lời cảm ơn
Để có thể hoàn thành khoá luận này em xin cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại thương đã trang bị cho em đầy đủ những kiến thức về chuyên môn và lý luận trong suốt 4 năm học tại trường. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn cô giáo - thạc sỹ Mai Thu Hiền - giảng viên Bộ môn Đầu tư và chuyển giao công nghệ - Khoa kinh tế Ngoại thương - Trường Đại học Ngoại thương người đã trực tiếp hướng dẫn giúp đỡ, góp ý cho em trong quá trình hoàn thiện khoá luận này.
Ngoài ra em xin cảm ơn tớ
132 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1418 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp lựa chọn công nghệ thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i các cô chú, anh chị trong thư viện trường Đại học Ngoại thương, thư viện Quốc gia Hà Nội, các đơn vị đã giúp em trong quá trình sưu tầm tài liệu và tổng hợp thông tin, cũng như sự giúp đỡ động viên to lớn của gia đình và bạn bè về vật chất và tinh thần để em có thể hoàn thành khoá luận này.
Tuy nhiên do những hạn chế về trình độ bản thân trong lý luận và thực tế cũng như vì thời gian có hạn mà trong khóa luận này chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai sót nhất định.
Hà Nội tháng 12 năm 2002
Sinh viên thực hiện : PhạmĐứcHưng.
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá (CNH-HĐH) mà toàn Đảng toàn dân ta tiến hành chỉ có thể thành công khi chúng ta thực sự tạo cho mình một trình độ sản xuất tiên tiến hiện đại.
Để có một trình độ sản xuất tiên tiến hiện đại, trước tiên chúng ta phải đi trước một bước phát triển khoa học công nghệ. Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa hoc- công nghệ sẽ là quốc sách hàng đầu trong quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) nói chung và trong công cuộc CNH- HĐH hiện nay nói riêng.
Để nâng cao trình độ khoa học công nghệ trong nước đòi hỏi chúng ta phải đồng thời kết hợp giữa vấn đề tự nghiên cứu phát triển khoa học trong nước với việc du nhập tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới. Với điều kiện thực tế Việt Nam hiện nay chuyển giao công nghệ (CGCN) từ nước ngoài vào trong nước sẽ được ưu tiên trước một bước trong trọng tâm phát triển khoa học công nghệ.
Tuy nhiên hoạt động CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam mới chỉ thực sự mang đúng ý nghĩa của nó từ khi Đảng và Nhà nước ta tiến hành đổi mới mở cửa nền kinh tế. Do vậy đây là một hoạt động kinh tế đối ngoại còn mới mẻ ở Việt Nam. Chính vì lẽ đó mà bản thân các doanh nghiệp còn hạn chế rất nhiều về những kiến thức và kinh nghiệm trong quá trình thực hiện CGCN nước ngoài vào trong nước, từ đó làm cho hoạt động CGCN nước ngoài vào trong nước chưa mang lại những hiệu quả mong muốn, hoặc thậm chí phía Việt Nam còn phải gánh chịu những thua thiệt lớn trong khi thực hiện kinh tế đối ngoại mới này.
Để đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra, đã có rất nhiều những công trình tài liệu nghiên cứu đề cập đến lĩnh vực CNCG từ nước ngoài vào trong nước ở những góc độ, mức độ khác nhau. Với mong muốn góp một tiếng nói chung vào việc nâng cao hoạt động CGCN nước ngoài vào Việt Nam, và góp phần hoàn thiện hơn một bước những kiến thức liên quan hoạt động CGCN nước ngoài vào Việt Nam Khoá luận tốt nghiệp có đề tài :"Các giải pháp lựa chọn công nghệ thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài Việt Nam" với những kiến thức về lý luận và thực tế liên quan đến hoạt động CNCG, người viết hy vọng rằng đây sẽ là một tài liệu tham khảo bổ sung cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình nghiên cứu, đưa ra quyết định lựa chọn CGCN ở đơn vị mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khoá luận là đi vào nghiên cứu và đi đến nắm vững các kiến thức liên quan hoạt động CGCN để từ đó có thể vận dụng linh hoạt vào từng trường hợp CGCN thực tế khác nhau. Và quan trọng hơn hết, người viết hy vọng rằng trên cơ sở nắm vững những kiến thức đó các doanh nghiệp có thể không ngừng nâng cao kiến thức kinh nghiệm của mình trong khi thực hiện hoạt động CGCN nước ngoài vào trong nước cũng như nâng cao hiệu quả của hoạt động đó, từ đó góp phần đẩy nhanh tiến trình CNH - HĐH ở Việt Nam.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
Khoá luận này đi vào nghiên cứu những lý luận chung nhất về công nghệ và CGCN trên cơ sở kết hợp phân tích đánh giá thực trạng về công nghệ và CGCN cũng như điều kiện thực tế của Việt Nam từ đó đi đến xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu phản ánh một giải pháp công nghệ thích hợp với Việt Nam. Và tiếp đó là chú trọng hướng vào việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động CGCN trong mỗi doanh nghiệp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của khoá luận là kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và thực nghiệm thực tế dựa trên quan điểm duy vật biện chứng .
Khoá luận này được xây dựng trên cơ sở đánh giá phân tích tổng hợp các tài liệu, số liệu, thông tin thực tế liên quan đến CGCN cùng với việc tham khảo những kiến thức lý luận trong chương trình giảng dạy ở trường Đại học Ngoại thương qua các môn học như :Kinh tế ngoại thương; Quan hệ kinh tế Quốc tế; Đầu tư nước ngoài; Chuyển giao công nghệ ; Thanh toán quốc tế; Kỹ thuật nghiệp vụ Ngoại thương; Phân tích hoạt động kinh doanh xuât nhập khẩu và các môn học cơ bản, chuyên ngành khác. Khoá luận này còn xây dựng trên cơ sở tham khảo những định hướng của Đảng và Nhà nước về phát triển khoa học công nghệ .
5. Kết cấu nội dung
Ngoài lời nói đầu và kết luận ra khoá luận được chia làm 3 chương sau:
Chương I:Một số lý luận chung về công nghệ, chuyển giao công nghệ .
Chương II: Thực trạng công nghệ và hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam .
Chương III: các giải pháp lựa chọn công nghệ thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam.
Chương I
Một số Lý luận chung về công nghệ, chuyển giao công nghệ
I. Công nghệ
1. Khái niệm về công nghệ .
Công nghệ là gì? Có nhiều định nghĩa khác nhau về công nghệ. Mỗi định nghĩa đề cập đến công nghệ ở những phương diện khác nhau.
ã Công nghệ theo cách hiểu của các nhà khoa học thì “công nghệ” là hệ thống các giải pháp được tạo nên bởi sự ứng dụng các tri thức khoa học để giải quyết một vấn đề thực tiễn.
ã Theo các nhà quản lý và các nhà kinh tế học nói một cách tổng quát “công nghệ” là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế biến vật chất hoặc chế biến thông tin nhằm biến đổi các nguồn lực tự nhiên thành các nguồn lực sử dụng
ã Theo tổ chức phát triển công nghiệp liên hiệp quốc UNIDO ( United Nations Industrial Development Orgnization) “công nghệ” là việc áp dụng khoa học vào công nghệ bằng cách sử dụng những nghiên cứu và xử lý có một hệ thống và có phương pháp.
ã Theo Uỷ ban kinh tế xã hội Châu á-Thái Bình Dương ESCAP ( Economic and Social Commision for Asia and Pacific), “công nghệ” bao gồm tất cả các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất, chế tạo hoặc dịch vụ công nghiệp, dịch vụ quản lý, công nghệ luôn luôn gắn liền với quá trình sản xuất trực tiếp. Định nghĩa này đã được mở rộng khái niệm ứng dụng của công nghệ vào các lĩnh vực quản lý và dịch vụ. Định nghĩa này được áp dụng rộng rãi, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của quan niệm về công nghệ.
ã Về phương diện kinh doanh khái niệm "công nghệ " được định nghĩa như sau: “Công nghệ” là hệ thống các giải pháp mà con người sử dụng trong quá trình thực hiện, như chế tạo một sản phẩm, xây dựng một công trình hay thực hiện một dịch vụ.
Như chúng ta điều biết, khoa học và công nghệ khác nhau về bản chất mặc dù có quan hệ ngày càng mật thiết. Khoa học nhằm đạt đến sự tiến bộ của nhận thức trong khi đó công nghệ áp dụng nhận thức nhằm tìm cách biến đổi thực tại. Khoa học thường gắn với các khám phá, công nghệ gắn với hàng hoá dịch vụ. Công nghệ luôn là loại hàng hoá vô hình được mua bán trên thị trường thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ.
2. Các yếu tố cấu thành công nghệ.
2.1. Hình thái vật chất của công nghệ.
Hình thái vật chất của công nghệ được gọi là phần cứng (hardware) hay gọi tắt là trang thiết bị (technoware) bao gồm máy móc thiết bị, công cụ, hạ tầng kỹ thuật (các giải pháp đã được vật chất hoá).
2.2. Thông tin (informware).
Thông tin là các sơ đồ, bản vẽ, thuyết minh, quy trình, phương pháp dự án, mô tả sáng chế, chỉ dẫn kỹ thuật… được thể hiện trong các ấn phẩm và các phương tiện lưu trữ thông tin khác.
Phần thông tin rất quan trọng nó quyết định phần lớn sự thành công hay thất bại của chuyển giao công nghệ. Nó được tiến hành tìm kiếm trong một thời gian dài và được hoàn thiện trước thời gian ký hợp đồng.
2.3. Thiết chế (Orgaware).
Thiết chế là cơ cấu tổ chức, quản lý, là động lực quan trọng thúc đẩy chuyển giao công nghệ bao gồm sự liên hệ, bố trí sắp xếp, đào tạo đội ngũ… cho các hoạt động như phân chia nguồn lực, tạo mạng lưới, lập kế hoạch, kiểm tra, tiến hành.
2.4. Yếu tố con người (Humanware)
Yếu tố con người bao gồm kiến thức, kỹ năng công nghệ, kinh nghiệm sản xuất, kỷ luật sản xuất và tính sáng tạo.
Ba yếu tố thông tin, thiết chế, yếu tố con người gộp lại gọi là phần mềm của công nghệ (Software)
3. Các thuộc tính (đặc điểm) của công nghệ.
Công nghệ là một loại hàng hoá trên thị trường với tư cách là một hệ thống công cụ chế biến vật chất và chế biến thông tin, hàng hoá công nghệ có thuộc tính riêng. Những thuộc tính này do 4 yếu tố cơ bản của công nghệ tạo nên, nó quyết định và ảnh hưởng trực tiếp tới việc mua, bán, đánh giá, định giá, trao đổi, sử dụng công nghệ.
3.1 Tính hệ thống:
Tính hệ thống thể hiện ở chỗ bất cứ một công nghệ nào cũng hàm chứa trong đó mối quan hệ hữu cơ giữa bốn yêú tố cấu thành nên nó.
Trang thiết bị là cốt lõi của bất kỳ sự chuyển đổi. Nó được phát triển, lắp đặt, vận hành bởi con người. Yếu tố con người là yếu tố chủ chốt của bất kỳ thao tác chuyển đổi, nó được phần thông tin hướng dẫn. Thông tin được tạo ra và được con người sử dụng để quyết định và vận hành trang thiết bị.
Thiết chế tiếp nhận và kiểm soát phần thông tin, phần con người và phần trang thiết bị để tiến hành quá trình chuyển đổi.
Bốn yếu tố này liên kết trực tiếp với nhau. Trong đó yếu tố con người là phần tối quan trọng của công nghệ. Tính hệ thống thể hiện trình tự, bước thực hiện theo một chu trình nghiêm ngặt, theo quy trình, thời gian, địa điểm... trong từng yếu tố.
Sự tương tác giữa các yếu tố của công nghệ được thể hiện trong sơ đồ sau. (Hình 1)
Hình 1. Sự tương tác giữa các thành phần của công nghệ
Nguồn: Đoàn Châu Thanh - Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam trong công cuộc CNH - HĐH nền kinh tế - Luận văn Thạc sĩ kinh tế - Trường Đại học Ngoại thương, tr4.
Qua hình 1 cho ta thấy chỉnh thể thống nhất của công nghệ. Công nghệ đó là tổng hoà mọi yếu tố từ yếu tố công nghệ hiện thân trong con người, đến công nghệ hiện thân trong vật thể biểu hiện ở phần kĩ thuật, công nghệ hiện thân trong tài liệu kĩ thuật biểu hiện ở phần thông tin, cho đến công nghệ hiện thân trong thể chế biểu hiện ở phần tổ chức. Như vậy khi đề cập đến công nghệ hay CGCN, chúng ta phải đồng thời phần tích các yếu tố cấu thành nên công nghệ trong một chỉnh thể thống nhất không tách rời, nếu không chúng ta sẽ phạm phải sai lầm khó tránh khỏi khi đưa ra quyết định lựa chọn công nghệ.
3.2. Tính sinh thể và tiến hoá:
Đây là thuộc tính của cơ thể sống, tức là bảo đảm cung cấp các yếu tố đầu vào, có môi trường tốt, được thích nghi hoá, có bảo dưỡng, duy trì và hoàn thiện. Công nghệ chỉ có thể tồn tại và phát triển nếu được nuôi dưỡng. Nếu xem công nghệ như một đối tượng tĩnh, một sản phẩm “chết" thì trước sau công nghệ sẽ trở thành gánh nặng cho người sử dụng nó.
Công nghệ nào cũng có riêng vòng đời của mình cho dù công nghệ nhập từ nước ngoài hay công nghệ phát sinh trong nước đều trải qua những giai đoạn có quan hệ mật thiết lẫn nhau mà người ta gọi nó là vòng đời công nghệ.Vòng đời của công nghệ gồm 4 giai đoạn: nghiên cứu (Research), triển khai (Development), sản xuất (Production) và thị trường (Marketing) . Qua hình 2 ta thấy 4 giai đoạn này gắn liền và có quan hệ tương hỗ với chu kỳ của sản phẩm.Tuy nhiên, công nghệ luôn đi trước và có trước sản phẩm nên giữa công nghệ và sản phẩm luôn có độ chênh lệnh và chính từ đó xuất hiện nhu cầu đổi mới của công nghệ .
Hình 2: Sơ đồ chu kì sống và công nghệ của sản phẩm
R&D
Công nghệ
Sản phẩm
Ra đời
tăng trưởng
Chuyển đổi
thị trường
Độ chênh
Bão hoà
Bão hoà
Độ chênh giữa CN&SP
Nhu cầu đổi mới công nghệ
CN:
SF:
R&D
Công nghệ
Sản phẩm
Hoạt động
nghiên cứu
và triển khai
Nguồn: Đoàn Châu Thanh - Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam trong công cuộc CNH - HĐH nền kinh tế - Luận văn Thạc sĩ kinh tế - Trường Đại học Ngoại thương, tr3
Qua hình 2 cho thấy điểm bão hoà trong chu kì sống của công nghệ luôn xuất hiện trước điểm bão hoà trong chu kì sống của sản phẩm. Mặc dù một sản phẩm còn đang trong giai đoạn tăng trưởng của chu kì sống song công nghệ chế tạo ra sản phẩm đó đã dừng lại ở điểm bão hoà trong chu kì sống. Vì vậy công tác đổi mới công nghệ đối với một doanh nghiệp phải được chú trọng ngay từ khi sản phẩm do công nghệ đó chế tạo ra còn ở giai đoạn tăng trưởng. Nếu công tác đổi mới công nghệ sản xuất chỉ dược tiến hành khi sản phẩm do công nghệ đó chế tạo ra ở điểm bão hoà của chu kì sống, thì chắc chắn rằng việc đổi mới công nghệ của doanh nghiệp đã muộn và doanh nghiệp khó mà giữ được vị thế cạnh tranh trước đó.
3.3. Công nghệ mang bản chất thông tin.
Bắt nguồn từ khoa học, công nghệ cũng mang bản chất thông tin. Thông tin công nghệ không dừng ở việc mô tả bản chất của các giải pháp công nghệ, mối quan hệ giữa các yếu tố hàm chứa trong công nghệ, mà còn tổng hợp về giá cả, điều kiện áp dụng, khả năng đạt hiệu quả khi sử dụng công nghệ. Do đó, việc xác định sở hữu, bảo vệ, đánh giá, xử lý, cập nhật trong việc mua bán công nghệ là hết sức phức tạp. Nó đòi hỏi có sự can thiệp và bảo hộ của hệ thống luật pháp không chỉ ở phạm vi quốc gia mà cả quốc tế. Đồng thời nó cũng đòi hỏi các kỹ năng linh hoạt và các kinh nghiệm trong quá trình thăm dò, tình báo, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Để đảm bảo thông tin công nghệ khỏi bị đánh cắp và công nghệ không bị bắt chước, có một thông tin trung gian là thông tin Patent (về các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ của hàng hoá). Thông tin Patent thể hiện được điểm cốt lõi của công nghệ, nhưng còn thiếu mức độ chi tiết và thiếu yếu tố kỹ thuật, thương mại đồng bộ kèm theo để có thể nắm được công nghệ. Patent là một văn bằng mà nội dung của nó được Nhà nước bảo hộ độc quyền, là bộ phận của hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ thế giới thông qua các hiệp định quốc tế. Việc sử dụng thông tin Patent điều phải được phép của chủ sở hữu và đăng ký với cơ quan quản lý có thẩm quyền (Cục quản lý phát minh sáng chế).
Giữa thông tin công nghệ và thông tin khoa học có sự khác nhau. Sự nhầm lẫn về bản chất này có thể dẫn đến những thiếu sót khi xử lý thông tin và thất bại khi sử dụng công nghệ. Thông tin công nghệ là thông tin có thể đem lại lợi nhuận ngay hôm nay hoặc ngày mai, còn thông tin khoa học có thể đem lại lợi nhuận sau một thời gian dài 5 năm chẳng hạn. Thông tin khoa học thường đề cập sâu hơn về một đối tượng, ngược lại thông tin công nghệ lại thường tổng hợp nhiều khía cạnh. Thông tin công nghệ thường rất rộng, không chỉ dừng ở khía cạnh kĩ thuật, mà còn bao quát cả khía cạnh thương mại hoá, sở hữu công nghiệp và những vấn đề xung quanh hoạt động CGCN. Như vậy, công nghệ không chỉ đem lại thông tin về chi tiết kỹ thuật mà còn cung cấp cả các chi tiết khác về mặt công nghệ như đào tạo, huấn luyện, chuyên gia. Để sử dụng công nghệ cần có đầy đủ thông tin để đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn.
3.4. Tính đặc thù.
3.4.1. Đặc thù theo mục tiêu (Objective Specific)
Mặc dù khái niệm công nghệ rất rộng nhưng rất cụ thể, công nghệ luôn gắn liền với việc giải quyết một mục tiêu cụ thể. Mỗi một công nghệ cho ra một sản phẩm nhất định với số lượng và chất lượng nhất định, tương ứng với một lượng hao phí nhất định về nhân vật lực để tạo ra sản phẩm đó.
Xuất phát từ thuộc tính đặc thù của công nghệ hoạt động (R&D) được định hướng cụ thể tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia khác nhau.
3.4.2. Đặc thù về địa điểm (Location specific)
Khi một công nghệ được chuyển giao từ nơi này sang nơi khác thì nó trở nên khác trước. Khi trở nên lạc hậu ở một nước không còn đáp ứng việc tạo ra sản phẩm mới thì ở nước nước khác nó có thể vẫn được coi là mới và thích hợp. Điều đó có nghĩa là lúc sản phẩm đang ở giai đoạn thoái trào tại nước phát triển công nghệ thì nó lại ở trong giai đoạn cao trào ở nước tiếp nhận công nghệ có nền công nghệ kém phát triển hơn. Sự khác nhau này là do yếu tố của con người, môi trường, thị trường, các yếu tố đầu vào, văn hoá của một nước quyết định. Điều này cho thấy rằng, chuyển giao công nghệ không đơn thuần là chuyển dịch công nghệ từ vị trí địa lý này sang vị trí khác mà là cả quá trình cải tiến sửa đổi thích nghi hoá, "địa phương hoá" cho phù hợp với điều kiện của môi trường mới.
4. Phân loại công nghệ
4.1 . Căn cứ vào mức độ tiên tiến của công nghệ.
Căn cứ vào mức độ tiên tiến của công nghệ chia làm 3 loại công nghệ chính:
- Công nghệ cao
- Công nghệ thường
- Công nghệ thấp
Những chỉ tiêu đối với một công nghệ cao là:
- Tiêu hao một lượng lớn về chi phí (R&D) công nghệ.
- áp dụng những giải pháp hoặc kiến thức khoa học mới nhất, sử dụng nhiều phát minh sáng chế mới.
- Trình độ tự động hoá cao.
- Vận dụng phức hợp nhiều giải pháp công nghệ
- Có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghệ khác.
Tuy nhiên khái niêm công nghệ cao, chỉ có ý nghĩ tương đối, khái niệm này biến đổi theo thời gian, và được hiểu không giống nhau ở các nước có trình độ công nghệ khác nhau.
Một công nghệ cao được hiểu theo những tiêu chí ở trên quá thiên về mặt kỹ thuật, nó chưa tính đến khía cạnh thương mại, bởi lẽ có công nghệ cao chưa hẳn đã đảm bảo thành công về mặt thương mại vì nó phụ thuộc và sự chấp nhận của thị trường. Do đó đứng trên góc độ doanh nghiệp, khi đánh giá công nghệ không thể tách rời các yếu tố kỹ thuật ra khỏi các yếu tố thương mại. Tóm lại một công nghệ được coi là công nghệ cao hiện đại còn cho phép nhà đầu tư đạt được hiệu quả kinh doanh tương ứng thể hiện ở mức độ sinh lợi, giá trị gia tăng, năng suất cao hơn các công nghệ tương tự.
4.2. Căn cứ vào mức độ hàm lượng các nguồn lực trong công nghệ
Chia làm 3 công nghệ chính:
- Công nghệ có hàm lượng lao động cao (Labour intensive): may mặc, dệt; lắp ráp.
- Công nghệ có hàm lượng vốn cao (Capital intensive): đóng tàu cơ khí; khai khoáng.
- Công nghệ có hàm lượng tri thức cao (Know intensive): phần mềm, công nghệ sinh học...
Các nước phát triển thuộc tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đều đã trải một cách tuần tự trong những “bậc thang công nghệ” đó là chuyển dần từ công nghệ có hàm lượng lao động cao sang công nghệ có hàm lượng vốn và tri thức cao. Tuy nhiên việc giải bài toán “nhảy cóc công nghệ” (thực hiện chu trình công nghệ đứt đoạn : nhảy từ chu trình công nghệ hiện có sang một chu trình công nghệ cao hơn tiên tiến hơn của các nước phát triển), là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đặt ra với các nước đang phát triển trong thời đại ngày nay để rút ngắn khoản cách về trình độ và năng suất của nền sản xuất so với nền sản xuất của các nước phát triển.
5. Xu hướng phát triển của công nghệ thế giới hiện nay
Hiện nay, trên thế giới theo OECD, những ngành mũi nhọn công nghệ cao đang được phát triển mạnh mẽ ở những nước công nghiệp như Mỹ, Nhật, các nước Đông Âu và đặc biệt các nước công nghiệp mới (NICs) ở Châu á đó là những ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ gia công chính xác trong chế tạo máy, tự động hoá, năng lượng mới, công nghệ hàng không vũ trụ... Đây là những ngành thể hiện những xu thế phát triển chủ yếu hiện nay của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ thế giới. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ này đã đưa vai trò của các yếu tố lợi thế so sánh cạnh tranh có tính truyền thống như tài nguyên, vốn, sức lao động xuống hàng thứ yếu sau yếu tố về trí tuệ (kỹ năng công nghệ). Tổ chức hoạt động khoa học có tính sáng tạo sẽ là nền tảng của sự phát triển thịnh vượng và giàu có của mỗi quốc gia và xã hội.
Điện tử tin học, công nghệ sinh học và vật liệu mới là ba nội dung cơ bản nhất của cách mạng công nghệ, của hệ thống công nghệ thời đại. Nói đến cách mạng công nghệ tất nhiên là còn phải đề cập tới các hướng phát triển khác như : công nghệ vũ trụ, công nghệ đại dương, công nghệ tổng hợp hạt nhân nhưng đó là những hướng công nghệ đặc trưng cho một số ít siêu cường về kinh tế và khoa học kỹ thuật không mang tính phổ cập. Hơn nữa những tiến bộ trong các hướng này phần lớn do những thành tựu mới của điện tử tin học, công nghệ sinh học và vật liệu mới quyết định. Ba hướng công nghệ cơ bản nói trên phát triển không tách rời nhau và thâm nhập vào nhau tạo điều kiện cho nhau phát triển. Cách mạng công nghệ càng phát triển lên cao thì sự thâm nhập vào nhau của các hướng công nghệ ấy càng mật thiết. Không có những thành tựu mới của điện tử và tin học thì không thể có các loại vật liệu có tính năng theo đơn đặt hàng, không thể tạo ra các cơ thể sống có tình trạng mong muốn, ngược lại không có vật liệu mới thì cũng không thể có những thành tựu hiện nay của điện tử và tin học. Sinh điện tử trong tương lai sẽ là một sự lai ghép thực sự giữa công nghệ sinh học và vi điện tử với sự tham gia của các vật liệu sinh học.
Điện tử tin học, công nghệ sinh học và vật liệu mới là ba hướng công nghệ mang tính "generic"có khả năng thâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực công nghệ khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Đó là cơ sở công nghệ để thực hiện sự nghiệp tái công nghiệp hoá tại các nước một mặt vừa tạo những ngành công nghiệp mới có tốc độ phát triển rất cao từ 17% - 25% (như công nghiệp điện tử và công nghiệp sinh học) một mặt góp phần hiện đại hoá và nâng cao hiệu quả kinh tế của các ngành đã có từ trước (như dệt may, da dầy, luyện kim, công nghiệp ô tô) mang lại cho các nước một mức sống mới, những giá trị kinh tế - kỹ thuật mới.
II. Chuyển giao công nghệ .
1. Khái niệm chuyển giao công nghệ:
Trong nền kinh tế thị trường, công nghệ luôn được coi là hàng hoá mà đã là hàng hoá thì tất yếu sẽ có mua và bán, trao đổi và có thị trường tiêu thụ hàng hoá đó. Việc mua và bán đó được gọi chung bằng thuật ngữ CGCN, như vậy 4 yếu tố cấu thành CGCN chính là máy móc (machine), thị trường (market), quản lý (management), tiền (money) gọi tắt là 4 M.
CGCN được hiểu đơn giản là mang kiến thức kỹ thuật vượt qua một giới hạn trong hay ngoài nước. Thực ra CGCN là việc tiếp nhận công nghệ nước ngoài và là quá trình vật lý, trí tuệ một quá trình đi tìm kiếm với việc huấn luyện toàn diện của một bên về sự hiểu biết học hỏi của một bên khác.
Bên bán là: "bên giao công nghệ" là một bên gồm một hay nhiều tổ chức kinh tế, khoa học, công nghệ và tổ chức có tư cách pháp nhân hoặc cá nhân ở nước ngoài có công nghệ chuyển giao vào nước khác. Do xuất phát từ nhu cầu đổi mới và cải tiến công nghệ của các nước chủ công nghệ, các nước thường xuyên chuyển giao công nghệ và thiết bị đã bắt đầu bão hoà trên thị trường chứ không phải chuyển giao công nghệ mới nhất.
"Bên nhận công nghệ" là một hay nhiều tổ chức kinh tế, khoa học, công nghệ khác nhau có tư cách pháp nhân hay cá nhân tiếp nhận công nghệ. Bên mua công nghệ phải có thông tin, có hiểu biết, có nghiệp vụ kỹ năng cần thiết, mặt khác cũng cần định hướng, hỗ trợ của các cấp quản lý và sự phối hợp của các doanh nghiệp cùng ngành nghề. Trong xu thế thời đại hiện nay, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, công nghệ liên tục được cải tiến và đổi mới. Do đó, CGCN góp vốn bằng công nghệ thực chất là một cuộc mua bán, xuất nhập hàng hoá đặc biệt, có những yếu tố lượng hoá được, có những yếu tố không thể lượng hoá được, có những ảnh hưởng trực tiếp của tương lai. Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế, hai bên "mua" và "bán" công nghệ bị ràng buộc lẫn nhau bằng hợp đồng chuyển giao công nghệ. Trong hợp đồng CGCN, việc xác định giá cả và phương thức thanh toán hết sức quan trọng. Cần được xem xét và tiếp nhận một cách có hệ thống. Việc nhận dạng đánh giá và phân tích công nghệ phải đặt trong tổng thể: Phân tích thị trường, phân tích tài chính và kinh tế của dự án. Chỉ có như vậy mới đánh giá được công nghệ một cách hợp lý, bảo đảm tính cạnh tranh và lợi nhuận cho dự án.
2. Nội dung chuyển giao công nghệ.
2.1. Nội dung chuyển giao công nghệ.
2.1.1. Chuyển giao sở hữu hoặc quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp.
Đối tượng sở hữu công nghiệp bao gồm các đối tượng sau:
ã Sáng chế (invention): là một giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kĩ thuật thế giới, có tính sáng tạo, có khả năng áp dụng vào thực tiễn sản xuất kinh doanh và trong các lĩnh vực kinh tế xã hội khác.
ã Giải pháp hữu ích: là các giải pháp kĩ thuật mới so với trình độ kĩ thuật ở Việt Nam và có khả năng áp dụng vào thực tế sản xuất kinh doanh ở Việt Nam.
ã Kiểu dáng công nghiệp (industrial design): là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu đó, có tính mới so với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp hay thủ công nghiệp và để phân biệt sản phẩm này với sản phẩm khác cùng loại.
ã Nhãn hiệu hàng hoá (trade mark): Nhãn hiệu hàng hoá có thể là dấu hiệu, biểu tượng, tên gọi, màu sắc, từ ngữ, hình ảnh hay sự kết hợp các yếu tố đó để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau.
ã Tên gọi xuất sứ hàng hoá (Origin): là tên gọi của một loại hàng hoá gắn liền với một địa danh nổi tiếng mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra với các tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên điều kiện địa lí độc đáo và ưu điểm bao gồm các yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó.
2.1.2. Chuyển giao thông qua việc mua bán, cung cấp đối tượng sau:
ã Phương án công nghệ, quy trình công nghệ.
ã Tài liệu thiết kế sơ bộ và thiết kế kỹ thuật.
ã Công thức, bản vẽ sơ đồ, bản biểu.
ã Thông số kỹ thuật hoặc kiến thức kỹ thuật chuyên môn khác.
ã Bí quyết kỹ thuật - công nghệ (có thể hoặc không có thiết bị kèm theo).
Bí quyết kỹ thuật là những kinh nghiệm hoặc kiến thức kỹ thuật để sản xuất những sản phẩm nhất định hoặc để áp dụng một quy trình công nghệ nào đó một cách tốt nhất hoặc để nâng cao chất lượng một sản phẩm kỹ thuật nào đó mà nếu không có kinh nghiệm và kiến thức này thì không thể sản xuất được sản phẩm hoặc không thể tiến hành việc sản xuất một cách chính xác và hiệu quả kinh tế như thế.
2.1.3. Thực hiện các hình thức dịch vụ và tư vấn sau:
ã Hỗ trợ trong việc lựa chọn công nghệ, hướng dẫn lắp đặt thiết bị, vận hành thử các dây chuyền thiết bị nhằm áp dụng công nghệ được chuyển giao.
ã Tư vấn quản lý công nghệ, tư vấn quản lý kinh doanh, hướng dẫn thực hiện các quy trình công nghệ được chuyển giao.
ã Đào tạo huấn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, quản lý công nhân, cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý để nắm vững công nghệ được chuyển giao.
ã Nghiên cứu, phân tích, đánh giá, nghiên cứu cơ hội, nghiên cứu tiền khả thi và khả thi các dự án đầu tư và đổi mới công nghệ.
ã Thực hiện dịch vụ về thu nhập, xử lý và cung cấp thông tin về thị trường công nghệ, pháp lý, tài nguyên và môi trường.
Các hoạt động thuần tuý nhập khẩu máy móc, thiết bị, thông thường không được coi là CGCN.
3. Các hình thức và các dòng chuyển giao công nghệ.
3.1. Các hình thức chuyển giao công nghệ.
3.1.1.Chuyển giao công nghệ thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đây là hình thức đang được thực hiện ồ ạt nhất hiện nay và quy mô ngày càng tăng dần do đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhất là vào các nước ASEAN, đang tăng rõ rệt.
Các trường hợp CGCN thuộc hình thức này có đặc điểm chung là:
- Công nghệ được đưa vào cùng với hợp đồng đầu tư trực tiếp từ nước chuyển giao;
- Nhà đầu tư nước ngoài đồng thời là người nắm công nghệ và sử dụng công nghệ;
- Công nghệ được sử dụng để thực hiện dự án mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn dưới hình thức nào đó, mức độ nào đó.
3.1.2. Hỗ trợ kỹ thuật và nhượng quyền (license)
Hỗ trợ kỹ thuật và nhượng quyền thực chất là hình thức mua bán loại hàng hoá đặc biệt - đó là công nghệ. Tham gia vào quá trình này là hai bên hoàn toàn độc lập nhau, không bị ràng buộc về tài chính. Đây chỉ là hình thức CGCN điển hình và phổ biến nhất.
3.1.3. Hợp đồng "chìa khoá trao tay".
Hợp đồng chìa khoá trao tay là thoả thuận giao cho nhà thầu/ bên giao công nghệ thực hiện mọi bước từ đầu đến cuối của một dự án đầu tư (kể cả các dịch vụ tư vấn, quản lý, thiết kế kỹ thuật và các dịch vụ khác) cho đến khi dự án sẵn sàng đi vào sản xuất thương mại hoặc được sử dụng ngay.
3.1.4. Hợp tác nghiên cứu cùng phát triển công nghệ.
Hợp tác nghiên cứu cùng phát triển công nghệ là hình thức chuyển giao công nghệ mà hai bên cùng xây dựng một dự án công nghệ trên cơ sở thế mạnh vốn có của mỗi bên, các bên cùng tiến hành nghiên cứu phát triển dự án công nghệ đó theo nguyên tắc cùng đầu tư cùng chịu rủi ro để tạo ra một giải pháp công nghệ mới.
Đây là hình thức các công ty nước sở tại, các chính phủ rất kỳ vọng và tạo mọi điều kiện ưu đãi, vì nó thể hiện đầy đủ tính tích cực của một cuộc CGCN theo đúng nghĩa:
- Thực hiện đúng nguyên tắc: cùng đầu tư, cùng chịu rủi ro;
- Tận dụng được thế mạnh của mỗi bên, tạo ra thế mạnh chung mà trước đó mỗi bên không hề có;
- Mỗi bên đều tham gia tích cực vào quá trình tạo ra công nghệ, học hỏi lẫn nhau.
3.2. Các dòng chuyển giao công nghệ chủ yếu trên thị trường thế giới
ã Dòng chuyển giao công nghệ giữa các nước phát triển sang các nước đang phát triển (chuyển giao công nghệ Bắc - Nam).
Dòng CGCN Bắc - Nam là dòng CGCN được thực hiện chủ yếu từ các nước công nghiệp phát triển ở Bắc bán cầu sang các nước đang phát triển ở Nam bán cầu.
Dòng CGCN này được diễn ra ồ ạt từ đầu những năm 70 của thế kỉ 20, khi mà các nước công nghiệp phát triển như Mỹ và các nước Tây Âu chuyển một số bộ phận công nghiệp gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn nhiều tài nguyên như: khai khoáng, khai thác dầu khí... sang các nước đang phát triển để tập trung đi vào nghiên cứu phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn có trình độ kỹ thuật cao. Hơn nữa, vào những năm 70 các nước đang phát triển đang trong giai đoạn đầu của quá trình CNH - HĐH nên rất cần CGCN từ các nước phát triển. Vì vậy dòng CGCN này càng có điều kiện phát triển. Cho đến nay dòng CGCN này vẫn còn tiếp tục phát triển mạnh mẽ bởi lẽ nhu cầu nhập khẩu công nghệ hiện đại từ các nước phát triển để phát triển nền kinh tế đối với các nước phát triển vẫn còn thiết yếu và tất yếu. Dòng chuyển giao công nghệ này chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức FDI.
Có thể đơn cử một số trường hợp điển hình trong dòng CGCN này như: đầu tư của tập đoàn IBM, Motorola của Mỹ vào Trung Quốc, đầu tư củ._.a tập đoàn dầu khí BP vào các nước dầu lửa Nam Mỹ, vào các nước Đông Nam á trong đó có Việt Nam.
ã Chuyển giao công nghệ giữa các nước đang phát triển (chuyển giao Nam - Nam).
Với nguồn tín dụng của chính phủ Italia, một hệ thống công nghệ pilot về thông tin (TIPS) đã được hình thành với mạng lưới thông tin phát triển đa ngành, trong đó thông tin khoa học kỹ thuật cần cho sự phát triển kinh tế của các nước tham gia được trao đổi thông qua mạng lưới liên lạc bằng vệ tinh . Mười thành viên ban đầu tham gia vào hệ thống TIPS là: Trung Quốc, Kênia, Peru, Hy Lạp, Philipin, Mehico, Braxin, Pakistan, ấn Độ Zimbabuê. Mục tiêu của TIPS là thúc đẩy CGCN và hợp tác kinh tế nhằm khai thác các nguồn lực và khả năng của các ngành công nghệ thuộc các khu vực của chính phủ, công cộng và tư nhân, các tổ chức nghiên cứu, các tổ chức tài chính, các cơ quan chuyên ngành về phát triển TIPS cũng nhằm vào việc phát triển các cơ hội hợp tác và nâng cao công nghệ, khuyến khích đầu tư và các chương trình phối hợp. Hiện nay TIPS bao gồm các lĩnh vực sau: máy nông nghiệp sinh khối, công nghệ sinh học, điện tử, nghề cá, máy dệt, năng lượng mặt trời.
Từ cuối những năm 60 của thế kỷ 20 đến nay dòng CGCN Nam - Nam bắt đầu xuất hiện và có xu hướng gia tăng. Tuy nhiên khối lượng CGCN theo dòng Nam - Nam vẫn chưa nhiều, và chủ yếu tập trung vào các nước (NICs).
ã Dòng chuyển giao công nghệ giữa các nước công nghiệp phát triển với nhau.
Dòng chuyển giao công nghệ này được đánh giá là dòng chuyển giao công nghệ lớn nhất. Ví dụ trong tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài, đầu tư của Mỹ sang các nước công nghiệp phát triển chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao chưa bao giờ nhỏ hơn 60%, tỷ lệ tương ứng của Anh là 80% và của Pháp là 70% so với tổng giá trị đầu tư ra nước ngoài của các nước này.
ã Dòng chuyển giao công nghệ thông qua hình thức mua lại và sáp nhập các công ty .
Ngày nay cạnh tranh giữa các công ty lớn diễn ra ngày một gay gắt và khốc liệt, để tồn tại trong điều kiện cạnh tranh thì việc nắm bắt những công nghệ tiên tiến nhất, những trình độ hoàn hảo nhất đang trở thành yếu tố then chốt chi phối chiến lược hoạt động và phát triển của mỗi công ty. Vì vậy trong xu thế thời đại ngày nay việc các công ty, các tập đoàn sáp nhập, liên kết nhau để cùng nhau đầu tư nghiên cứu tìm ra công nghệ mới nhất nhằm duy trì lợi thế cạnh tranh và giữ vững thị phần cùng nhau hưởng lợi là một xu hướng phổ biến.
Vào những năm 90 xu hướng này đã bắt đầu xuất hiện ở Mỹ và phổ biến trong ngành điện tử với các công ty AT&T, Nortel, IBM, Compaq, Lucent, Ericsson...
ã Dòng chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển sang các nước (NICs) và tới các nước đang và chậm phát triển "theo mô hình đàn sếu bay".
Do sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế của các nước phát triển, cũng như chu kỳ sống của công nghệ và sản phẩm của các nước này ngày càng rút ngắn. Do đó để khắc phục được tình trạng lão hoá sản phẩm các nước tư bản phát triển đã di chuyển một bộ phận sản xuất công nghiệp, phần lớn là máy móc ở giai đoạn lão hoá sang các nước kém phát triển hơn để tiếp tục sử dụng, kéo dài thêm chu kỳ sống của sản phẩm. Vào những năm 70 khi những cuộc khủng hoảng cơ cấu nổ ra, trong chiến lược tái triển khai công nghiệp lúc đó, các nước tư bản phát triển đã di chuyển một bộ phận công nghiệp có kỹ thuật đơn giản dùng nhiều lao động và gây ô nhiễm môi trường bao gồm các ngành như: quần áo, giầy dép, đồ chơi, hàng điện tử đơn giản công nghiệp khai khoáng sang các nước (NICs) Châu á như (Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông). Và các nước tư bản phát triển tiếp tục đầu tư vào ngành mới kỹ thuật cao hơn như: điện tử, tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hoá ...Vào cuối thập kỷ 70 đến thập kỷ 90 của thế kỷ 20, làn sóng CGCN thứ hai được bắt đầu từ các nước NICs sang các nước đang phát triển như Thái Lan, Malaixia, Indoxia tới Philipines, Trung Quốc, Việt Nam...
4. Giá cả và phương thức thanh toán trong chuyển giao công nghệ
4.1. Giá cả trong chuyển giao công nghệ
4.1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả chuyển giao công nghệ
Công nghệ là một loại hàng hoá đặc biệt nên không có giá cả quốc tế hay giá cả quốc gia cho mỗi công nghệ như hàng hoá thông thường khác. Việc mua bán công nghệ hầu như phụ thuộc vào người bán hay nước chuyển giao định đoạt phần nhiều. Do vậy nước được chuyển giao hay nước mua công nghệ phải xem xét những yếu tố sau đây để thoả thuận:
- Lợi nhuận do công nghệ được chuyển giao mang lại.
- Tính mới của sản phẩm.
- Khả năng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm sản xuất theo hợp đồng CGCN.
- Khối lượng sản phẩm.
- Chất lượng sản phẩm và giá thành
- Nguy cơ cạnh tranh (của sản phẩm cùng loại hay sản phẩm thay thế)
- Khả năng cung ứng nguyên vật liệu, phụ tùng.
- Thời hạn hợp đồng CGCN
- Thời hạn hiệu lực của các đối tượng sở hữu công nghiệp.
- Các điều kiện liên quan đến độc quyền, lãnh thổ áp dụng, phạm vi thị trường.
- Phương thức thanh toán đồng tiền dùng để thanh toán.
- Các điều kiện để bảo hành
- Các luật lệ về thuế, các phí tổn do luật pháp của nước thuộc bên bán và bên mua qui định
- Số người muốn bán công nghệ tương tự và số người muốn mua
4.1.2. Cơ sở đánh giá và định giá công nghệ
Đánh giá công nghệ là việc định lượng, phân tích và xem xét công nghệ trên ba khía cạnh: Đồng bộ - tiến bộ - thích hợp để từ đó quyết định. Việc lựa chọn và đánh giá công nghệ là công việc hết sức phức tạp nhưng hết sức quan trọng.
ã Tính đồng bộ : Công nghệ có tính mục tiêu cụ thể, công nghệ nào sản phẩm đó, ứng với mỗi công nghệ có một sản phẩm nhất định do vậy sự đồng bộ của công nghệ thể hiện khía cạnh vật chất của công nghệ, đảm bảo cho công nghệ có đầy đủ các giải pháp để đạt được mục tiêu đã định.
ã Tính tiến bộ hay tính hiện đại: Tính tiến bộ hay tính hiện đại của công nghệ được thể hiện qua sản phẩm của công nghệ . Đánh giá mức độ tiên tiến của sản phẩm hay đánh giá công nghệ ở quá trình sản xuất biểu hiện ở thế hệ thiết bị, thời hạn hiệu lực của các đối tượng sở hữu công nghệ có liên quan, tuổi thọ, việc giảm đầu vào hay tăng đầu ra.
ã Tính thích hợp: Tính thích hợp của công nghệ khá phức tạp. Nó đòi hỏi phải xem xét nhiều tiêu chuẩn liên quan tới hàng loạt tác nhân như: sự thích ứng với môi trường xung quanh, khả năng đáp ứng kế hoạch hoá theo chiều ngang và bao quát mục tiêu ngắn hạn đã được đề ra. Ngoài ra tính thích hợp của bất kỳ công nghệ nào còn được xác định bởi chiến lược phát triển quốc gia - một sự phát triển mang tính tự sáng tạo (tự lực và tự trị). công nghệ là một yếu tố cơ bản của cơ cấu kinh tế mà nó trực thuộc, thí dụ: đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động dư thừa không có trình độ cao không thích hợp với công nghệ cần nhiều vốn tri thức. Tính thích hợp của công nghệ phụ thuộc rất nhiều vào việc sử dụng công nghệ, nó mang tính năng động. Hôm nay công nghệ này còn thích hợp, nhưng ngày mai thì không, hoặc ngược lại, hôm nay nó không thích hợp thì ngày mai nó lại thích hợp. Vì thế trước khi lựa chọn công nghệ cần quyết định xem loại hàng hoá nào, dịch vụ nào sẽ được sản xuất, tiêu thụ và buôn bán, ai sẽ sản xuất chúng và việc sản xuất, lưu thông chúng sẽ được tổ chức như thế nào.
Ngoài ra còn phải căn cứ vào các chỉ tiêu sau để đánh giá:
- CN sử dụng nhiều trí thức (Knowledge intensive)
- CN sử dụng nhiều vốn (Capital intensive)
- CN sử dụng nhiều lao động (Labour intensive).
4.1.3. Phương pháp tính giá công nghệ
Có thể dựa vào doanh thu hoặc lợi nhuận thu được để tính giá công nghệ theo các tỷ lệ sau:
- Tỷ lệ % của giá trị khối lượng sản phẩm được sản xuất ra hàng năm
- Tỷ lệ % của giá trị khối lượng sản phẩm được tiêu thụ hàng năm.
- Tỷ lệ % của lợi nhuận thu được hàng năm.
Tuy nhiên, do công nghệ là một đối tượng rất trừu tượng, việc định lượng chính xác giá trị tăng thêm của sản phẩm do công nghệ đem lại là khó khăn và vô cùng phức tạp do đó người ta loại bỏ các yếu tố không mang tính công nghệ trong tính doanh thu đạt được. Để đạt được điều này người ta đưa ra khái niệm "giá bán tịnh" (Net selling price).
Giá bán tịnh là tổng giá bán sản phẩm dịch vụ mà trong quá trình tạo ra chúng có áp dụng công nghệ được chuyển giao, tính theo hoá đơn bán hàng sau khi trừ đi các khoản sau:
- Chiết khấu thương mại
- Thuế gián thu
- Hàng tồn kho
- Chi phí quảng cáo, bảo hiểm cho việc bán hàng;
- Thanh toán hoa hồng uỷ thác bán hàng
- Chi phí bảo dưỡng sản phẩm
- Chi phí bao bì đóng, vận tải phục vụ bán hàng
- Giá nhập khẩu CIF và thuế nhập khẩu cán bán thành phẩm, bộ phận chi tiết, linh kiện, phụ tùng.
Để có một đánh giá và tính được giá công nghệ thật chuẩn xác đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu kết hợp trên nhiều chỉ số định lượng khác nhau, và người viết xin được trở lại vấn đề này ở chương III.
4.2. Phương pháp thanh toán.
Khi đề cập đến các phương pháp tính giá, thì phương pháp thanh toán cũng nên được đưa ra vì nó cũng có ảnh hưởng rất quan trọng đến hiệu quả, tính thực thi của hợp đồng CGCN.
Trong hợp đồng, các bên có thể lựa chọn một trong các phương thức sau:
ã Góp vốn bằng công nghệ: Giá trị công nghệ được tính thành một số tiền nhất định và số tiền này được coi là phần góp vốn của bên giao trong liên doanh.
ã Trả gọn (Lump - sum): Phương thức trả gọn là phương thức theo đó hai bên thoả thuận định giá của công nghệ bằng một khoản tiền nhất định. Bên mua có thể trả gọn một hoặc nhiều lần trong một thời hạn nhất định (thông thường bắt đầu từ khi ký xong hợp đồng và kết thúc lúc bên mua sản xuất được sản phẩm đầu tiên).
ã Phương thức trả kỳ vụ (Royalty): là phương thức theo đó bên mua trả dần cho bên bán một khoản tiền tính bằng tỷ lệ theo chỉ số nhất định trong một thời gian nhất định do hai bên thoả thuận. Đối với CGCN từ nước ngoài vào và CGCN trong nước, giá thanh toán cho việc CGCN, bao gồm các đối tượng đã nêu ở điều 4 của Nghị định 45/1998 NĐ-CP, trong đó không kể giá trị máy móc thiết bị kèm theo, phải tuân theo một thời hạn:
- Từ 0-5% giá bán tịnh (net selling price) trong thời gian hiệu lực của hợp đồng.
- Hay từ 0-25% lợi nhuận sau thuế thu được từ việc tiêu thụ sản phẩm được chuyển giao trong thời gian hiệu lực hợp đồng.
- Hay từ 0-8% tổng vốn đầu tư trong trường hợp góp vốn bằng công nghệ không quá 20% vốn pháp định đối với việc chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam và chuyển giao trong nước, giá thanh toán cho việc CGCN không kể giá trị máy móc thiết bị kèm theo, có thể đến 8% giá bán tịnh hay đến 30% lợi nhuận sau thuế, hoặc trong trường hợp góp vốn bằng giá trị công nghệ đến 10% tổng số vốn đầu tư đối với công nghệ hội đủ tiêu chuẩn:
+ Công nghệ chuyển giao thuộc công nghệ cao (theo danh mục của Bộ khoa học, công nghệ và môi trường công bố trong từng thời kỳ).
+ Công nghệ được chuyển giao có ý nghĩa lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội của vùng sâu vùng xa và miền núi hải đảo.
+ Phần lớn sản phẩm được xuất khẩu (hoặc phí được trả cho công nghệ được ở mức cao đối với sản phẩm được xuất khẩu).
+ Đối với những công nghệ đặc biệt, có mức phê duyệt thanh toán cho việc CGCN cao hơn quy định nêu trên. Bộ khoa học công nghệ môi trường sẽ xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
ã Kết hợp trả gọn một phần, phần còn lại trả theo kỳ vụ.
Theo kinh nghiệm của một số nước phát triển cho thấy họ không khuyến khích phương thức trả gọn hay góp vốn bằng công nghệ (trả gọn chỉ áp dụng khi bên nhận có thể tiếp thu được toàn bộ công nghệ trong thời gian ngắn xác định), mà họ khuyến khích trả kỳ vụ nhằm gắn quyền lợi và trách nhiệm của bên giao và hiệu quả sử dụng công nghệ trong suốt thời gian áp dụng công nghệ (doanh thu càng cao, sử dụng càng nhiều nhiên liệu, bán thành phẩm và nhân công trong nước thì phí kỳ vụ sẽ tăng tương ứng). Chính sách này cũng nhằm thúc đẩy bên giao liên tục thông báo và chuyển giao những cải tiến, đổi mới công nghệ để duy trì lợi thế cạnh tranh của bên nhận hòng thu được những khoản phí kỳ vụ như mong muốn.
III. Vai trò của chuyển giao công nghệ.
1. Tính tất yếu của chuyển giao công nghệ.
1.1. Chuyển giao công nghệ là con đường tất yếu để không ngừng đổi mới, nâng cao trình độ lực lượng sản xuất.
Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ đang phát triển với một tốc độ vũ bão, là động lực trực tiếp thúc đẩy lực lượng sản xuất mỗi quốc gia phát triển. Chính sự phát triển kỳ diệu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang tác động sâu sắc đến mọi mặt kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Sự phát triển ở mỗi quốc gia dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển cũng như chậm phát triển không thể nằm ngoài xu thế phát triển của khoa học và công nghệ. Mỗi một trình độ khoa học công nghệ nhất định tạo ra một nền sản xuất tương ứng, song cái đích phát triển của mỗi quốc gia đều hướng tới là sự giàu có phồn vinh, không ngừng nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của nước mình. Tuy nhiên luôn có sự chênh lệch về trình độ khoa học, công nghệ giữa các quốc gia bởi quy luật phát triển không đều tạo ra. Vì vậy dù là nước tư bản chủ nghĩa phát triển hay các nước đang và chậm phát triển đều phải học hỏi tiếp thu công nghệ của nước ngoài thông qua con đường chuyển giao công nghệ để rút ngắn khoảng cách về trình độ khoa học công nghệ của nước mình so với nước khác, cũng như phát huy triệt để lợi thế của người đi sau.
1.2. Chuyển giao công nghệ là con đường tất yếu để mỗi quốc gia giải quyết tốt các vấn đề khoa học nằm ngoài khả năng của mình.
Do nhu cầu thực tế sản xuất đặt ra, cũng như các vấn đề có liên quan đến đời sống hàng ngày của mỗi dân tộc mỗi quốc gia đang gặp phải vô cùng rộng lớn, mà bản thân nền khoa học và công nghệ của các quốc gia riêng rẽ không có thể tự mình giải quyết mọi vấn đề đó, do vậy việc hợp tác trong nghiên cứu khoa học, cũng như chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia là tất yếu.
1.3. Chuyển giao công nghệ là cần thiết để mỗi quốc gia phát huy triệt để lợi thế so sánh tương đối của mình.
Ngày nay khi mà mỗi quốc gia đã ý thức được rằng, nguồn tài nguyên của mỗi quốc gia là có hạn, cũng như mỗi nước chỉ có những lợi thế so sánh tương đối trong sản xuất một số lĩnh vực cụ thể, do vậy họ luôn luôn tìm tòi con đường khoa học và công nghệ tiên tiến và hợp lý nhất để khai và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên của quốc gia mình, cũng như tăng tính cạnh tranh về lợi thế so sánh tương đối của mình, trong đó con đường chuyển giao công nghệ từ nước ngoài luôn được các quốc gia cân nhắc tới.
1.4. Chuyển giao công nghệ là con đường cần thiết để các công ty tăng năng lực cạnh tranh, đồng thời tránh hàng rào bảo hộ ngày càng tinh vi trên các thị trường.
Ngày nay cùng với xu hướng phát triển mạnh mẽ của thương mại thế giới, thì sự cạnh tranh giữa các tập đoàn, các công ty diễn ra ngày càng khốc liệt, cũng như sự bảo hộ của các thị trường dân tộc và khu vực ngày càng tinh vi hơn. Đứng trước xu thế đó, các công ty các tập đoàn, các quốc gia phải tính đến khả năng đầu tư nước ngoài và CGCN. Với các nước đang và chậm phát triển thì việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và CGCN từ nước ngoài sẽ giúp họ nâng cao năng lực sản xuất và năng lực cạnh tranh của hãng. Với các nước phát triển, và các công ty các tập đoàn họ luôn xác định rằng việc khai thác các thị trường tiềm năng ở nước ngoài bằng cách chuyển các kỹ thuật cơ bản, bí quyết chế tạo và thiết bị sản xuất ra nước ngoài, và tiến hành sản xuất ngay tại nước nhận CGCN với mức giá thành rẻ do tận dụng được chi phí nhân công và nguyên vật liệu rẻ song tạo ra hàng hoá có chất lượng cao hơn hẳn các sản phẩm bản địa giúp họ vừa có thể cạnh tranh với hàng hoá của nước bản địa, vừa tránh được hàng rào bảo hộ của nước bản địa.
Việc di chuyển các cơ sở sản xuất cũng như CGCN ra nước ngoài, chính là việc tạo nguồn hàng xuất khẩu sang các nước thứ ba, cạnh tranh với hàng hoá của đối thủ khác trên thị trường các nước thứ ba, cũng như ngay trên thị trường tại khu vực mà tập đoàn tiến hành CGCN và sản xuất. Sự kết hợp giữa tính ưu việt về công nghệ cao của các nước phát triển hoặc của các TNCs với lợi thế so sánh về giá thành các yếu tố sản xuất do việc sản xuất ở nước ngoài và sự quản lý chặt chẽ và hiệu quả của các công ty tập đoàn đã đem lại cho hàng hoá của các công ty một sức cạnh tranh cao trên thị trường.
Qua những phân tích ở trên, qua các cách nhìn nhận khác nhau về chuyển giao công nghệ, chúng ta đã thấy được tính tất yếu của chuyển giao công nghệ trong thời đại ngày nay. Một khi mà sự chênh lệch và trình độ công nghệ về mức sống giữa các quốc gia các khu vực khác nhau trên thế giới còn tồn tại thì CGCN còn tồn tại.
2. Vai trò của chuyển giao công nghệ với nền kinh tế và doanh nghiệp.
Năng lực công nghệ của mỗi công ty, mỗi quốc gia không tự nhiên mà có, mà là quá trình tích luỹ sàng lọc và không ngừng đào thải. CGCN quốc tế là cơ hội quý hiếm không những giúp cho các nước phát triển không ngừng cách tân để tạo cho mình có công nghệ tiên tiến nhất, mà nó còn giúp cho các nước phát đang và chậm phát triển có đựơc công nghệ cần thiết mà tiết kiệm được chi phí và thời gian.
Thật vậy, đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, thì công nghệ luôn là đối tượng nghiên cứu phân tích để lý giải những thành bại của doanh nghiệp này so với doanh nghiệp khác, luôn là yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh trên thị trường của mỗi doanh nghiệp.
Đối với các nước phát triển và các TNCs, từ trước đến nay vẫn theo đuổi chiến lược “dẫn đầu về công nghệ”, sự dẫn đầu về công nghệ cho phép duy trì lợi thế cạnh tranh ngay cả khi chênh lệch đã giảm đi, tuy nhiên vị thế "dẫn đầu về công nghệ" chỉ có ý nghĩa tương đối theo thời gian, do vậy để duy trì vị trí dẫn đầu công nghệ buộc các nước phát triển và các TNCs phải tính đến CGCN. CGCN giúp cho các quốc gia và các công ty này luôn luôn có thể hấp thụ và học hỏi, và cập nhật được công nghệ mới nhất của đối thủ cạnh tranh. Hơn thế nữa khi áp dụng công nghệ mới, các nước phát triển và các TNCs sẽ thay thế dần các công nghệ và thiết bị lạc hậu (kể cả thiết bị mới chưa sử dụng nhưng đã cũ về nguyên lý công nghệ). Khi đó mong muốn chuyển giao các công nghệ cũ sang các nước khác là tất yếu để có thể tiếp tục thu lợi từ công nghệ đáng ra phải bỏ đi từ đó lại điều kiện cho các nước phát triển và các TCNs tăng thêm khả năng tài chính để cách tân công nghệ mới của mình. Một chi phí để duy trì một nhà máy hoạt động cầm chừng (do đã cũ về nguyên lý công nghệ) lớn hơn nhiều chi phí dỡ bỏ nó, và tất nhiên nếu có người chịu bỏ tiền để tháo dỡ để mua lại nhà máy đó, công nghệ đó thì lại càng tốt cho các nước phát triển.
Đối với các nước đang và chậm phát triển, CGCN sẽ mang lại cho các nước này những lợi ích cơ bản như:
- Thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài kèm theo chuyển giao công nghệ.
- Tiết kiệm được chi phí lớn về R&D.
- Tiếp cận và sử dụng được ngay những công nghệ tiên tiến hơn những công nghệ đang có trong nước.
- Khai thác và sử dụng hữu hiệu nguyên vật liệu trong nước.
- Tạo công ăn việc làm cho người lao động có trình độ cao.
- Thay thế nhập khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu nhập ngoại tệ.
CGCN quốc tế đã và đang tạo cho các nước đang và chậm phát triển những lợi thế cạnh tranh tương đối bền vững trong một khoảng thời gian nhất định trên thị trường thế giới về một số sản phẩm đặc trưng của mình (theo lợi thế so sánh) trên cơ sở đó có thể đạt được sự tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. Cho dù trình độ công nghệ của các nước đang và chậm phát triển chỉ đang ở trong giai đoạn đầu CNH - HĐH thấp hơn nhiều so với các nước công nghiệp phát triển nhưng nếu có chính sách nhập khẩu công nghệ "thích hợp", khai thác triệt để lợi thế "của kẻ đi sau", tích cực tham gia và phân công lao động quốc tế cũng như có chính sách ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo giáo dục, nghiên cứu và triển khai, thì chắc chắn dần dần sẽ khắc phục được "nguy cơ tụt hậu" về công nghệ so với các nước công nghiệp phát triển.
3. Sự cần thiết phải chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam.
Thực hiện CNH - HĐH nền kinh tế là một nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia đang phát triển, cũng như ở Việt Nam. Nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hoá là trang bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và áp dụng phương pháp quản lý hiện đại vào mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Mục tiêu của CNH - HĐH là biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Mục tiêu từ nay đến năm 2020 phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, để đạt được mục tiêu đó, nhất thiết ngay từ bây giờ chúng ta phải dần trang bị cho nền sản xuất một trình độ khoa học - công nghệ tiên tiến hiện đại. Để có được công nghệ tiên tiến và hiện đại chúng ta có thể thực hiện bằng hai con đường:
- Tự tạo ra công nghệ trong nước bằng những hoạt động nghiên cứu, phát minh thử nghiệm và ứng dụng trong thực tế.
- Tiếp nhận công nghệ từ nước ngoài vào trong nước thông qua hoạt động CGCN rồi nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ được chuyển giao.
Tuy nhiên với xuất phát điểm rất thấp của một quốc gia có kinh tế kém phát triển, trình độ khoa học công nghệ tụt hậu từ 30-50 năm so với các nước trên thế giới, ngân sách dành cho R & D còn hạn hẹp, do thiếu đội ngũ chuyên gia đồng bộ, do khả năng hạn chế của các ngành chế tạo trong nước nên trong nhiều trường hợp chúng ta không đủ năng lực sáng tạo ra công nghệ tiên tiến hoặc không cho phép vật chất hoá một cách đầy đủ các nghiên cứu của mình thành hệ thống công nghệ ứng dụng trong sản xuất. Đứng trước đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp phát triển kinh tế, CNH - HĐH đất nước cũng như đứng trước tình hình thực tế hiện nay, CGCN từ nước ngoài vào trong nước sẽ là vấn đề trọng tâm cần được ưu tiên một bước trong chiến lược phát triển là quy luật tất yếu để chúng ta rút ngắn khoảng về phát triển kinh tế so với các nước, đẩy nhanh tiến trình CNH - HĐH.
Cũng như các nước đang phát triển khác trên thế giới, CGCN từ nước ngoài vào trong nước sẽ có một vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế và công cuộc CNH - HĐH ở Việt Nam như nâng cao trình độ khoa học công nghệ, tăng năng suất và nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong nước, nâng cao lợi thế so sánh tương đối, tiết kiệm chi phí R&D... và là con đường ngắn nhất để chúng ta rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển khoa học công nghệ so với các nước trong khu vực.
chương II
Thực trạng công nghệ và hoạt động
chuyển giao công nghệ tại Việt Nam
I. thực trạng công nghệ và hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam.
1. Khái quát chung về thực trạng công nghệ Việt Nam hiện nay.
1.1. Mức độ tiên tiến của công nghệ
Về toàn cảnh công nghệ Việt Nam có thể khái quát như sau: "Công nghệ Việt Nam ở mức trung bình kém, cố gắng đến 2005 đạt trình độ trung bình khá của khu vực"[1] GS - TS Trần Đắc Vụ - Vụ trưởng vụ phát triển công nghệ Bộ khoa học Công nghệ và Môi trường - Công nghệ Việt Nam đang đứng ở đâu - Thời báo kinh tế Việt Nam ngày 22/3/1995, Tr.12
Theo đánh giá của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường đăng trên tạp chí " Kinh tế Việt Nam và thế giới "số 71 xuất bản tháng 6/1999, và cũng theo báo cáo của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường trình Chính phủ cho thấy một tổng quan về Công nghệ Việt Nam. Công nghệ Việt Nam lạc hậu so với các nước trên thế giới khoảng 50 đến 100 năm. So với mức trung bình của thế giới thì thiết bị của ta hiện nay lạc hậu từ 2-3 thế hệ hoặc 4- 5 thế hệ tuỳ từng lĩnh vực chuyên ngành cụ thể. Kết quả điều tra thực trạng máy móc thiết bị và công nghệ ở 2292 Doanh nghiệp nhà nước cho thấy hiện có 1217 doanh nghiệp có các loại máy móc thiết bị hỗn tạp, có xuất xứ từ gần 20 nước trên thế giới khác nhau. Trên 11000 doang nghiệp có 50% máy móc thiết bị đã quá cũ.
Theo một báo cáo khác của Bộ công nghiệp cũng cho hay qua khảo sát ở 727 thiết bị và dây chuyền công nghệ tại 42 nhà máy thì có tới 70% thiết bị mới nhập thuộc thế hệ những năm 50 - 60 thế kỷ 20, trên 70% thiết bị đã hết khấu hao, 50% thiết bị được tân trang lại. Trình độ công nghệ kỹ thuật và thiết bị máy móc ở các doanh nghiệp nhỏ còn yếu kém hơn. Trên 1/2 doanh nghiệp này mua máy móc cũ điều này dẫn đến sản phẩm kém chất lượng, doanh nghiệp không có khả năng đổi mới và sáng tạo ra sản phẩm mới. Trong 2733 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đóng trên điạ bàn Hà Nội có 90- 92% thuộc loại này[2] Đoàn Châu Thanh - Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam trong công cuộc CNH - HĐH nền kinh tế - Luận văn thạc sĩ - Trường Đại học Ngoại thương
.
Và theo những đánh giá gần đây nhất cũng cho thấy trình độ đổi mới công nghệ của nước ta còn nhiều hạn chế. Về chỉ tiêu đánh giá trình độ tự động hoá mới chỉ có 3% doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước sử dụng thiết bị tự động hoá, 39% doanh nghiệp Nhà nước sử dụng thiết bị bán cơ khí. Chỉ có 40% số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt trình độ tự động hoá và 45% số doanh nghiệp này đạt trình độ bán tự động
[3] Nguyễn Mạng Hùng - Thực trạng đầu tư đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước - Tạp chí kinh tế và dự báo số 11/2002
. Với tốc độ đổi mới công nghệ như hiện nay 8-10% năm thì sau 10 năm chúng ta mới đổi mới được một thế hệ công nghệ chúng ta.
Bảng 1: Đánh giá Công nghệ 10 nước ASEAN( Qua ý kiến của 24 công ty Nhật Bản đang hoạt động ở 10 nước ASEAN) ( Thang điểm tối đa là 5)
Xinh-gapo
Brunei
Malay-sia
Thái Lan
Phi lip-pin
Indonêsia
Việt Nam
Myan-mar
Lào
Campuchia
3,8
2,6
3,0
2,6
2,8
2,2
1,9
1,8
1,5
1,3
Nguồn: Danh Sơn. Đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà Nước ở Việt Nam - thực trạng, vấn đề và giải pháp -T/c Nghiên cứu kinh tế số 264-5/2000, tr 4.
Việc huy động và khai thác công nghệ- thiết bị lạc hậu đã qua sử dụng làm cho khoảng cách tụt hậu về công nghệ so với thế giới ngày càng xa. Trong các lĩnh vực: lắp ráp điện, lắp ráp xây dựng, thuỷ sản đông lạnh lạc hậu 1-2 thế hệ; điện, giấy sửa chữa, máy lâm nghiệp, đường mía lạc hậu 2-3 thế hệ; đường sắt đường bộ, đóng tàu cơ khí là 3-5 thế hệ. So với các nước trong khu vực công nghệ của ta lùi xa về thế hệ khoảng 15 - 20 năm trong ngành điện tử, 20 năm trong ngành cơ khí; 3-5 thập kỉ đối với công nghiệp sản xuất giấy in, giấy bao bì. 70% công nghệ dệt, sợi, nhuộm đã sử dụng trên 20 năm; công nghệ sản xuất phân bón đã sử dụng từ 25 - 30 năm[4] Nguyễn Mạnh Hùng - Giảm chi phí sản xuất nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp Việt Nam - Tạp chí kinh tế và dự báo số 11/2002
.
Do công nghệ lạc hậu dẫn đến năng suất ở Việt Nam rất thấp, mức hao phí năng lượng nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm ở mức cao từ đó làm hạn chế tính cạnh tranh hàng hoá Việt Nam. Cụ thể năng suất ở Việt Nam chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới. Tiêu hao phí năng lượng so với các nước trên thế giới ở ngành cơ khí bằng 120%, ngành quần áo may mặc sản xuất xuất khẩu 127%, ngành giấy 126% , dệt 110% , ngành than 175%, xăm lốp cao su 204%, hoá chất cơ bản 138%, luyện kim đen 250%, luyện kim màu 148%, các sản phẩm kim loại 170%, quạt điện 246%. Chi phí đầu vào của công nghệ hiện có khá cao so với công nghệ tiên tiến, ví dụ như tiêu hao điện năng trên đơn vị công suất ở thiết bị sản xuất xi măng cao gấp 1,4 lần; gạch chịu lửa 2,5 lần; trong luyện thép 1,7 lần [5]Nguyễn Mạnh Hùng - Giảm chi phí sản xuất nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp Việt Nam - Tạp chí kinh tế và dự báo số 11/2000
.
Chính do yếu tố công nghệ lạc hậu sẽ gây ra một phản ứng dây chuyền đó là nền kinh tế chỉ có thể sản xuất ra sản phẩm có chất lượng trung bình thậm chí thấp, giá thành cao, và sản phẩm sản xuất ra không theo kịp thay đổi về nhu cầu thị trường.
Để có thể đánh giá sát thực hơn nữa về mức độ tiên tiến và năng suất của công nghệ Việt Nam hiện nay, dưới đây người viết sẽ trình bày cụ thể hơn về thực trạng của một số ngành, một số lĩnh vực chủ chốt của Việt Nam hiện nay.
ã Ngành công nghệ thông tin
So với các ngành khác, ngành công nghệ thông tin được xem là ngành có công nghệ hiện đại nhất ở Việt Nam hiện nay.
Với công nghệ hoàn toàn nhập khẩu, Việt Nam liên lạc trực tiếp với thế giới qua vệ tinh viễn thông, song dung lượng truyền còn thấp, tốc độ mới trên 34Mbit/ giây, trong khi thế giới đạt tốc độ Gbit/ giây. Việc khai thác tính năng của cách mạng thông tin vào mục đích thương mại ở nước ta cho đến nay chưa được bao nhiêu. Thậm chí khái niệm "thương mại điện tử" còn rất mơ hồ và xa lạ với nhiều doanh nghiệp. Hiện nay ở Việt Nam mới có khoảng 27% doanh nghiệp sử dụng Internet. Qua khảo sát ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ cho thấy chỉ có khoảng 3% số doanh nghiệp này tỏ ý quan tâm tới "thương mại điện tử", 7% mới bắt đầu triển khai và tới 90% không có khái niệm gì về "thương mại điện tử". Đó là chưa kể đến một số doanh nghiệp vừa và nhỏ không có cả máy Fax lẫn máy vi tính
[6] Kỳ Minh - Bảo Châu - Triển vọng của ngành công nghệ thông tin ở nước ta - Tạp chí Con số và Sự kiện số quý I/2002, Tr.16
.
Hiện nay chỉ có khoảng 2% (gần 3000 doanh nghiệp) trong tổng số doanh nghiệp Việt Nam có Website riêng, và khoảng 8% số doanh nghiệp tham gia có tính phong trào hoặc mới bắt đầu đi vào thử nghiệm. Đã thế số doanh nghiệp tham gia "thương mại điện tử" chủ yếu dừng lại ở giai đoạn 1 và 2 của quy trình giao dịch "thương mại điện tử" nên hiệu quả còn thấp. Có tới 97% số doanh nghiệp chưa thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Với 90% số doanh nghiệp chưa tham gia "thương mại điện tử", đây thực sự là một vấn đề đáng lo ngại[7] Thanh Xuân - Thương mại điện tử còn xa lạ với doanh nghiệp Việt Nam - Báo khoa học và phát triển số 50 ngày 12/12/2002, Tr.12
.
Cho đến nay mới có khoảng chục sản phẩm điện tử - tin học mang thương hiệu Việt Nam do các công ty trong nước thiết kế, chế tạo như (Vietronics, Gvec, VTB, VTD, Setro, Jec..), máy tính cá nhân (CMT,Genpacific...) số doanh nghiệp tham gia tăng nhanh, nhưng doanh số thanh toán không lớn, không đứng vững trên thị trường và không có sức mạnh cạnh tranh ngay cả vớ._. cho ngành thép Việt Nam - Tạp chí Con số và Sự kiện số 8/2002
[14] Vũ Chí Lộc- Giáo trình chuyển giao công nghệ - Trường Đại học Ngoại thương, 1998
[15] Vũ Chí Lộc - Giáo trình đầu tư nước ngoài - Trường Đại học Ngoại thương - NxbGD 1997
[16]Võ Đại Lược CNH-HĐH Việt Nam đến năm 2000, NXB Khoa học xã hội , 1996 [32] Nguyễn Thanh Thịnh - Đào Duy Tính, Lê Dũng - Quy hoạch phát triển hệ thống nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ ở Việt Nam (một số vấn đề lý luận và thực tiễn) - NXB chính trị quốc gia, 1999
[17] Kỳ Minh - Bảo Châu - Triển vọng của ngành công nghệ thông tin ở nước ta - Tạp chí Con số và Sự kiện số quý I/2002
[18] Nghị định 45/1998/ NĐ-CP ban hành ngày 01/7/1998 của Chính phủ Quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ .
[19] Tiến sỹ Lưu Văn Nghiêm - Định hướng thị trường trong phát triển công nghệ đường sắt trước tiến độ hội nhập - Tạp chí kinh tế và Dự báo số 6/ 2002
[20] Dương Ngọc - Cách mạng tạo sức bật cho nền kinh tế Việt Nam trở thành một quốc gia Công nghiệp vào 2020 - Thời báo kinh tế Việt Nam , số Quốc Khánh 02/9/2002
[21] Giáo sư Nguyễn Đình Phan - CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn , tạp chí KCM ngày 3/1998
[22] Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghệ ngày 28/01/ 1989
[23] Phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển Kinh tế - Xã hội 5 năm 2001- 2005 - Bao cáo của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội Đảng IX.
[24] Quyết định 2109/1997 QĐBKHHCN & MT . Quy định về nhập khẩu máy móc thiết bị đã qua sử dụng.. Quy định về nhập khẩu máy móc thiết bị đã qua sử dụng của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường
[25] Danh Sơn, Đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà nước vở Việt Nam - Thực trạng vấn đề và giải pháp - Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 264 tháng 5/2000
[26] Tạp chí công nghiệp số 20/ 1999
[27] Tạp chí công nghiệp quý I/2002
[28] Tạp chí công nghiệp số 20/2002
[29] Tạp chí Kinh tế Việt Nam và thế giới, số 71 xuất bản tháng 6/1999
[30] Đoàn Châu Thanh- Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam trong công cuộc CNH- HĐH nền kinh tế, Luận văn thạc sỹ kinh tế - Trường Đại học Ngoại thương
[31] Thời báo kinh tế Việt Nam ngày 22/3/1995
[32] Nguyễn Thanh Thịnh - Đào Duy Thịnh - Lê Dũng - Quy hoạch phát triển hệ thống nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ ở Việt Nam. (Một số vấn đề lý luận và thực tiễn) - NXB chính trị quốc gia, 1999
[33] Trần Văn Thọ, CNH Việt Nam trong thời đại châu á- Thái Bình Dương, NXB TP. HCM, 1997
[34] Tiến sỹ Bùi Anh Tuấn Tạo việc làm cho người lao động qua đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam . NXB Thống kê Hà Nội, 2000
[35] Vũ Hữu Tửu - Kỹ thuật nghiệp vụ Ngoại thương - Trường Đại học Ngoại thương - NXB giáo dục ,1998
[36] Quốc Trường và Minh Phương -Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam 10 năm đổi mới và phát triển - Kinh tế và Dự báo tháng 6/ 2002
[37] Thanh Xuân - Thương mại điện tử còn " xa lạ" với Doanh nghiệp Việt Nam - Báo Khoa học và Phát triển số 50 ngày 12/12/2002
[38] Văn kiện Đại hội Đảng khoá VIII, IX
Phụ lục
Hợp đồng mẫu về
chuyển giao công nghệ của escap
Hợp đồng chuyển giao công nghệ giữa
(Tên đầy đủ của công ty cung cấp, gọi tắt là "Bên giao"
và
(Tên đầy đủ của công ty tiếp nhận, gọi tắt là "Bên nhận")
mở đầu (preamble)
Hợp đồng này dựa trên sự thoả thuận sau đây của các bên
a. Bên giao có một bí quyết có giá trị và được chứng thực khả năng thương mại trong thiết kế và sản xuất. (sản phẩm).
b. Bên giao đã thực hiện thành công việc sản xuất và bán (sản phẩm) qua. "một số" năm.
c. Bên giao có quyền và khả năng chuyển giao bí quyết này cho bên nhận.
d. Bên nhận có mong muốn và khả năng để nhận bí quyết này từ Bên giao và mong muốn sản xuất. (sản phẩm).
e. Các bên ký kết cùng nhau chờ đợi sự thành công của việc sử dụng bí quyết, sự thành công trong sản xuất và bán.
f. (các khả năng và dự tính khác)
1. Các định nghĩa (definitions)
a. "Sản phẩm" là các sản phẩm đã được liệt kê và ghi rõ trong phụ lục .
b. "Công nghệ" là bí quyết sản xuất, các kỹ năng, kỹ thuật và quá trình cần thiết để sản xuất sản phẩm phù hợp với các đặc điểm ghi trong phụ lục.
c. "Thông tin kỹ thuật" là toàn bộ các thông tin đầy đủ cần thiết để ứng dụng và sử dụng công nghệ, để thiết kế, thử nghiệm, triển khai sản xuất chế biến, sử dụng, vận hành, đại tu, bảo trì, thay đổi hoặc chế tạo lại sản phẩm. Thông tin như vậy bao gồm nhưng không chỉ giới hạn bởi chỉ dẫn, tính toán
d. "Tài liệu" có nghĩa là các tài liệu khác được ghi trong điều 4.1 sau đây:
e. "Giúp đỡ kỹ thuật" nghĩa là sự giúp đỡ cần thiết để đảm bảo rằng các sản phẩm thoả mãn các chỉ tiêu kỹ thuật hoặc/ và để loại bỏ khó khăn hay các thiếu sót trong việc áp dụng công nghiệp.
f. "Kỹ thuật viên" nghĩa là bất cứ người quản lý, người đào tạo, người làm công hay là cố vấn do Bên giao gửi tới Bên nhận với mục đích thực hiện giúp đỡ kỹ thuật.
g. "Lãnh thổ" nghĩa là nước bên nhận và các lãnh thổ khác thích hợp.
h. "Giá bán tịnh" là tổng giá ghi trong đơn hàng của sản phẩm được bên nhận bán hoặc sử dụng không trừ đi các phí nào ngoài các chi phí dưới đây và chỉ ở mức độ các chi phí này đã thực sự tồn tại và được ghi trong tổng giá đơn hàng.
- Chiết khấu (Discounts)
- Lãi và các phụ phí (Returns and Allowances)
- Hoa hồng tiêu thụ (Sales Commissions)
- Thuế kinh doanh (Sales Taxes)
- Chi phí bao gói, chuyên trở và bảo hiểm cho việc tiêu thụ.
- Chi phí đầy đủ các cấu kiện không thuộc vào nguồn cung cấp.
i. "Chính phủ" nghĩa là chính phủ quốc gia, chính quyền địa phương, các nhà chức trách địa phương và các cơ quan của họ.
j. "Bất khả kháng" nghĩa là những sự kiện vượt quá tầm kiểm soát của một trong các bên và ngăn cản hay làm chậm trễ việc thực hiện này bao gồm, nhưng không chỉ giới hạn bởi chiến tranh, các cuộc nổi loạn, các cuộc nổi dậy, các hành động phá hoại, các cuộc đình công, sự đóng cửa gây áp lực hay các hình thức lãn công, việc đưa ra đạo luật hay các điều chỉnh mới của chính phủ, cháy, nổ, hay các tai nạn tự nhiên không thể tránh được, lũ lụt, động đất hay các hiện tượng tự nhiên không bình thường.
2. Phạm vi công nghệ (Scope of Technology)
Bên giao đồng ý chuyển công nghệ mà Bên giao đã dùng cho Bên nhận vào ngày hợp đồng bắt đầu có hiệu lực cho việc sản xuất sản phẩm đã được chỉ rõ ở phụ lục. Công nghệ phải phù hợp về mọi mặt đối với các chi tiết về sản lượng, hiệu quả và lượng thải chất ô nhiễm được ghi trong phụ lục .
3. Lãnh thổ và đặc quyền (Territory and Exclusivity)
3.1. Sử dụng công nghệ và sản xuất sản phẩm (Use of Technolgy and Manufacture of productions)
a. Bên nhận có độc quyền sử dụng công nghệ và sản xuất sản phẩm trong phạm vi lãnh thổ, hoặc,
b. Bên nhận có quyền sử dụng công nghệ vào sản xuất sản phẩm trong phạm vi lãnh thổ.
3.2. Bán sản phẩm (Sale of productions)
a. Bên nhận có độc quyền bán sản phẩm ở phạm vi lãnh thổ và trên thế giới, hoặc,
b. Bên nhận có độc quyền bán sản phẩm ở phạm vi lãnh thổ, hoặc,
c. Bên nhận có quyền bán các sản phẩm ở trong phạm vi lãnh thổ và trên thế giới. Bên giao có quyền bán trực tiếp các sản phẩm trong phạm vi lãnh thổ hoặc thông qua các bên thứ ba.
3.3. Chuyển giao công nghệ từ bên nhận tới các bên thứ ba (Transfer of the Technology by the Receiver to Third Parties)
a. Theo điều khoản của điều 12 về (giữ bí mật), bên nhận có quyền chuyển giao công nghệ cho các bên thứ ba trong phạm vi lãnh thổ, hoặc,
b. (Không có điều khoản chuyển giao của bên nhận)
4. Chuyển giao công nghệ (Transfer of Technology)
Bên giao đồng ý cung cấp mọi tài liệu, đào tạo hỗ trợ kỹ thuật cần thiết để sản xuất các sản phẩm phù hợp với các chỉ tiêu kỹ thuật đã đưa ra ở phần phụ lục A và phù hợp với thời hạn đặt ra trong mục 4.4. dưới đây.
4.1. Tài liệu (Documentation)
4.1.1. Phạm vi của tài liệu. Tài liệu để sản xuất các sản phẩm bao gồm nhưng không chỉ giới hạn trong:
a. Các bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật và thiết kế cho sản xuất và lắp ráp.
b. Các chỉ tiêu kỹ thuật.
c. Danh mục nguyên liệu
d. Bảng tính toán tổng hợp
e. Quy trình và số liệu cho kiểm tra, thử nghiệm và quy trình kiểm tra chất lượng.
f. Các quy trình sản xuất và lắp ráp
g. Sách hướng dẫn vận hành và bảo dưỡng
h. Phần mềm máy tính
i. Công thức và biểu đồ
j. Những tài liệu thích hợp khác.
4.1.2. Hình thức tài liệu. Tài liệu phải đầy đủ, chính xác và in rõ ràng. Ngôn ngữ của tài liệu, bao gồm các bản vẽ, bản mô tả, các thiết kế được viết hoàn toàn bằng "Ngôn ngữ". Các số đo ghi hoàn toàn theo hệ mét.
4.1.3. Những sai sót của tài liệu. Bất cứ sai sót nào trong tài liệu phải sửa chữa không chậm trễ bằng cách thay đổi, mở rộng, hoàn chỉnh hay bất cứ phương tiện thích hợp nào khác.
4.1.4. Sai sót trong phần mềm của máy vi tính. Phần mềm của máy vi tính bị hỏng bởi bất cứ lý do nào trong thời hạn của hợp đồng được Bên giao thay thế ngay lập tức, Bên nhận không phải chịu phí tổn.
4.1.5. Những thay đổi trong tài liệu. Tất cả mọi sự nâng cao, thay đổi, bổ sung, sửa lại hay là những thay đổi khác trong quá trình thực hiện hợp đồng đối với bất cứ tài liệu nào thuộc hợp đồng này sẽ được cung cấp ngay cho Bên nhận.
4.1.6. Quyền sở hữu tài liệu: Kể từ lúc cung cấp, tất cả các tài liệu được cung cấp cho Bên nhận có liên quan đến hợp đồng này trở thành sở hữu của Bên nhận.
4.2. Đào tạo (Training):
4.2.1. Phạm vi của đào tạo. Bên giao đồng ý đào tạo nhân sự cho Bên nhận với mọi kỹ thuật cần thiết để sản xuất sản phẩm phù hợp với chỉ tiêu kỹ thuật ở phần phụ lục A.
4.2.2. Chương trình đào tạo. Trong vòng. ngày kể từ khi hợp đồng có hiệu lực, các bên ký kết sẽ thoả thuận:
a. Chương trình đào tạo,
b. Thủ tục kiểm tra thích hợp để xác định thành công của chương trình đào tạo, bao gồm (nhưng không giới hạn bởi) bản thân việc kiểm tra, tiêu chuẩn xác định người đào tạo đã thực hiện tốt chương trình, tỷ lệ người được đào tạo phải đáp ứng các tiêu chuẩn này trước khi việc đào tạo được coi là kết thúc.
c. Ngày bắt đầu và kết thúc đào tạo.
d. Nơi đào tạo
c. Số người được đào tạo.
f. Tên và trình độ chuyên môn của những người được đào tạo.
g. Thủ tục để thay thế người dạy khi thấy không thích hợp trong quá trình đào tạo.
4.2.3. Sự thay thế người dạy. Không có người dạy nào đã được nhất trí chọn lại có thể bị thay thế bằng người dạy khác mà không có văn bản đồng ý của Bên nhận.
4.2.4. Ngôn ngữ của đào tạo. Ngôn ngữ của đào tạo sẽ hoàn toàn là "… Ngôn ngữ". Bên giao cam kết cung cấp sách đào tạo và các tài liệu giúp đỡ đào tạo cần thiết khác bằng "Ngôn ngữ".
4.2.5. Chi phí đào tạo: Chi phí đào tạo do Bên nhận chịu chi phí được tính theo giờ gặp gỡ giữa người dạy và các học viên. Thời gian của người dạy cấp cao được tính theo ... "Số tiền"... "loại tiền" một giờ. Chi phí cho đào tạo được gởi bằng hoá đơn hàng tháng, tiền được trả trong vòng "số ngày" kể từ khi nhận hoá đơn.
4.2.6. Các chi phí đi lại, chi phí cho ăn ở và các phí tổn khác cho học viên do Bên nhận chịu, kể cả gửi học viên (hay giáo viên) vào một nước khác bên "nước Bên giao".
4.2.7. Kết thúc đào tạo. Vào cuối kỳ đào tạo, Bên giao và Bên nhận hay các đại diện của họ sẽ tổ chức kiểm tra. Nếu một tỷ lệ thoả thuận các học viên đáp ứng được các tiêu chuẩn thì Bên giao và bên nhận cung cấp chứng nhận đã hoàn thành đào tạo với chữ ký của hai bên. Mẫu chứng nhận được ghi ở phần phụ lục B.
4.2.8. Không thành công trong việc kết thúc đào tạo. Nếu vào cuối cùng đào tạo một tỷ lệ học viên được thoả thuận đạt không đủ tiêu chuẩn thì bên nhận có quyền yêu cầu tổ chức đào tạo thêm trong khoảng thời gian hợp lý. Mỗi bên chịu phí tổn của mình cho việc đào tạo thêm, trừ khi có sự thoả thuận khác.
4.3. Giúp đỡ kỹ thuật (Technical Assistance)
4.3.1. Giúp đỡ kỹ thuật trước khi bắt đầu sản xuất. Trong giai đoạn trước khi bắt đầu sản xuất bên giao sẽ giúp bên nhận như sau.
4.3.2. Giúp đỡ kỹ thuật trong khi bắt đầu. Trong khi bắt đầu sản xuất cho đến khi giấy chứng nhận sẵn sàng sản xuất chính thức được cấp (như đề ra ở mục 4.5) dưới đây, bên giao đồng ý cung cấp các kỹ thuật viên có trình độ thích ứng cho nhà máy của bên nhận để tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ và hỗ trợ bên nhận những điều cần thiết để đảm bảo sản xuất sản phẩm đúng với chỉ tiêu kỹ thuật đề ra ở phần phụ lục .
4.3.3. Giúp đỡ kỹ thuật trong khi sản xuất chính thức. Theo yêu cầu của bên nhận, bên giao đồng ý cung cấp ngay lập tức, giúp đỡ kỹ thuật và bất cứ lúc nào trong quá trình thực hiện hợp đồng bằng điện thoại, bằng thư từ, bằng cách gửi các kỹ thuật viên thích hợp tới nơi sản xuất hay bằng bất cứ phương tiện nào khác thích hợp với tình hình diễn ra lúc đó.
4.3.4. Nhân sự thực hiện giúp đỡ kỹ thuật. Tất cả các kỹ thuật viên mà bên giao cung cấp cho bên nhận để giúp đỡ kỹ thuật phải có trình độ phù hợp, có kinh nghiệm thích hợp và sức khoẻ tốt.
Nếu bên nhận yêu cầu, bên giao phải gửi một bản lý lịch đầy đủ của mỗi kỹ thuật viên cho bên nhận trước khi lựa chọn các kỹ thuật viên để giúp đỡ kỹ thuật cho bên nhận. Bên nhận có thể có quyền với điều kiện có lý do chính đáng, yêu cầu bên giao rút lại tên của kỹ thuật viên có vấn đề và đưa ra một người thay thế.
4.3.5. Hành vi của các kỹ thuật viên. Trong khi ở "nước bên nhận" các kỹ thuật viên phải có hành vi theo đúng luật pháp địa phương, các điều lệ và các qui định hiện hành.
4.3.6. Thay đổi kỹ thuật viên. Nếu kỹ thuật viên nào tỏ ra không phù hợp vì lý do trình độ không thích hợp thiếu khả năng, sức khoẻ kém, có hành vi tồi hay vì bất cứ lý do nghiêm trọng nào đến mức vi phạm pháp luật sở tại thì theo một thông báo của bên nhận gửi cho bên giao, kỹ thuật viên sẽ được rút đi và thay thế bằng người khác không có sự chậm trễ. Mọi chi phí cho sự thay đổi và rút người đó bên giao chịu.
4.3.7. Trách nhiệm của bên nhận. Bên nhận cam kết cấp thị thực nhập và xuất cảnh vào. (nước bên nhận), giấy phép làm việc cần thiết, giấy phép cư trú cho mỗi kỹ thuật viên. Bên giao chịu phí tổn làm thị thực và giấy phép đó.
Bên nhận tạo điều kiện cấp cho các kỹ thuật viên về chỗ ăn ở, và các điều kiện thuận lợi khác ghi ở phần phụ lục D, Bên giao hay kỹ thuật viên chịu phí tổn về ăn ở và dịch vụ đó.
4.3.8. Chi phí cho giúp đỡ kỹ thuật. Chi phí cho giúp đỡ kỹ thuật được tính theo điều kiện cạnh tranh nhất hiện hành.
4.3.9. Không thành công trong việc cung cấp giúp đỡ kỹ thuật, Bên nhận có quyền nhận đền bù của Bên giao về bất cứ chi phí, phụ phí hay mất mát nào xẩy ra cho bên nhận do việc Bên giao không cung cấp giúp đỡ kỹ thuật đúng thơì gian hoặc đúng cách.
4.4. Tiến độ (Time schedule)
4.4.1. Các sự kiện theo tiến độ. Các bên ký hợp đồng về thời hạn để chuyển giao công nghiệp trong hợp đồng này như sau:
a. Sau… ngày kể từ khi hợp đồng có hiệu lực, Bên giao gởi những tài liệu sau:
"Tài liệu" A trong vòng ... ngày
"Tài liệu" B trong vòng ... ngày và v.v...
b. Việc đào tạo được bắt đầu và kết thúc vào ngày đã thoả thuận ở mục 4.2..
c. Giấy phép sẵn sàng cho sản xuất thương mại được cấp... ngày sau khi chứng nhận việc hoàn thành đào tạo được cấp.
4.4.2. Sự chậm trễ. Nếu bên giao không gửi bất cứ tài liệu nào vào đúng hay trước ngày thoả thuận hoặc nếu vì những lý do có thể khắc phục được, Bên giao không hoàn thành đào tạo đúng thời hạn thoả thuận thì Bên nhận có quyền yêu cầu bồi thường các thiệt hại. (loại tiền)...(số tiền) cho mỗi ngày chậm trễ cho đến mức tối đa là (loại tiền)...(số tiền). Nếu chậm trễ quá.... (số ngày) vì bất cứ lý do gì thì bên nhận có quyền huỷ hợp đồng.
4.5. Giấy chứng nhận sẵn sàng sản xuất thương mại. (Certificate of Readiness of commercial Production)
4.5.1. Cấp giấy chứng nhận: Sự sẵn sàng sản xuất chính thức được quyết định bởi sự hoàn thành tốt việc sản xuất thử ... (số giờ) cách dùng công nghệ nhận được theo hợp đồng này. Việc kiểm tra hợp đồng này được tiến hành trước hoặc đúng ngày mà hai bên thoả thuận ở mục 4.4. Dựa vào việc hoàn thành tốt giai đoạn chạy thử mà bên nhận và bên giao sẽ đưa ra một giấy phép sẵn sàng sản xuất chính thức do hai bên cùng ký. Mẫu của giấy chứng nhận được ghi ở phần phụ lục C.
4.5.2. Thất bại trong việc thử và chậm trễ trong việc thử lại. Nếu việc sản xuất thử thất bại, các bên ký kết thoả thuận sẽ cố gắng hết sức và không chậm trễ để sửa chữa bất kỳ sai sót nào trong việc ứng dụng công nghệ.
Nếu việc sản xuất thử, việc cấp giấy chứng nhận sẵn sàng sản xuất chính thức hay việc lặp lại quá trình sản xuất thử đã thất bại bị quá chậm trễ do trách nhiệm của một bên, thì bên kia có quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong tổng số... (loại tiền)… (số tiền), tới mức tối đa là ... (loại tiền) (số tiền) ngày bên không gây chậm có quyền kết thúc hợp đồng.
5. Giá cả (price)
5.1. Giá phải trả (Price payable)
a. Giá phải trả cho công nghệ được định rõ ở điều 2 bao gồm 1 khoản trả đầu tiên là ... (số tiền)…... (loại tiền) và tiền trả kỳ vụ là ... (số) phần trăm của giá bán tịnh.
b. Giá phải trả cho công nghệ được định rõ ở mức 2 bao gồm ... (số) các khoản trả gọn bằng nhau của ... "loại tiền"… "số tiền" mỗi lần.
5.2. Giá có lợi nhất (Most favourable price)
Bên giao cam kết rằng giá thoả thuận sẽ không cao hơn giá tính cho bên thứ 3, có tính đến những thay đổi chung về giá trong các trường hợp có thể so sánh được giá sẽ được chaò cho bên thứ ba trong quá trình hợp đồng này có hiệu lực.
Nếu bên giao có giá chào thấp hơn, ngay lập tức bên giao sẽ giảm tương ứng giá phải trả cho hợp đồng này và trả lại bất kỳ số tiền rôi ra nào cho bên nhận.
6. Điều kiện thanh toán (Term of Payment)
6.1. Thanh toán (Payment).
a. Ngày tính toán để trả tiền kỳ vụ là các ngày cuối cùng của tháng 3, tháng 6, tháng 9, tháng 12 hàng năm, việc tính toán tiền bao gồm 3 tháng trước đó.
Thông báo về tình trạng kỳ vụ được gởi tới bên giao trong vòng ... "số" ngày kể từ ngày tính toán. Thông báo trả tiền kỳ vụ bao gồm cả giá bán tịnh, tổng cộng giá đặt hàng của mỗi đơn đặt hàng và số loại sản phẩm bên nhận đã bán theo hợp đồng này. Kỳ hạn trả tiền kỳ vụ là "số" ngày kể từ ngày tính toán.
Bên nhận phải lưu giữ đầy đủ và cẩn thận các bản thanh toán, tài liệu, các ghi chép và mọi hồ sơ cần thiết khác cho việc tính toán và thẩm tra đầy đủ việc trả tiền kỳ vụ.
Cùng với việc thông báo, bên nhận cho phép bên giao, đại diện bên giao hoặc một công ty kế toán độc lập do bên giao chỉ định kiểm tra các hồ sơ. Công việc kiểm tra phải thực hiện trong thời gian làm việc bình thường và cho mục đích duy nhất là kiểm tra thông báo trả tiền kỳ vụ.
b. Một khoản tiền trả gọn sẽ được chuyển giao cho bên giao... (số) ngày sau mỗi thời điểm dưới đây:
a. Hợp đồng bắt đầu có hiệu lực
b. Nhận đầy đủ danh mục tài liệu trong mục 4
c. Việc bắt đầu thực sự của chương trình đào tạo đã thoả thuận.
d. Cấp giấy chứng nhận sẵn sàng sản xuất chính thức.
6.2. Sự chậm trễ (Delay).
Nếu bên nhận chậm trả tiền vì những lý do không phải bất khả kháng thì bên nhận phải trả tiền lãi cho khoản tiền chậm trễ. Lợi tức được tính cho số ngày chậm trễ theo tỷ lệ hàng năm là... (số) phần trăm vượt quá phần trăm triết khấu của ngân hàng trung ương... (tên nước).
6.3. Loại tiền (Currency)
Các khoản tiền trả gọn cho đào tạo, giúp đỡ kỹ thuật và mọi khoản tiền khác theo hợp đồng này, trừ khi được qui định khác, được thực hiện bằng… (tên loại tiền).
Tiền trả kỳ vụ được tính bằng... (loại tiền của nước nhận). Để chuyển tiền cho bên giao, số tiền kỳ vụ được chuyển thành... (loại tiền) theo tỷ lệ hối đoái chính thức để mua "loại tiền" tại ... (nước bên nhận).
7. Thuế (Taxation)
Nếu chính phủ của ... (nước bên nhận) đánh thuế hải quan, lệ phí, các khoản trích nộp hay là các loại thuế tương tự đối với bên nhận cho việc hình thành, áp dụng hay thực hiện hợp đồng này thì tất cả những loại thuế hoặc trích nộp như vậy bên nhận phải chịu.
Nếu chính phủ ... (nước bên nhận) đánh thuế hải quan, lệ phí khoản trích nộp hay là các loại thuế tương tự đối với bên giao hay nhân viên của bên giao cho việc hình thành, áp dụng hay thực hiện hợp đồng này, thì những loại thuế hoặc trích nộp như vậy do bên giao hay do nhân viên bên giao chịu.
Tất cả các loại thuế hải quan, cước phí, thuế hay các chi phí tương tự bên ngoài... (nước bên nhận) là do bên giao chịu.
8. Các cải tiến và đổi mới (Improvements and innovations)
8.1. Nghiên cứu và triển khai (Research and development)
Theo các điều khoản của điều 12 về "giữ bí mật", bên nhận có quyền không hạn chế để thực hiện nghiên cứu và triển khai và cho phép các bên thứ 3 thay mặt cho mình nghiên cứu và kiểm tra các sản phẩm và các qui trình sản xuất là đối tượng của hợp đồng này.
8.2. Nghĩa vụ thông báo các cải tiến và đổi mới (Obligation to Transfer Improvements and Innovations)
Bất cứ lúc nào trong thời gian tồn tại hợp đồng, một trong hai bên tìm ra hay bằng cách khác có được bất kỳ cải tiến hay đổi mới nào trong thiết kế hay phương thức sản xuất của sản phẩm thì bên này không chậm trễ phải báo cho bên kia biết về sự cải tiến hay đổi mới đó, và nếu thích hợp sẽ cung cấp cho bên kia tài liệu, đào tạo và giúp đỡ kỹ thuật cần thiết để thực hiện các cải tiến và đổi mới đó.
8.3. Chi phí của chuyển giao cải tiến và đổi mới (Cost of transfer of Improvements and Innovations)
Bên nhận không phải trả tiền cho việc chuyển giao cải tiến và đổi mới. Tuy nhiên, bên nhận phải thanh toán các phí tổn thực tế nảy sinh cho việc chuẩn bị, tài liệu, đào tạo hay cung cấp kỹ thuật.
9. Sự bảo hành (Warranty)
9.1. Bảo hành công nghệ (Warranty of Technology)
Bên giao bảo đảm sự phù hợp của công nghệ với việc sản xuất sản phẩm và sự thích hợp của tài liệu, đào tạo và giúp đỡ kỹ thuật đối với việc chuyển giao toàn bộ công nghệ.
9.2. Thủ tục trong trường hợp kỹ thuật có sai sót (procedure in case of a Failure of Tehnology)
Nếu công nghệ, khi được áp dụng đầy đủ và phù hợp với chỉ dẫn của bên giao, dẫn tới việc sản xuất sản phẩm mà khác biệt về chất so với tiêu chuẩn trong phần phụ lục A. (Tiêu chuẩn này gồm tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm, hiệu quả của quá trình, khả năng sản xuất của nhà máy và thải chất ô nhiễm) thì bên giao bị yêu cầu ngay lập tức.
a. Xác minh các nguyên nhân sai biệt đó.
b. Đưa ra các thay đổi cần thiết cho công nghệ để sản xuất đúng các sản phẩm đã được qui định.
c. Thông báo cho bên nhận những thay đổi như vậy.
d. Cung cấp bất kỳ một tài liệu, đào tạo hay giúp đỡ kỹ thuật bổ sung nào cần thiết. Bên nhận sẽ không phải trả tiền cho những hoạt động mới nảy sinh này.
9.3. Đảm bảo về chi phí. Tất cả các chi phí, mất mát hay thiệt hại của bên nhận do sai sót về công nghệ gây ra sẽ được bên giao đền bù cho bên nhận.
10. Bảo vệ môi trường và các tác động có hại (Environmental Protection and Harmful Effects)
Bên giao cam kết thông báo đầy đủ và rõ ràng cho Bên nhận tất cả các thông tin mà Bên giao biết về hậu quả của việc sử dụng công nghệ đối với môi trường; hơn nữa, khi có thông tin mới Bên giao sẽ có thông tin ngay, đầy đủ và rõ ràng thông tin này cho Bên nhận.
Bên giao cam kết cho Bên nhận biết đầy đủ và rõ ràng tất cả thông tin và Bên giao biết về việc cấm hay hạn chế việc sản xuất đối với công nghệ hay sản phẩm ở bất cứ nước nào vào bất cứ nước nào. Hơn nữa, khi có thông tin mới được biết, Bên giao sẽ cho Bên nhận biết ngay, đầy đủ và rõ ràng.
11. Sự vi phạm quyền sở hữu công nghiệp của bên thứ ba (Infringement of Third Party Industrial Property)
Bên giao cam kết không biết và không có nguyên nhân nào để tin vào sự tồn tại của bất cứ bằng sáng chế hay quyền sở hữu công nghiệp khác thuộc bất cứ bên thứ 3 nào mà bên nhận có thể sẽ vi phạm khi sử dụng công nghệ. Dù sao, nếu bên thứ 3 tuyên bố rằng việc sử dụng công nghệ của Bên nhận là vi phạm bất cứ quyền sở hữu công nghiệp nào và nếu có hành động chống laị Bên nhận nảy sinh vì lý do này, thì Bên nhận lập tức báo cho Bên giao. Bên giao sẽ nhận trách nhiệm đầy đủ để bảo vệ việc sử dụng đó mà bên nhận sẽ giúp bên giao mọi sự hỗ trợ cần thiết để bảo vệ hành động đó mà Bên nhận không phải mất tiền.
Trong trường hợp hành động chống lại Bên nhận xác minh được là có sự vi phạm thì bên giao đền bù và bồi hoàn cho bên nhận những chi phí bảo vệ nói trên cũng như bất kỳ khoản bồi thường thiệt hại hay chi phí mà toà bắt bên nhận phải chịu.
12. Giữ bí mật (Secrecy)
Bên nhận thoả thuận trong thời hạn của hợp đồng sẽ không để lộ ra bất cứ lý do gì dù vô tình hay cố ý về bất cứ thông tin kỹ thuật nào nhận được từ bên giao, trừ khi có sự đồng ý trước bằng văn bản của Bên giao, sự đồng ý này sẽ không bị rút lại mà không có lý do. Dẫu sao thời hạn này áp dụng cho các thông tin kỹ thuật mà bên nhận đã được biết vào thời điểm chuyển giao hay các thông tin kỹ thuật đã hay đang trở thành phổ biến rộng rãi. Tiếp đó, Bên nhận được phép để lộ ra cho các nhân viên của mình hoặc người khác những thông tin kỹ thuật cần thiết để sản xuất sử dụng bán hay thay đổi sản phẩm.
Nghĩa vụ bí mật như vậy áp dụng cho Bên giao nếu Bên giao nhận được những thông tin kỹ thuật có liên quan đến hợp đồng từ Bên nhận.
Bên giao không được để lộ ra cho bất kỳ bên thứ ba nào trong bất kỳ trường hợp nào biết thông tin bí mật về Bên nhận đã được chuyển cho Bên giao có liên quan đến hợp đồng này.
13. Bất khả kháng (Force Majeure)
Nếu một trong hai bên bị ngăn cản hay chậm trễ trong việc thực hiện bất kỳ giao ước nào của hợp đồng naỳ, vì lý do bất khả kháng đã được xác định rõ ở điều 1 thì bên đó không bị coi là có lỗi và bên kia sẽ không được một sự bồi thường pháp lý nào.
Dù sao, nếu sự ngăn cản hay chậm trễ vượt quá... (số) ngày thì bên không bị ngăn cản hay chậm trễ có quyền huỷ bỏ hợp đồng.
14. Chuẩn y và bắt đầu có hiệu lực (Approvals and Coming into force)
Hợp đồng có hiệu lực từ khi hai bên ký kết và khi nhận được mọi sự chuẩn y của chính phủ hay sự chuẩn y cần thiết khác.
Các bên có nghĩa vụ thông báo cho nhau biết ngay lập tức về việc nhận được bất cứ sự chuẩn y cần thiết nào từ chính phủ hay của các cơ quan khác.
15. Thời hạn, sự gia hạn và kết thúc (Duration, Renewal and Termination)
15.1. Thời hạn của hợp đồng (Duration of the Contract)
Thời hạn của hợp đồng... (số) năm kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực.
15.2. Sự kết thúc và gia hạn (Expiry and Renewal)
Vào cuối giai đoạn này hợp đồng sẽ kết thúc trừ khi hai bên cùng đồng ý ra hạn thêm ít nhất 6 tháng trước ngày kết thúc, bất kỳ sự gia hạn nào phải được cơ quan có thẩm quyền chuẩn y.
Sau khi hợp đồng kết thúc, trừ khi hợp đồng được kết toán vì lý do lỗi lầm của Bên nhận, thì Bên nhận tiếp tục được sử dụng công nghệ không phải trả tiền.
15.3. Kết thúc do thay đổi quyền sở hữu (Termination in the Event of Change of Ownership)
Nếu phần lớn quyền kiểm soát của Bên giao rơi vào tay bên khác do sự hợp nhất các công ty, sự thu nhập, sự tiếp quản hay bất kỳ trường hợp xẩy ra tương tự nào thì bên nhận có quyền huỷ hợp đồng bằng cách gửi cho bên giao thông báo ý định đó.
16. Chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ (Assignment of Rights and Duties)
Không một quyền và nhiệm vụ nào trong hợp đồng, cũng như bản thân toàn bộ hay một phần hợp đồng có thể nhượng lại hay chuyển giao bởi một bên mà không có văn bản chấp thuận của bên kia.
17. Thông báo (Notices)
Những thông báo do một bên thông báo cho bên kia trong hợp đồng chỉ có hiệu lực nếu được gửi bằng thư bảo đảm và được ký.
Những thông báo như vậy được gửi tới các địa chỉ sau:
Bên giao: "Địa chỉ" - Supplies: address.
Bên nhận: "Địa chỉ" - Receiver: address.
18. Việc không có hiệu lực từng phần (Partial Invalidity)
Nếu bất cứ một điều khoản nào hoặc các điều khoản của hợp đồng này không có hiệu lực hay trở lên không có hiệu lực, điều này không ảnh hưởng đến tính hiệu lực của các điều khoản còn lại.
Nếu bất cứ điều khoản nào không có hiệu lực hay trở lên không có hiệu lực thì các bên có nhiệm vụ thay thế điều khoản đó bằng điều khoản mới có hiệu lực và đáp ứng được mục đích ban đầu của điều khoản không có hiệu lực.
19. Thoả thuận toàn bộ và sửa đổi (Entire Agreement and Modification)
19.1. Thoả thuận toàn bộ (Entire Agreement)
Hợp đồng này tạo ra sự thoả thuận và hiểu biết toàn bộ giữa hai bên đối với việc thu nhận công nghệ. Không có sự hiểu biết, thoả thuận, điều kiện, sự dự phòng hay đại diện, nói miệng hay viết tay nào mà không được thể hiện trong hợp đồng này hay không được thay thế bằng hợp đồng này.
19.2. Sửa đổi (Modification)
Nếu các bên đồng ý xem lại, sửa đổi hay bổ sung hợp đồng này thì xem xét lại, sửa đổi lại, hay bổ sung như vậy trở thành bắt buộc chỉ huy nó được hiểu rõ ràng như là một sự xem xét lại, sửa đổi hay bổ sung của hợp đồng này, được thể hiện bằng văn bản và được hai bên cùng ký.
20. Ngôn ngữ (Language)
20.1. Ngôn ngữ của hợp đồng và bản hợp đồng gốc (Contract Language and Contract Original)
a. Ngôn ngữ của hợp đồng này là (ngôn ngữ)
Hai bản hợp đồng phải được ký và mỗi bên một bản.
b. Hợp đồng này viết bằng cả hai tiếng (tiếng a) và (tiếng b). Trong trường hợp không thống nhất thì bản dịch (tiếng) sẽ được sử dụng.
Hai bản hợp đồng bằng " tiếng A" và hai bản bằng " tiếng B" được ký, mỗi bên ký một bản của mỗi thứ tiếng.
20.2. Ngôn ngữ của thư từ và các thông tin khác (Language of corespondece and other Communication)
theo các điều khoản của điều 4, phần 2,4, ngôn ngữ cho thư từ giao dịch và tất cả các thông tin khác giữa hai bên là '' Tiếng''
21. Luật áp dụng (Applicable law)
Hợp đồng này và tất cả các vấn đề có liên quan tới việc hình thành, hiệu lực cà áp dụng sẽ được điều chỉnh bởi các luật của ''nước''.
22. Giải quyết tranh chấp (Settlement of Disputes)
22.1. Cách giải quyết (Method of Settlement)
Bất cứ cuộc tranh chấp, tranh luận hay phát sinh xuất phát từ hoặc có liên quan tới sự hình thành, tính hiệu lực,sự hiểu biết,sự áp dụng, sự vi phạm hay huỷ bỏ hợp đồng này được giải quyết theo sự xét xử của (toà án xét xử) phù hợp với luật phân xử của Uỷ ban liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế.
22.2. Địa điểm và ngôn ngữ xét xử (Place and Language Arbitration). Địa Điểm xét xử là (Thành phố), ngôn ngữ xét xử là (Tiếng).
22.3. Số người phân xử là (trọng tài) (Number of Artration).
Số người phân xử là ba.
thực hiện (execution)
Các bên có ý định ký hợp đồngmột cách hợp pháp, đã ký hợp đòng vào ngày được ghi sau đây.
Đại diện và thay mặt cho
Đại diện và thay mặt cho
"tên công ty"
"tên công ty"
"chữ ký"
"chữ ký"
tên chữ in chức vụ
tên chữ in chức vụ
chức danh của người ký
chức danh của người ký
Làm chứng "ký"
Làm chứng "ký"
Làm chứng "ký"
Làm chứng "ký"
Contents
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV HUNG HOAN THANH.doc