được xét trên khả năng chi trả cho hoạt đông quảng cáo của họ.
2.1 Tính chất sản xuất hay thương mại của doanh nghiệp.
Đây cũng là một chỉ tiêu cần quan tâm khi doanh nghiệp muốn phân đoạn thị trường và lựa chọn đoạn thị trường phù hợp. Doanh nghiệp là nhà sản xuất hay thương mại thì khách hàng mà các thông điệp quảng cáo hướng tới sẽ khác nhau. Những doanh nghiệp sản xuất thì đối tượng họ mà họ muốn thông điệp của mình hướng tới là những trung gian thương mại, các đại lý phân phối, các nhà bán buôn… vì vậy quảng cáo của họ phải có nội dung và thông điệp phù hợp với nhóm khách hàng này, vị trí đặt biển quảng cáo của họ cũng là những nơi mà các đối tượng khách hàng của họ dễ dàng nhìn thấy hay đi qua thường xuyên, ví dụ như địa điểm gần các trung tâm bán buôn… Các doanh nghiệp thương mại thì đối tượng mục tiêu của họ lại là những người tiêu dùng, do vậy biển quảng cáo thường được thiết kế vui nhộn, gây ấn tượng và được đặt ở những nơi đông người qua lại và dễ gây chú ý của người qua đường. Chính vì thế, tính chất sản xuất hay thương mại của khách hàng ảnh hưởng đến cách họ yêu cầu đối với tấm quảng cáo ngoài trời, do vậy nó cũng ảnh hưởng đến những bản đề xuất mà công ty quảng cáo đưa ra để thuyết phục khách hàng.
2.2 Tính chất của sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra.
Sản phẩm đóng vai trò quan trọng trong việc phân đoạn thị trường quảng cáo. Bởi mỗi loại sản phẩm có những ưu thế khác nhau khi được truyền tải trên các phương tiện khác nhau. Có thể sản phẩm này phù hợp với loại hình này nhưng khi đưa ra quảng cáo trên phương tiện khác thì lại gây phản cảm, chẳng hạn như đối với sản phẩm băng vệ sinh có thể quảng cáo trên truyền hình với thời điểm quảng cáo tế nhị, nhưng nếu quảng cáo trên các tấm lớn mà quảng cáo không khéo thì rất dễ gây đến sự phản cảm của công chúng và làm mất mỹ quan đô thị. Điều này đòi hỏi nhà quảng cáo phải nắm rõ những sản phẩm hàng hóa của khách hàng mục tiêu để có thể thiết kế những thông điệp quảng cáo thích hợp hay giúp khách hàng lựa chọn phương tiện quảng cáo phù hợp và đạt hiệu quả. Bảng 7 và bảng 8 dưới đây sẽ phần nào cho thấy mối quan hệ giữa ngành hàng và phương tiện quảng cáo.
Bảng 7 - Những ngành quảng cáo trên báo chí nhiều nhất:
STT
Ngành hàng
Số lần
quảng cáo
1
Sản phẩm và dịch vụ vệ sinh cá nhân và làm đẹp
7.134
2
Thức uống
5.837
3
Thuốc và dụng cụ y tế
8.512
4
Quảng cáo tổng hợp
17.499
5
Thiết bị và phương tiện giao thông vận tải
5.002
6
Thiết bị và dịch vụ thông tin liên lạc viễn thông
6.146
7
Thiết bị gia công
4.947
8
Máy tính, máy in
5.202
9
Vận chuyển và du lịch
14.777
10
Khác
6.991
(Nguồn: Hiệp hội quảng cáo Việt Nam năm 2004)
Bảng 8 - Những ngành quảng cáo trên truyền hình nhiều nhất:
STT
Ngành hàng
Số lần quảng cáo
1
Sản phẩm và dịch vụ vệ sinh cá nhân và làm đẹp
54.362
2
Thức uống
45.502
3
Thực phẩm
24.680
4
Thuốc và dụng cụ y tế
25.454
5
Sản phẩm & dịch vụ vệ sinh nhà cửa
15.350
6
Thiết bị gia dụng
9.783
7
Thiết bị và phương tiện giao thông vận tải
5.825
8
Thiết bị và dịch vụ về phim ảnh, nghe nhìn
5.656
9
Đồ đạc gia đình
5.043
10
Thiết bị và dịch vụ thông tin liên lạc viễn thông
4.572
(Nguồn: Hiệp hội quảng cáo Việt Nam năm 2004)
Qua các biểu trên, ta thấy rằng sản phẩm và dịch vụ vệ sinh cá nhân và làm đẹp là những loại sản phẩm và dịch vụ quảng cáo nhiều nhất trên truyền hình với số lần là 54.362, trong khi đó, quảng cáo nhiều nhất trên báo chí thì lại là quảng cáo tổng hợp, còn sản phẩm và dịch vụ vệ sinh cá nhân và làm đẹp thì quảng cáo không nhiều, chỉ có 7.134 lần. Đồng thời, có thể thấy rằng, đối với những doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng thì họ thường chọn những phương tiện quảng cáo có thể hướng tới số đông công chúng như các phương tiện truyền hình, radio, báo chí và quảng cáo ngoài trời. Trong khi đó, các doanh nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, do khách hàng của họ là những tổ chức công nghiệp nên họ lựa chọn những phương tiện quảng cáo nhắm đến một nhóm đối tượng nhất định như thư trực tiếp, Marketing trực tiếp, các tạp chí chuyên ngành, hay những tấm pano/áp phích, hay tấm lớn tại những đường cao tốc hay trên những con đường có thể dẫn tới những khu công nghiệp. Như vậy, mỗi một loại sản phẩm hay dịch vụ đều ảnh hưởng đều việc lựa chọn phương tiện quảng cáo.
2.3 Khả năng chi trả cho hoạt đông quảng cáo của họ.
Khả năng tài chính và ngân sách của chủ thể quảng cáo có tác động rất lớn đến việc lựa chọn phương tiện quảng cáo của họ. Chẳng hạn, những doanh nghiệp lớn dành một ngân sách khá lớn cho quảng cáo thì họ tiến hành quảng cáo trên hầu hết các phương tiện quảng cáo, đặc biệt là các phương tiện truyền thông như truyền hình và các tạp chí lớn, bởi những phương tiện này thu hút một số lượng lớn khán giả. Ví dụ: như nhãn hiệu bia TIGER năm 2004 đã chi tới 3.718.000 USD cho quảng cáo với 5265 spot quảng cáo trên truyền hình và báo chí tại thị trường Việt Nam. Hay như một số công ty nước ngoài lớn muốn thiết kế một poster hay biển tấm lớn ấn tượng, độc đáo do một ekip chuyên nghiệp từ đạo diễn chụp ảnh đến người thợ chụp ảnh thì họ sẵn sàng chi ra 3000-5000 USD để được như ý. Liệu đối với những công ty nhỏ liệu có dám “chơi” vậy không.
Dựa vào chỉ tiêu phân đoạn này mà doanh nghiệp quảng cáo có thể phân làm những đoạn thị trường có quy mô khác nhau. Công ty quảng cáo sẽ dựa trên khả năng của mình để lựa chọn đoạn thị trường phù hợp. Đối với những công ty quảng cáo có kinh nghiệm, uy tín và đặc biệt là “sự sáng tạo” và chuyên nghiệp thì dễ dàng có được lòng tin từ những khách hàng qui mô lớn hơn này có khả năng đáp ứng và làm hài lòng khách hàng khó tính này.
Đặc điểm khách hàng mục tiêu của dịch vụ quảng cáo ngoài
trời:
Như đã nói ở trên, quảng cáo ngoài trời là một phương tiện quảng cáo đã có từ lâu, các doanh nghiệp từ lớn đến nhỏ đều nhận thấy tầm quan trọng của nó nên hầu như tất cả các doanh nghiệp đều không bỏ qua hình thức này. Chính ví thế khách hàng mục tiêu của dịch vụ này rất đa dạng và hầu như là toàn bộ, thậm chí là từ những cửa hàng nhỏ với biển, bảng đặt ở cửa hang tới những doanh nghiệp có quy mô lớn, có công ty mẹ ở nước ngoài, hoạt động với hang trăm nhân viên và ngân sách cho quảng cáo lên tới vài chục triệu USD/năm. Những doanh nghiệp lớn thì coi đây là một phương tiện để nhắc nhở, bổ trợ cho những phương tiện quảng cáo khác trong chiến lược của mình. Đối với những doanh nghiệp nhỏ, khả năng và ngân sách dành cho quảng cáo không nhiều thì họ lựa chọn phương tiện này như là một công cụ chính để có thế hướng tới khách hàng một cách hiệu quả nhất vì chỉ số tiếp cận lớn mà chi phí lại không cao. Những doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng thì thường lựa chọn địa điểm đặt biển là những nơi công cộng, đông người qua lại. Khác với những doanh nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất thì họ thường lựa chọn những nơi mà những người chủ doanh nghiệp qua lại và có thể nhìn thấy như trên các đường cao tốc, sân bay…
Sự cạnh tranh trong thị trường kinh doanh loại dịch vụ này:
Theo thống kê của Hiệp hôi quảng cáo, hiện cả nước có hơn 3.000 đơn vị chuyên kinh doanh dịch vụ quảng cáo, gần 500 cơ quan báo chí với hơn 600 ấn phẩm báo in, hơn 60 đài phát thanh - truyền hình. Và theo dự báo của các chuyên gia, đến năm 2020, doanh thu quảng cáo của Việt Nam có thể đạt 24.000 tỷ đồng. Quả thật thị trường quảng cáo đang là một miếng bánh béo bở cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này, và đây cũng là nguyên nhân dẫn tới sự cạnh tranh quyết liệt trong thị trường này.
Thị trường quảng cáo của nước ta mới thực sự bắt đầu từ những năm 1990, khi ấy thị trường quảng cáo còn chủ yếu là ở hình thức quảng cáo ngoài trời với các pano/áp phích lớn, các mẫu biển ngoài cửa hàng…và cũng chỉ có một vài gương mặt như: Quảng cáo Trẻ, Quảng cáo Sài Gòn, Vinataf…và chủ yếu những công ty được nâng cấp từ những cửa hàng in ấn hay vẽ biển quảng cáo. Sau 15 năm phát triển, ngành quảng cáo Việt Nam đã có những chuyển biến đáng kể. Không chỉ là những pano/áp phích nữa mà còn có các loại hình mới như các biển tấm lớn với diện tích lên tới 200 m2, các biển điện tử, đèn mầu, những cột đèn xoay…, ngoài ra các phương tiện quảng cáo không còn chỉ dừng lại ở quảng cáo ngoài trời mà còn phát triển những phương tiện truyền thông khác như truyền hình, báo chí, internet…Ý thức về quảng cáo của các doanh nghiệp Việt Nam cũng được nâng lên rõ rệt, nhiều doanh nghiệp sẵn sàng chấp nhận chi phí phát song một chương trình quảng cáo trên truyền hình với thời lượng chỉ 30 giây mà chi phí khoảng vài chục triều đồng, hoặc dám chi tới cả tỷ đồng để dựng một thước phim quảng cáo vừa ý. Doanh thu quảng cáo năm 2005 lên tới 5000 tỷ USD, và chắc chắn sẽ tăng mạnh trong các năm tới cùng với sự bùng phát của các phương tiện truyền thông.
Tuy nhiên, với miếng bánh béo bở của thị trường quảng cáo thì các doanh nghiệp Việt Nam chỉ chiếm một phẩn nhỏ, khoảng 20%, còn lại thì thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài. Các tập đoàn lớn như Unilever, Colgate, Coca Cola, Pepsi…thâm nhập vào thị trường Việt Nam thì các hang quảng cáo nước ngoài cũng theo đó mà tràn vào Việt Nam. Hiện nay, có khoảng 30 doanh nghiệp quảng cáo nước ngoài đang hoạt động tại thị trường quảng cáo nước ta, trong đó phải kể tới những đại gia: JW.Thompson (thuộc tập đoàn WPP gồm 4 công ty con là Mindshare, Ogily&Mather, Worldwide, JW.Thompson và Y&R), Mc Can, Sattchi, Densu…Bằng tiềm lực tài chính và sự chuyên nghiệp, uy tín của mình, các doanh nghiệp Việt Nam đa chiếm tới 80% doanh thu của thị trường quảng cáo tại nước ta, trong đó, riêng JW.Thompson đã chiếm 40% thị phần của thị trường quảng cáo và họ có doanh thu trung bình 500 tỷ đồng/năm, trong khi đó, công ty quảng cáo có tầm cỡ tại nước ta là Đất Việt cũng chỉ có doanh thu trung bình là 10 – 15 triệu USD/năm, quả là một sự so sánh khập khiễng. Từ đó có thể thấy mức độ cạnh tranh khốc liệt giữa các công ty với nhau, giữa các công ty nước ngoài với công ty trong nước và cả giữa những công ty nội địa với nhau.
Mặc dù sự cạnh tranh giữa các công ty nước ngoài và công ty Việt Nam gay gắt nhưng lại không trực tiếp. Đó là vì sự khác biệt về khách hàng mục tiêu của các công ty này khác nhau và loại hình cung cấp dịch vụ cũng khác nhau. Các công ty nước ngoài hướng đến những khách hàng có quy mô lớn và tập trung vào cung cấp các dịch vụ sáng tạo, tư vấn thương hiệu, sản xuất phim quảng cáo…Còn các công ty trong nước thì lại phát huy các thế mạnh của mình trong các dịch vụ về quảng cáo ngoài trời như các biển quảng cáo tấm lớn, các pano/áp phích và PR vì đây là những lĩnh vực có lợi nhuận cao, chi phí lại không quá lớn và không đòi hỏi quá nhiều ý tưởng hay với kỹ thuật cao. Nhưng do mỗi doanh nghiệp đều có một ngân sách quảng cáo nhất định nên họ phải có sự cân nhắc, phân chia giữa các phương tiện quảng cáo nên sự cạnh tranh này vẫn phải tính đến trong thị trường quảng cáo ngoài trời.
Trong khi đó thì sự cạnh tranh giữa các công ty nội địa lại là trực tiếp khốc liệt. Bởi vì những công ty này đều cung cấp những dịch vụ giống nhau và nhắm đến những đoạn thị trường với khách hàng mục tiêu giống nhau. Riêng trên thị trường Hà Nội đã có hàng chục công ty cung cấp dịch vụ này. Mỗi một công ty có có mối quan hệ khác nhau với chính quyền địa phương, với đơn vị sở tại (nơi đặt biển quảng cáo) và vì thế tạo lên thế mạnh riêng. Lấy ví dụ Goldsun rất mạnh về quảng cáo tấm lớn tại các tuyến đường cao tốc, trong khi đó, Golden Eyes lại nắm hầu như hoàn toàn các biển tấm lớn trong các sân bay, Hà Thái và Bình Minh chia nhau các biển quảng cáo trong nội thành. Do vậy, muốn tồn tại trong thị trường này thì các doanh nghiệp quảng cáo nói chung và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực quảng cáo ngoài trời nói riêng đều cần phải hoàn thiện bản thân và nâng cao chuyên môn, đồng thời luôn tìm tòi những ý tưởng sáng tạo để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Xu hướng chuyên môn hóa và hợp tác hóa trong quá trình phát triển kinh doanh dịch vụ Quảng cáo ngoài trời.
Quá trình hình thành một biển quảng cáo ngoài trời của công ty kinh doanh dịch vụ quảng cáo ngoài trời:
Sơ đồ 9 - Quá trình hình thành một biển quảng cáo ngoài trời của công ty kinh doanh dịch vụ quảng cáo ngoài trời:
Tìm kiếm khách hàng
(Tiếp xúc khách hàng & Tìm hiểu nhu cầu khách hàng)
Xác định vị trí đặt biển quảng cáo
Thỏa thuận với khách hàng về những yêu cầu của biển bảng quảng cáo – Ký kết hợp đồng
Đo đạc, khảo sát địa điểm lắp đặt biển quảng cáo
Thiết kế maket quảng cáo và để khách hàng duyệt, sửa chữa nếu cần thiết
Sản xuất biển bảng theo maket đã hoàn chỉnh và được khách hang phê duyệt
Chuyển giao và lắp đặt biển bảng tại nơi yêu cầu cho khách hàng
Bảo dưỡng và bảo trì bảng quảng cáo
* Nếu địa điểm đặt biển là của doanh nghiệp cho khách hàng thuê thì trước bước 2 doanh nghiệp đã phải thực hiện một số công việc sau:
Tìm địa điểm để đặt biển bảng.
Làm việc với người sở hữu địa điểm đó và các cơ quan có liên quan.
* Nếu địa điểm đặt biển không thuộc sở hữu của doanh nghiệp quảng cáo hay của doanh nghiệp thuê quảng cáo thì tại bước 2, công ty quảng cáo phải đi tìm những địa điểm thích hợp theo yêu cầu của khách hàng.
Bước 1: Tìm kiếm khách hàng.
Bước này được thực hiện bởi những nhân viên kinh doanh của các doanh nghiệp quảng cáo. Nhiệm vụ của họ là phát hiện ra những nhu cầu của khách hàng, tiếp xúc với những khách hàng mục tiêu và tìm hiểu nhu cầu của họ. Có hàng trăm doanh nghiệp có khả năng và tiềm lực tài chính để tiến hành quảng cáo ngoài trời nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có nhu cầu, và không phải nhu cầu nào của các khách hàng cũng giống nhau. Chính vì thế việc phát hiện nhu cầu của khách hàng là một công việc khó khăn và hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp quảng cáo.
Sau khi đã phát hiện được nhu cầu của các khách hàng, các nhân viên kinh doanh của các hãng quảng cáo bắt đầu lập kế hoạch tiếp xúc. Quá trình tiếp xúc này rất quan trọng, nó giúp các nhân viên kinh doanh của hang quảng cáo có thể tìm ra được những nhu cầu thực sự và chi tiết của các khách hàng từ đó mới có thể tư vấn hay thiết kế sẵn để thu hút và thuyết phục được khách hàng. Những thông tin cơ bản mà các nhân viên cần thu thập khi tiếp xúc với khách hàng là:
Nhu cầu về loại hình biển
Sản phẩm cần quảng cáo
Địa điểm khách hàng muốn đặt biển quảng cáo
Ngân sách của khách hàng
Một số thông tin để liên hệ
Bước 2: Xác định vị trí đặt biển quảng cáo.
Lúc này các nhân viên kinh doanh đã có thể nắm bắt được phần nào nhu cầu của khách hàng. Họ sẽ xem xét những vị trí biển sẵn có hoặc những vị trí có thể đặt biển mà phù hợp với nhu cầu quảng cáo của khách hàng và đưa ra một bản đề xuất để gửi khách hàng. Bản đề xuất này có thể bao gồm những thông tin sau:
Địa điểm, tuyến đường
Kích thước biển
Diện tích biển
Sơ đồ vị trí
Độ dài tiếp cận
Tốc độ xe chạy
Góc nhìn của tấm biển quảng cáo
Những bảng biển cạnh tranh ở gần vị trí đó.
Những ưu, nhược điểm của vị trí đặt biển này.
Khi nghiên cứu để tìm ra vị trí đặt biển hợp lý thì các công ty quảng cáo đều chú ý đến 4 yếu tố chính sau:
Độ dài tiếp cận không có trở ngại, tức là khoảng cách mà từ đó địa điểm trở nên hoàn toàn dễ nhìn đối với những người qua lại.
Tốc độ xe chạy: càng chậm càng tốt, giao thông hướng tới địa điểm đó hay từ đó đi một chiều?
Đặc điểm của địa điểm đặt biển: tạo góc, song song với đường giao thông hay chặn phía trước? Biển đặt tạo góc thì dễ thấy vì xe thường tiếp cận theo một hướng. Nếu đặt song song thì nó sẽ được quan sát khi đoạn đường đó là đường hai chiều. Còn nếu đặt chặn phía trước thì xe tiếp cận khi chuẩn bị đến đoạn rẽ.
Các vùng lận cận xung quanh: có gần các trung tâm mua bán không? Có sự cạnh tranh từ các biển quảng cáo khác xung quanh không? Biển quảng cáo có gần các điểm đèn xanh đỏ không? Vì đèn đỏ tạo cho người qua đường nhiều thời gian để đọc biển quảng cáo.
Bước 3: Thỏa thuận với khách hàng về những yêu cầu của biển bảng quảng cáo – Ký kết hợp đồng.
Nhân viên kinh doanh của công ty quảng cáo sau khi đã thiết kế được bản đề xuất thì lại tiếp xúc lần nữa với khách hàng để tìm kiếm hợp đồng quảng cáo. Lần náy, nhân viên kinh doanh trình bày với khách hàng về bản đề xuất dựa trên những nhu cầu của họ, đồng thời báo giá để khách hàng có thể xem xét và đánh giá. Trong quá trình này, khách hàng có thể có những thương lượng bổ xung hay thay đổi một chút đối với bảng đề xuất. Hoặc khách hàng đã có kế hoạch cụ thể rồi thì ở giai đoạn này họ có thể đưa ra những yêu cầu hay chỉ dẫn cụ thể. Khi khách hàng hài lòng và quyết định lựa chọn doanh nghiệp thì nhân viên kinh doanh chuẩn bị hợp đồng để lãnh đạo hay người có thẩm quyền của hai bên ký kết.
Bước 4: Đo đạc, khảo sát địa điểm lắp đặt bảng quảng cáo.
Công việc này được thực hiện bởi nhân viên kinh doanh hoặc một nhân viên kĩ thuật nào đó, bao gồm đo đạc, chụp ảnh địa điểm đặt bảng để chuẩn bị số liệu chính xác cho khâu thiết kế.
Bước 5: Thiết kế Maket quảng cáo và để khách hàng phê duyệt, sửa chữa nếu cần thiết.
Dựa trên những số liệu và hình ảnh thực tế thu được, nhân viên thiết kế tiến hành thiết kế và lên Maket cho bảng quảng cáo. Trong quá trình thiết kế thì cần căn cứ trên những yêu cầu của khách hàng, và biển bảng được dung để quảng cáo cho sản phẩm gì, đồng thời dựa trên khả năng tài chính của khách hàng để thiết kế bảng quảng cáo đảm bảo mục tiêu của khách hàng được thực hiện ở mức cao nhất trong khả năng chi trả của họ.
Sau khi hoàn thành Maket quảng cáo thì nhân viên kinh doanh đem gửi cho khách hàng để họ phê duyệt có thể gửi bằng cách trực tiếp hay gửi qua email hoặc thư cho khách hàng. Khách hàng xem xét và đánh giá Maket, nếu có điểm nào chưa hài lòng họ sẽ gửi lại cho công ty quảng cáo để bộ phận thiết kế thiết kế sửa chữa lại cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Và quá trình này có thể lặp lại nhiều lần cho đến khi Maket quảng cáo làm khách hàng ưng ý.
Bước 6: Sản xuất biển bảng theo Maket đã được hoàn chỉnh và khách hàng phê duyệt. Việc sản xuất biển bảng do bộ phận sản xuất làm dựa theo Maket cuối cùng.
Bước 7: Chuyển giao và lắp đặt biển bảng tại vị trí đã được lựa chọn. Gần như có thể coi đây là bước cuối cùng của quá trình hoàn thành biển quảng cáo ngoài trời của công ty quảng cáo. Công việc này chỉ tiến hành trong một thời gian ngắn, lâu nhất là 1 ngày.
Bước 8: Bảo dưỡng, bảo trì biển bảng. Công việc này thường được làm đều đặn trong suốt thời hạn hợp đồng (nếu trong hợp đồng, doanh nghiệp thuê quảng cáo có yêu cầu).
Xu hướng phân công lao động giữa các doanh nghiệp trong lĩnh vực quảng cáo ngoài trời:
Nền kinh tế càng phát triển thì các ngành đều cần phải chuyên môn hóa vì sự chuyên môn hóa giúp cho quá trình sản xuất nhanh hơn và hiệu quả hơn bởi nó được hoạt động dựa trên thế mạnh của mỗi người, mỗi tổ chức hay mỗi doanh nghiệp. Chính vì thế sự chuyên môn hóa là một quá trình tất yếu và cân thiết. Ngành công nghiệp quảng cáo nói chung và quảng cáo ngoài trời nói riêng cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Sự phân công lao động trong lĩnh vực quảng cáo là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với mong muốn cũng như xu hướng thời đại. Có những công ty quảng cáo có khả năng thuyết phục và thu hút khách hang tốt, trong khi đó, có nhưng công ty quảng cáo lại có sức sang tạo lớn, và có những công ty lại có mối quan hệ tốt với các địa phương thì lại có lợi thế trong việc thuê địa điểm đặt bảng…Như vậy, mỗi một công ty có những lợi thế nhất định, họ có ưu thế trong những lĩnh vực mà họ mạnh nhưng lại hoạt động không hiệu quả trong những mặt khác. Do vậy chuyên môn hóa là một điều hợp lý, nó phân chia công việc cho các thành viên trong thị trường quảng cáo theo những lợi thế mà thành viên đó có được. Vì thế, thị trường quảng cáo trở nên hiệu quả hơn khi có sự phân công lao động.
Quá trình hoàn thành một biển quảng cáo ngoài trời như trên phân tích là một quá trình bao gồm nhiều bước, nhiều công đoạn và hòa theo xu hướng phân công lao động thì các công đoạn này có thể được phân chia riêng ra cho từng doanh nghiệp quảng cáo và hình thành lên một thị trường quảng cáo đa dạng với sự tồn tại của các loại hình doanh nghiệp sau:
+ Những doanh nghiệp chỉ là những nhà trung gian đơn thuần: chỉ có nhiệm vụ là tìm kiếm khách hàng và chuyển giao “sản phẩm” cho khách hàng. Họ cũng giống như những nhà thương mại mang đậm tính chất buôn bán, kinh doanh và dường như tách hẳn khỏi tính chất sản xuất. Công việc của nhóm doanh nghiệp này tương ứng với bước 1 và bước 6, 7. Tuy nhiên bước 6 và bước 7 chỉ là trên doanh nghĩa còn làm thực sự là do bên đối tác của họ, chính là những doanh nghiệp hay cơ sở mà doanh nghiệp này thuê làm biển.
+ Những doanh nghiệp có thể bao hàm các bước chỉ trừ bước 6 trong cả quá trình hoàn thành một biển quảng cáo ngoài trời, tức là doanh nghiệp làm từ khâu tìm kiếm, thỏa thuận, lựa chọn vị trí, đo đạc, thiết kế Maket đến khâu bảo dưỡng bảo trì. Nhưng do một số lý do hay không có điều kiện lập xưởng sản xuất nên bỏ qua khâu này.
+ Những doanh nghiệp chỉ làm nhiệm vụ sản xuất mà thôi. Họ nhận maket từ các doanh nghiệp khác và làm theo đúng Maket đó. Những doanh nghiệp như thế này chỉ mang tính sản xuất nhiều hơn. Và những doanh nghiệp này thường có quy mô nhỏ, bắt nguồn từ những cửa hàng in ấn, vẽ biển trước đây. Do vậy thế mạnh của họ là vẽ và làm biển quảng cáo.
+ Những doanh nghiệp làm nhiệm vụ sản xuất và thiết kế biển bảng theo hợp đồng từ doanh nghiệp trung gian nào đó. Họ ở đây đã tham gia vào quá trình hoàn thành biển quảng cáo ngoài trời ở bước 5 và bước 6. Những doanh nghiệp như thế này dường như là phần bổ xung cho những doanh nghiệp là những nhà trung gian đơn thuần.
+ Những doanh nghiệp giống như những người cho thuê địa điểm để các doanh nghiệp quảng cáo khác thuê để đặt biển, bảng. Những địa điểm mà họ có có thể là họ mua, hoặc cũng có thể là đi thuê lại trực tiếp từ những người chủ sở hữu hay từ chính quyền địa phương. Công việc của họ là “ngao du” trên khắp các đường phố, con đường và phát hiện ra những địa điểm lý tưởng để đặt biển. Khi tìm được địa điểm “đẹp” thì họ tiến hành làm việc với các chủ sở hữu và chính quyền địa phương để mua hay thuê. Sau khi hoàn thành các công việc trên thì họ cho xây dựng khung để đặt biển quảng cáo. Và khi có hợp đồng thuê vị trí của họ thì họ cũng có thể làm luôn nhiệm vụ bảo trì, bảo dưỡng và trông coi biển quảng cáo.
+ Những doanh nghiệp thực hiện từ a đến z các công đoạn của một quá trình hoàn thành biển quảng cáo ngoài trời. Để làm được tất cả các khâu trong quá trình đó thì doanh nghiệp phải thực sự có quy mô lớn, có tiềm lực cà về tài chính, nhân lực và quản lý.
Nhưng nhìn chung trong thị trường quảng cáo ngoài trời hiện nay của nước ta thì sự phân công lao động chưa thực sự rõ rang và khái quà. Các doanh nghiệp thường mang tính tự phát, họ lựa chọn cho mình những bước trong quá trình tùy thuộc vào khả năng và thế mạnh, thậm chí các bước đó có thể là riêng rẽ và rời dạc. Do vậy, một công ty quảng cáo đôi khi có thể thuộc về nhiều loại hình đã được phân chia như trên.
Vị trí của công ty Thương mại và Mỹ thuật Hà Thái trong hệ
thống phân công lao động trong lĩnh vực quảng cáo ngoài trời.
Công ty Thương mại và Mỹ thuật Hà Thái vốn xuất thân từ một xưởng quảng cáo chuyên thiết kế, sản xuất biển, bảng quảng cáo nhưng trong quá trình hoạt động thấy việc duy trì xưởng với công việc sản xuất không có hiệu quả và đem lại lợi nhuận nhiều nên Hà Thái đả bỏ xưởng. Với thế mạnh về nguồn nhân lực, do hầu hết bộ phận giám đốc của công ty đều là những người đã tốt nghiệp ở các trường Mỹ thuật tại Hà Nội và cũng đã có thời gian tu nghiệp ở nước ngoài, cộng với đội ngũ nhân viên là những người trẻ, sức sáng tạo lớn nên ưu thế của Hà Thái là khả năng thiết kế. Đồng thời, Hà Thái trong quá trình hoạt động trước đây đã có những mối quan hệ với các khách hàng lớn, do vậy, Hà Thái đã phát huy thế mạnh của mình và lựa chọn phương hướng cho mình là một công ty trung gian làm nhiệm vụ tìm kiếm khách hàng, thiết kế và chuyển giao “sản phẩm cuối cùng” cho khách hàng.
Ngoài ra, Hà Thái cũng nhận thấy việc cho thuê địa điểm đặt biển là một ngành đem lại nhiều lợi nhuận và có thể đem lại thu nhập hàng năm cho doanh nghiệp, do vậy Hà Thái cũng là một doanh nghiệp cho thuê địa điểm đặt biển. Và hiện tại Hà Thái đang sở hữu 5 địa điểm đẹp trên cầu Chương Dương – nơi có số lượng người qua rất đông, lên tới nghìn người/ngày.
Với cả hai công việc trên thì Hà Thái có thể tách riêng hay cũng có thể kết hợp chúng với nhau. Tuy nhiên, việc kết hợp đem đến cho Hà Thái không chỉ hợp đồng thuê địa điểm mà còn cả hợp đồng quảng cáo. Hà Thái dựa trên địa điểm mình có sẵn và nhu cầu mong muốn của khách hàng, đưa ra một kế hoạch phù hợp với sản phẩm, dịch vụ của khách hàng và đưa đến mời họ xem xét và thuyết phục họ bằng chính sự sáng tạo trong bản kế hoạch.
Chương II
Thực trạng kinh doanh và hoạt động Marketing của
công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái
I. Khái quát về công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái
Lịch sử hình thành, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái.
1.1. Khái quát về công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái.
Tên giao dịch: Công ty TNHH Mỹ thuật và Thương mại Hà Thái
Tên viết tắt: Hathaiart
Hình thức sở hữu: Tư nhân
Địa chỉ giao dịch: 20 Láng Hạ, tầng 7 tòa nhà Seaprodex – Đống Đa – Hà Nội
Điện thoại: 04.7762431/7762432
Fax: 04.8359142
Website: www.hathaiart.com.vn
Email: ads@hathaiart.com.vn
Lĩnh vực kinh doanh: Quảng cáo thương mại
Cơ quan chủ quản: Sở Văn hóa thông tin
Danh mục sản phẩm:
+ Quảng cáo thương mại.
+ Quảng cáo trên các phương tiện công cộng, biển tấm lớn, tấm nhỏ các loại.
+ Thiết kế dàn dựng nội thất, triển lãm, showroom.
+ Sản xuất, thiết kế vật phẩm quảng cáo.
+ In ấn ấn phẩm quảng cáo.
+ Tổ chức hội chợ, hội thảo, hội nghị chuyên đề.
+ Buôn bán vật tư, thiệt bị phục vụ Quảng cáo thương mại.
Lĩnh vực chủ yếu: Quảng cáo trên tấm biển tấm lớn, tấm nhỏ các loại
1.2. Lịch sử hình thành công ty Thương._.phương ngoài các thành phố thì nhu cầu quảng cáo ở đây là rất thấp, các doanh nghiệp địa phương có qui mô nhỏ lẻ thường ít quan tâm đến quảng cáo và không hiểu hết vai trò của quảng cáo trong hoạt động kinh doanh của mình, do vậy nhu cầu quảng cáo ở đây chủ yếu xuất phát từ các doanh nghiệp lớn, có phạm vi hoạt động trên toàn quốc mà thôi. Với tiêu thức này, thị trường quảng cáo ngoài trời được chia thành ba đoạn thị trường là đoạn thị trường các thành phố lớn với thị trường quảng cáo ngoài trời nhộn nhịp như chính bản thân nó và đoạn thị trường những thành phố nhỏ, thị xã, thị trấn, cuối cùng là đoạn thị trường của những vùng sâu, vùng xa, miền núi…(thị trường này hầu như không có nhu cầu quảng cáo ngoài trời nên không một doanh nghiệp nào quan tâm đến đoạn thị trường này).
Từ những tiêu thức phân đoạn như trên thì thị trường quảng cáo ngoài trời có thể được phân đoạn thành những đoạn thị trường nhỏ với những đặc điểm và tiềm năng phát triển khác nhau. Để phù hợp với khả năng và hướng phát triển của Hà Thái trong thời gian tới thi Hà Thái nên lựa chọn những đoạn thị trường như sau:
- Dựa vào tính chất sản xuất hay thương mại thì thì Hà Thái nên chọn cả hai đoạn thị trường là những doanh nghiệp sản xuất và những doanh nghiệp thương mại, nhưng với khả năng và qui mô nhỏ của mình thì Hà Thái chỉ nên nhắm tới những doanh nghiệp sản xuất và thương mại loại nhỏ và vừa với dịch vụ cung ứng là các biển quảng cáo loại vừa và nhỏ đặt cố định trong nội thị.
- Kết hợp với khả năng và nguồn vốn hiện có là những địa điểm “đẹp” để đặt biển trên cầu Chương Dương thì đoạn thị trường thứ hai là các đoạn thị trường bao gồm các doanh nghiệp sản xuất, cung ứng tư liệu sản xuất, các tập đoàn sản xuất, cung ứng hàng tiêu dùng cỡ lớn như Thép, Xi măng, LG và nước ngọt COCACOLA … Sản phẩm mà Hà Thái cung ứng cho đoạn thị trường này là biển quảng cáo tấm lớn ngoài trời đặt ở các vị trí nhất định (như khu vực nội thị và dọc trục giao thông).
- Đoạn thị trường gồm các cửa hàng cửa hiệu tư nhân tuy doanh thu thu được từ đoạn thị trường này không cao nhưng nó lại có qui mô nhỏ và hiện tại thì dường như không có những doanh nghiệp chuyên môn như Hà Thái chiếm giữ, hơn nữa, dù doanh thu từ đoạn thị trường này không cao nhưng với Hà Thái cũng có thể coi là một khoản doanh thu lớn, đồng thời vốn cho các sản phẩm này không đòi hỏi lớn, do vậy rất phù hợp với qui mô hiên tại của Hà Thái. Từ những lý do như vậy thì đây là đoạn thị trường mà Hà Thái nên cố gắng tấn công để chiếm lĩnh trong thời gian trước mắt bằng các sản phẩm chủ đạo là biển quảng cáo đặt tại cửa hàng, nhưng đoạn thị trường những doanh nghiệp có qui mô lớn thì Hà Thái cũng không nên bỏ qua mà nên học hỏi thêm kinh nghiệm cũng như kỹ thuật, công nghệ hiện đại về hệ thống biển bảng tấm lớn để chuẩn bị xâm chiếm đoạn thị trường này về lâu dài.
- Về mặt địa lý thì hiện tại Hà Thái được coi là doanh nghiệp có thế mạnh trong nội thành Hà Nội, trong khi đó những khu vực khác như sân bay, đường cao tốc hầu như đa bị các đôi thủ chiếm giữ nên Hà Thái vẫn tiếp tục mở rộng thị phần của mình trong đoạn thị trường này. Bên cạnh đó, để tiến tới mở rộng thị trường trong dài hạn thì Hà Thái nên chú ý và lựa chọn đoạn thị trường các thành phố nhỏ, các thị xã, thị trấn. Hiện tại thì nhu cầu của đoạn thị trường này không cao, nhưng trong tương lai, nền kinh tế của đoạn thị trường này sẽ phát triển và dẫn tới nhu cầu về quảng cáo ngoài trời cũng tăng. Đây chính là đoạn thị trường mầu mỡ trong tương lai mà Hà Thái nên thâm nhập và tạo dựng mối quan hệ ngay từ bây giờ.
Xây dựng chiến lược Marketing, kế hoạch Marketing:
Như dự báo của các chuyên gia thì doanh thu của ngành quảng cáo năm 2020 có thể đạt con số 24.000 tỷ đồng thì có thể thấy tương lai sang lạn của ngành quảng cáo nói chung và là một tín hiệu mừng cho tất cả các công ty quảng cáo ngoài trời nói riêng, nhưng điều đó lại càng làm cho thị trường quảng cáo ngoài trời thêm cạnh tranh khốc liệt. Ngoài ra, sự phát triển của công nghệ làm cho khoảng cách về trình độ, kinh nghiệm của các công ty quảng cáo ngoài trời bị thu hẹt lại. Do vậy, để có thể phát triển và tồn tại hơn nữa trong tương lai thì Hà Thái phải có những kế hoạch và chiến lược cụ thể. Hiện nay, Hà Thái mới chỉ là một công ty nhỏ trên thị trường quảng cáo ngoài trời, thị phần còn ít, mới chỉ chiếm khoảng 3%, vì thế, theo tôi Hà Thái nên xây dựng một kế hoạch và chiến lược Marketing nhằm tăng uy tín và mở rộng thị trường để có thể đạt được một vị thế cao hơn trên thị trường và dần tiến vào tốp những công ty dẫn đầu trong ngành quảng cáo ngoài trời.
Xét trên thị trường này thì Hà Thái mới chỉ là công ty bám sau. Các công ty bám sau có hai hướng chiến lược, đó là: 1, tấn công người dẫn đầu thị trường và các đối thủ cạnh tranh khác trong cuộc chiến giành giật thị phần (những người thách thức thị trường); 2, hợp tác và không “khuấy đảo” (những người theo sau thị trường). Nhưng với mục đích của mình là mở rộng thị trường thì hướng đầu tiên là hướng mà công ty nên lựa chọn.
Về cơ bản thì một người thách thức thị trường thì có thể chọn cách tấn công theo ba loại sau, đó là:
Tấn công người dẫn đầu thị trường, mà ở đây có thể lấy ví dụ là công ty Đất Việt.
Tấn công những công ty cùng tầm cỡ với mình, không hoàn thành phận sự và thiếu vốn.
Tấn công nhữn công ty địa phương hay khu vực nhỏ, không hoàn thành phận sự và thiếu vốn.
Do hạn chế về vốn và nguồn nhân lực do vậy trong thời gian trước mắt thì Hà Thái không thể lựa chọn cách tấn công thứ nhất. Cách tấn công phù hợp với qui mô và nguồn lực của Hà Thái hiện tại là cách thứ ba, và trong dài hạn sẽ là cách tấn công thứ hai, khi mà Hà Thái đã có một vị trí nào đó trong thị trường quảng cáo ngoài trời.
Vậy Hà Thái sẽ tấn công như thế nào? Ngành sản phẩm chủ yếu và có thế mạnh của Hà Thái hiện tại là biển, bảng hiệu cửa hàng và sau đó là biển quảng cáo tấm lớn bên đường. Đây cũng là mặt hàng chủ yếu của những công ty địa phương hay những công ty có khu vực nhỏ hơn và họ thường đưa ra những mức giá thấp hơn so với các công ty khác để có thể thu hút những khách hàng có qui mô nhỏ. Mặc dù đây là một thị trường có lợi nhuận không cao nhưng nó chiếm một số đông, và trong tương lai nhóm khách hàng này còn phát triển mạnh. Do vậy, đây cũng là nhóm khách hàng mục tiêu, bên cạnh nhóm khách hàng là những công ty liên doanh với ngân sách dành cho quảng cáo lớn và nhu cầu lớn. Và để có thể tấn công những công ty này, Hà Thái cũng sử dụng chiêu thức là dung giá ngang bằng hoặc cao hơn một chút so với giá của các công ty đó nhưng sản phẩm có phần chuyên nghiệp và tốt hơn.
Bên cạnh việc giành thị phần của những công ty nhỏ hơn trong lĩnh vực biển hiệu thi Hà Thái cũng có chiến lược phát triển thị phần đối với sản phẩm là biển tấm lớn bên đường, bởi đây là lĩnh vực có doanh thu và lợi nhuận cao. Tuy nhiên, để có thể tham gia cạnh tranh trong lĩnh vực này thì Hà Thái cần phải quan tâm và phát triển hơn nữa bộ phận thiết kế của mình vì yếu tố giúp cạnh tranh ở đây chính là sự ấn tượng, nghệ thuật, còn giá cả không phải là một công cụ có tác dụng ở đây.
Hoàn thiện các biến số của hệ thống Marketing mix
Về sản phẩm:
a, Về chất lượng sản phẩm:
Qua phân tích ở các phân trên, ta thấy sản phẩm là một yếu tố đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển và khả năng cạnh tranh của bất kỳ một công ty quảng cáo ngoài trời nào, thậm chí là bất kỳ một công ty quảng cáo nào. Vì thế, nếu muốn phát triển hơn nữa thì Hà Thái phải đặc biệt quan tâm đến sản phẩm của mình, luôn phải đảm bảo sản phẩm đáp ứng đúng mọi yêu cầu của khách hàng đưa ra, đồng thời tiếp tục duy trì những tiêu chí về chất lượng sản phẩm đã đặt ra.
Bên cạnh đó, công ty cũng nên cập nhập những thông tin mới về công nghệ và sản phẩm, không những của thị trường trong nước mà còn ở trên thế giới để có thể đảm bảo cho sản phẩm của mình luôn bắt kịp thời đại và thu hút khách hàng hơn nữa. Như công ty có thể làm mới sản phẩm của mình bằng việc lắp đèn ở trong, hay ở trên, hoặc cũng có thể ở dưới, ánh đèn hắt lên sẽ tạo nên nét độc đáo và thu hút chú ý của khách hàng.
b, Về danh mục sản phẩm:
Sản phẩm chủ yếu của Hà Thái là các biển, bảng tấm lớn, tấm nhỏ đủ loại, ngoài ra có thêm một số dịch vụ như: thiết kế, dàn dựng showroom, thiết bị nội ngoại thất; sản xuất, thiết kế vật phẩm quảng cáo; in ấn ấn phẩm quảng cáo; tổ chức hội chợ, hội thảo, hội nghị chuyên đề… nhưng những lĩnh vực này thì chưa thực sự là những lĩnh vực đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và đơn đặt hàng không lớn. Đó là nguyên nhân Hà Thái chưa thực sự quan tâm và phát huy. Những ngành nay hiện nay còn là những ngành còn mới mẻ, nhưng có khả năng phát triển và mở rộng trong tương lai. Vì vậy, Hà Thái nên nắm bắt và phát triển những lĩnh vực trên hơn nữa.
c, Phát triển những sản phẩm mới:
Lĩnh vực quảng cáo ngoài trời ngoài biển quảng cáo tấm lớn ra thì còn có lĩnh vực quảng cáo trên các phương tiện giao thông. Đây cũng là một hình thức mới và có triển vọng phát triển, do hệ thống giao thông của nước ta đang ngày càng phát triển, các phương tiện giao thông công cộng như xe bus, xe taxi hay những điểm chờ xe bus là những địa điểm cũng khá gây được nhiều sự chú ý. Hà Thái nên phát triển mối quan hệ với chủ các phương tiện và cơ quan chủ quản các hệ thống trên để có thể mời họ làm đối tác.
Một hình thức quảng cáo ngòai trời khác mà ở nước ngoài đã thực hiện nhưng ở nước ta chưa được áp dụng. Đó là quảng cáo nhắm tới những khách hàng đi trên các phương tiện trên không như máy bay chẳng hạn. Đó là các biển quảng cáo được làm một cách đặc biệt với vật liệu là thiên nhiên, cây cỏ được cắt tỉa theo một hình dạng nào đó và mang thông điệp quảng cáo. Tuy nhiên, hình thức quảng cáo này chủ yếu là nhằm mục đích quảng cáo về thương hiệu của các công ty và quảng cáo về đất nước. Tuy nhiên, hình thức quảng cáo này khó thực hiện vì nó nằm trên một diện rộng nên chi phí thuê địa điểm đắt và để có giấy phép quảng cáo thì rất khó khăn.
Về giá cả:
Hệ thống giá của Công ty Hà Thái rất đơn giản đều chủ yếu dựa trên đơn vị là cm2 và đối với vật liệu khác nhau thì giá cả khác nhau. Hình thức tính giá này có thể chấp nhận được và có phần hợp lý vì mỗi biển bảng đều có một diện tích nhất định, nhưng cách tính giá này cũng có phần cứng nhắc và còn có những điểm còn hạn chế. Vì đối với mỗi biển, bảng quảng cáo thì chúng đều có những sự sáng tạo và nghệ thuật riêng được thể hiện qua thông điệp quảng cáo. Sự sáng tạo là khác nhau và có giá trị khác nhau, do vậy không thể qui nó theo kiểu tính diện tích và tính tiền được. Do vậy, trong chuyên đề tốt nghiệp này, một đề xuất về cách tính giá khác được đưa ra. Theo cách tính giá này thì có thể chia giá thành của một tấm biển quảng cáo ngoài trời thành hai phần. Phần thứ nhất có thể coi là phần tính giá cố định theo diện tích và vật liệu (như cách tính giá hiện thời của Hà Thái), có thể tạm gọi nó là phần thô. Và phần kia chính là phần tính giá cho giá trị nghệ thuật của tấm biển bảng, ở đây xin gọi nó là phần biến động. Phần biến động này sẽ không theo một qui tắc tính giá cố định nào cả, mà nó phụ thuộc vào tính chất nghệ thuật của thông điệp quảng cáo thông qua sự sáng tạo, ấn tượng, độc đáo và “đẹp”. Phần biến động này cũng còn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của hai bên: doanh nghiệp và khách hàng. Vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố và biến đổi không theo một qui chuẩn nào nên có rất nhiều tính ngẫu hứng, và do đó, giá cả một biển quảng cáo sẽ rất phong phú và linh hoạt.
Tuy nhiên, đối với những sản phẩm là biển bảng đơn giản, hầu như không cần sự sang tạo thì Hà Thái cũng có thể áp dụng mức giá linh hoạt hơn với những khách hàng khác nhau. Chẳng hạn, đối với những khách hàng có khả năng hợp tác lâu dài thì Hà Thái có thể tính mức giá vừa phải, còn đối với những khách hàng chỉ sử dụng dịch vụ một lần thì có thể tính giá hớt váng. Và với nhóm khách hàng là những doanh nghiệp nhỏ, cửa hàng cửa hiệu tư nhân mà sản phẩm cung ứng của Hà Thái là các biển quảng cáo đặt tại cửa hàng thì có thể tính giá thấp hơn 1 chút để có thể chiếm được thị trường nhỏ này.
Về phân phối:
Hình thức phân phối trực tiếp mà Hà Thái đang làm là một hình thức tốt và hiệu quả nhất trong các hình thức phân phối đối với lĩnh vực quảng cáo ngoài trời này. Nhưng với mục đích mở rộng thị trường thì Hà Thái nên phát triển đội ngũ nhân viên kinh doanh hơn nữa, bởi đây là những người kiếm hợp đồng và mang lợi về cho doanh nghiệp. Hà Thái cũng nên có những chế độ lương, hoa hồng, thưởng với những nhân viên này để họ nhiệt tình làm việc hơn.
Về xúc tiến:
Đây là một hoạt động mà Hà Thái chưa thực sự thấy được vai trò quan trọng của nó trong việc phát triển công ty. Do vậy, để có thể hoàn thiện hệ thống Marketing mix thì công ty phải đặc biệt quan tâm đến hoạt động này và dành một nỗ lực cũng như ngân sách cho nó.
Quảng cáo trên các phương tiện: mặc dù là một công ty trong lĩnh vực quảng cáo nhưng Hà Thái vẫn chưa có nhiều hoạt động để tự quảng cáo cho mình. Để khách hàng biết đến Hà Thái và cũng để Hà Thái xây dựng thương hiệu cho mình thì Hà Thái nên có những hoạt động quảng cáo sau:
+ Trên các tạp chí chuyên đề, với độc giả là các doanh nghiệp.
+ Trên các trang web uy tín có số lượng người xem lớn như vnexpress.net, dantri.com, thoibaokinhte.com…
+ Trên Những trang vàng, vì đây cũng là một nguồn thông tin mà các doanh nghiệp tìm đến.
+ Cũng có thể quảng cáo trên chính các tấm lớn đặt tại vị trí mà Hà Thái cho thuê trong thời gian chưa có khách hàng thuê địa điểm đó.
+ Hà Thái có thể quảng cáo ở một vị trí khiêm tốn (như ở góc biển…) ngay trong biển quảng cáo cung ứng cho khách hàng.
- Những hoạt động Marketing trực tiếp: hoạt động này thực sự cần thiết đối với những công ty quảng cáo như Hà Thái, khi mà các công ty này chỉ sử dụng hình thức phân phối trực tiếp. Bởi những hình thức này giống như những tài liệu giới thiệu trước với khách hàng về công ty, do vậy nó sẽ giúp cho việc tiếp xúc của nhân viên kinh doanh với khách hàng được dễ dàng hơn.
Trên thực tế, hình thức Marketing trực tiếp mà Hà Thái sử dụng là: Marketing bằng catalog, hay các profile về công ty. Trong đó giới thiệu về công ty, những lĩnh vực kinh doanh và những hình ảnh về các sản phẩm mà Hà Thái đã làm cho khách hàng và những khách hàng hiện có của công ty để tạo sự tin cậy từ phía khách hàng. Tuy nhiên theo tôi, để có thể hiệu quả hơn trong hình thức này, Hà Thái nên kèm theo một vài thông tin sơ bộ về cuộc điều tra nghiên cứu hướng về sản phẩm, dich vụ hay lĩnh vực kinh doanh của họ.
- Quan hệ công chúng (PR): công chúng của các công ty quảng cáo ở đây là các doanh nghiệp. Để gây sự chú ý và biết đến của nhóm công chúng này thì Hà Thái nên tham gia những cuộc triển lãm, hội trợ, hội thảo có tính chất chuyên đề, vì đây chính là nơi có thể gặp gỡ những khách hàng tiềm năng nhất. Trong thời gian tới, khi mà dịch vụ của công ty phát triển sẽ kéo theo qui mô của công ty cũng tăng lên, làm cho công chúng biết nhiều hơn về công ty cũng là việc cần làm, bởi nó đẩy Hà Thái lên một vị thế nào đó trong thị trường quảng cáo. Với ngân sách còn hạn chế thì Hà Thái có thể trích ra một khoản tiền để làm từ thiện như quĩ các học sinh nghèo vượt khó hày quĩ người nghèo…
III. Hoàn thiện các giải pháp hỗ trợ
1. Giải pháp về vốn:
Một khó khăn lớn đối với Hà Thái trong việc mở rộng thị trường đó là vốn. Hà Thái là một công ty tư nhân với số vốn góp ban đầu là 900.000.000 đồng và vốn lưu động hàng tháng trung bình là 300.000.000 đồng. Số vốn ít ỏi như vậy khiến cho Hà Thái khó có thể đáp ứng cho những hợp đồng lớn, như vậy, Hà Thái vô tình mất đi những khách hàng tốt. Để khắc phúc tình trạng này thì ngoài cách vay từ ngân hàng, Hà Thái có thể yêu cầu tạm ứng từ phía khách hàng mà hợp đồng của họ có giá trị lớn và đề nghị thanh toán chậm với các cơ sở sản xuất. Hàng tháng, sau khi thanh toán các hợp đồng, Hà Thái nên lấy một tỉ lệ lãi để lập quĩ phát triển kinh doanh. Những việc này cũng gặp nhiều khó khăn khi thực hiện nhưng đây là giải pháp tạm thời giúp Hà Thái có một lượng vốn khi cần đầu tư vào những hợp đồng có giá trị lớn.
2. Giải pháp về nhân sự:
So sánh giữa qui mô và sự phân bố nhân sự thì có thể thấy sự phân bố như thế là hợp lý. Tuy nhiên, những nhân viên kinh doanh của công ty thì thiếu những người được đào tạo một cách bài bản về kinh tế, Marketing và những kỹ năng tiếp xúc khách hàng, họ làm việc theo sự nhận định và kinh nghiệm tự có của mình. Do vậy đôi khi cách thức làm việc còn thiếu sự chuyên nghiệp. Hơn nữa, công việc của họ rất nặng nề, có thể ví họ là những người nuôi sống cả công ty bởi những hợp đồng họ mang về. Vậy, để nâng cao chất lượng nhân sự của công ty và phục vụ cho mục đích mở rộng thị trường, Hà Thái nên gửi nhân viên mình tham gia những lớp đào tạo ngắn ngày về lĩnh vực kinh doanh hay Marketing, đồng thời tuyển mới thêm với yêu cầu khả năng về quảng cáo và kinh doanh để có thể đem lại nhiều hợp đồng mới cho công ty hơn.
Đối với bộ phận thiết kế, doanh nghiệp nên tiếp tục tạo điều kiện cho nhân viên nâng cao trình độ, có thể cho họ tham gia những khóa học về kỹ thuật đồ họa thiết kế nâng cao để có thể đáp ứng những yêu cầu cao hơn của khách hàng về khía cạnh sáng tạo và nghệ thuật.
Đối với bộ máy lãnh đạo, mặc dù có khả năng quản lý và đưa doanh nghiệp đưa lên được như ngày hôm nay nhưng hầu hết trong số họ vẫn chủ yếu là không thực sự được đào tạo một cách chính qui và bài bản về nghiệp vụ quản lý doanh nghiệp hay quản trị kinh doanh. Theo em, đội ngũ ban lãnh đạo, đặc biệt là Phó giám đốc kinh doanh nên theo học thêm những khóa đào tạo về quản trị để có thể quản lý và phát triển doanh nghiệp đi lên nữa và trở thành một công ty thực sự chuyên nghiệp trên thị trường quảng cáo ngoài trời.
Một biện pháp không kém phần quan trọng đó là chế độ khen thưởng, đãi ngộ cho những nhân viên làm việc hiệu quả. Hiện tại thì chế độ trả lương cho nhân viên của Hà Thái được chia theo hai dạng theo các bộ phận khác nhau. Bộ phận hành chính và thiết kế thì được trả lương theo thời gian, tức là một mức lương cố định theo tháng. Còn cách tính khác là theo sản phẩm thì được áp dụng cho bộ phận kinh doanh. Điều đó có nghĩa là bộ phận kinh doanh ngoài lương cứng cố định hàng tháng ra thì còn có hoa hồng, hoa hồng này được chia theo tỷ lệ phần trăm nhất định của hợp đồng mà họ có được trong tháng. Ngoài ra, Hà Thái cũng có chế độ thưởng tết cho các nhân viên của mình. Chế độ lương này nhìn chung là đã hợp lý với bộ phận hành chính và bộ phận kinh doanh, nhưng nó còn còn bất hợp lý đối với bộ phận thiết kế. Bởi nếu xét về sản phẩm chủ yếu hiện tại của Hà Thái là biển quảng cáo đặt tại cửa hàng với yêu cầu thiết kế không cao thì việc tính lương như thế có thể tạm chấp nhận, nhưng nếu trong dài hạn, khi mà Hà Thái tiến sâu và thị trường biển quảng cáo tấm lớn với yêu cầu về tính nghệ thuật trong thông điệp quảng cáo cao hơn, nó sẽ đòi hỏi sức sáng tạo của các nhân viên thiết kế hơn nữa, khi đó, chế độ trả lương này sẽ không còn thu hút được những nhà thiết kế giỏi và đảm bảo sự thỏa mãn của họ khi làm việc cho công ty. Do vậy, Hà Thái nên thay đổi cách tính lương cho thu hút được những nhân viên và sự nhiệt tình làm việc của họ. Ngoài ra, Hà Thái nên có thêm những chế độ thưởng cho nhân viên theo những dịp đặc biệt hay thành tích của họ trong công việc. Điều này tạo cho các nhân viên yêu mến và trung thành hơn với công ty, tuy nhiên nó cũng sẽ phản tác dụng nếu chế độ thưởng này không được công bằng giữa các nhân viên.
3. Giải pháp về tổ chức:
Theo như chiến lược kinh doanh ở trên đề ra thì sự phân bố tổ chức như Hà Thái như trên sẽ không hợp lý vì số lượng nhân viên phòng kinh doanh quá ít. Trong tương lai, Hà Thái đặt mục tiêu cho mình là mở rộng thị trường và mở rộng danh mục sản xuất theo như tôi đã đề xuất trong phần I và II.1 ở chương 3 này sẽ có sự chồng chéo nhau trong các công việc và lĩnh vực mà nhân viên kinh doanh đó giải quyết. Các nhân viên sẽ không tập trung và có chuyên sâu thực sự với công việc của mình, đồng thời gây khó khăn cho quản lý. Biện pháp khắc phục tình hình trên, đó là: khi Hà Thái phân chia và thực sự quan tâm đến các mảng sản phẩm của mình ngoài biển quảng cáo tấm lớn thì Hà Thái nên chia bộ phận kinh doanh thành những bộ phận nhỏ, những bộ phân này sẽ phụ trách một mảng sản phẩm khác nhau như Phòng kinh doanh biển, bảng quảng cáo tấm lớn, Phòng kinh doanh chuyên về in ấn ấn phẩm quảng cáo, Phòng thiết kế, dàn dựng showroom, Phòng tổ chức hội chợ, triển lãm… Mỗi phòng nên có tu 2 đến 3 nhân viên, trong đó có một người là Trưởng phòng quản lý hoạt động của phòng mình và báo cáo lên Phó giám đốc kinh doanh. Như vậy, khi công ty phát triển sẽ có sự phân công rõ rang và chuyên môn hơn. Các nhân viên cũng nắm chắc công việc của mình hơn và sẽ phát huy hết khả năng trong công việc của mình.
4. Các kiến nghị với cơ quan Nhà nước có liên quan:
Các công ty quảng cáo ở nước ta đã đi vào hoạt động được 10 năm và Nhà nước cũng đã có những văn bản, qui định, pháp lệnh để hoạt động quảng cáo. Nhưng trên thực tế, hoạt động quảng cáo ở nước ta còn nhiều lộn xộn và thiếu sự qui hoạch đồng bộ. Các công ty quảng cáo còn chưa có sự gắn kết, hợp tác để hỗ trợ nhau phát triển. Do vậy để hoạt động quảng cáo trở nên chuyên nghiệp và có điều kiện phát triển một cách đúng đắn và lành mạnh thì cần có sự quản lý của các cơ quan Nhà nước và các cơ quan chuyên ngành:
a, Với cơ quan quản lý Nhà nước:
Các văn bản pháp lý đưa ra phải rõ rang, có hướng dẫn cụ thể cho việc thực hiện. Một số điểm cần khắc phục như việc Nhà nước chưa đưa ra những qui định cụ thể về việc cấm quảng cáo với những loại rượu thuốc có độ cồn trên 15 độ. Một số qui định như cấm sử dụng màu cờ Tổ Quốc trong quảng cáo, hay như việc viết, đặt biển hiệu của cơ quan, tổ chức cá nhân… nên có những văn bản hướng dẫn cụ thể để giúp cho các doanh nghiệp gặp lúng túng khi thực hiện các hoạt động quảng cáo.
Các văn bản, pháp lệnh qui định cũng nên thường xuyên thay đổi theo tình hình của thị trường, loại bỏ những qui định cũ không còn phù hợp với tình hình quảng cáo hiện nay. Và vì mỗi loại hình phương tiện quảng cáo đều có những đặc điểm khác nhau, do vậy trong qui định nên ghi rõ là áp dụng cho phương tiện nào, nếu không nó sẽ gây giảm hiệu quả quảng cáo của các phương tiện. Ví dụ như trước đây trên quảng cáo phải có đầy đủ thông tin về tên thương hiệu, giấy phép kinh doanh… nhưng như thế lại ảnh hưởng đến hiệu quả quảng cáo đối với các tấm biển quảng cáo tấm lớn.
Các thủ tục luôn gây phiền phức cho những người tham gia, trong lĩnh vực quảng cáo thì điều này cũng hề sai chút nào. Đặc biệt với việc xin cấp phép cho các biển quảng cáo. Các doanh nghiệp quảng cáo muốn xin giấy phép cho quảng cáo tấm lớn thì phải qua ba cơ quan quản lý, đó là Sở Văn Hóa Thông Tin, Sở Qui hoạch Kiến trúc và Sở xây dựng. Đôi khi có sự nảy sinh bất đồng ý kiến giữa ba ban Bộ ngành này thì việc cấp giấy phép sẽ bị cản trở và thời gian chờ đợi là rất lâu, do vậy sẽ ảnh hưởng đến hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp. Vì vậy, Nhà nước cần có sự cải tổ trong hoạt động này, có thể chuyển quyền quản lý sang cho một cơ quan chủ quản duy nhất, đồng thời tích cực xóa bỏ tình trạng quan liêu cửa quyền.
Ngoài ra, các cơ quan quản lý cần phải kiểm soát chặt chẽ hơn nữa tình hình vi phạm của các loại biển, bảng quảng cáo không hợp lý và gây trở ngại đến hoạt động đi lại của người dân.
Hiện nay, đội ngũ những người làm quảng cáo ở nước ta tuy khá đông nhưng chất lượng còn chưa cao và nghiệp vụ còn non yếu cho nên chưa thể đảm nhận những hợp đồng quảng cáo phức tạp với giá trị lớn. Điều đó cũng có nghĩa là ta đã để tuột hàng triệu USD vào tay những doanh nghiệp quảng cáo nước ngoài. Vì vậy, để phát triển lĩnh vực này thì Nhà nước nên chú trọng nhiều hơn đến việc đào tạo nguồn nhân lực có khả năng và trình độ chuyên môn cho ngành, giúp cho sự phát triển của ngành có tính cơ sở bằng cách đầu tư và hỗ trợ cho việc đào tạo các chuyên gia về quảng cáo bậc đại học.
b, Với hiệp hội Quảng cáo Việt Nam:
Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam là tổ chức xã hội- nghề nghiệp của các tổ chức và cá nhân Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực quảng cáo. Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam chịu sự quản lý của nhà nước, hoạt động theo quy định của pháp luật và điểu lệ của hiệp hội. Mục đích của Hiệp hội là đoàn kết, hợp tác và giúp đỡ nhau thúc đẩy sự phát triển của ngành quảng cáo của Việt Nam, hoà nhập với cộng đồng quảng cáo quốc tế, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các hội viên. Để đạt được điều này tạo điều kiện giúp đỡ những doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực này nói chung và Hà Thái nói riêng, thì tôi xin đưa ra một số kiến nghị với Hiệp hội như sau:
Một là, Hiệp hội quảng cáo cần có những hoạt động, biện pháp để phối hợp với các cơ quan Nhà nước hướng dẫn chỉ đạo để các công ty quảng cáo hoạt động đúng hướng, đúng luật, truyền đạt những đường lối phát triển và chính sách tới các công ty quảng cáo.
Hai là, Hiệp hội phải tạo ra một môi trường lành mạnh để các công ty có thể hợp tác với nhau để tạo lên một liên minh mạnh mẽ có đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài đang chiếm phần lớn thị trường quảng cáo nước ta.
Ba là, Hiệp hội quảng cáo phải thực sự trở thành một diễn đàn giữa các doanh nghiệp quảng cáo để các cá nhân, tổ chức có thể giao lưu, học hỏi kinh nghiệm của nhami, là nơi họ có thể đưa ra tiếng nói của mình và là nơi cung cấp những thông tin đầy đủ và chính xác nhất về môi trường quảng cáo trong và ngoài nước cho những đơn vị có thể thu thập và nghiên cứu.
Tóm lại, trên đây là tất cả những giải pháp nhằm hoàn thiện các giải pháp Marketing cho doanh nghiệp Hà Thái để nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Những giải pháp này được đưa ra một cách cân nhắc sau một quá trình thực tập tại công ty và những lý thuyết đã được học trong thời gian qua. Tuy nhiên, trên đây chỉ là những giải pháp mang tính suy đoán và phân tích cá nhân, do vậy có thể gặp nhiều thiếu sót nhưng tôi mong rằng nó sẽ được hoàn thiện hơn khi được áp dụng trên thực tế dưới sự quản lý và chỉnh sửa của những nhân viên Marketing dạn dầy kinh nghiệm hơn tôi. Nhưng nhìn chung, Hà Thái muốn phát triển và đạt được những mục tiêu lớn thì cần phải cố gắng và nỗ lực hơn nữa, phải tập trung mọi nguồn lực để doanh nghiệp có đà đi lên. Và sự nỗ lực đó không chỉ do quyết tâm của những người quản lý công ty mà phải là sự quyết tâm của toàn bộ công nhân viên trong công ty.
Kết luận
Quảng cáo ngoài trời đã phát triển khá sớm tại thị Việt Nam nhưng cho đến những năm gần đây nó mới thực sự “nở rộ” và đang trở thành một công cụ quảng cáo đắc lực cho các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay go như hiện nay. Do vậy nó càng ngày càng được trọng dụng trong chiến lược quảng cáo của các doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp nhỏ. Điều này lại tác động ngược lại vào thị trường quảng cáo ngoài trời, làm cho thị trường này thêm sôi động và từ đó có động lực phát triển hơn nữa và đem lại nhiều hứa hẹn về những khoản lời lớn đối với các doanh nghiệp quảng cáo ngoài trời. Tuy nhiên, để loại hình quảng cáo này có cơ hội phát triển lành mạnh và cái nhìn thiện cảm từ công chúng thì Nhà nước cần phải quản lý chặt chẽ và các doanh nghiệp quảng cáo thì phải thực hiện đúng những qui định do Nhà nước đưa ra.
Những những đặc điểm của thị trường và sản phẩm của lĩnh vực quảng cáo ngoài trời cũng như xu hướng chuyên môn hóa và hợp tác hóa trong quá trình phát triển kinh doanh dịch vụ này được nêu ra trong chuyên đề đã phần nào vẽ nên được bức tranh toàn cảnh của thị trường quảng cáo ngoài trời tại nước ta. Qua bức tranh này, ta có thể thấy rằng thị trường quảng cáo này thực sự là một thị trường rộng lớn có qui mô không hề nhỏ và sẽ là mỏ vàng cho các doanh nghiệp quảng cáo trong thời gian tới, tuy nhiên, một điều thật thiệt thòi cho các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam đó là ưu thế thị trường lại thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài đang chiếm tới 80% thị phần quảng cáo này. Thông qua việc phân tích thực trạng kinh doanh và hoạt động Marketing của công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái và các đối thủ cạnh tranh thì có thể phần nào thấy được những yếu kém trong hoạt động của phần lớn các doanh nghiệp quảng cáo nội địa, đó là sự thiếu kinh nghiệm, thiếu vốn, thiếu nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, sản phẩm còn thiếu tính chuyên môn và đôi chút lạc hậu, chưa áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật để thiết kế những sản phẩm mới, hiện đại, các hoạt động Marketing còn chưa được quan tâm và sử dụng hiệu quả… Đây cũng chính là nguyên nhân chung khiến các doanh nghiệp nội địa thua kém so với các doanh nghiệp nước ngoài. Trên cơ sở phân tích đó, bài chuyên đề tốt nghiệp này đã nêu ra những biện pháp giúp Hà Thái hoàn thiện hệ thống Marketing mix, lập các kế hoạch Marrketing… và các biện pháp hỗ trợ khác như các vấn đề về vốn, nhân lực, tổ chức để Hà Thái có thể phát triển hơn nữa trong tương lai. Bên cạnh đó, những đề xuất trong chuyên đề tốt nghiệp này với các tổ chức, hiệp hội quảng cáo và cơ quan Nhà nước nếu được thực hiện sẽ phần nào giúp Hà Thái nói riêng và cả ngành quảng cáo nói chung có điều kiện thuận lợi để hoạt động hiệu quả và có thể giành lại thị phần từ các doanh nghiệp nước ngoài.
Để có thể hoàn thành chuyên đề này, tôi xin chân thành cảm ơn thầy T.S Nguyễn Hữu Lai đã tận tình hướng dẫn và giúp em định hướng chuyên đề. Và công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái, đặc biệt là Phó Giám đốc Đỗ Ngọc Khương đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thực tập ở Quí công ty. Nhưng do trình độ và hiểu biết có hạn, tôi rất mong nhận được sự đóng góp và bổ xung của thầy, cô và các bạn để hoàn thiện chuyên đề này hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tài liệu tham khảo:
Quản trị Marketing – Philip Kotler
Quảng cáo – Lý thuyết và Thực hành (Giáo trình trường ĐH KTQD HN- Khoa Marketing)
Nghiệp vụ Quảng cáo và Marketing – Lê Hoàng Quân (biên soạn)
Bài giảng về môn Marketing Công Nghiệp
Marketing trong kinh doanh dịch vụ - T.S Lưu Văn Nghiêm (Giáo trình trường ĐH KTQD HN)
Trang web của Hiệp hội quảng cáo www.vaa.org.vn
Trang web www.vnexpress.net
Trang web của Tổng cục thống kê www.gso.gov.vn
Trang web Quảng cáo Việt Nam www.vietnamad.comMục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32315.doc