Mục lục
Lời nói đầu
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nhu cầu về vốn rất lớn, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, việc tạo lập vốn và sử dụng vốn có hiệu quả là vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Hiện nay nguồn vốn cung ứng chủ yếu cho nền kinh tế đều do các ngân hàng thương mại (NHTM) đảm nhiệm. Để có vốn cung ứng cho nền kinh tế thì các NHTM cần phải tập trung một lượng vốn lớn trong tay bằng cách sử dụng các hình thức huy động vốn khác nhau. NHT
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1399 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho vay tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
M cung ứng vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội thông qua hoạt động cấp tín dụng.
Trong các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM thì nghiệp vụ cấp tín dụng có vị trí đặc biệt quan trọng, vì tín dụng vừa mang lại nguồn thu cho Ngân hàng vừa là công cụ phục vụ phát triển nền kinh tế đất nước, giúp Ngân hàng thực hiện tốt các nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó.
Hoạt động tín dụng muốn có hiệu quả cần phải tổ chức tốt công tác kế toán ngân hàng, đặc biệt là kế toán cho vay. Kế toán cho vay trực tiếp tiếp xúc với khách hàng vay vốn, đồng thời là người theo dõi sát sao các khoản vay của khách hàng. Khi kế toán cho vay làm việc có hiệu quả sẽ là công cụ phục vụ đắc lực cho công tác tín dụng.
Việc hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho vay luôn là vấn đề quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mặc dù trong những năm, vừa qua cùng với việc cải tạo đổi mới cơ cấu tổ chức, chế độ nghiệp vụ thì NHNN và các NHTM đã chú trọng bổ sung, sửa đổi, cải tiến chế độ làm việc, song nghiệp vụ này vẫn còn một số tồn tại đòi hỏi phải không ngừng được hoàn thiện và nâng cao hơn nữa. Cùng với việc cải tiến chế độ hạch toán kế toán cho vay, Ngân hàng cũng cần phải nâng cao trình độ nghiệp vụ tin học kế toán ngân hàng nói chung và kế toán cho vay nói riêng, nhằm đảm bảo an toàn tài sản của Ngân hàng và tài sản của khách hàng được bảo quản tại Ngân hàng.
Là một sinh viên, qua quá trình học tập và tìm hiểu, em nhận thức được vị trí và tầm quan trọng của kế toán cho vay, vì vậy em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài.
“Các giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho vay tại chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây” để nghiên cứu, làm khoá luận tốt nghiệp.
Nội dung khoá luận, ngoài phần mở đầu, phần kết luận có 3 phần chính:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về kế toán cho vay trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Chương II: Thực trạng kế toán cho vay tại chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho vay.
Là một sinh viên do trình độ có hạn nên khoá luận còn nhiều hạn chế, vì vậy em kính mong sự giúp đỡ của thầy cô giáo và ban lãnh đạo Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây để em hoàn thiện khoá luận tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự dìu dắt hướng dẫn của các thầy giáo, cô giáo của Học Viện Ngân Hàng và ban lãnh đạo Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây đã tận tình giúp đỡ em trong thời gian nghiên cứu học tập tại trường và thời gian thực tập tại Ngân hàng.
Chương I:
cơ sở lý luận chung về kế toán cho vay trong
hoạt động kinh doanh của ngân hàng
I. tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế quốc dân.
1. Cơ sở ra đời của tín dụng ngân hàng:
Tín dụng Ngân hàng ra đời trên cơ sở trong xã hội có sự phân công lao động ngày càng rõ nét, sự xuất hiện chế độ tư nhân về tư liệu sản xuất và sự lệch pha thời gian của tuần hoàn vốn trong sản xuất, kinh doanh của từng đơn vị sản xuất.
Xét về mặt xã hội, sự xuất hiện chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở hình thành sự phân hoá xã hội, của cải tiền tệ có xu hướng tập trung vào những nhóm người, trong lúc đó một nhóm người khác có thu nhập thấp họặc thu nhập không đáp ứng đủ nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, đặc biệt khi gặp khó khăn hay biến cố bất thường xảy ra. Trong điều kiện như vậy, nhu cầu cấp bách cần vốn để giải quyết những đòi hỏi của đời sống và phát triển kinh tế xuất hiện. Để đáp ứng nhu cầu đó cần có một tổ chức tín dụng ra đời. Đó là điều kiện xuất hiện tín dụng ngân hàng. Chủ thể tham gia quan hệ tín dụng là các cá nhân hay các doanh nghiệp.
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ, người sản xuất bán được sản phẩm nhưng có thể chưa có nhu cầu sử dụng vốn để mua vật liệu ngay, trong khi người khác lại tạm thời có nhu cầu đó; vì vậy phát sinh nhu cầu đi vay và cho vay của người thừa và thiếu vốn trong cùng một thời điểm, đòi hỏi phải có một tổ chức đứng ra làm trung gian. Xuất phát từ những yêu cầu trên, tổ chức NHTM đã ra đời và bằng hoạt động của mình NHTM đã giải quyết được nhu cầu thừa, thiếu vốn của các chủ thể.
Tín dụng Ngân hàng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi được một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Trong quan hệ chuyển giao này thể hiện:
- Người cho vay giao cho người sử dụng một lượng giá trị nhất định, giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật như máy móc, thiết bị, bất động sản.
- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định. Sau khi hết thời gian sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả lại cho người cho vay.
- Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức.
2. Đặc trưng của tín dụng Ngân hàng.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là lòng tin và trên nguyên tắc có tính thời hạn, tính hoàn trả và đảm bảo tín dụng.
Để quan hệ tín dụng được tạo lập, yếu tố lòng tin có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì thông thường quan hệ giữa người đi vay và người cho vay hầu như không có sẵn, nếu như không có lòng tin thì người có tiền sẽ không dám giao quyền sử dụng tài sản của mình cho người khác.
NHTM là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động trên cơ sở đi vay để cho vay. Vốn Ngân hàng sử dụng cho vay chủ yếu là nguồn vốn huy động được từ các tổ chức kinh tế và trong dân cư, vốn này phải hoàn trả cho họ khi họ có nhu cầu sử dụng hoặc khi hết thời hạn vay. Vốn hoàn trả thường bao giờ cũng lớn hơn vốn ban đầu lúc cho vay; vì vậy khi Ngân hàng cho vay ra cũng phải xác định thời hạn cụ thể cho từng món cho vay để đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả của Ngân hàng cho khách hàng.
Đứng trên góc độ người đi vay, NHTM phải hoàn trả đúng thời hạn hoặc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng với một món lợi tức kèm theo. Với cương vị người cho vay, NHTM sử dụng vốn đi vay để cho thuê lại, tức tạm thời bán quyền sử dụng vốn cho người khác. Ngân hàng luôn mong muốm khách hàng của mình sử dụng vốn vay có hiệu quả và hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn theo qui định, đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Mối quan hệ tay ba này đều dựa vào lòng tin của nhau để giải quyết tình trạng thừa, thiếu vốn của các chủ thể.
Kinh doanh trong lĩnh vực tín dụng Ngân hàng là kinh doanh “ quyền sử dụng của khoản tiền tệ”. Ngân hàng chỉ bán " giá trị sử dụng của tiền" chứ không bán tiền nên khi hết thời hạn sử dụng theo như cam kết, tiền sẽ quay về giữ nguyên giá trị của nó. Phần chênh lệch theo thoả thuận, nếu có, là “giá bán” của quyền sử dụng khoản cho vay trong thời gian nhất định. Giá bán quyền sử dụng tiền tệ thường rất nhỏ so với giá trị khoản cho vay, nên sự bù đắp rủi ro xẩy ra là quá ít ỏi. Từ đó có thể thấy rằng, quan hệ tín dụng buộc phải có lòng tin. Trong những trường hợp thiếu lòng tin thì quan hệ tín dụng khó có thể được tạo lập.
3. Vai trò của tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân.
Trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, nhu cầu về vốn rất lớn. Cùng một thời điểm có nhiều chủ thể có vốn nhàn rỗi, trong khi đó có những chủ thể khác lại thiếu vốn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Chủ thể có vốn nhàn rỗi thì mong muốn nó có khả năng sinh lời nhưng họ lại không biết tiến hành hoạt động kinh doanh hay không có phương án kinh doanh hiệu quả, còn những chủ thể biết cách kinh doanh hay có các kế hoạch kinh doanh hiệu quả thì lại không có vốn. Từ yêu cầu đó, tín dụng Ngân hàng ra đời và đã giải quyết thoả đáng những yêu cầu đó thông qua hoạt động huy động vốn và cho vay. Hoạt động tín dụng Ngân hàng xuất hiện là điều hết sức cần thiết và có vai trò to lớn trong việc phục vụ phát triển nền kinh tế của mọi quốc gia.
3.1 Tín dụng Ngân hàng ra đời đã đáp ứng vốn để duy trì quá trình tái sản xuất đồng thời đầu tư vốn phát triển kinh tế.
Vốn sản xuất kinh doanh vận động liên tục và biểu hiện các hình thái khác nhau, qua mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất theo chu kì tuần hoàn và luân chuyển vốn, điểm xuất phát và kết thúc của một vòng tuần hoàn này thể hiện dưới dạng tiền tệ.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì hoạt động kinh doanh liên tục đòi hỏi doanh nghiệp sản xuất phải đồng thời tồn tại ở cả 3 giai đoạn là dự trữ - sản xuất - lưu thông. Do đó, dù không mong muốn thì hiện tượng thừa, thiếu vốn tạm thời vẫn thường xảy ra. Đây là hiện tượng tuy mang tính chất tạm thời, nhưng thường xuyên xảy ra và phổ biến trong nền kinh tế mọi quốc gia. Hiện tượng đó đã làm nảy sinh yêu cầu bức xúc là điều hoà vốn. NNTM với vai trò trung gian tín dụng đã đứng ra tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, điều hoà cung cầu về vốn trong các đơn vị sản xuất kinh doanh, đã góp phần tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn.
Tín dụng ngân hàng không chỉ đáp ứng vốn kịp thời cho các đơn vị sản xuất kinh doanh mà còn góp phần thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển thông qua việc đầu tư và các dự án mang tần cỡ quốc gia, các khu công nghiệp chế biến, khu đô thị mới...
3.2 Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung vốn, tập trung sản xuất.
Nguồn vốn của Ngân hàng hình thành từ nhiều nguồn khác nhau trong đó nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng. Nguồn vốn huy động là nguồn tiền tệ Ngân hàng huy động được từ mọi tầng lớp dân cư trong xã hội và bằng các hình thức huy động vốn khác nhau, nguồn tiền tệ trong dân cư được tích tụ tập trung vào các NHTM và phân phối lại cho các đơn vị sản xuất kinh doanh có nhu cầu sử dụng vốn bằng các hình thức cho vay, góp vốn liên doanh ...
Hiện nay hoạt động kinh doanh của các đơn vị gặp nhiều khó khăn; hàng hoá sản xuất ra không tiêu thụ được còn tồn đọng nhiều, hàng hoá nước ngoài tràn vào thị trường trong nước ngày càng nhiều với chất lượng mẫu mã hơn hẳn hàng nội địa mà giá cả lại hợp lý. Trước tình hình này, yêu cầu các doanh nghiệp phải thay đổi cung cách sản xuất, cơ chế quản lý, chất lượng sản phẩm, cải tiến công nghệ, hiện đại hoá máy móc thiết bị. Để tiến hành được các hoạt động này cần phải có vốn mà vốn của doanh nghiệp thì không kham nổi cần phải tìm nguồn vốn khác. Đó chính là nguồn vốn tín dụng Ngân hàng. Ngày nay, nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng thường chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng nguồn vốn của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Việc ngân hàng cấp tín dụng cho các đơn vị sản xuất kinh doanh sẽ giúp họ rút ngắn được thời gian tích luỹ vốn từ đó nhanh chóng đầu tư mở rộng sản xuất góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung vốn cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong quá trình đầu tư của Ngân hàng không phải là giải đều cho tất các đơn vị có nhu cầu vốn mà chỉ đầu tư vào các đơn vị hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Việc đầu tư có chọn lọc này sẽ giúp cho Ngân hàng tránh được rủi ro tín dụng từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế.
3.3 Thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và luân chuyển tiền tệ.
Quá trình tạo lập vốn và cung ứng vốn cho nền kinh tế, tín dụng Ngân hàng đã tạo ra mối quan hệ lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ trong khu vực.
Khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế đi qua quỹ nghiệp vụ NHTM vì thế tín dụng Ngân hàng là công cụ trực tiếp tác động vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế và nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của mọi người dân trong xã hội. Bằng chính sách thu hút và nghệ thuật kinh doanh Ngân hàng sẽ tiếp nhận một khối lượng tiền mặt không nhỏ và đem phân phối cho nền kinh tế. Khối lượng tiền mặt do ngân hàng cung ứng sẽ đáp ứng nhu cầu tiền mặt cho các đơn vị phục vụ sản xuất kinh doanh hay phục vụ nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân.
Bằng hoạt động tín dụng NHTM có thể gia tăng hoặc thu hẹp khối lượng tiền trong lưu thông góp phần điều tiết khối lượng tiền trong nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát.
3.4 Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
Tín dụng Ngân hàng là có tính thời hạn và tính hoàn trả, tức là sau khi hết thời hạn vay người vay phải trả cho người cho vay cả gốc và lãi.
Đối với các đơn vị sử dụng vốn tín dụng của Ngân hàng, ngoài việc được cung ứng vốn một cách đầu đủ, kịp thời, còn được Ngân hàng hỗ trợ trong quá trình sử dụng vốn thông qua những ý kiến đóng góp khi lập các phương án hay các dự án hoặc chọn đối tác kinh doanh. Sở dĩ Ngân hàng thực hiện được việc này là vì Ngân hàng có quan hệ rất rộng lớn với các khách hàng nên Ngân hàng có thể biết được đơn vị nào hoạt động kinh doanh có hiệu quả và đơn vị nào kinh doanh không có hiệu quả. Khi sử dụng vốn vay của Ngân hàng, khách hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi trong một thời gian nhất định. Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp, cá nhân có vay vốn của ngân hàng phải nỗ lực trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và phải tìm cách để sử dụng vốn sao cho có hiệu quả, giảm chi phí tối đa, tăng nhanh vòng quay của vốn đảm bảo kinh doanh có lãi.
Việc sử dụng vốn vay của Ngân hàng khác hẳn với sử dụng vốn Ngân sách cấp ở chỗ, khi sử dụng vốn của ngân sách Nhà nước nước cấp, đơn vị sử dụng không phải hoàn trả hoặc chỉ phải nộp một tỷ lệ nhỏ về sử dụng vốn cho ngân sách Nhà Nước. Còn việc sử dụng vốn tín dụng, việc phải trả lãi tín dụng là bắt buộc.
Ngoài các đặc điểm đã được nêu ở trên, tín dụng Ngân hàng còn giúp cho các đơn vị sử dụng vốn vay của Ngân hàng có ý thức ngày càng cao hơn, quản lý đồng vốn hiệu quả hơn. Như vậy, thông qua hoạt động tín dụng Ngân hàng giúp cho quá trình hạch toán kinh tế thêm vững chắc hơn.
3.5 Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện để phát triển quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Tín dụng Ngân hàng trong điều kiện hiện nay ngày càng phát triển và sự phát triển kinh tế của một nước luôn gắn liền với thị trường thế giới, nền kinh tế “đóng” đã nhường bước cho nền kinh tế “mở” vì vậy tín dụng Ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền nền kinh tế các nước lại với nhau. Tín dụng Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc hoà nhập nền kinh tế một nước với nền kinh tế thế giới và nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng được mở rộng.
Thông qua quá trình nhận và cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của các nước cấp tín dụng cũng như các tổ chức tín dụng, cùng với việc tham gia trực tiếp vào quan hệ thanh toán quốc tế như L/C, tín dụng Ngân hàng còn làm tăng mối quan hệ giữa các nước với nhau đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại:
Như phân tích ở trên, vai trò to lớn của tín dụng Ngân hàng là lý do tất yếu giải thích tại sao tín dụng Ngân hàng lại tham gia phần lớn vào cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Đồng thời nói lên rằng trong quá trình chuyển sang kinh tế thi trường ở nước ta vốn tín dụng là quan trọng là cần thiết đối các đơn vị sản xuất kinh doanh. Sự ra đời và phát triển của tín dụng ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của kế toán ngân hàng; vì vậy khi nghiên cứu kế toán ngân hàng chúng ta không thể không đề cập đến tín dụng ngân hàng.
II. Vai trò và nhiệm vụ của kế toán ngân hàng.
Hạch toán kế toán là khoa học quản lý nghiên cứu quá trình tái sản xuất xã hội thông qua sự hình thành và vận động của tài sản trong nền kinh tế quốc dân.
Đối tượng hạch toán kế toán nói chung và kế toán ngân hàng nói riêng đều là vốn cũng như sự vận động của nó trong sản xuất xã hội.
Hạch toán kế toán ngân hàng được xây dựng trên cơ sở cơ chế nghiệp vụ ngân hàng và vận dụng các nguyên tắc, hệ thống các phương pháp của lý thuyết hạch toán kế toán, Nó vừa có đặc điểm chung của hạch toán kế toán, vừa có những đặc điểm riêng phù hợp với đặc điểm kinh doanh đặc biệt của ngân hàng (kinh doanh tiền tệ). Nghiên cứu kế toán ngân hàng cũng chính là nghiên cứu vốn và sự vận động của vốn, đồng thời thấy rõ được tầm quan trọng của kế toán ngân hàng nói chung và kế toán cho vay nói riêng.
1. Vai trò của kế toán ngân hàng.
Kế toán ngân hàng là công cụ ghi chép phản ánh bằng con số về huy động vốn, sử dụng vốn và kết quả kinh doanh tại các đơn vị Ngân hàng trên cơ sở đó cung cấp thông tin và quản lý an toàn tài sản.
Vai trò của kế toán ngân hàng thể hiện chủ yếu ở các điểm sau:
- Cung cấp thông tin tổng hợp phục vụ quản lý nền kinh tế, cung cấp thông tin hoàn chỉnh đầy đủ cho người lãnh đạo ra quyết định điều hành hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý Nhà Nước về tiền tệ, tổ chức thống kê, xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch chung cho cả nền kinh tế.
- Bảo vệ an toàn tài sản của bản thân Ngân hàng đồng thời bảo vệ tài sản của toàn xã hội. Do vậy kế toán ngân hàng phải ghi chép toàn bộ các hoạt động kinh tế phát sinh, kiểm soát chặt chẽ từng loại tài sản tránh mất mát, thiếu hụt.
- Đáp ứng yêu cầu chỉ đạo quản trị lãnh đạo Ngân hàng. Các số liệu do kế toán ngân hàng cung cấp là bằng chứng tốt nhất của các tổ chức kinh tế và Ngân hàng.
- Căn cứ vào tài liệu kế toán ngân hàng các nhà lãnh đạo quản trị biết được những mặt được và mặt còn tồn tại từ đó chỉ đạo và quản trị Ngân hàng hiệu quả. Số liệu kế toán cung cấp còn là căn cứ cho việc hoạch định chính sách tiền tệ quốc gia và chỉ đạo hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.
2. Nhiệm vụ của kế toán ngân hàng
Để phát huy đầy đủ vai trò của mình, kế toán ngân hàng cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Kế toán ngân hàng cần phải ghi chép đầy đủ chính xác kịp thời mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh thuộc hoạt động nguồn vốn và sử dụng vốn của Ngân hành theo đúng pháp lệnh kế toán thống kê của Nhà Nước và các thể lệ chế độ kế toán ngân hàng, trên cơ sở đó bảo vệ an toàn tài sản của Ngân hàng và của toàn xã hội có tài sản bảo quản tại Ngân hàng.
- Kế toán ngân hàng phân loại nghiệp vụ, tổng hợp số liệu theo đúng phương pháp kế toán và theo chỉ tiêu nhất định nhằm cung cấp thông tin một cách đầy đủ chính xác kịp thời phục vụ quá trình lãnh đạo, thực thi chính sách quản lý và chỉ đạo hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
- Kế toán ngân hàng giám sát quá trình sử dụng tài sản (vốn) nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các loại tài sản thông qua kiểm soát trước các nghiệp vụ bên nợ, bên có ở từng đơn vị ngân hàng cũng như toàn hệ thống. Góp phần tăng cường kỉ luật tài chính, củng cố chế độ hạch toán kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Tổ chức giao dịch phục vụ khách hàng một cách khoa học văn minh, giúp đỡ khách hàng nhằm nắm được những nội dung cơ bản của kỹ thuật nghiệp vụ kế toán ngân hàng nói chung và kỹ thuật nghiệp vụ kế toán cho vay nói riêng góp phần thực hiện chiến lược khách hàng của Ngân hàng.
III. Vai trò và nhiện vụ của kế toán cho vay.
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thì hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản nhất, nó là hoạt động kinh doanh chủ chốt để tạo ra lợi nhuận cho Ngân hàng, giúp cho Ngân hàng có được khoản thu nhập đáng kể để bù đắp mọi chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động của Ngân hàng. Tín dụng ngân hàng nhằm bổ sung vốn cho cho các đơn vị sản xuất kinh doanh. Xét về mặt kinh tế thì toàn bộ số tiền của Ngân hàng cho khách vay đựoc phản ánh là số nợ mà người vay nhận nợ vay của Ngân hàng và phải hoàn trả trong kỳ hạn nhất định gồm cả gốc và lãi. Xét về tính pháp lý của những khoản nợ vay này được thể hiện trên toàn bộ chứng từ kế toán cho vay đã được pháp luận thừa nhận.
Kế toán cho vay là công cụ tính toán ghi chép một cách đầy đủ, chính xác các khoản cho vay, thu nợ theo dõi dư nợ tín dụng ngân hàng trên cơ sở đó bảo vệ an toàn tài sản vốn cho vay của Ngân hàng và cung cấp các thông tin cần thiết để phục vụ việc quản lý và điều hành nghiệp vụ tín dụng ngân hàng. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng nghiệp vụ tín dụng ngân hàng và nguồn thu nhập của Ngân hàng.
1. Vai trò của kế toán cho vay.
Kế toán cho vay có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc ổn định kinh doanh của Ngân hàng. Việc kế toán cho vay phản ánh đầy đủ, kịp thời, chính xác diễn biến tình hình sử dụng vốn, sẽ giúp cho nhà lãnh đạo ngân hàng đề ra các chiến lược kinh doanh đạt hiệu quả. Sở dĩ kế toán cho vay có vai trò quan trọng như vậy là vì nó tham gia trực tiếp vào quá trình cho vay vốn (nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng).
Kế toán cho vay cung cấp cho đơn vị, tổ chức kinh tế, cá nhân có quan hệ với Ngân hàng những thông tin liên quan đến quá trình cho vay, thu nợ, thu lãi một cách kịp thời chính xác. Cung cấp cho nhà lãnh đạo biết được tình hình dư nợ cho vay, nợ quá hạn từ đó có phương pháp chỉ đạo điều hành phù hợp nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
Kế toán cho vay giúp cho Ngân hàng thu nợ, thu lãi, chuyển nợ quá hạn chính xác kịp thời, thông qua kế toán cho vay có thể biết được tình hình hấp thụ vốn vay của các doanh nghiệp, tính hiệu quả của từng doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
Kế toán cho vay còn là công cụ đảm bảo an toàn vốn cho vay của Ngân hàng, hạn chế rủi ro, ổn định nguồn thu nhập của Ngân hàng.
2. Nhiện vụ của kế toán cho vay.
Để phát huy được vai trò của mình kế toán cho vay cần phải thực hiện tốt các nhiện vụ của kế toán ngân hàng nói chung và kế toán cho vay nói riêng.
Kiểm tra và xác định tính hợp pháp hợp lệ của chứng từ kế toán cho vay, đảm bảo khoản cho vay có khả năng thu hồi ngay từ khâu phát tiền vay.
Tổ chức ghi chép phản ánh kịp thời chính xác các khoản cho vay, thu nợ thu lãi chuyển nợ quá hạn kịp thời để đảm bảo an toàn tài sản và nâng cao nghiệp vụ tín dụng.
Kế toán cho vay có trách nhiện quản lý hồ sơ cho vay của khách hàng bao gồm cả hồ sơ pháp lý (hồ sơ chứng minh về đảm bảo tiền vay, hồ sơ vay vốn), đồng thời kết hợp chặt chẽ với bộ phận tín dụng trong việc giám sát sử dụng vốn vay, trong việc thẩm định, đôn đốc thu hồi nợ hoặc chuyển nợ quá hạn theo đúng chế độ.
Cung cấp thông tin cần thiết cho cán bộ tín dụng cũng như cho cán bộ lãnh đạo ngân hàng để quản lý và điều hành nghiệp vụ tín dụng.
Như vậy, kế toán cho vay cùng với các nghiệp vụ kế toán ngân hàng khác thông qua hoạt động của mình giúp Ngân hàng vừa thực hiện chức năng kinh doanh vừa cung ứng vốn cho nền kinh tế vừa đảm bảo an toàn tài sản, đảm bảo đem lại thu nhập cho ngân hàng. Với vai trò quan trọng kế toán ngân hàng nói chung và kế toán cho vay nói riêng cần được hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của Ngân hàng và nền kinh tế.
IV. các phương thức cho vay, tàI khoản và chứng từ kế toán cho vay.
1. Các phương thức cho vay.
Phương thức cho vay quyết định phương pháp hạch toán tài khoản kế toán và nội dung ghi chép của kế toán ngân hàng.
Phương thức cho vay cũng phản ánh quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các đơn vị cá nhân vay vốn, bao gồm tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn có thời hạn dưới một năm và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Tín dụng trung hạn là loại tín dụng sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới trang thiết bị, mở rộng qui mô và thời gian thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn chủ yếu để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị phương tiện vận tải có qui mô lớn xây dựng các xí nghiệp mới.
Để phản ánh toàn bộ các khoản cho vay của tổ chức tín dụng hiện nay sử dụng các phương thức cho vay sau:
Cho vay từng lần
Cho vay theo hạn mức tín dụng.
Cho vay theo dự án đầu tư.
Cho vay trả góp.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành thẻ tín dụng
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng
Cho vay hợp vốn.
Cho vay các phương thức khác.
1.1 Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng.
Là phương thức cho vay mà trong đó Ngân hàng cho khách hàng vay theo hạn mức tín dụng (tức dư nợ tối đa mà Ngân hàng đã xác định cho khách hàng trong kỳ kế hoạch).
Ngân hàng chỉ áp dụng phương thức cho vay này với những khách hàng có đủ các điều kiện sau:
+ Nhu cầu vay trả phát sinh thường xuyên.
+ Tình trạng tài chính lành mạnh, vòng quay vốn lưu động và vòng quay vốn tín dụng nhanh, thông thường có số vòng quay từ ba vòng trở lên trên quý.
+ Lập được kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch vay vốn rõ ràng và có uy tín cao với Ngân hàng trong quan hệ tín dụng.
Phương thức này được áp dụng phổ biến trong cho vay ngắn hạn. Mỗi lần vay khách hàng không phải làm đơn xin vay mà chỉ phải gửi đến Ngân hàng các chứng từ thanh toán tiền hàng như séc, UNC và các chứng từ hoá đơn mua hàng. Khi nhận được các hoá đơn chứng từ nếu hợp pháp, hợp lệ và còn hạn mức tín dụng và thuộc đối tượng cho vay thì Ngân hàng sẽ xét duyệt cho vay. Trách nhiệm của kế toán cho vay không được cho vay vựơt quá hạn mức tín dụng đã thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng trong kì.
1.2 Phương thức cho vay theo món (cho vay từng lần).
Phương thức cho vay theo món là phương thức cho vay mà việc cho vay của ngân hàng tiến hành theo từng kế hoạch và phương án sản xuất kinh doanh hay từng lần phát sinh vốn cụ thể.
Phương thức cho vay này áp dụng đối với mọi khách hàng không đủ điều kiện để được vay theo phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. Khi áp dụng phương thức cho vay theo món thì khách hàng phải làm thủ tục vay cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. Phương thức này được áp dụng phổ biển trong cho vay ngắn hạn cũng như cho vay trung dài hạn.
1.3 Phương thức cho vay theo dự án.
NHTM cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án khác. Phương thức này áp dụng đối với cho vay trung dài hạn. Ngân hàng cho vay cùng khách hàng kí kết hợp đồng tín dụng và thoả thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định các kì hạn nợ.
1.4 Phương thức cho vay trả góp.
Phương thức cho vay trả góp là phuơng thức cho vay mà trong đó khi cho vay vốn Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả theo nhiều kì hạn trong thời hạn cho vay.
1.5 Phương thức cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành thẻ tín dụng.
Căn cứ vào nhu cầu của khách hàng thì Ngân hàng nơi cho vay chấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của Ngân hàng, khi cho vay phát hành sử dụng thẻ tín dụng thì Ngân hàng nơi cho vay và khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ và NHNN về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
1.6 Cho vay theo hạn tín dụng dự phòng
Căn cứ vào nhu cầu vay của khách hàng, Ngân hàng và khách hàng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng trong phạm vi thời gian hiệu lực của hợp đồng, nếu khách hàng không sử dụng hoặc sử dụng không hết hạn mức tín dụng dự phòng khách hàng vẫn phải trả phí cam kết. Mức phí cam kết phải trả được thoả thuận giữa khách hàng và Ngân hàng, khi khách hàng vay chính thức thì phần vốn vay được tính lãi suất tiền vay hiện hành.
1.7 Cho vay hợp vốn.
Phương thức cho vay hợp vốn là phương thức cho vay trong đó một nhóm các NHTM cùng cho vay đối với một dự án vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một ngân hàng làm đầu mối giàn xếp phối hợp với các Ngân hàng khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy chế đồng tài trợ của tổ chức tín dụng số 154/1998/QĐ/ NHNN14 ngày 29/04/1998 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
1.8 Cho vay theo phương thức khác
Theo nhu cầu của khách hàng và thực tế phát sinh Ngân hàng sẽ xem xét cho vay theo phương thức khác phù hơp với đặc điểm kinh doanh trong từng thời kỳ và không trái với quy định của pháp luật.
2. Tài khoản dùng trong kế toán cho vay .
Tài khoản này phản ánh nghiệp vụ cho vay thuộc tài sản có của ngân hàng nó dùng để ghi chép phản ánh số tiền cho vay ra của ngân hàng, đồng thời cũng ghi chép phản ánh số tiền người vay trả nợ. Việc bố trí tài khoản cho vay trong hệ thống các tài khoản kế toán ngân hàng như thế nào là tuỳ thuộc vào yêu cầu của việc chỉ đạo hoạt động tín dụng của Ngân hàng phục vụ nền kinh tế ở từng thời kỳ và yêu cầu bảo vệ tài sản của Ngân hàng.
a/ Kết cấu tài khoản cho vay từng lần:
Bên nợ: Hạch toán số tiền ngân hàng đã cho khách hàng vay.
Bên có: Hạch toán cho tiền khách hàng đã trả nợ ngân hàng.
Hạch toán số tiền chuyển nợ quá hạn (nếu có).
Dư nợ : Số tiền khách hàng vay còn nợ đến thời điểm nào đó.
b/ Kết cấu tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng:
Bên nợ: Hạch toán số tiền ngân hàng cho khách hàng vay theo hạn mức.
Bên có: Hạch toán số tiền thu nợ (Tiền bán hàng hay các thu nhập khác)
Dư nợ: Số tiền khách hàng còn nợ ngân hàng.
Trong mối quan hệ giữa người đi vay và người cho vay không phải lúc nào cũng hoàn trả đúng hạn. Trường hợp đến hạn trả nợ khách hàng không trả được nợ hoặc không có khả năng trả nợ Ngân hàng sẽ chuyển sang nợ quá hạn.
c/ Kết cấu tài khoản nợ quá hạn:
Bên nợ: Ghi số tiền chuyển nợ quá hạn
Bên có: Ghi số tiền thu nợ quá hạn
Dư nợ: Phản ánh số nợ quá hạn chưa hoàn trả
3. Chứng từ dùng trong kế toán cho vay.
Là giấy tờ bảo đảm pháp lý về các khoản cho vay của Ngân hàng và là cơ sở để giải quyết mọi sự tranh chấp về khoản cho vay, thu nợ.
Chứng từ gốc: Là đơn xin vay kiêm giấy nhận nợ, khế ước vay tiền, hợp đồng tín dụng. Đây là chứng từ có tính pháp lý về khoản cho vay của Ngân hàng.
Chứng từ ghi sổ: gồm séc lĩnh tiền, phiếu chi, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, séc thanh toán.
V. Quy trình kế Toán cho vay, thu nợ
1. Quy trình kế toán cho vay, thu nợ từng lần.
1.1 Hạch toán giai đoạn cho vay.
Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng phải gửi tới Ngân hàng các tài liệu sau:
- Giấy đề nghị vay vốn.
- Tài liệu về năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự trách nhiệm dân sự của khách hàng
- Tài liệu báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của khách hàng của người bảo lãnh (nếu có).
- Dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các tài liệu liên quan.
- Các tài liệu chứng minh tính hợp pháp hợp lệ và giá trị các tài sản đảm bảo nợ vay.
Cán bộ tín dụng phải thẩm định và hướng dẫn khách hàng làm thủ tục vay vốn sau đó trình lãnh đạo duyệt.
Sau khi hoàn thành thủ tục các giấy tờ xin vay theo đúng quy định và được Ngân hàng xét duyệt cho vay, Ngân hàng và khách hàng tiến hành kí kết hợp đồng tín dụng.
Kế toán căn cứ vào hợp đồng tín dụng của khách hàng do cán bộ tín dụng chuyển sang sẽ tiến hành kiểm tra tính hơp lệ, hợp pháp của chứ._.ng từ theo đúng chế độ quy định và tiến hành hạch toán chính thức cấp tiền vay cho khách hàng. Trước khi phát tiền vay cho khách hàng, kế toán cho vay phải yêu cầu khách hàng lập 3 liên giấy nhận nợ tiền vay cũng như giấy đề nghị vay vốn, ghi đầy đủ yếu tố trên mẫu in sẵn bảo đảm tính pháp lý của chứng từ cho vay. Chứng từ thanh toán do khách hàng lập cũng phải có đầy đủ chữ kí của chủ tài khoản, kế toán trưởng đơn vị và của chính khách hàng, nó phải đúng với mẫu chữ ký đã đăng ký khi mở tài khoản. Nếu khách hàng là tư nhân, cá thể không (hoặc chưa) có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng thì chữ ký trên giấy nhận tiền vay phải đúng vơí chữ ký trên đơn xin vay và hợp đồng tín dụng. Khi phát tiền vay cho khách hàng kế toán cho vay xử lý như sau:
- Nếu khách hàng vay nhận vốn vay bằng tiền mặt thì yêu cầu khác hàng viết giấy lĩnh tiền mặt và kế toán sẽ hạch toán như sau:
Nợ: Tài khoản cho vay thông thường.
Có: Tài khoản tiền mặt tại quỹ.
- Nếu khách hàng vay tiền để trả cho người thụ hưởng có tài khoản ở cùng Ngân hàng thì khách hàng phải lập UNC (uỷ nhiện chi) và kế toán hạch toán:
Nợ : Tài khoản cho vay thông thường
Có : Tài khoản tiền gửi thanh toán của người thụ hưởng
- Nếu vay để trả cho người thụ hưởng có tài khoản ở Ngân hàng khác thì khách hàng cũng phải lập UNC để chuyển tiền đến Ngân hàng khác:
Nợ : Tài khoản cho vay
Có : Tài khoản thanh toán giữa các ngân hàng
- Nếu khách hàng vay xin mở L|C (thư tín dụng) để trả cho người bán theo hợp đồng đã kí kết thì kế toán hướng dẫn khách hàng lập giấy xin mở L|C và hạch toán:
Nợ : Tài khoản cho vay
Có : Tài khoản đảm bảo thanh toán thư tín dụng
- Nếu khách hàng vay muốn bảo chi séc để trả cho người bán thì kế toán hướng dẫn khách hàng lập UNC và tờ séc chuyển khoản Ngân hàng ký bảo chi séc và hạch toán:
Nợ : Tài khoản cho vay
Có : Tài khoản đảm bảo thanh toán séc bảo chi
Riêng với các món vay có tài sản thế chấp, cầm cố, kế toán phải ghi nhập vào tài khoản ngoại bảng “ Tài sản thế chấp, cầm cố”.
Khi vay vốn kế toán hạch toán :
Nhập: Tài khoản “ Cần cố thế chấp”
Sau khi hạch toán xong kế toán lưu chứng từ phát tiền vay trong ngày vào tập nhật ký chứng từ. Trường hợp phát tiền vay toàn bộ một lần thì đơn xin vay và hợp đồng tín dụng cũng được lưu vào tập nhật ký chứng từ trong ngày cùng các hoá đơn khác. Trường hợp nhận tiền vay nhiều lần thì đơn xin vay và hợp đồng tín dụng sẽ được lưu lại vào hồ sơ vay vốn của khách hàng.
1.2 Hạch toán giai đoạn thu nợ, thu lãi.
Một trong những đặc điểm của phương thức cho vay từng lần là mỗi lần cho vay đều phải xác định thời hạn trả nợ. Đến hạn, người vay phải có trách nhiệm trả nợ ngân hàng. Nếu đến kỳ hạn trả nợ người vay không trả đủ được nợ và trong trường hợp trên tài khoản tiền gửi thanh thanh toán của khách hàng vay vốn đã hết số dư và khoản vay đó không được Ngân hàng gia hạn thì kế toán sẽ lập phiếu chuyển khoản sang tài khoản nợ quá hạn.
Thu nợ cả gốc và lãi cùng một thời điểm:
Nợ : Tài khoản tiền mặt tại quỹ.
Hoặc tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vay
(phần gốc và lãi).
Có : Tài khoản cho vay (phần gốc).
Có : Tài khoản thu nhập ngân hàng (phần lãi ).
Thu gốc và lãi không cùng thời điểm.
Thu theo phương pháp tích số, thu lãi hàng tháng theo số dư nợ tài khoản cho vay. Do vậy thu nợ, thu lãi sẽ được hạch toán ở các thời điểm khác nhau.
+ Hạch toán giai đoạn thu lãi
Nợ : Tài khoản tiền mặt tại quỹ (nếu thu bằng tiền mặt )
Hoặc tài khoản tiền gửi thanh toán (nếu thu bằng chuyển khoản)
Có : Tài khoản thu nhập của Ngân hàng.
+ Hạch toán giai đoạn thu nợ gốc:
Nợ : Tài khoản tiền mặt tại quỹ ( nếu thu bằng tiền mặt )
Hoặc tài khoản tiền gửi của khách hàng (nếu thu bằng chuyển khoản)
Có : Tài khoản cho vay của khách hàng vay
Khi thu nợ kế toán cho vay phải xoá nợ trên khế ước vay tiền. Những khế ước thu hết nợ khi xoá nợ xong sẽ đóng thành tập riêng. Trên khế ước thu nợ một phần sau khi thu sẽ lưu trở lại hồ sơ vay vốn của người vay để tiếp tục theo dõi thu nợ. Còn những khách hàng có tài sản cần cố thế chấp thì kế toán lập phiếu xuất để trả lại khách hàng đầy đủ các giấy tờ mà trước đây khách hàng đem đến cầm cố thế chấp để làm đảm bảo cho khoản nợ vay.
Người vay phải có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn. Nếu đến hạn trả nợ mà người vay không chủ động trả nợ cho Ngân hàng thì kế toán cho vay sẽ chủ động trích tiền trên tài khoản tiền gửi của khách hàng vay để thu nợ. Trường hợp đến hạn hoặc đã được gia hạn nợ nhưng khách hàng cũng không trả đúng hạn kế toán sẽ chuyển sang tài khoản nợ quá hạn.
Nếu Ngân hàng chuyển toàn bộ số tiền gốc sang tài khoản nợ quá hạn, còn phần lãi của phần gốc chưa thu sẽ được nhập vào tài khoản ngoại bảng. Phần lãi quá hạn sẽ được tính từ thời điểm chuyển nợ quá hạn trên toàn bộ số tiền chuyển sang nợ quá hạn.
Khi chuyển sang nợ quá hạn kế toán ghi:
Nợ : Tài khoản nợ quá hạn
Có : Tài khoản cho vay
Khi xử lý nợ chuyển nợ quá hạn:
Trong trường hợp mà khách hàng vẫn chưa trả hết lãi thì kế toán sau khi tính lãi hạch toán ngoại bảng và theo dõi cho tới khi trên tài khoản của khách hàng có tiền sẽ thu hồi.
Khi thu sẽ hạch toán ngoại bảng:
Xuất : Tài khoản “Lãi chưa thu”
Đồng thời hạch toán nội bảng:
Nợ : Tài khoản tiền gửi thanh toán của người vay (phần lãi)
Có : Tài khoản thu nhập của ngân hàng.
2. Quy trình kế toán cho vay thu nợ theo hạn mức tín dụng
2.1 Hạch toán giai đoạn cho vay.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ phải gửi đến ngân hàng các chứng từ, như hoá đơn thanh toán tiền hàng và lập các liên UNC và gửi đến Ngân hàng. Nhiệm vụ của kế toán là kiểm soát tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ do khách hàng gửi đến và đối chiếu với hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng chấp thuận cho vay, nếu đủ điều kiện, còn hạn mức tín dụng và thuộc đối tượng cho vay thì kế toán sẽ tiến hành cho vay.
Khi phát tiền vay kế toán sẽ hạch toán như sau:
Nợ : Tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng
Có : Tài khoản tiền mặt tại quỹ (nếu cho vay bằng tiền mặt)
Có : Tài khoản người thụ hưởng (nếu cho vay bằng chuyển khoản)
Có : Tài khoản thanh toán vốn giữa các Ngân hàng
(nếu cho vay trả cho người thụ hưởng ở ngân hàng khác )
Để tránh cho vay vượt quá hạn mức tín dụng, kế toán cho vay phải theo dõi dư nợ và mỗi lần ghi nợ tài khoản cho vay phải rút ngay số dư và đối chiếu với hạn mức tín dụng còn lại.
2.2 Hạch toán giai đoạn thu nợ, thu lãi.
Việc trả nợ của khách hàng dựa trên cơ sở vòng quay vốn tín dụng hoặc khách hàng trả nợ từng tháng theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Đơn vị vay vốn phải nộp tiền bán hàng cũng như các khoản thu nhập khác vào Ngân hàng và số tiền này sẽ được hạch toán vào bên có của tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng để trả nợ cho Ngân hàng. Nếu hết thời hạn khách hàng vay không trả nợ và không được gia hạn nợ thì kế toán cho vay sẽ lập phiếu chuyển khoản để chuyển số tiền vay sang tài khoản nợ quá hạn và phải chịu lãi suất phạt.
Thu nợ gốc :
Thu bằng tiền mặt:
Nợ : Tài khoản tiền mặt tại quỹ
Có : Tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng
Thu bằng chuyển khoản :
Nợ : Tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vay
Có : Tài khoản cho vay theo hạn mức.
Về nguyên tắc, Ngân hàng chỉ thu trong phạm vi số tiền Ngân hàng đã cho khách hàng vay, nên Ngân hàng chỉ thu nợ trong phạn vi dư nợ của tài khoản cho vay, sau khi thu hết nợ, nếu còn thừa thì kế toán sẽ chuyển số tiền này sang tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng và Ngân hàng cũng bắt đầu tính lãi cho khoản tiền này, thông thường Ngân hàng cho khách hàng hưởng theo lãi suất tiền gửi không kì hạn.
Tính và thu lãi.
Đối với khách hàng được vay theo phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng thì việc thu lãi được tiến hành hàng tháng theo phương pháp tích số.
Hạch toán được thưc hiện như sau:
- Nộp bằng tiền mặt:
Nợ : Tài khoản tiền mặt tại quỹ
Có : Tài khoản thu nhập của ngân hàng
- Nộp bằng chuyển khoản:
Nợ: Tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vay
(nếu thu bằng chuyển khoản)
Nợ: Tài khoản thanh toán giữa các ngân hàng (nếu thu bằng nhờ thu)
Có: Tài khoản thu nhập ngân hàng
Kế toán chuyển nợ quá hạn.
Đến kì hạn nợ khách hàng không trả được nợ và cũng không được xem xét để cho vay tiếp thì kế toán lập phiếu chuyển khoản số tiền khách hàng vay còn nợ sang tài khoản “ Nợ quá hạn”
Kế toán hạch toán như sau:
Nợ : Tài khoản nợ quá hạn
Có : Tài khoản cho vay theo hạn mức tín dụng
Số tiền khách hàng còn nợ kế toán sẽ tính lãi suất nợ quá hạn từ thời điểm chuyển sang nợ quá hạn.
VI. Phương pháp tính lãI và thu lãI cho vay.
1. Phương pháp thu lãi theo tích số .
Căn cứ vào số dư nợ tài khoản cho vay trong tháng cộng lại để tính lãi.
Cách tính cụ thể theo công thức sau:
Tổng tích số dư nợ cả tháng cho vay (x) lãi suất tháng
Lãi phải thu =
30 ngày
Việc tính lãi được ấn định vào ngày cụ thể trong tháng. Đặc điểm của việc thu lãi theo phương pháp này là độc lập với thu nợ và được áp dụng cho cả phương thức cho vay theo hạn mức và cho vay theo món.
2. Phương pháp tính lãi và thu lãi theo từng lần.
Căn cứ vào số tiền của từng lần vay và ngày vay cụ thể để tính và được tiến hành từng tháng (từng lần vay có đủ thời hạn một tháng trở lên), còn nếu vay không đủ tháng thì thu lãi và thu nợ cùng nhau, nếu thời gian dài có thể tính lãi theo tháng hoặc từng quý.
Việc tính lãi theo công thức:
Số tiền gốc (x) số ngày vay (x) lãi suất tháng
Lãi phải thu =
30 ngày
Căn cứ vào cách tính lãi trên kế toán tiến hành hạch toán vào tài khoản thu lãi cho vay của Ngân hàng.
VII. Quản lý hồ sơ cho vay
Người được giao quản lý hồ sơ cho vay phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật nếu để thất lạc hoặc sửa chữa nội dung của hồ sơ gốc
Hồ sơ lưu trữ không được cho mượn, chỉ được sao chép tại phòng lưu trữ khi có lệnh của giám đốc ngân hàng.
Bộ hồ sơ giao cho kế toán quản lý bao gồm:
+ Các tài liệu chứng minh tư cách pháp nhân của khác hàng vay vốn;
+ Hợp đồng tín dụng;
+ Hợp đồng bảo lãnh;
+ Hợp đồng thế chấp, cầm cố kèm thep các giấy tờ (bản gốc) và tài sản có xác nhận của công chứng Nhà nước hoặc UBND cấp huyện trở lên;
+ Giấy xin gia hạn nợ của khách hàng vay vốn;
+ Các thông báo nợ quá hạn, thông báo tạm ngừng giải ngân, thông báo tạm ngừng quan hệ tín dụng, thông báo giảm miễn lãi, biên bản kiểm tra rúi ro (nếu có), phiếu thẩm định dự án đầu tư.
Tất các giấy tờ trên lập thành hồ sơ, có danh mực theo dõi với từng khách hàng vay và được lưu giữ tại phòng kế toán tài vụ, được đảm bảo an toàn tuyệt đối, có phiếu xuất - nhập mỗi khi đưa vào lưu trữ hoặc lấy ra sử dụng.
Những hợp đồng tín dụng chưa trả hết nợ do kế toán viên cho vay chịu trách nhiệm quản lý bảo quản và thu hồi nợ. Cuối mỗi tháng, mỗi quý, kế toán cho vay phải sao kê hợp đồng tín dụng của từng khách hàng vay vốn.
Kế toán trưởng phải trực tiếp kiểm soát việc sao kê hợp đồng tín dụng, nếu phát hiện có chênh lệch giữa sao kê và sổ phụ phải tìm nguyên nhân để điều chỉnh cho khớp đúng.
Chương II:
thực trạng kế toán cho vay tạI ngân hàng đầu tư
và phát triển hà tây
I. Vài nét về chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây
1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng.
Năm 1954, ngay sau ngày hoà bình được lập lại trên một nửa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương xây dựng CNXH ở miền Bắc, làm hậu phương vững mạnh cho công cuộc thống nhất đất nước. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế nước ta là nền nông nghiệp nghèo làn lạc hậu, thậm chí cơ sở hạ tầng hầu như không có gì, thì đây là một thử thách vô cùng to lớn. Nhằm phục vụ tốt nhất cho công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và chi viện mạnh mẽ cho chiến trường miền Nam, ngày 26-4-1957 Thủ tướng Chính phủ có quyết định số 177/TTg thành lập Ngân hàng Kiến Thiết Việt Nam. Tỉnh Hà Tây thành lập Ngân hàng Kiến thiết tỉnh Hà Tây, nay là Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây. Trải qua hơn 40 năm hoạt động, xây dựng và trưởng thành, hệ thống Ngân hàng Kiến thiết đã có nhiều lần chuyển đổi với các tên gọi khác nhau:
+ Ngân hàng kiến thiết trực thuộc Bộ tài chính từ 26-4-1957
+ Ngân hàng Đầu tư và xây dựng thuộc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam từ 24-6-1981;
+ Ngân hàng ĐT&PT thuộc Ngân hàng Nhà nước từ 14-11-1990;
Gắn liền với những gia đoạn lịch sử của đất nước, Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam đã lập nhiều thành tích góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Hiện nay Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước loại đặc biệt, giữ vài trò chủ đạo về lĩnh vực đầu tư phát triển, là Ngân hàng chuyên ngành về lĩnh vực đầu tư và phát triển được thành lập sớm nhất tại Việt Nam. Ngân hàng ĐT&PT được thành lập phù hợp với mô hình Tổng công ty Nhà nước quy định tại quyết định số 90/TTg ngày7-3-1994 của Thủ tướng Chính Phủ.
Là một thành viên thuộc Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam, Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây thực hiện chức năng nhiệm vụ của Ngân hàng ĐT&PT nói chung trên địa phận tỉnh Hà Tây. Từ năm 1990 đến nay, tuy gặp nhiều khó khăn, thử thách, Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây đã bám sát định hướng phát triển kinh tế- xã hội của địa phương, của ngành, nên đã liên tiếp hoàn thành vượt mức các mục tiêu nhiệm vụ được giao hàng năm tốc độ tăng trưởng bình quân huy động đạt 64%, tín dụng 73%, chất lượng tín dụng đã dược đặc biệt quan tâm, tỷ lệ nợ quá hạn bình quân < 1%, đã góp phần vào việc khai thác các tiềm năng thế mạnh của địa phương, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả và sức mua của đồng tiền, góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân địa phương nói chung, của Ngân hàng nói riêng, tăng thêm niềm tin vào nhà nước vào sự nghiệp đổi mới của Đảng.
Thời kỳ 1991-2000, từ con số không về nguồn vốn tự huy động năm 1991, sau 10 năm, đến nay chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây đạt 380 tỷ đồng, trong đó tiền gửi của các tổ chức kinh tế (TCKT) là 106 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 27% so với tổng nguồn vốn huy động. Đặc biệt, trong năm 2000 lần đầu tiên chỉ tiêu tiền gửi của các TCKT vượt ngưỡng 100tỷ đồng, tiền gửi dân cư 280 tỷ (chiến tỷ trọng 73%). Năm 2000 chi nhánh đã hoàn toàn tự lo vốn ngoại tệ (USD) để cho vay trung, dài hạn và còn tạo nguồn vốn ngoại tệ cho TW, đảm bảo 80% nguồn vốn VND để phục vụ cho vay đầu tư phát triển. Về cấp phát cho vay, 1991-1994 cấp phát đầu tư XDCB 128 tỷ. Từ 1991-2000 cho vay các loại 390 tỷ, so với năm 1990 tăng 95 lần, trong đó cho vay ngắn hạn 230 tỷ chiến tỷ trọng 59% so với tổng dư nợ, cho vay trung dài hạn 73 tỷ chiếm tỷ trọng 19%, cho vay tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước và tài trợ uỷ thác 87 tỷ chiếm 22% tổng dư nợ . Ngân hàng đã không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng, không để phát sinh nợ quá hạn (nợ quá hạn năm 2000 chỉ chiếm 0,14%).
Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29-6-1999 đã đánh dấu bước ngoặt đột phá để đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư phát triển. Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây mở rộng phạm vi hoạt động rộng lớn trong tín dụng đầu tư theo hướng chuyển mạnh sang tín dụng theo yêu cầu của cơ chế thị trường đầy khó khăn thử thách đối với hoạt động của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam nói chung và của chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây nói riêng, với bản lĩnh vững vàng và tự tin càng khó khăn, càng thể hiện ý chí chiến đấu. Chi nhánh đã đầu tư hàng trăm dự án lớn nhỏ với số vốn luỹ kế dư nợ lên tới nhiều trăm tỷ đồng, góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế Hà Tây và cả nước, ổn định và tạo việc làm mới cho hàng vạn lao động, góp phần vào công tác giữ gìn an ninh trật tự của tỉnh Hà Tây.
Để có được những thành tích đó Ngân hàng đã không ngừng đổi mới toàn diện, sáng tạo: đổi mới về công nghệ ngân hàng, đổi mới về nhận thức và hành động thích ứng với cơ chế tín dụng đầu tư mới theo hướng tự tìm khách hàng, phát huy nội lực từ chính nguồn mình đang có. Ngân hàng xây dựng chi nhánh vững mạnh, đoàn kết thống nhất ý chí hành động, trên dưới một lòng, đã xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh thực sự là lòng cốt trong mọi hoạt động. Đã đảm bảo đời sống vật chất tinh thần cho người lao động, làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng và duy trì thường xuyên các hoạt động đoàn thể như công đoàn, thanh niên phụ nữ để tăng thêm niềm tự hào, động viên sáng tạo say mê làm việc, học tập.
2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây
Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây gồm một chi nhánh trực thuộc và 6 phòng nghiệp vụ, một phòng giao dịch với 5 bàn tiết kiệm ở thị xã Hà Đông và Sơn Tây, tổng số công nhân viên có 76 người.
(xem sơ đồ cơ cấu tổ chức trang sau):
Sơ đồ cơ cấu tổ chức :
Ban giám đốc
Chi nhánh Sơn Tây
Phòng tín dụng
I
Phòng tín dụng
II
Phòng hành chính
Phòng kế
toán
Phòng nguồn vốn
Phòng kiểm soát
Phòng giao dịch
Tất cả các phòng ban đều sự quản lý trực tiếp của Giám đốc. Như vậy tất cả các thông tin, các hoạt động của các phòng ban đều được phản ánh một cách kịp thời, trực tiếp. Điều này sẽ tránh được tình trạng đưa thông tin sai lệch, chậm trễ và giúp cho lãnh đạo có những chính sách, phương hướng kịp thời từ đó giúp cho ngân hàng có được môi trường làm việc thuận tiện, việc phân cấp, phân quyền không bị chồng chéo, không bị nhầm lẫn trong việc phân chia trách nhiệm và quyền hạn của từng người.
Một cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ giúp cho hoạt động của ngân hàng làm việc có hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho các thành viên trong ngân hàng làm tốt công việc được giao và có điều kiện phát huy những sáng kiến của mình trong công việc, tạo sự hiệu quả trong công việc.
3. Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng ĐT&PT Hà Tây
3.1 Công tác huy động vốn.
Để tiến hành hoạt động kinh doanh thì cần phải có vốn, vốn là sơ sở để Ngân hàng thực hiện hoạt động kinh doanh, vốn quyết định qui mô hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Nhận thức được vấn đề này, Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây đã tổ chức tốt việc huy động vốn bằng nhiều hình thức huy động vốn khác nhau để có thể thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, dân cư trên địa bàn.
Bên cạnh việc đa dạng hoá về hình thức huy động vốn, Ngân hàng kết hợp với việc đẩy mạnh hiện đại hoá các phương tiện phục vụ, đổi mới tác phong giao dịch, mở rộng mạng lưới và sử dụng nhiều chích sách lãi suất hợp lý, xây dựng hệ thống giao dịch thuận tiện, thoả mãn kịp thời nhu cầu về vốn của khách hàng. Ngân hàng không ngừng khơi tăng nguồn vốn của mình để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Ngân hàng luôn phấn đấu tự cân đối nguồn vốn để đảm bảo tốt nguồn vốn phục vụ hoạt động kinh doanh trên địa bàn bằng cách huy động với nhiều thời hạn khác nhau, hiện nay Ngân hàng đang phát hành kỳ phiếu với nhiều thời hạn khác nhau như 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, 24 tháng. Vì vậy, nguồn vốn của Ngân hàng luôn tăng trưởng qua các năm cả về số dư và số bình quân.
Bảng 1: Tình hình nguồn vốn của Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây
Đơn vị:triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
1- Nguồn vốn huy động
118.623
223.670
382.092
2- Nguồn vốn TƯ hỗ trợ
17.083
116.111
148.502
Tổng nguồn vốn
235.706
339.781
530.594
Nguồn số liệu lấy từ bảng báo cáo năm của Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây.
Nguồn vốn của Ngân hàng tăng rất nhanh qua các năm, từ 235.760 triệu (năm1998) lên 339.781 triệu đồng (năm 1999) và 530.594 triệu (năm 2000).
Bảng 2: Tình hình huy động vốn
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năn 1999
Năm 2000
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
1- Tiền gửi của các TCKT
27.495
23,18
58.321
26,07
106.437
27,86
2- Tiền gửi dân cư
91.128
76,82
165.349
73,93
275.655
72,14
Tổng
118.623
223.670
382.092
(Nguồn số liệu lấy từ báo cáo năm của Ngân hàng)
Căn cứ vào bảng 2 ta thấy, nguồn vốn tự huy động tăng đều qua các năm, từ 118.623 triệu đồng (năm1998) lên 223.670 triệu đồng (năm 1999) và 382.092 triệu đồng (năm 2000). Trong đó:
- Tiền gửi của các tổ chức kinh tế từ 27.495 triệu đồng (năm 1998) chiếm 23,18% tổng nguồn vốn tự huy động lên 58,321 triệu đồng chiếm 26,07% và 106.437 triệu đồng (năm 2000) chiếm 27,86% tổng nguồn vốn tự huy động .
- Tiền gửi của dân cư từ 91.128 triệu đồng (năm1998), chiếm 76,82% lên 165.349 chiếm 73,93% (năm1999) và 275,655 triệu đồng (năm 2000), chiếm 72,14% tổng nguồn vốn huy động
Xét về số tuyệt đối thì tiền gửi của tổ chức kinh tế và tiền gửi của dân cư đều tăng nhưng xét về số tương đối (hay tỷ trọng) thì tiền gửi của dân cư có xu hướng giảm còn tiền gửi của tổ chức kinh tế có xu hướng tăng, điều này chứng tỏ việc mở tài khoản giao dịch cho khách hàng ngày càng tiện lợi, thủ tục mở tài khoản gọn nhẹ nên đã tạo sự thoải mái cho khách hàng khi đến xin mở tài khoản tại Ngân hàng. Tiền gửi này càng tăng thì chi phí trả lãi càng giảm từ đó làm tăng lợi nhuận cho Ngân hàng. Tuy nhiên nguồn vốn này có tính chất không ổn định vì đây là tiền gửi của các doanh nghiệp, họ gửi vào Ngân hàng khi vốn của họ tạm thời giải phóng ra khỏi quá trình sản xuất, khi họ có nhu cầu sử dụng đến thì Ngân hàng phải hoàn trả họ ngay để họ có thể tiến hành sản xuất kinh doanh.
Việc sử dụng công cụ lãi suất hợp lý và thực hiện các dịch vụ thanh toán linh hoạt đã lôi cuốn ngày nhiều khách hàng đến xin mở tài khoản từ đó làn tăng lượng tiền gửi này lên, tiền gửi này tăng lên một mặt tạo đầu tư tín dụng mặt khác tăng cường công tác thanh toán không dùng tiền mặt, đồng thời thông qua việc phục vụ khách hàng trong hoạt động thanh toán còn tạo cho ngân hàng có thêm nguồn thu mới (phí dịch vụ). Hiện nay, nguồn thu này thường chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng nguồn thu nhập của các NHTM nói chung và chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây nói riêng.
Tiền gửi của dân cư không ngừng tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn huy động tại chỗ, điều này thể hiện Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây đã thực hiện tốt việc đa dạng hoá các hình thức huy động khác nhau và với chính sách lãi suất mềm dẻo nên đã thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến gửi tiền tại Ngân hàng, cụ thể năm vừa qua Ngân hàng đã 14 lần thay đổi lãi suất tiền gửi.
Để có thể biết rõ hơn về tình hình huy động vốn của Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây trong 3 năm qua ta có thể căn cứ vào biểu đồ sau: (xem trang bên)
Biểu đồ: Tình hình huy động vốn
Căn cứ vào biểu đồ ta có thể thấy rất rõ ràng tiền gửi của dân cư lớn hơn so với tiền gửi của các tổ chức kinh tế . Tuy nhiên, khoảng cách giữa tiền gửi của dân cư với tiền gửi của tổ chức kinh tế ngày càng được thu ngắn dần qua các năn. Cụ thể, năm 1998 tiền gửi của dân cư gấp 3,3 lần tiền gửi của tổ chức kinh tế; năm 1999 gấp 2,8 lần; năm 2000 gấp 2,5 lần.
Nguồn vốn huy động tăng đều qua các năm tạo điều kiện cho ngân hàng có khả năng đầu tư cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, điều đó cũng có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận của bản thân Ngân hàng nếu nguồn vốn này không được sử dụng hiệu quả, vì ngân hàng phải trả lãi cho loại vốn này, vì nếu huy động về mà không cho vay ra được hoặc cho vay ra nhưng không thu hồi được lại thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả kinh doanh của Ngân hàng. Do đó, Ngân hàng phải có các biện pháp sử dụng vốn sao cho hợp lý và không ngừng nâng cao chất tín dụng trên cơ sở đó tăng hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
3.2. Công tác sử dụng vốn
Ngân hàng cho khách hàng vay vốn chủ yếu là vốn huy động và phải hoàn trả cho khách hàng gửi tiền khi hết thời hạn. Vì thế, Ngân hàng phải cân nhắc kĩ trước khi phát tiền vay cho khách hàng để đảm bảo an toàn tài sản của chính bản thân Ngân hàng và cả tài sản của khách hàng được bảo quản tại Ngân hàng. Những năm qua, Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây đã tập trung vốn đầu tư cho các đơn vị kinh tế trọng điểm, như đầu tư phát triển kinh tế quốc doanh, tạo điều kiện giúp đỡ kinh tế quốc doanh giúp nó giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, đồng thời tiếp tục đầu tư cho bộ phận kinh tế ngoài quốc doanh và tìm kiếm những khách hàng kinh doanh có hiệu quả để đầu tư, tạo môi trường cạnh tranh sôi động cho nền kinh tế.
Trong thời gian qua chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây đã đóng góp đáng kể vào việc phát triển các ngành XDCB, giao thông vận tải, bưu điện, điện lực... trên địa bàn toàn tỉnh cũng như các địa bàn lân cận. Để hiểu rõ hơn về tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng ta có thể xem xét bảng số liệu sau:
Bảng 3: Tình hình dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế
Đơn vị : triệu đồng
Dư nợ
cho vay
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Đối với KTQD
185.744
89,86
252.242
86,4
555.499
88,96
Đối với KTNQD
20.950
10,14
39.704
13,6
68.909
11,04
Tổng
206.694
100
291.946
100
624.408
100
Trước sự chuyển hướng tích cực của nền kinh tế tỉnh, Ban lãnh đạo Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây đã không ngừng đưa ra các chiến lược kinh doanh táo bạo, các biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng. Kết quả là thời gian qua tình hình đầu tư tín dụng của ngân hàng đã có những chuyển biến đáng kể. Tổng dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế đều tăng lên qua các năm.
Căn cứ vào bảng 3 ta thấy, cho vay đối với thành phần kinh tế quốc doanh (KTQD) chiến tỷ trọng tương đối lớn (89,98% năm1998; 86,4% năm 1999; 88,96% năm 2000) lớn gấp nhiều lần so với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh (KTNQD) (10,14% năm1998; 13,6% năm1999 và 11,04 % năm 2000). Chính sự chênh lệch này đã cho ta thấy tiềm năng của KTQD.
Mặc dù cho vay KTQD vào năm 1999 giảm từ 89,93% xuống 86,4% nhưng lại bắt đầu tăng vào năm 2000 lên 88,96%. Còn cho vay KTNQD bắt đầu tăng vào năm1999 thì lại giảm ngay vào năm 2000 từ 13,6% xuống 11,04%.
Căn cứ vào biểu đồ sau ta sẽ thấy rõ hơn việc cho vay cho vay KTQD lớn hơn nhiều lần so với KTNQD.
Biểu đồ : Tình hình dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế
Năm 1998, cho vay KTQD gấp 8,7 lần cho vay KTNQD. Năm 1999, cho vay KTQD gấp 8, 6 lần cho vay KTNQD. Năm 2000 cho vay KTQD gấp hơn 6 lần cho vay KTNQD. Năm 2000 cho vay KTQD gấp 8 lần cho vay KTNQD.
Như vậy, tuy cho vậy KTNQD có xu hướng tăng từ năm 1998 -1999, nhưng đến năm 2000 lại giảm.
Bảng 4: Tình hình cho vay của
chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây
( theo thời hạn).
Đơn vị : triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
DS
TT(%)
DS
TT(%)
DS
TT(%)
1- Cho vay ngắn hạn
195.576
94,6
281.262
96,34
548.834
88,89
2-Cho vay trung dài hạn
11.118
5,4
10.684
3,66
75.574
2,11
Tổng
206.694
100
291.946
100
624.408
100
(Nguồn số liệu lấy từ báo cáo năm của Ngân hàng)
Ghi chú: DS: Doanh số
TT : Tỷ trọng
Căn cứ vào bảng 4 ta thấy: So với năm 1998, năm1999 tăng 86.646 triệu đồng; so với năm1999 năm 2000 tăng được 267.572 triệu đồng. Xét về tỷ trọng có chiều hướng giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay (chiếm 94,6 % năm1998; năm 2000 chiếm 96,34% và 2000 chiếm 88,89% ), điều này phản ánh dấu hiệu khả quan của Ngân hàng.
Dư nợ trung dài hạn tuy có tăng mạnh nhưng chiếm tỷ trọng thấp trong dư nợ cho vay (năm 19998 là 5.4%, năm 1999 chiếm 3,66% và năm 2000 chiếm 12,11%) điều này chứng tỏ khả năng đáp ứng vốn và nhu cầu về vốn trung dài hạn còn nhỏ. Trong cho vay trung dài hạn chủ yếu tập trung đầu tư vào các công trình xây dựng cơ bản trên địa bàn và phát triển các ngành công nghiệp mới thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại .
Căn cứ vào biểu đồ sau ta thấy rõ hơn việc cho vay ngắn hạn lớn gấp nhiều lần so với cho vay trung dài hạn đặc biệt là trong hai năm 1998 và 1999 cụ thể ; năm 1998 cho vay ngắn hạn gấp 17,6 lần cho vay trung dài, năm 1999 cho vay ngắn hạn gấp 26 lần cho vay trung dài hạn.
Biểu đồ: Tình hình cho vay theo thời hạn.
Tuy nhiên đến năn 2000 cho vay ngắn hạn đã giảm xuống chỉ gấp cho vay trung dài hạn 7,2 lần, điều này chứng tỏ ngân hàng đã có nhiều dự án có hiệu quả để đầu tư do đó cho vay trung dài hạn đã tăng lên .
Bên cạnh việc mở rộng cho vay,chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây đã rất chú trọng tới việc củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng. Kết quả cho thấy là tình hình tỷ nợ quá hạn qua các năm có xu hướng giảm.
Bảng 5: Tình hình tỷ lệ nợ quá hạn phân theo
loại hình tín dụng
Chỉ tiêu
Năm1998
Năm1999
Năm 2000
Tín dụng ngắn hạn
0,67(%)
0,74(%)
0,14 (%)
Tín dụng trung dài hạn
0,38(%)
0,20(%)
0,20 (%)
Theo đánh giá của ngân hàng các khoản nợ của Ngân hàng đều có khả năng thu hồi.Kể từ năm1998 trở lại đây, tỷ lệ quá hạn tín dụng ngắn hạn có xu hướng giảm chứng tỏ song song với những lỗ lực mở rộng tín dụng thì chất lượng các món cho vay ngắn hạn có xu hướng tốt. Có được kết quả này là do Ngân hàng ĐT&PT Hà tây đã có những giải pháp đồng bộ kịp thời thì tỷ lệ nợ quá hạn được đánh giá là thấp trong mấy năm gần đây sẽ duy trì được và chủ trương mở rộng tín dụng là có hiệu quả.
3.3 Công tác kế toán và thanh toán
Hạch toán ghi chép đầy đủ kịp thời chính xác các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong hoạt động kinh doan Ngân hàng. Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2000 cho thấy:
Đơn vị:Triệu đồng
Chỉ tiêu
1 - Thu nhập từ lãI
29.323
2 - Thu nhập không phải từ lãI
1.198
3 - Chi phí trả lãI
22.347
4 - Chi phí không phải trả lãi
3.757
5 - Chi phí trả lương
1.037
6 - Trả phí dịch vụ và ngân quỹ
62
7 - Chi phí hoạt động
1.470
8 - Lợi nhuận trước thuế
4.419
9 - Lợi nhuận sau thuế
3.005
Công tác kế toán thanh toán:
Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây thực hiện tốt chế độ đảm bảo an toàn, thuận tiện, nhanh chóng chính xác các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Nếu như trước đây số món chuyển tiền từ 2 đến 3 ngày thì ngày nay chỉ trong 1 đến 2 tiếng. Nghiệp vụ thanh toán bù trừ ngày càng phát triển và có hiệu quả. Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây là thanh viên tham gia vào trung tâm thanh toán bù trừ Hà Tây, vì vậy việc thanh toán liên hàng ngày càng nhanh gọn, số liệu chính xác.
Đơn vị : triệu đồng
Phương thức thanh toán
Năm 1999
Năm2000
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
Thanh toán nội bộ
1451
451.423
3312
499.502
Thanh toán bù trừ
1620
180.394
3252
305.495
Thanh toán tàI khoản tiền gửi tại NHNN
268
180.775
480
206.005
Căn cứ vào bảng số liệu ta thấy, số món và doanh số thanh toán qua các hình thức thanh toán qua hai năm trở lại đây đều tăng lên. Điều này chứng tỏ công tác thanh toán của chi nhánh thực hiện tốt, nhanh chóng an toàn nên đã thu hút được nhiều khách hàng sử dụng các dịch vụ thanh toán do ngân hàng cung ứng. Cùng với công tác thanh toán, tình hình thu chi tiền mặt tại chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Tây luôn đảm bảo chi trả kịp thời khi khách hàng có nhu cầu và không có tình trạng khan hiếm tiền mặt.
Cùng với sự phát triển hiện đại ho._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29438.doc