Tài liệu Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may sang Thị trường Hàn Quốc của Công ty Cổ Phần May Bắc Giang: ... Ebook Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may sang Thị trường Hàn Quốc của Công ty Cổ Phần May Bắc Giang
102 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1447 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may sang Thị trường Hàn Quốc của Công ty Cổ Phần May Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do lựa chọn đề tài
Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, môi trường kinh doanh quốc tế được mở rộng tạo cho chúng ta nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những khó khăn, thách thức cho quá trình phát triển. Dưới tác động của hội nhập thương mại quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu sản phẩm dệt may của chúng ta không ngừng phát triển và đóng góp một phần không nhỏ vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Với lợi thế về xuất khẩu sản phẩm dệt may, vấn đề thâm nhập và phát triển các thị trường mới có dung lượng thị trường lớn đang đặt ra cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam những khó khăn và thách thức. Hàng dệt may Việt Nam đã có mặt và dần củng cố vị trí của mình tại các thị trường lớn như: Mỹ, EU, Nhật Bản… Tuy nhiên hàng dệt may Việt Nam đang gặp những khó khăn không nhỏ trong việc đẩy mạnh lượng hàng xuất khẩu và để tìm được lối ra cho bài toán thị trường tiêu thụ.
Tiềm năng hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc rất to lớn, cùng với việc ký kết hiệp định song phương, quan hệ thương mại Việt Nam- Hàn Quốc đã bước sang trang mới. Vì vậy việc xem xét khả năng thâm nhập và đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Hàn Quốc đã trở lên rất cần thiết.
Công ty Cổ Phần May Bắc Giang là một trong những doanh nghiệp uy tín trong xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường Hàn Quốc, trong bước chuyển mình, từng bước mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm dệt may, công ty xác định Hàn Quốc là thị trường mục tiêu và có rất nhiều tiềm năng cho phát triển. Trong quá trình thực tập tại công ty, em thấy cần thiết phải có những biện pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sản phẩm dệt may của công ty sang thị trường Hàn Quốc nhất là trong bối cảnh hiện nay.
Xuất phát từ ý tưởng đó, cùng với những kiến thức được trang bị ở nhà trường và những thông tin thực tế thu nhập được trong thời gian thực tập, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường Hàn Quốc của công ty Cổ Phần May Bắc Giang” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào hoạt động xuất khẩu của một doanh nghiệp bao gồm nhiều khâu từ khâu điều tra thị trường nước ngoài, quảng bá sản phẩm, tìm và lựa chọn đối tác xuất khẩu, đàm phán, ký kết, thực hiện hợp đồng, đánh giá hoạt động xuất khẩu… và các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp…
3. Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của đề tài được chia làm ba phần như sau:
Chương I: Các vấn đề chung về xuất khẩu sản phẩm dệt may
Chương II: Thực trạng xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường Hàn Quốc của công ty Cổ Phần May Bắc Giang
Chương III: Các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường Hàn Quốc của công ty Cổ Phần May Bắc Giang.
4. Phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường Hàn Quốc của công ty Cổ Phần May Bắc Giang
Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Trong đề tài này em sử dụng phương pháp thống kê số liệu để phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu sản phẩm dệt may của công ty trong thời gian qua, kết hợp với biện pháp tổng hợp dữ liệu, phân tích thị trường và dự báo từ đó đưa ra những biện pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hàn Quốc của công ty Cổ Phần May Bắc Giang
Trong khả năng có thể em đã rất cố gắng để hoàn thiệu đề tài này, tuy nhiên do hạn chế về mặt thời gian cũng như nguồn tài liệu lên chắc chắn bài viết này sẽ còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được lời nhận xét, đánh giá của các thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I. CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU SẢN PHẨM DỆT MAY
I. CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XUẤT
1. CÁC KHÁI NIÖM VÒ XUÊT KHÈU
xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh thu lợi bằng cách bán sản phẩm hoặc dịch vụ ra thị trường nước ngoài nhằm thu ngoại tệ.
Thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu nói riêng là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua buôn bán nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Trao đổi hàng hóa phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các nước tham gia và phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.
Xuất khẩu đã được thừa nhận là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước và cho nhu cầu nhập khẩu phục vụ cho sự phát triển kinh tế là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại. Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết việc làm và tăng thu ngoai tệ cho đất nước.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dung đến xuất khẩu tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị cho đến các máy móc công nghệ kĩ thuật cao, từ hàng hoá hữu hình đến hàng hoá vô hình. Tất cả đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia.
Hàng hoá xuất khẩu được hiểu gắn với khái niệm thương mại hàng hoá theo quy ước của Liên Hợp Quốc và WTO là những sản phẩm hàng hoá hữu hình được sản xuất hay gia công tại các cơ sở sản xuẩt, gia công và các khu chế xuât với mục đích để tiêu thụ tại thị trường nước ngoài đi qua Hải Quan. Hàng hoá tạm nhập tái xuất cũng được coi là hàng hoá xuất khẩu. Hàng hoá xuất khẩu là hàng hóa khác biệt so với hàng hoá tiêu dùng trong nước. Những hàng hóa xuất khẩu phải đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng tại nước nhập khẩu. Chất lượng phải đáp ứng được các thông số về tiêu dùng, kĩ thuật và môi trường, đặc biệt tính cạnh tranh cao ở nước người nhập khẩu.
Thị trường xuất khẩu hàng hoá là tập hợp người mua và người bán có quyết định khác nhau trao đổi với nhau để xác định giá cả, sản lượng hàng hoá mua bán, chất lượng hàng hoá và các điều kiện mua bán khác theo hợp đồng, thanh toán chủ yếu bằng ngoại tệ mạnh và phải làm thủ tục Hải Quan qua biên giới. Thị trường xuất khẩu hàng hoá bao hàm cả thị trường xuất khẩu trực tiếp( nước tiêu dùng cuối cùng) và thị trường xuất khẩu hàng hoá gián tiếp( xuất khẩu qua trung gian). Thị trường xuất khẩu hàng hoá không chỉ giới hạn ở những thị trường nước ngoài, thị trường trong nước trong nhiều trường hợp là xuất khẩu tại chỗ( nhất là đối với các ngành xuất khẩu dịch vụ như: Du lịch, tài chính ngân hàng. bảo hiểm...) đối với hàng hoá xuất khẩu từ các khu chế xuất của Việt Nam vào chính thị trường Việt Nam khi đó thị trường nội địa có thể coi là thị trường xuất khẩu hàng hoá đối với hàng hoá của các khu chế xuất.
Phát triển thị trường xuất khẩu là mở rộng các thị trường cho xuất khẩu hàng hoá của một nước bao gồm cả phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu.
Phát triển theo chiều rộng là phát triển về số lượng khách hàng có cùng loại nhu cầu để bán nhiều hơn một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó. Đồng thời còn bao gồm cả việc phát triển về mặt không gian và phạm vi địa lý. Đó là việc đòi hỏi không ngừng nghiên cứu xu thế biến động của thế giới, các thị trường nước ngoài để tiến hành thâm nhập vào các thị trường đó.
Phát triển theo chiều sâu là phát triển thị trường về chất bao gồm như: Nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, đưa ra thị trường những loại sản phẩm, dịch vụ có chất xám cao. Phát triển theo chiều sâu có thể thực hiện theo cách cắt lớp phân đoạn thị trường để thoả mãn nhu cầu muôn hình muôn vẻ của khách hàng.
2. Nội dung cơ bản của hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu nó không chỉ là một hành vi buôn bán đơn lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức bên trong và bên ngoài nhằm mục đích lợi nhuận, thúc đẩy hàng hoá sản xuất phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và nâng cao mức sống của nhân dân. Mặt khác hoạt động này dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng cũng có thể lại gây ra thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế đựơc. Vì vậy tất cả các doanh nghiệp dù đã có kinh nghiệm hay bắt đầu tham gia vào kinh doanh đều phải tuân thủ một cách nghiêm túc các công đoạn của nó, Hoạt động xuất khẩu được thực hiện với nhỉều khâu từ: nghiên cứu tiếp cận thị trường, lập phương án kinh doanh. quảng cáo đàm phán và kí hợp đồng xuất khẩu, thực hiện hợp đồng xuất khẩu đến giải quyết khiếu nại nếu có. Tất cả đều phải được nghiên cứu k ỹ lưỡng và phải đặt trong mối liên hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao.
2.1.Nghiên cứu tiếp cận thị trường
Đây là bước quan trọng, quyết định đến sự thành bại của một doanh nghiệp tại một thị trường nhất định. Ngiên cứu tiếp cận thị trường giúp các nhà kinh doanh có đầy đủ các thông tin cần thiết từ đó mới có thể đưa ra được các quyết định chính xác, kịp thời. Hoạt động nghiên cứu thị trường xuất khẩu về cơ bản bao gồm những nội dung sau:
2.1.1 Nghiên cứu nhu cầu về sản phẩm hàng hoá mà doanh nghiệp có thể cung ứng
Việc nghiên cứu nhằm giải đáp các vấn đề về: Nhu cầu của thị trường, thị hiếu tiêu dùng, khả năng và các nguồn cung cấp chủ yếu của các đối thủ cạnh tranh. Từ đó xác định được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình trên thị trường. Chúng ta cần phải làm rõ tình hình tiêu thụ của thị trường, của các loại hàng hoá khác nhau này và đặc biệt là nghiên cứu các đặc điểm của các loại hàng hoá bán chạy trên thị trường nhằm chủ động thích ứng với nhu cầu thị trường, mở rộng xuất khẩu. Một yếu tố quan trọng nữa cần phải xem xét là tìm hiểu giá trị thương phẩm của hàng hoá, chu kì sống của sản phẩm( là tiến trình phát triển của việc tiêu thụ một mặt hàng bao gồm bốn giai đoạn: Thâm nhập - Phát triển - Bão hoà - Thoái trào). Việc xuất khẩu những mặt hàng đang ở hai giai đoạn đầu gặp nhiều thuận lợi nhất còn ở hai giai đoạn sau gặp nhiều khó khăn hơn. Tuy nhiên khi có mặt hàng đang ở giai đoạn Thoái trào ta vẫn có thể đẩy mạnh được xuất khẩu nhờ các biện pháp xúc tiến tiêu thụ, cải tiến hệ thống tiêu thụ, giảm giá...
2.1.2. Nghiên cứu dung lượng thị trường
Nghiên cứu dung lượng thị trường là việc nghiên cứu về khối lượng hàng hoá mà thị trường có thể tiêu thụ hoặc giao dịch để có thể nhập khẩu trong một thời gian nhất định. Nghiên cứu dung lượng thị trường cần xác định nhu cầu thị trường, khả năng sản xuất tại chỗ, triển vọng thay đổi dung lượng, khả năng và các nguồn cung cấp chủ yếu của các đối thủ cạnh tranh. Trên cơ sở phân tích, người ta làm thành bảng cân đối nhu cầu về từng mặt hàng. Bảng đó có các số liệu về sản xuát, nhập khẩu, xuất khẩu, dự trữ, diễn biến nhu cầu của khả năng cung cấp. Từ đó rút ra nhu cầu xuất khẩu của công ty vào thị trường đó
Các nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có thể chia thành ba nhóm căn bản dựa vào thời gian ảnh hưởng của nó tới thị trường
Nhóm I: Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường có tính chu kì như: sự vận động của tình hình kinh tế các nước trên thế giới, nhất là các nước có nhu cầu nhập khẩu hàng hoá mà doanh nghiệp có khả năng đáp ứng, tính thời vụ trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Nhóm II: Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi của dung lượng thị trường như: Tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ, các biện pháp, chế độ chính sách của nhà nước, thị hiếu tập quán của người tiêu dùng.
Nhóm III: Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến thị trường như hiện tượng đầu cơ trên thị trường, bão lũ, hạn hán...
Việc nắm được dung lượng thị trường giúp cho nhà kinh doanh cân nhắc để ra quyết định kịp thời, chính xác, nhanh chóng chớp được thời cơ giao dịch nhằm đạt hiệu quả cao.
2.1.3. Nghiên cứu các hình thức và biện pháp tiêu thụ hàng hoá
Nghiên cứu để biết điều kiện về chính trị, thương mại của nước đó, các mối quan hệ và các điều kiện hiệp định thương mại của chính phủ nước khác, hệ thống pháp luật và các biện pháp điều hoà xuất khẩu, biểu thuế quan hàng hoá xuất khẩu, việc tham gia của nước đó vào các khối chính trị, các tổ chức kinh tế thế giới, luật ngoại hối, các chế độ tín dụng và các biện pháp cơ chế xuất nhập khẩu.
2.1.4. Nghiên cứu giá cả hàng hoá và mạng lưới kênh phân phối trên thị trường
Trong buôn bán quốc tế giá cả hàng hoá là một vấn đề phức tạp do buôn bán diễn ra ở các khu vực khác nhau với thời gian dài và vận chuyển qua nhiều nước với các thủ tục và chính sách thuế khác nhau. Để thích ứng với các biến động của thị trường, các nhà kinh doanh phải thực hiện việc định giá linh hoạt phù hợp với khả năng và mục đích của doanh nghiệp. Thông thường việc định giá dựa trên ba căn cứ sau: Gía thành cộng chi phí khác, sức mua của người tiêu dùng và nhu cầu của họ, giá cả của đối thủ cạnh tranh. Nghiên cứu giá cả là một khâu rất quan trọng trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá, là chiến lược ưu tiên hàng đầu vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nghiên cứu mạng lưới kênh phân phối của thị trường là nghiên cứu để lựa chọn hệ thống kênh phân phối phù hợp với loại hàng hoá của doanh nghiệp nhằm vào đối tượng khách hàng nhất định.
2.1.5. Nghiên cứu lựa chọn đối tác kinh doanh
Kết quả xuất khẩu phụ thuộc vào thương nhân cụ thể mà doanh nghiệp lựa chọn vì vậy cần phải làm rõ: Thái độ chính trị của đối tác, Triết lý kinh doanh, Khả năng vốn và cơ sở vật chất, tiềm lực tài chính, uy tín, mối quan hệ của họ trên thương trường, những người chịu trách nhiệm thay mặt để kinh doanh và phạm vi của họ đối với nghĩa vụ công ty.
Như vậy việc nghiên cứu tiếp cận thị trường giúp cho doanh nghiệp xuât khẩu thu thập được những thông tin cần thiết về thị trường từ đó doanh nghiệp có thể chủ động nắm bắt thời cơ, lựa chọn được phương thức thanh toán và những điều kiện giao dịch thích hợp.
2.2. Lập phương án kinh doanh
Trên cơ sở kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường, doanh nghiệp kinh doanh quốc tế bắt đầu lập phương án kinh doanh, bao gồm các bước sau:
Đánh giá tình hình thị trường: Trong bước này người lập phương án rút ra những nét tổng quát về tình hình thị trường, phân tích những khó khăn và thuận lợi trong kinh doanh xuất khẩu.
Chọn mặt hàng, thời cơ và phong thức xuất khẩu: Sự lựa chọn này chỉ có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan.
Đề ra mục tiêu: Những mục tiêu đề ra trong một phương án kinh doanh xuất khẩu bao giờ cũng là mục tiêu cụ thể như: Doanh số bán hàng, giá bán, phát triển thị trường ở những thị trường nào, tăng thị phần...
Đề ra biện pháp thực hiện: Những biện pháp thực hiện này là công cụ để đạt tới mục tiêu đề ra. Những biện pháp có thể là: Đầu tư sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến bao bì, đẩy mạnh quảng cáo, lập chi nhánh ở nước ngoài, mở rộng mạng lưới đại lý.
Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc xuất khẩu: Các chỉ tiêu đánh giá chủ yếu là: Tỷ suất ngoại tệ, chỉ tiêu thời gian hoà vốn, chỉ tiêu điểm hoà vốn.
2.3. Quảng cáo đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi nghiên cứu tiếp cận thị trường, lập phương án kinh doanh để chuẩn bị cho những giao dịch xuất khẩu các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành tiếp xúc với khách hàng bằng biện pháp quảng cáo.
2.3.1. Quảng cáo
Quảng cáo là công cụ giao tiếp nhìn/ nghe - nhìn thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Quảng cáo nhằm tới công chúng, những người có ảnh hưởng, các nhà phân phối, các khách hàng công nghiệp...với mục đích là làm cho biết, làm cho thích, làm cho mua sản phẩm.
Những nội dung chủ yếu của quảng cáo là: phẩm chất của hàng hoá, công dụng của hàng hoá, phương pháp sử dụng và bảo quản hàng hoá, đặc điểm của hàng hoá đó, điều kiện mua bán và giá cả, địa điểm bán hoặc nơi trưng bày, địa chỉ của đơn vị nhập khẩu hoặc cơ quan đại diện cho đơn vị đó, cách thức gửi dơn đặt hàng.Các phương thức quảng cáo chủ yếu là thông báo qua báo chí, tập san, các loại ấn phẩm, phát thanh, truyền hình, mạng Internet, điện ảnh, quảng cáo ngoài trời, tham gia các hội chợ triển lãm...
Công tác quảng cáo tuyên truyền càng tốt thì càng thúc đẩy xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ, đẩy nhanh tốc độ và quy mô xuất khẩu. Việc quảng cáo cần phải chú ý tới:
+ Các mục tiêu quảng cáo: Được thể hiện dưới dạng định lượng( khối lượng bán, thị phần) hoặc dưới dạng định tính( hình ảnh, sáng tạo, tiếng tăm). Chẳng hạn, để làm cho biết đến một sản phẩm, một nhãn hiệu, những đặc tính của sản phẩm, giá trị sử dụng của nó, giá cả của sản phẩm, làm cho thích một sản phẩm, một nhãn hiệu, một doanh nghiệp và làm cho họ hành động như kích thích họ đến xem sản phẩm, mua sản phẩm, tác động đến hành vi của họ.
+ Lựa chọn phương tiện quảng cáo: Mỗi phương tiện quảng cáo có những ưu điểm và nhược điểm riêng, và do vậy nó phù hợp với từng mục tiêu quảng cáo khác nhau. Việc lựa chọn phương tiện quảng cáo phải tính đến các chỉ tiêu công chúng( lượng độc giả, khán thính giả của phương tiện) và công chúng hữu ích( lượng độc giả, khán thích giả thuộc khách hàng mục tiêu)
2.3.2. Đàm phán kí kết hợp đồng xuất khẩu
Đàm phán là việc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa nhà sản xuất và khách hàng để đi đến ký kết hợp đồng xuất khẩu. Thông thường có những hình thức sau: Đàm phán qua thư tín, đàm phán qua điện thoại, đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp. Đàm phán được thực hiện qua các bước:
+ Chào hàng: Để có thể tiến tới ký kết một hợp đồng xuất khẩu, người xuất khẩu phải đưa ra một bảng chào giá với bên mua mà trong đó có ghi rõ điều kiện giao dịch cụ thể. Đây là việc nhà xuất khẩu thể hiện rõ ý định của mình là bán hàng, là lời đề nghị kí kết hợp đồng, nếu việc mua bán xuất phát từ phía người mua thì có thể hỏi giá hoặc đặt hàng. Trong chào hàng, người ta ghi rõ: Tên hàng, quy cách phẩm chất, số lượng, giá cả, điều kiện giao hàng, điều kiện thanh toán...
+ Hoàn giá( mặc cả): Là khi người nhận được lời chào hàng không chấp nhận mức giá chào hàng mà đưa ra mức giá mới để thương lượng.
+ Chấp nhận: Là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện mà phía bên kia đưa ra, khi đó hợp đồng mới xác lập. Một chấp thuận nếu muốn có hiệu lực về pháp luật cần đảm bảo các điều kiện sau: Phải được chính người nhận giá chấp nhận, phải đồng ý hoàn toàn vô điều kiện mọi nội dung của đơn chào hàng, Phải chấp nhận trong thời gian hiệu lực của lời chào hàng, chấp nhận phải được truyền đạt đến người phát ra đề nghị.
Xác nhận: Hai bên mua bán đã thống nhất thoả thuận với nhau điều kiện giao dịch, có kí cẩn thận ghi lại mọi điều kiện đã thoả thuận gửi cho bên kia, đó là văn kiện xác nhận. Xác nhận thường được lập thành hai bản, bên kí nhận trước rồi đưa cho bên kia, bên kia ký xong giữ lại một bản và gửi trả lại một bản. Kết quả của cuộc đàm phán sẽ dẫn tới việc kí kết hợp đồng xuất nhập khẩu là căn cứ pháp lý cho thương vụ giữa các bên.
2.4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi hợp đồng được kí kết thì doanh nghiệp phải thực hiện theo các quy định trong hợp đồng. Tiến hành sắp xếp những công việc phải làm ghi thành bảng biểu theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng, kịp thời ghi những diễn biến, những văn bản phát đi và nhận được để xử lý và giải quyết cụ thể.
Sau khi ký kết hợp đồng, cần xác định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự công việc cần làm, cố gắng không để xảy ra sai sót, tránh gây thiệt hại. Điều đặc biệt cần lưu ý là tất cả những sai sót đều là cơ sở phát sinh khiếu nại và làm giảm uy tín của nhà xuất khẩu.
Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu:
+ Xin giấy phép xuất khẩu: Đây là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu khác trong quá trình xuất khẩu hàng hoá. Với xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, làm hàng xuất khẩu, và xuất khẩu những mặt hàng nhà nước không cấm và hạn chế.
+ Chuẩn bị hàng xuất khẩu: Bao gồm các công việc như: Tổ chức sản xuất, thu gom hàng xuất khẩu trên cơ sở đàm phán kí kết hợp đồng; Thực hiện đóng gói hàng hóa xuất khẩu, kẻ ký mã hiệu bên ngoài bao bì nhằm thông báo những chi tiết cần thiết cho việc giao nhận, bốc dỡ và bảo quản hàng hoá.
+ Uỷ thác thuê tàu: Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu, việc thuê chở hàng dựa vào căn cứ như: Điều khoản của hợp đồng, đặc điểm hàng hoá xuất khẩu, Điều kiện vận tải. Nếu điều kiện giao hàng của hợp đồng là CIF hoặc CFR thì đơn vị xuất khẩu phải thuê tàu biển để giao hàng.
+ Kiểm nghiệm hàng hoá xuất khẩu: Thực chất là kiểm tra số lượng và chất lượng hàng hoá xuất khẩu. Kiểm nghiệm hàng hoá xuất khẩu khẩu nhằm mục đích: Đảm bảo quyền lợi cho khách hàng, Ngăn chặn kịp thời những hậu quả xấu, phân định trách nhiệm của các khẩu trong sản xuất, bảo đảm uy tín cho nhà xuất khẩu trong quan hệ buôn bán. Kiểm nghiệm hàng hoá phải được thực hiện ở hai cấp là cơ sở và cửa khẩu.
+ Làm thủ tục Hải Quan: Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để xuất khẩu hoặc nhập khẩu đều phải làm thủ tục Hải Quan. Đây là một công cụ để quản lý hành vi buốn bán theo pháp luật của nhà nước để ngăn chặn xuất khẩu lậu qua biên giới, để kiểm tra giấy tờ thống kê hàng hoá xuất nhập khẩu.
+ Giao hàng lên tàu: Phần lớn số hàng xuất khẩu được vận chuyển bằng đường biển, đường sắt, bằng container. Tuỳ thuộc vào phương tiện chuyên chở hàng hoá mà chủ hàng phải làm những công việc khác nhau. Nếu vận chuyển bằng đường biển, chủ hàng phải căn cứ vào chi tiết hàng xuất khẩu để lập bảng đăng kí hàng chuyên chở cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp hàng, bố trí phương tiện đưa hàng vào cảng, xếp lên tàu, lấy biên lai thuyền phó và đổi tên biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển.
+ Mua bảo hiểm: Chuyên chở hàng hoá trong thương mại quốc tế gặp rất nhiều rủi ro, tổn thất nhất do vậy để giảm thiểu được rủi ro nên mua bảo hiểm cho hàng hoá
+ Thủ tục thanh toán: Tuỳ theo phương thức thanh toán hai bên đã thoả thuận trong hợp đồng mà bước này được tiến hành theo những cách khác nhau. Có thể thanh toán theo các phương thức như: Tín dụng thư( LC), Bằng điện chuyển tiền( TT), Thanh toán nhờ thu( DP)...Mỗi phương thức thanh toán có một ưu, nhược điểm khác nhau. Tuỳ thuộc vào các quy định thanh toán, mối quan hệ giữa các bên sẽ lựa chọn một phương thức thanh toán phù hợp.
2.5.Giải quyết khiếu nại nếu có
Trong trường hợp có phát sinh khiếu nại thì hai bên có thể tự thoả thuận dàn xếp hoặc đưa vụ việc ra cơ quan trọng tài hay toà án kinh tế để giải quyết.
Tuỳ thuộc vào từng hợp đồng mà cán bộ xuất khẩu phải thực hiện các nghĩa vụ khác nhau. Trình tự nghiệp vụ không cố định. Từng khâu nghiệp vụ cụ thể có thể là nghĩa vụ của người bán hay người mua phụ thuộc vào các quy định điều kiện cơ sở giao hàng ghi trong hợp đồng mua bán hàng hoá đã kí kết.
3. Các hình thức xuất khẩu
Hiện nay trên thế giới có nhiều hình thức xuất khẩu khác nhau với nhiều biến tướng của nó. Nhìn chung co 6 hình thức xuất khẩu chủ yếu sau:
Xuất khẩu trực tiếp: Là việc nhà sản xuất trực tiếp tiến hành các giao dịch với khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Là việc xuât khẩu các hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị khác sau đó xuất khẩu những sản phẩm đó ra nước ngoài thông qua các tổ chức của mình.
Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận thu được của các đơn vị kinh doanh thường cao hơn các hình thức khác. Với vai trò là người bán hàng trực tiếp doanh nghiệp có thể nâng cao uy tín của mình thông qua quy cách và phẩm chất hàng hoá, tiếp cận thị trường và nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng.
Bên cạnh đó xuất khẩu trực tiếp còn giúp doanh nghiệp giảm được chi phí trung gian, có nhiều điều kiện để thâm nhập thị trường, chủ động trong việc sản xuất và xuất khẩu hàng hoá, Tuy vậy hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải ứng trước một lượng vốn khá lớn để sản xuất, thu mua hoặc có thể gặp rất nhiều khó khản, rủi ro như: Không xuất được hàng, không thu mua được hàng, bị thanh toán chậm hay do thay đổi tỷ giá, lạm phát...
Xuất khẩu uỷ thác: Trong hình thức này các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra đóng vai trò là trung gian xuất khẩu, làm thay cho các đơn vị sản xuất những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng và hưởng phần trăm theo giá trị hàng xuất khẩu đã được thoả thuận. Xuất khẩu uỷ thác được tiến hành trong trường hợp một doanh nghiệp có hàng hoá muốn xuất khẩu nhưng không có chức năng xuất khẩu hoặc không có đủ điều kiện để tiến hành xuất khẩu.
Hình thức này có ưu điểm là mức độ rủi ro thấp, người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng, đặc biệt là không cần vốn đẻ mua hàng. Tuy nhiên hình thức xuất khẩu này đòi hỏi rất nhiều thủ tục xuất và nhập khẩu, do đó để thực hiện tốt hình thức này các doanh nghiệp cần phải có những các bộ kinh doanh có kinh nghiệm về nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó khi thực hiện theo phương thức uỷ thác thì lợi nhuận bị phân chia, mất sự liên hệ trực tiếp với thị trường, thông tin chậm, đôi khi còn thiếu chính xác...Do đó nên sử dụng phương thức xuất khẩu này trong các trường hợp khi cần thiết như: Khi thâm nhập vào thị trường mới, khi tung ra sản phẩm mới...
Buôn bán đối lưu: Là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao dịch đi có giá trị tương ứng với lượng hàng nhận về. Với phương thức này, mục đích của xuất khẩu không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà là nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị tương đương. Buôn bán đối lưu có các loại hình như: Hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, mua đối lưu, chuyển nợ, mua lại sản phẩm.
Ưu điểm của phương pháp này là tránh được rủi ro về tỷ giá hối đoái do không phải giao dịch bằng tiền. Tuy nhiên có nhược điểm là khó tìm được nguồn hàng tương đương với hàng mình đã trao đổi về mặt hàng cũng như giá cả, đồng thời không thu về ngoại tệ mà thu về hàng hoá cho nên quá trình trao đổi chậm hơn.
Tạm nhập tái xuất: Là việc xuất khẩu những hàng hoá mà trước đây đã nhập khẩu về nhưng vẫn chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Muc đích của việc tái xuất khẩu là mua rẻ hàng hoá ở nước này sau đó bán đắt ở nước khác và thu số ngoại tệ lớn hơn số vốn bỏ ra. Giao dịch này luôn thu hút ba nước tham gia là: Nước xuất khẩu- nước nhập khẩu- nước tái xuất khẩu.
Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là cho phép thu lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào nhà xưởng, máy móc thiết bị. Tuy nhiên Hình thức tạm nhập tái xuất này đặt ra đòi hỏi là các doanh nghiệp phải có kinh nghiệm kinh doanh, am hiểu thị trường và giá cả, có nhiều bạn hàng ở nước ngoài để kết nối các mối quan hệ giữa họ.
Xuất khẩu tại chỗ: Là hình thức mà hàng và dịch vụ có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó cũng giống như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các đoàn ngoại giao, khách du lịch quốc tế...
Hình thức xuất khẩu này đang được phổ biến và có khá nhiều ưu điểm như: Giảm được chi phí vận chuyển, độ rủi ro thấp, có thể đạt hiệu quả kinh tế cao do giảm bớt chi phí bao bì, đóng gói, bảo quản, thời gian thu hồi vốn nhanh. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ nhược điểm như: Không tạo điều kiện để doanh nghiệp có thể hiểu thêm về thị trường nước ngoài từ đó phát triển rộng hơn thị trường của mình.
Gia công xuất khẩu: Là một hình thức kinh doanh theo đó một bên nhập nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm( bên nhân gia công) của bên kia( bên đặt gia công) để chế biến thành phẩm rồi giao lại cho bên đặt gia công và nhận tiền gia công. Ưu điểm của hình thức này là giúp bên nhận gia công tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhận được các thiết bị công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất. Đối với nước đặt gia công cũng được hưởng lợi vì họ tân dụng được nguồn nhân công với giá rẻ cũng như tận dụng được nguồn nguyên liệu sẳn có của bên nhận gia công. Tuy nhiên nhược điểm của hình thức này là bên nhận gia công sẽ bị động, chất lượng sản phẩm cũng không đều.
4. Vai trò của xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hóa có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của các nước. Xét với các nước đang phát triển như Việt Nam thì vai trò của nó càng được thể hiện rõ nét trong việc thúc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá đất nước và góp phần vào giải quyết các vấn đề xã hội. Về cơ bản vai trò của xuất khẩu thể hiện ở các nội dung sau:
4.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước.
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: Xuất khẩu hàng hoá, đầu tư nước ngoài, vay, viện trợ, thu từ hoạt động dịch vụ...Tuy nhiên nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
Ở nước ta, thời kì 1986-1990 nguồn thu về xuất khẩu hàng hoá đảm bảo trên 75% nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu, tương tự thời kì 1991-1995 là 66% và 1996-2000 là 50%
Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên. Nhưng mọi lúc cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu- nguồn vốn chủ yếu để trả nợ- trở thành hiện thực.
4.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng nếu chỉ thụ động chờ ở sự “ thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp.
Hai là, coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm thứ hai chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác dụng tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đế._.n sản xuất thể hiện ở:
+ Xuất khẩu tào điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông, sợi hay thuốc nhuộm, công nghiệp tạo mẫu...Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu, dầu thực vật, chè...có thể sẽ kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ nó.
+ Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế- kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra một năng lực sản xuất mới.
+ Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường.
+ Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất mở rộng thị trường.
4.3. Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân
Tác động của xuất khẩu đến việc làm và đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết sản xuất, chế biến và dịch vụ hàng xuất khẩu đang trực tiếp là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp.
Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ trực tiếp đời sống và đáp ứng ngày càng một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Quan trọng hơn cả là việc xuất khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất, làm cho cả quy mô lẫn tốc độ sản xuất tăng lên, các ngành nghề cũ được khôi phục, ngành nghề mới ra đời, sự phân công lao động mới đòi hỏi lao động được sử dụng nhiều hơn, năng suất lao động cao và đời sống nhân dân được cải thiện.
4.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta
Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Có thể hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác và tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế...Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại chúng ta vừa kể lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước.
II. C¸C VÊN §Ò CHUNG VÒ XUÊT KHÈU S¶N PHÈM DÖT MAY ë VIÖT NAM
Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may hiện nay được tiến hành ở hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là ở những nước có lợi thế về nhân lực và nguyên liệu. Hoạt động xuất khẩu này mang lại những lợi ích rất lớn, đặc biệt là với một nước đang phát triển như nước ta.
1. Khái quát chung về ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam
Dệt may được coi là một trong những ngành trọng điểm của nền công nghiệp Việt Nam, là ngành sản xuất mũi nhọn, có tiềm lực phát triển khá.
So với nhiều ngành khác, ngành dệt may ở Việt Nam là ngành có nhiều điều kiện thuân lợi để phát triển, Từ khi đổi mới, ngành công nghiệp dệt may không ngừng phát triển cả về quy mô, năng lực sản xuất, trình độ công nghệ trang thiết bị, và ngày một tăng nhanh về sô lượng, chất lượng sản phẩm. Cho đến nay, sản phẩm dệt may Việt Nam đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu trong nước và có khả năng xuất khẩu lớn sang các thị trường khó tính như: EU. Nhật Bản , Bắc Mỹ…Việc xuất khẩu hàng dệt may đã đem lại một khoản ngoại tệ rất đáng kể để đổi mới và nâng cấp toàn bộ trang thiết bị công nghệ của ngành dệt may. Bên cạnh đó ngành dệt may còn góp phần quan trọng giải quyết việc làm, mang lại thu nhập cao cho người lao động, tạo sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội.
Sản phẩm của ngành dệt may bao gồm các sản phẩm của ngành dệt như: Vải các loại, sợi cotton, tơ PES, sợi POY. sợi PTY, sản phẩm dệt kim, khăn bông, chỉ, tơ tằm, áo len...Và các sản phẩm của ngành may như: Bông tấm( vải không dệt), phụ liệu may(áo, bao bì)...Theo thống kê đánh giá của các chuyên gia thì trình độ công nghệ của ngành dệt Việt Nam còn lạc hậu hơn so với các nước tiên tiến trong khu vực khoảng 10-15 năm. Ngành may của chúng ta mới chỉ chú trọng đầu tư vào sản xuất một số mặt hàng đơn giản, mặt hàng dễ làm và dễ thu lợi nhuận như: Áo Jacket, áo sơ mi nam, sơ mi nữ...Công nghệ sản xuát những mặt hàng kỹ thuật cao, chất lượng cao vẫn còn bị bỏ trống.
Nước ta có dân số đông, nguồn lao động dồi dào, người Việt Nam lại có truyền thống cần cù sáng tạo. Mặt khác giá cả sinh hoạt thấp, chi phí lao động hạ, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng dệt may có ưu thế cạnh tranh. Đặc điểm của ngành dệt may không đòi hỏi vốn đầu tư lớn, quay vòng vốn nhanh, đội ngũ công nhân lành nghề có thể sản xuất được những sản phẩm chất lượng cao nếu được đào tạo tốt.
Việt Nam còn có vị trí địa lý và cửa khẩu rất thuận lợi cho việc chuyên chở hàng hoá bằng đường biển nên giảm được chi phí vận tải. Bên cạnh đó Việt Nam nằm trong khu vực các nước xuất khẩu lớn hàng dệt may như: Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan…nên ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đang là một thị trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Như vậy có thể nói, phát triển ngành dệt may Việt Nam là phát huy tối đa những lợi thế hiện nay để phát triển kinh tế, thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên nếu phân tích sâu hơn thì ngành dệt may Việt Nam vẫn còn rất thiếu nhiều yếu tố cho sự phát triển bên vững, điển hình là công nghiệp phụ trợ của Việt Nam chưa phát triển tương xứng. Do thiếu công nghiệp phụ trợ nên ngành dệt may Việt Nam gần như phụ thuộc vào thị trường thế giới cả về xuất khẩu lẫn nhập khẩu. Cho đến thời điểm này gần 100% máy móc thiết bị, phụ tùng, 100% xơ sợi hoá học, 90% bông xơ thiên nhiên, 70% vải các loại, 67% sợi dệt chủ yếu nhập về từ Mỹ; Các loại phụ liệu như: Chỉ may, khoá kéo, mex dựng…cũng phải nhập khẩu từ 30%-70% tổng nhu cầu. Đây là một trong những điểm yếu nhất làm hạn chế khả năng cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam so với các nước xuất khẩu dệt may trên thế giới
2. Các phương thức xuất khẩu sản phẩm dệt may
Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may ở Việt Nam thực hiên qua ba phương thức chủ yếu sau:
Thứ nhất là phương thức gia công xuất khẩu: Theo phương thức này các khách hàng nước ngoài( Bên đặt gia công) chịu trách nhiệm cung cấp toàn bộ nguyên phụ liệu dệt may cho Việt Nam( bên nhận gia công) theo định mức tiêu hao nguyên liệu. Còn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thì tiến hành sản xuất để giao lại sản phẩm và nhận được tiền công theo hợp đồng đã thoả thuận từ trước.
Hiện nay có tới hơn 70% các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tham gia vào lĩnh vực gia công xuất khẩu và đạt trên 70% kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành.
Tuy đã đạt được những kết quả tốt nhưng hình thức xuất khẩu này cũng bộc lộ những nhược điểm như:
+ Kim ngạch xuất khẩu tuy lớn nhưng thực tế các doanh nghiệp Việt Nam chỉ được hưởng một phần nhỏ trong số đó tức là chỉ nhận được phí gia công. Nhiều doanh nghiệp vì muốn giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, không muốn máy móc để không mà đã ký kết những hợp đồng mà phí gia công rất rẻ, làm xáo trộn mặt bằng phí gia công và gây tranh chấp với khách hàng giữa các công ty trong nước.
+ Các doanh nghiệp dệt may trong nước phụ thuộc rất nhiều vào bên đặt gia công nước ngoài về: Nguyên phụ liệu, thị trường, giá bán sản phẩm, mẫu mã, nhãn hiệu…Chính vì thế có nhiều trường hợp khi không nhận được hợp đồng gia công thì tất cả máy móc ngừng hoạt động, công nhân không có việc làm; hay có những trường hợp bên đặt gia công đưa máy móc trang thiết bị lạc hậu sang Việt Nam dẫn đến tình trạng công nhân làm việc mệt nhọc, môi trường bị ô nhiễm…Bên cạnh đó hình ảnh mang thương hiệu Việt Nam rất ít xuất hiện trên thị trường thế giới mặc dù sản phẩm sản phẩm sản xuất ở Việt Nam được xuất khẩu đi rất nhiều nước. Điều đó dẫn tới tình trạng là các doanh nghiệp dệt may Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn khi muốn mở rộng thị trường bởi vì thị trường chủ yếu là do bên nước ngoài nắm giữ.
+ Ở trong nước tình hình cạnh tranh trong gia công ngày càng gay gắt làm cho giá gia công ngày càng sụt giảm, hậu quả là hiệu quả kinh doanh gia công thấp, thu nhập của người công nhân ngày càng giảm sút dẫn tới các hiện tượng tiêu cực như: Bỏ việc, đình công…
Trước tình hình đó đòi hỏi các doanh nghiệp dệt may trong nước phải có sự chuyển đổi hình thức xuất khẩu để có thể khắc phục những bất cập đang gặp phải và phát triển hơn nữa ngành dệt may Việt Nam đó chính là hình thức xuất khẩu trực tiếp.
Thứ hai là phương thức xuất khẩu trực tiếp hay còn gọi là “tự doanh” hay “mua đứt bán đoạn”. Có ba loại xuất khẩu trực tiếp sau:
+ Loại 1: Doanh nghiệp trong nước mua nguyên vật liệu đầu vào để tiến hành sản xuất, gia công. Tuy nhiên từ vấn đề nhà cung cấp lẫn chủng loại nguyên vật liệu mà doanh nghiệp mua vào đều do khách hàng nước ngoài chỉ định. Do đó theo phương thức xuất khẩu này cả rủi ro về sản xuất lẫn rủi ro về Marketing đều do người mua nước ngoài gánh chịu.
+ Loại 2: Doanh nghiệp trong nước nhận mẫu hàng từ người mua nước ngoài, dựa trên những mẫu này, họ sản xuất sản phẩm tương tự, sử dụng nguyên phụ liệu do họ tự mua mà không có gợi ý hay cam kết gì của người mua từ trước. Nếu mẫu tương ứng được chấp nhận, họ sẽ nhận được đơn đặt hàng may mặc dựa trên những quy cách của sản phẩm mẫu đã sản xuất.
+ Loại 3: Doanh nghiệp trong nước tiến hành sản xuất hàng may mặc dựa trên thiết kế riêng của khách hàng. Không có cam kết từ trước dưới bất kì hình thức nào từ phía người mua nước ngoài. Doanh nghiệp trong nước sản xuất mẫu hàng may mặc và đưa ra giới thiệu với khách hàng tiềm năng. Sau đó họ sẽ nhận được những đơn đặt hàng từ phía khách hàng nếu như sản phẩm của các doanh nghiệp đó đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Các doanh nghiệp hoạt động theo phương thức này hoặc phải có thương hiệu riêng hoặc phải sản xuất hàng may mặc theo những thương hiệu đã được đăng kí với thiết kế riêng của họ. Hình thức này tạo khả năng lớn nhất để tăng giá trị gia tăng, tuy nhiên rủi ro cả về sản xuất lẫn thị trường lại là rất lớn.
Như vậy việc xuất khẩu hàng hoá theo phương thức xuất khẩu trực tiếp mang lại hiểu quả cao hơn rất nhiều so với phương thức gia công, giảm được các chi phí trung gian và mang lại sự chủ động cho các doanh nghiệp. Đây cũng là phương thức chiến lược của ngành dệt may Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010. Hiện nay phương thức này mới chỉ chiếm trên 20% kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Các doanh nghiệp Việt Nam đang cố gắng để tăng dần tỷ trọng của phương thức xuất khẩu này. Tuy nhiên xuất khẩu theo phương thức này dễ xảy ra những rủi ro, sai lầm khi kinh doanh trên các thị trường mới, do đó muốn xuất khẩu có hiệu quả cần phải nghiên cứu thị trường, tìm hiểu khách hàng và hàng hoá trên thị trường mà doanh nghiệp muốn kinh doanh. Điều này rất khó cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay. Song trong thời gian tới chúng ta sẽ khắc phục những khó khản và từng bước chuyển đổi xuất khẩu hàng dệt may theo phương thức xuất khẩu này.
Thứ ba là phương thức xuất khẩu gián tiếp: Đây là việc nhà sản xuất thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập hay là các trung gian đặt ngay tại nước xuất khẩu để tiến hành xuất khẩu các sản phẩm của mình ra nước ngoài. Hình thức xuất khẩu này có khá nhiều ưu điểm và rất phù hợp với những doanh nghiệp mới tham gia thị trường. Các doanh nghiệp dệt may ở Việt Nam cũng sử dụng rộng rãi phương thức xuất khẩu này.
3. Các thị trường xuất khẩu sản phẩm dệt may của Việt Nam
Thị trường xuất khẩu của sản phẩm dệt may Việt Nam là hai khu vực thị trường đó là thị trường có hạn ngạch và thị trường không có hạn ngạch. Thị trường có hạn ngạch đó là: EU, Canada, Thổ nhĩ kỳ...Và thị trường không hạn ngạch như: Nhật Bản, Mỹ, thị trường SNG và Đông Âu, các nước trong khu vực châu Á như: Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông...
Các thị trường xuất khẩu lớn hàng may mặc của Việt Nam phải kể dến đó là thị trường Mỹ( chiếm khoảng 55% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2007, tốc độ tăng trưởng đều hàng năm). Thứ hai là thị trường EU với nhu cầu hàng dệt may khá đa dạng và các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều bạn hàng quen thuộc trên thị trường này. Đứng thứ ba là thị trường Nhật Bản, một thị trường đang mở ra nhiều cơ hội tốt cho việc xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam...Hiện Hàn Quốc đang đứng ở vị trí thứ mười trong danh sách các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam.
4. Vai trò của xuất khẩu hàng dệt may đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam
Vai trò của xuất khẩu hàng dệt may đối với nền kinh tế nước ta là rất lớn và được thể hiện qua các mặt sau:
Xuất khẩu hàng dệt may tạo ra nguồn ngoại tê lớn để phát triển đất nước. Đã từ nhiều năm nay, hàng dệt may luôn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, và trong mấy năm gần đây kim ngạch xuất khẩu dệt may luôn đứng ở vị trí thứ hai sau dầu khí thậm chí có lúc còn vượt cả dầu khí trở thành ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất cả nước, đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế đất nước. Tạo ra một lượng ngoại tệ lớn để đầu tư vào trang thiết bị máy móc và xây dựng cơ sở hạ tầng của đất nước.
Khi ngành xuất khẩu hàng dệt may phát triển nó sẽ kéo theo sự phát triển của rất nhiều ngành có liên quan. Trước hết là sự phát triển của các ngành công nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu như: Bông, vải sợi,…rồi đến các ngành công nghiệp: In, nhuộm, sản xuất nhựa polyme để bao gói, hoàn thiện sản phẩm, sản xuất giấy để phục vụ cho việc cắt xén, tạo bản mẫu hay các thùng bia Carton để gói sản phẩm…. Hơn nữa, khi ngành công nghiệp này phát triển ngày càng cao thì đòi hỏi càng nhiều những máy móc thiết bị tiên tiến để phục vụ việc sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao và giảm bớt những chi phí cho phế liệu, phế phẩm. Từ đó kéo theo sự phát triển của các ngành cơ khí, chế tạo máy phát triển.Rồi tiếp là sự phát triển của ngành vận tải để phục vụ cho việc xuất khẩu các sản phẩm dệt may ra thị trường thế giới.
Xuất khẩu hàng dệt may phát triển còn góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Trong số các ngành công nghiệp thì ngành dệt may là một trong những ngành tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động nhất. Khi ngành dệt may xuất khẩu phát triển thì nhu cầu về lao động sẽ tăng lên. Như vậy vô hình chung nó đã có vai trò giải quyết việc làm cho rất nhiều lao động. Doanh thu xuất khẩu của các doanh nghiệp tăng lên sẽ làm tăng thu nhập của người lao động từ đó góp phần vào ổn định tình hình kinh tế xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội.
Xuất khẩu hàng dệt may còn tạo điều kiện mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại và quảng bá thương hiệu của mặt hàng này trên thế giới. Thông qua các mối quan hệ với các bạn hàng quốc tế, chúng ta có thể tranh thủ sự giúp đỡ của họ, khai thác thông tin từ họ, giúp cho việc quảng bá thương hiệu hàng dệt may Việt Nam được thực hiện có hiệu quả hơn.
5. Các yếu tố tác động đến hoạt động xuất khẩu dệt may ở Việt Nam
5.1. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô
Đây là tổng hợp các yếu tố thuộc về môi trường bên ngoài có tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu. Các yếu tố này có cả những cơ hội tốt cho sự phát triển của doanh nghiệp và cả những thách thức khó khăn mà đòi hỏi các doanh nghiệp phải vượt qua
Xét về những cơ hội thuận lợi cho phát triển dệt may trước hết ta phải nói đến vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập quốc tế tạo khả năng mở rộng thị trường ra nước ngoài trên cơ sở các hiệp định thương mại đã được kí kết, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, có hiệu quả. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ mang vốn và công nghệ vào nước ta, sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của chúng ta để làm ra các sản phẩm và xuất ra các thị trường khu vực và thế giới. Đây là cơ hội để ngành dệt may huy động và sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Sự đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giúp ngành dệt may có thể tranh thủ được kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước nhằm phát triển năng lực kỹ thuật công nghệ của chính ngành mình và của cả quốc gia.
Tiếp đó là những chính sách của nhà nước nhằm bảo hộ, khuyến khích sự phát triển của ngành dệt may xuất khẩu. Các chính sách được đưa ra nhằm hỗ trợ mở mang sản xuất hàng xuất khẩu với những chi phí thấp, tạo điều kiện cho người xuất khẩu có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Có thể nói đến các chính sách như: Nhóm chính sách và biện pháp liên quan đến tổ chức nguồn hàng, cải biến cơ cấu xuất khẩu, Nhóm chính sách và biện pháp tài chính, hay nhóm chính sách và biện pháp liên quan đến thể chế- tổ chức.
Bên cạnh đó chúng ta cũng còn có những thuận lợi về nguồn lao động dồi dào, chi phí lao động rẻ. Điều này đóng vai trò rất quan trọng và đặc biệt là tạo ra được lợi thế cho ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam.
Xét về những thách thức: Thách thức trước hết là sự cạnh tranh gay gắt của các nước xuất khẩu hàng dệt may hiện nay. Đó là Trung Quốc với ưu thế phong phú về chủng loại hàng hoá giá rẻ, đó là Hàn Quốc, Ấn Độ, Đài Loan…những nước xuất khẩu lớn và có sẵn thị trường tiêu thụ. Tuy họ có giá nhân công cao hơn nhưng nhờ họ có ưu thế tự túc được nguồn nguyên liệu vải và các phụ liệu may chất lượng cao nên đã góp phần làm giảm giá thành sản phẩm, tạo lên nhiều nhãn hiệu uy tín.
Thách thức thứ hai là tính phức tạp của hệ thống luật quốc tế cũng như những đòi hỏi khắt khe về hàng dệt may xuất khẩu đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.
Thách thức thứ ba là sự quản lý chồng chéo của các bộ phận hữu quan đối với ngành dệt may khiến cho cơ cấu tổ chức thiếu năng động, dễ tuột mất những cơ hội tốt cho sự phát triển.
Như vậy đối với nền kinh tế nói chung và dệt may xuất khẩu nói riêng, chúng ta cần phải có những biện pháp nhằm tận dụng những cơ hội, đương đầu với thách thức để có thể đưa ngành dệt may xuất khẩu của chúng ta phát triển nhanh và hiệu quả hơn trong khung cảnh nền kinh tế mở như hiện nay.
5.2. Các yếu tố về nội bộ ngành dệt may xuất khẩu
Khó khăn:
Thứ nhất là các yếu tố nguyên phụ liệu đầu vào phục vụ cho hoạt động sản xuất sản phẩm. Ta nhận thấy ở Việt Nam yếu tố này chưa đáp ứng được yêu cầu thậm chí còn gây ra những rào cản cho việc phát triển của các doanh nghiêp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu. Cụ thể như:
Vải cho ngành dệt may chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Đây là nguyên nhân chủ yếu làm cho chúng ta không chủ động được nguồn vải phục vụ cho xuất khẩu. Hiện nay chúng ta phải nhập khẩu đến gần 75% trong tổng lượng vải. Điều này dẫn đến giá thành sản xuất tằng, tỷ suất lợị nhuận vốn đã thấp nay còn thấp hơn. Tốc độ phát triển qua nhanh của ngành may khiến cho người em “dêt” chạy hụt hơi mà khoảng cách vẫn ngày càng bị kéo xa.
Công nghiệp phụ trợ còn kém, thiếu sự đồng bộ dẫn đến tình trạng gây nhiều rào cản cho việc phát triển sản xuất sản phẩm dệt may xuất khẩu như: Làm gia tăng chí phí sản xuất, giảm chất lượng sản phẩm. Từ đó dẫn đến giảm tính cạnh tranh.
Công tác Marketing, nghiên cứu thị trường,phát triển sản phẩm mới, mẫu mã độc đáo chưa được các doanh nghiệp quan tâm đúng mức. Chính những điều này đã dẫn đến: Giá thành sản phẩm thấp, gặp khó khăn khi xuất khẩu sang thị trường nước ngoài( có tình huống là hàng xuất đi nhưng lại bị trả lại do chưa nghiên cứu kĩ những quy định của nước nhập khẩu về bao bì, nhãn mác...) như vậy dẫn đến lợi nhuận trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may thấp
Sự liên kết giữa các doanh nghiệp chưa thực sự tốt, từ đó dẫn đến sự cạnh tranh lớn giữa các doanh nghiệp với nhau. Điều đó tạo ra những rào cản cho sự phát triển của các doanh nghiệp và không tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn ngành để có thể hỗ trợ lẫn nhau thắng thế trên trường quốc tế
Thuận lợi
Việt Nam đã lọt vào Top 10 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới điều này sẽ tạo ra môi trường sôi động cho sự phát triển của toàn ngành.
Các doanh nghiệp đã chủ động hơn trong cả nhận thức và hành động để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh như: Công tác cổ phần hoá, đa dạng các ngành nghề kinh doanh, phát triển quan hệ hợp tác quốc tế, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu- thời trang hoá ngành dệt may, đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dệt may đang được các doanh nghiệp chú ý thực hiện. Nhiều dự án mở rộng sản xuất, mở rộng nguồn cung ứng nguyên vật liệu phục vụ ngành dệt may cũng đang được thực hiện.
6. Xu hướng phát triển của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam
Năm 2007, giá trị sản xuất công nghiệp của ngành Dệt May tăng 17,9% so với năm 2006. Các sản phẩm chủ yếu đều tăng như: Sợi toàn bộ ước tăng 11%; Vải lụa thành phẩm ước tăng 8,9%; Sản phẩm quần áo dệt kim ước tăng 8,8%; Sản phẩm quần áo may sẵn ước tăng 12,6%. Riêng xuất khẩu, tăng 34,5% so với năm 2006, là năm ngành Dệt May có tốc độ phát triển cao nhất, kỷ lục trong 5 năm gần đây. Trong đó, 3 thị trường quan trọng nhất là Hoa Kỳ chiếm tới 56% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, tăng 32%; tiếp đó là thị trường EU chiếm 18%, tăng khoảng 20% và thị trường Nhật Bản chiếm 9%, tăng khoảng 12%... Việt Nam đã lọt vào Top 10 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới, trong đó Dệt đứng thứ 16 và May đứng thứ 10.
Bên cạnh khai thác tối đa các thị trường lớn, truyền thống, các doanh nghiệp dệt may đã có nhiều nỗ lực trong việc đa dạng thị trường, mở rộng thị trường mới, nên phần lớn các thị trường đều có mức tăng trưởng và tăng trưởng cao như: Thổ Nhĩ Kỳ tăng trên 500%, Nam Phi tăng trên 400%, Achentina tăng hơn 60%, Canada tăng hơn 35%...
Năm 2008 và những năm tiếp theo, các nước xuất khẩu hàng dệt may châu á lớn như Trung Quốc đang đi vào chiến lược nâng cao đẳng cấp, chất lượng. Đặc biệt, Trung Quốc lại được bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu vào đầu năm 2008 ở thị trường EU và đầu năm 2009 ở thị trường Hoa Kỳ. Còn các nước châu á khác như ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Srilanka, Campuchia… cũng đang tăng tốc xuất khẩu, với tham vọng nhân đôi kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 2006-2010. Do đó, ngành Dệt May Việt Nam sẽ gặp thêm rất nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt là xuất khẩu.
Hướng tới lấy xuất khẩu làm mục tiêu phát triển, mở rộng thị trường xuất khẩu đồng thời phát triển tối đa thị trường nội địa. Ngày 10/03/2008 tai quyết đinh QĐ 36/2008QĐTTG Thủ Tướng chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 với những mục tiêu sau:
+ Giai đoạn 2008-2010, ngành dệt may tăng trưởng sản xuất hàng năm từ 16-18%, tăng trưởng xuất khẩu đạt 20%.
+ Giai đoạn 2011-2020, tăng trưởng sản xuất hàng năm từ 12-14% tăng trưởng xuất khẩu đạt 15%
+ Doanh thu toàn ngành đến năm 2010 đạt 14,8 tỷ USD, tăng lên 22,5 tỷ USD vào năm 2015 và lên 31 tỷ USD vào năm 2020( trong đó xuất khẩu đạt 25 tỷ USD)
Trong năm 2008 ngành dệt may Việt Nam đặt ra kế hoạch như sau:
+ Kim ngạch xuất khẩu là 9,5 tỷ USD tăng 21,8% so với ước thực hiện. Trong đó dự kiến: Thị trường Mỹ đạt 5,3-5,5 tỷ USD; thị trường EU đạt 1,6-1,8 tỷ USD; Thị trường Nhật Bản đạt 800 triệu USD
Cụ thể các mặt hàng xuất khẩu như sau:
+ Sợi toàn bộ là 100.000 tấn, tăng 8,7% so với ước thực hiện năm 2007
+ Vải lụa thành phẩm là 683 triệu m2, tăng 9,1% so với ước thực hiện năm 2007
+ Quần áo dệt kim là 188,5 triệu sản phẩm tăng 8,1% so với ước thực hiện năm 2007
+ Quần áo may sẵn là 1.591 triệu sản phẩm tăng 16,6% so với ước thực hiện năm 2007.
Hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu tăng mạnh trong quý đầu của năm 2008, bất chấp sự sụt giảm của ngành dệt toàn cầu và thị trường hàng may mặc thế giới. Việc Mỹ xóa bỏ hạn ngạch cho Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, tuy nhiên, xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vẫn đang đứng trước một số nguy cơ như Mỹ có thể đánh thuế chống bán phá giá, lạm phát tăng mạnh, tỉ lệ lãi suất cho vay tín dụng cao và chi phí sản xuất cũng đang tăng lên.
III. KH¸I QU¸T CHUNG VÒ THÞ TR¦êNG HµN QUèC
1. Quan hệ thương mại Việt Nam- Hàn Quốc
Kể từ khi hai nước Việt Nam và Hàn Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ kinh tế, thương mại và sự hợp tác giữa hai nước trên nhiều lĩnh vực đã có bước phát triển đáng kể. Hàn Quốc trở thành bạn mậu dịch lớn của Việt Nam. Có các mốc sự kiện quan trọng trong quan hệ thương mại giữa hai nước như sau:
Ngày 20/04/1992 Hai bên kí thoả thuận trao đổi văn phòng liên lạc giữa hai nước.
Ngày 22/12/1992 ký tuyên bố chung thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ. Cùng ngày Hàn Quốc khai trương đại sứ quán tại Hà Nội
Ngày 19/11/1993 Hàn Quốc khai trương tổng lãnh sự quán tại TPHCM
Hai nước đã thành lập Uỷ Ban liên Chính Phủ về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật Việt Nam- Hàn Quốc để thúc đẩy hợp tác kinh tế song phương.
Hai bên kí nhiều hiệp định quan trọng như: Hiệp định hợp tác kinh tế- khoa học kỹ thuật(03/1992), hiệp định thương mại(05/1993) Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư- sửa đổi(09/2003)…
Một số mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Hàn Quốc là: Các loại Hải Sản, giầy dép, cao su thiên nhiên và sản phẩm từ cao su thiên nhiên, than, sắn, nguyên phụ liệu dệt may( sợi tổng hợp, sợi cotton, vải, sợi tơ tằm, vải lanh, vải thêu ren, phụ liệu khác), đồ nội thất, hàng thủ công mỹ nghệ.
Một số mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc cũng khá lớn như: Vải, nguyên phụ liệu dệt may, da, sắt thép, xăng dầu, hàng may sẵn, ô tô các loại, sợi, hoá chất, thuốc nhuộm..
2. Đặc điểm của ngành Dệt May Hàn Quốc
2.1.Tình hình sản xuất hàng dệt may
Xuất phát điểm là một quốc gia nghèo về tài nguyên thiên nhiên lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề nhưng trong hơn ba thập kỉ qua Hàn Quốc đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Quá trình phát triển kinh tế Hàn Quốc có nhiều điểm đáng chú ý nhưng điểm quan trọng nhất là xuất khẩu đóng vai trò chủ đạo trong quá trình công nghiệp hoá.
Từ lâu Hàn Quốc đã cho rằng Dệt May là ngành công nghiệp quan trọng. Vào năm 1920 ngành Dệt May chiếm 12% giá trị sản xuất của ngành công nghiệp chế biến và chỉ đứng thứ ba sau hai ngành thực phẩm và hoá chất. Cơ cấu ngành Dệt May Hàn Quốc có thể chia ra làm ba ngành nhỏ sau:
Thứ nhất là ngành công nghiệp sợi tổng hợp: Hàn Quốc là nước thiếu sợi bông do đó các thành viên của hiệp hội sợi nhân tạo Hàn Quốc luân luân mở rộng năng lực sản xuất, công nghệ kéo sợi cũng được đầu tư thích đáng.
Thứ hai là ngành công nghiệp dệt Kim: Số lượng tăng khá nhanh vào những năm cuối của thập kỉ 80, mức tăng trung bình hàng năm khoảng 14%. Do tính chất cạnh tranh của hàng Dệt May ngày càng gay gắt trên thị trường quốc tế, chủ yếu là sản phẩm Dệt May từ các nước đang phát triển đã có tác động tiêu cực đến ngành Dệt May của Hàn Quốc.
Thứ ba là ngành công nghiệp may: Đây là ngành có thế mạnh của Hàn Quốc. Những sản phẩm của ngành may có thiết kế độc đáo, đa dạng đáp ứng được nhu cầu của rất nhiều người tiêu dùng không chỉ trong giới hạn phạm vi đất nước Hàn Quốc mà còn trên cả thế giới.
Công nghiệp Dệt May chiếm vị trí xứng đáng trong nền kinh tế Hàn Quốc. Trong suất thập kỉ 70 đến đầu thập kỷ 90 lao động trong ngành dệt may chiếm 5% tổng số lao động trong toàn bộ nghành công nghiệp và chiếm 1/4 lực lượng lao động trong các ngành công nghiệp chế biến. Tỷ trọng của ngành dệt may trong toàn bộ ngành công nghiệp luôn ở mức 5% trong suất cả thời kì. Hàng dệt may của Hàn Quốc đã xuất khẩu sang hầu hết các nước thuộc tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển( OECD) và Châu Á. Giá trị xuất khẩu hàng dệt may chiếm 29,5% kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc. Hàng dệt may Hàn Quốc có khả năng cạnh tranh cao.
2.2. Xu hướng thay đổi trong ngành dệt may Hàn Quốc
Sự thay đổi xu hướng tiêu dùng hàng may mặc cùng với sự cạnh tranh trong ngành dệt may đã làm thay đổi cấu trúc của ngành kinh doanh này. Việc tái cơ cấu ngành tập trung vào hai hướng đó là sát nhập và tổ chức lại các công ty bằng cách tìm nguồn cung ứng từ nước ngoài, tập trung vào cải tiến thiết kế sản phẩm và hoạt động Marketing.
Rất nhiều các công ty sản xuất quần áo và sản phẩm dệt sợi sau khi tổ chức lại đã chuyển từ công ty sản xuất sang công ty tiếp thị tiêu dùng. Những công ty này đã chuyển một phần sản xuất của họ ra nước ngoài hoặc tìm kiếm các nhà thầu nước ngoài đặc biệt là Mêhicô và các nước CBI( Caribean Basin Initiative). Điều này cho phép họ có thể cung cấp sản phẩm với giá cạnh tranh và có khả năng phản ứng nhanh với những thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng.
Các công ty bán lẻ trở thành các công ty sản xuất quần áo và các công ty sản xuất quần áo trở thành các công ty bán lẻ là một xu hướng phổ biến trong những năm gần đây. Xu hướng này đã tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất và giảm bớt trung gian. Các công ty sản xuất và công ty bán lẻ hội nhập với nhau sẽ giúp họ kiểm soát toàn bộ quá trình, bao gồm các yếu tố chất lượng, thời gian và khả năng cung ứng hàng hoá.
Sự quan tâm đến những loại quần áo có gắn thương hiệu của đối tượng thanh thiếu niên Hàn Quốc là một tín hiệu tốt đối với những công ty tiếp thị thương hiệu. Ngoài các thương hiệu do các công ty sản xuất quần áo đã tạo dựng được từ trước, những thương hiệu riêng của từng công ty bán lẻ độc quyền đã trở nên ngày càng quen thuộc và tạo được sự tín nhiệm của khách hàng nhờ vào sự hỗ trợ của những hoạt động Marketing và thủ pháp định giá cao. Người tiêu dùng ngày càng quen với các thương hiệu mang tính quốc gia với sự ổn định về chất lượng và điều này đã tạo sự phát triển nhanh chóng của các thương hiệu riêng. Xu hướng này có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của hàng nhập khẩu, đặc biệt đối với hàng của những nhà cung ứng mới tham gia vào thị trường này.
Sự thay đổi công nghệ đã giúp cho các nhà sản xuất quần áo nâng cao các chương trình phản ứng nhanh. Khả năng phản ứng là yếu tố vô cùng quan trọng để cạnh tranh tr._.ty sẽ từng bước thâm nhập sâu hơn vào thị trường Hàn Quốc. Định hướng chiếm lĩnh thị trường khó tính này bằng sự khẳng định về uy tín và chất lượng của sản phẩm.
2. Mục tiêu xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường Hàn Quốc của công ty Cổ Phần May Bắc Giang
Với định hướng công ty đã đề ra, mục tiêu trước mắt của công ty Cổ Phần May Bắc Giang là: Phấn đấu mức độ tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm dệt may vào thị trường Hàn Quốc đạt 30% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu. Thị trường Hàn Quốc chiếm 50% trong tỷ trọng thị trường xuất khẩu. Trong dài hạn mục tiêu của công ty là luôn đứng đầu cả nước về xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường Hàn Quốc.
Công ty sẽ từng bước tăng phần nội địa hoá trên mỗi sản phẩm. Cụ thể có hai phương án như sau:
+ Phương án 1: Từ năm 2008-2010 tỷ lệ nội địa hoá đạt 50%
Từ năm 2011-2013 tỷ lệ nội địa hoá đạt 90%
Phương án này được xây dựng trong điều kiện tốc độ phát triển của ngành dệt may trong nước cao, các điều kiện cho quá trình chuyển đổi từ hình thức gia công xuât khẩu sang hình thức xuất khẩu trực tiếp thuận lợi.
+ Phương án 2: Từ năm 2008-2010 tỷ lệ nội địa hoá đạt 40%
Từ năm 2011-2013 Tỷ lệ nội địa hoá đạt 80%
Phương án này được xây dựng trong điều kiện tốc độ phát triển của ngành dệt may trong nước thấp, các điều kiện chuyển đổi từ hình thức gia công xuất khẩu sang hình thức xuất khẩu trực tiếp không thuận lợi.
Phấn đấu để các sản phẩm dệt may của công ty thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của khách hàng Hàn Quốc. Sản phẩm dệt may mang thương hiệu của công ty Cổ Phần May Bắc Giang luôn là sự lựa chọn đầu tiên khi khách hàng có nhu cầu, thương hiệu sản phẩm của công ty trở thành thương hiệu quen thuộc trên thị trường Hàn Quốc.
2. Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường Hàn Quốc.
2.1. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường Hàn Quốc theo phương thức chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp
Trong nhiều năm qua tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của công ty sang thị trường Hàn Quốc tương đối cao- bình quân là 20%/Năm. Đạt được tốc độ tăng trưởng trên là do công ty có lợi thế về nguồn lao động dồi dào, chi phí lao động thấp, công ty đã xây dựng được chữ tín trong các hợp đồng kinh doanh với các khách hàng Hàn Quốc. Tuy nhiên nếu phân tích sâu hơn thì ta thấy công ty vẫn còn thiếu nhiều yếu tố cho sự phát triển bền vững do công ty vẫn gia công xuất khẩu là chủ yếu.
Vì công ty sản xuất theo phương thức gia công xuất khẩu lên mặc dù kim ngạch xuất khẩu của công ty sang Hàn Quốc lớn nhưng lợi nhuận thì lại thấp. Các nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất của công ty phần lớn do các khách hàng Hàn Quốc cung cấp. Chính sự phụ thuộc này đã đặt công ty ở tình trạng bị động cao.
Bên cạnh đó, tình hình cạnh tranh trong gia công ở trong nước ngày càng gay gắt làm cho giá gia công ngày càng sụt giảm, lợi thế về nguồn lao động giá rẻ ngày càng mất dần đi hậu qủa là hiệu quả kinh doanh gia công cũng ngày càng thấp đi.
Trước tình hình đó đòi hỏi công ty cần phải có sự chuyển đổi hình thức xuất khẩu để có thể khắc phục những bất cập đang gặp phải và nâng cao giá trị gia tăng trên mỗi sản phẩm. Đó chính là hình thức xuất khẩu trực tiếp. Nó có thể giúp công ty tận dụng được nguồn nguyên liệu rẻ ở trong nước, chủ động hơn trong việc sản xuất, tạo mẫu mã, kiểu dáng, nghiên cứu sản phẩm phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng Hàn Quốc, và đặc biệt là sản phẩm của công ty ngày càng cạnh tranh được với sản phẩm dệt may của các nước khác cùng xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc.
2.2. Các giải pháp Đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường Hàn Quốc
2.2.1. Tìm kiếm thị trường và các đối tác Hàn Quốc cho việc xuất khẩu trực tiếp.
Căn cứ đưa ra giải pháp: Hiện nay các khách hàng chủ yếu của công ty Cổ Phần May Bắc Giang là những khách hàng truyền thống với các đơn đặt hàng gia công xuất khẩu. Tuy nhiên, khi công ty chủ động được sản xuất, do nắm bắt được những nhu cầu về sản phẩm của đối tác, trong điều kiện sử dụng nguyên phụ liệu trong nước hoặc nhập khẩu mà đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, giá cả hợp lý thì những đối tác này cũng sẽ sẵn sàng chấp nhận sản phẩm của công ty. Bên cạnh những khách hàng truyền thống này, để có thể thâm nhập sâu hơn vào thị trường Hàn Quốc thì công ty cần phải đẩy mạnh việc xúc tiến nghiên cứu thị trường Hàn Quốc, tìm kiếm các đối tác mới để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty tại Hàn Quốc.
Nội dung của giải pháp:
+ Thứ nhất: Công ty phải đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng Hàn Quốc. Công ty có thể thành lập một phòng ban riêng chuyên có nhiệm vụ nghiên cứu và tìm hiểu về thị trường Hàn Quốc. Một mặt trực tiếp giao dịch với khách hàng, mặt khác thu thập thông tin về thị trường từ đó có thể nắm bắt được các cơ hội cũng như những hạn chế, rủi ro trong kinh doanh.
+ Thứ hai là: Công ty cần tăng cường quan hệ với các nhà phân phối lớn, có uy tín để lợi dụng uy tín của họ nâng cao uy tín hàng dệt may của công ty, đồng thời đưa hàng xuất khẩu của công ty vào các kênh tiêu thụ hợp lý. Bên cạnh đó công ty lên đặt những đại diện, những cửa hàng chào bán các sản phẩm may mặc của công ty tại thị trường Hàn Quốc. Tích cực tham gia những hoạt động hội chợ, triển lãm được tổ chức hàng năm ở Hàn Quốc để tranh thủ hợp tác, kí kết hợp đồng với đối tác mới.
+ Thứ ba là: Công ty cần đẩy mạnh hoạt động tạo mốt, tạo đội ngũ tiếp thị, tăng cường hoạt động quảng cáo, khuyến mãi, tuyên truyền nhằm bán sản phẩm. Các hoạt động dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng tạo điều kiện thuận lợi cho người mua nhằm thắng đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.
Điều kiện thực hiện giải pháp: Công ty cần đầu tư kinh phí cho việc tìm kiếm thị trường, đối tác. Bên cạnh đó cũng cần một đội ngũ nhân viên nhiều kinh nghiệm về thị trường thế giới, về giao dịch với các công ty nước ngoài để có thể tìm kiếm đối tác một cách có hiệu quả.
2.2.2. Chủ động nguồn nguyên, phụ liệu đầu vào phục vụ sản xuất xuất khẩu
Căn cứ để đưa ra giải pháp: Các nguyên phụ liệu đầu vào phục vụ sản xuất là các yếu tố chính cấu thành lên sản phẩm và giá trị của sản phẩm. Chính vì thế nó đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi sang hình thức xuất khẩu trực tiếp của công ty. Hơn nữa, do từ trước tới nay công ty thực hiện gia công xuất khẩu là chủ yếu lên chưa quan tâm nhiều đến vấn đề này, chính vì thế việc chủ động nguồn nguyên phụ liệu đầu vào trở thành yêu cầu cấp thiết hơn bao giờ hết.
Nội dung của giải pháp: công ty có thể thực hiện các giải pháp sau:
+ Nghiên cứu, tìm hiểu các khu vực trong nước và quốc tế là nguồn có thể cung ứng các nguyên phụ liệu phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm của công ty.
+ Tính toán, cân nhắc về mức giá, chi phí vận chuyển, chất lượng các nguyên phụ liệu từ đó thiết lập các mối quan hệ với các nhà cung ứng, đảm bảo nguồn nguyên phụ liệu có thể đáp ứng cho quá trình sản xuất của công ty. Đồng thời có thể cung cấp cho các nhà cung ứng những thông tin cần thiết để họ có thể sản xuất ra các nguyên phụ liệu như nhu cầu của công ty.
Điều kiện thực hiện giải pháp: Vấn đề nghiên cứu, tìm nguồn nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất cần phải đi trước một bước. Cần tạo ra mối liên hệ và hợp tác chặt chẽ với các công ty cung cấp nguồn nguyên phụ liệu có chất lượng cao và ổn định phục vụ cho quá trình sản xuất. Bên cạnh đó công ty phải có tiềm lực vốn đáp ứng cho quá trình thu mua, dự trữ, chuyển tiếp nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất ở các phân xưởng.
2.2.3. Đầu tư máy móc hiện đại phục vụ cho sản xuất
Căn cứ đưa ra giải pháp: Để có thể chủ động sản xuất được các sản phẩm có chất lượng cao, khối lượng lớn có thể đáp ứng được các đơn đặt hàng lớn từ Hàn Quốc thì máy móc thiết bị phục vụ sản xuất cần được hiện đại hoá. Hiện nay máy móc thiết bị của công ty được trang bị khá đầy đủ tuy nhiên mức hiện đại hoá chưa cao.
Nội dung của giải pháp:
+ Trang bị thêm máy kim tự động cho các phân xưởng sản xuất để nâng cao năng suất của phân xưởng, với các sản phẩm yêu cầu phức tạp, cần nghiên cứu các phương tiện máy móc nào cần để tạo ra sản phẩm, từ đó có kế hoạch trang bị kịp thời phục vụ cho sản xuất.
+ Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ kĩ thuật có trình độ chuyên môn giỏi, có những sáng kiến cải tiến trong quá trình sản xuất, tạo năng suất cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Công ty cần tăng vốn cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ hiện đại, bên cạnh đó công ty cũng nên áp dụng hình thức liên doanh với nước ngoài(đặc biệt là các công ty Hàn Quốc) nhằm tiếp thu dây chuyền sản xuất, công nghệ mới, đổi lại công ty sẽ xuất khẩu hàng hoá sang nước họ.
Điều kiện thực hiện giải pháp: Công ty phải có những đầu tư thích hợp cho việc trang bị máy móc hiện đại phục vụ cho sản xuất. Cần chú ý đến vấn đề thích ứng giữa máy móc thiết bị và trình độ sử dụng của công nhân.
2.2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Căn cứ đưa ra giải pháp: Thời gian gần đây công ty đã từng bước trẻ hoá đội ngũ lao động và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên trong toàn công ty để đáp ứng nhiệm vụ và yêu cầu của tình hình kinh doanh mới có nhiều biến động và phức tạp. Song trong thời gian tới để có thể nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh công ty cần chú ý hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực nhất là đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, thành thạo ngoại ngữ, vi tính để làm việc với đối tác nước ngoài.
Nội dung giải pháp:
+ Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý.
Để nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý về các kiến thức như: Kỹ thuật giao dịch, kĩ năng tổng hợp( dự đoán, lập kế hoạch, ra quyết định, am hiểu về thị trường ...) thì những cán bộ này phải được đào tạo trên các lĩnh vực như: Quản trị kinh doanh, pháp luật kinh tế, tín dụng, thanh toán quốc tế, đặc biệt là đội ngũ này cần nâng cao về trình độ ngoại ngữ nhằm phục vụ tốt nhu cầu nghiên cứu, học tập các mô hình của nước ngoài để áp dụng nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý. Ngoài ra trong quá trình tuyển chọn cán bộ quản lý, công ty cũng cần phải xác định rõ các kỹ năng quản trị cần thiết để tuyển chọn được đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực góp phần vào công cuộc đổi mới cũng như quá trình phát triển của công ty.
+ Nâng cao nghiệp vụ, kĩ năng cho đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu.
Cần phải trang bị hơn nữa kiến thức về pháp luật, ngoại ngữ, tin học, phải thường xuyên cập nhật thông tin về thị trường, đối tác mà mình đang đảm nhận. Để có thể làm được điều đó công ty có thể có các hướng sau:
Khuyến khích cán bộ tham gia các lớp ngắn hạn về ngoại ngữ, tin học, thanh toán quốc tế bằng cách công ty cấp học phí và tạo điều kiện về thời gian cho họ.
Tạo điều kiện cho cán bộ xuất nhập khẩu có thể tiếp xúc một cách dễ dàng với thị trường qua hệ thống máy tính nối mạng Internet hay cho cán bộ xuất nhập khẩu ra nước ngoài theo cán bộ quản lý hoặc theo các chương trình nghiên cứu thị trường của công ty. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng nhất là trong điều kiện hiện nay khi công ty đang có hướng chuyển sang xuất khẩu trực tiếp thì vấn đề nắm bắt thị trường là một trong những yếu tố có tính chất quyết định đến khả năng thành công của hợp đồng.
Tăng cường mối liên kết giữa cán bộ xuất nhập khẩu và các phòng ban khác của công ty để có thể tạo được nguồn thông tin kịp thời, thông suất đáp ứng cho công tác chào hàng, tiến độ sản xuất, thời gian giao hàng cũng như đặc tính của từng khách hàng nhập khẩu.
+ Nâng cao tay nghề cho công nhân:
Công ty có thể áp dụng hình thức đào tạo tại chỗ đối với công nhân qua các kì thi nâng bậc để đánh giá, phân loại. Hoặc cũng có thể tổ chức các học tại công ty cho những công nhân có trình độ tay nghề trung bình và yếu, các lớp này do những công nhân có tay nghề cao ở công ty giảng dạy hay thuê ngoài tuỳ theo điều kiện của công ty và đặc điểm công việc yêu cầu.
Điều kiện thực hiện giải pháp: Công ty phải có những chiến lược, kế hoạch cho phát triển nguồn nhân lực. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người lao động có thể phát huy được năng lực của mình.
2.2.5. Nâng cao chất lượng sản phẩm
Căn cứ đưa ra giải pháp: Với các sản phẩm may xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc thì yêu cầu về chất lượng sản phẩm quyết định đến sự thành bại trong cạnh tranh. Hiện nay các sản phẩm gia công của công ty được khách hàng Hàn Quốc đánh giá cao. Tuy nhiên trong thời gian tới khi công ty chuyển sang xuất khẩu trực tiếp, phải chủ động trong vấn đề đảm bảo các yêu cầu về chất lượng hàng hoá thì vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm là một yêu cầu rất cấp thiết.
Nội dung giải pháp: Đầu tư vào cơ sở vật chất kĩ thuật, tích cực đầu tư công nghệ, thiết bị hiện đại, đầu tư phải đúng hướng, đồng bộ nhằm tạo sự chuyển biến tích cực về chất lượng sản phẩm.
Mặt khác công ty cần đào tạo tay nghề cho các cán bộ làm công tác kĩ thuật, các công nhân viên sản xuất sản phẩm trực tiếp để họ có thể làm ra sản phẩm có chất lượng cao. Đặc biệt công ty cần có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với những người có năng lực và có thể cử cán bộ kỹ thuật đi học ở nước ngoài để khi về họ sẽ là nòng cốt cho việc nâng cao trình độ cho toàn bộ lực lượng công nhân và cán bộ kĩ thuật của công ty.
Việc quản lý chất lượng sản phẩm cũng cần phải đặc biệt chú ý. Công tác quản lý kỹ thuật, kiểm tra chất lượng sản phẩm ở tất cả các khâu cần được thực hiện một cách có hiệu quả.
Điều kiện thực hiện giải pháp: Điều kiện quan trọng để thực hiện giải pháp này là công ty phải thực hiện tốt giải pháp về vốn. Chỉ nâng cao sản phẩm được khi mà công ty có vốn đề đầu tư vào công nghệ và thiết bị, đầu tư cho việc nâng cao trình độ của công nhân kĩ thuật.
2.2.6. Đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc.
Căn cứ đưa ra giải pháp: Để mở rộng xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc thì vấn đề đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng Hàn Quốc là vấn đề mang tính chiến lược. Việc đa dạng hoá sản phẩm sẽ đem lại cho khách hàng nhiều sự chọn lựa và sự thoả mãn. Chính yếu tố này sẽ góp phần quan trọng tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững của công ty.
Nội dung của phương pháp: Ngoài sản phẩm chủ yếu của công ty là: áo Jacket, áo Lông Vũ, bông...cũng trong dây chuyền sản xuất này phải kết hợp chuyển hướng sang sản xuất các sản phẩm may mặc khác như: Áo Vectong, quần áo trượt tuyết, quần áo thể thao,... cũng được người tiêu dùng Hàn Quốc rất ưa chuộng. Song song với việc đa dạng hoá sản phẩm công ty cũng phải chú ý đến công đoạn thiết kế, đa dạng kiểu dáng sản phẩm để đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng Hàn Quốc.
Điều kiện thực hiện giải pháp: Đa dạng hoá sản phẩm phải xuất phát từ việc nghiên cứu nhu cầu của người tiêu dùng Hàn Quốc. Bên cạnh đó công ty cần có những đầu tư thích hợp từ khâu tiếp cận thị trường Hàn Quốc để tìm ra nhu cầu sản phẩm mới, đến khâu thiết kế, sản xuất sản phẩm, xuất khẩu sản phẩm và cuối cùng là thu thập những thông tin phản hồi của khách hàng về sản phẩm.
2.2.7. Thực hiện công tác phát triển sản phẩm mới.
Căn cứ đưa ra giải pháp: Hiện nay các sản phẩm chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc là: Áo Jacket, áo sơmi, váy, áo gián đường may...Thực hiện xuất khẩu theo hình thức gia công thì công ty không cần phải quan tâm nhiều đến vấn đề chủng loại sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên trong quá trình chuyển đổi sang hình thức xuất khẩu trực tiếp thì công ty phải đối diện với vấn đề này. Để sản phẩm của công ty có thể cạnh tranh được với các sản phẩm khác thì yêu cầu đặt ra với công ty là phải có các sản phẩm mới mang đặc trưng của mình, phải xem mẫu mốt là yếu tố chủ yếu trong chiến lược phát triển sản phẩm của công ty.
Nội dung của giải pháp: Trước hết công ty phải xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật đầy đủ cho việc sáng tạo sản phẩm mới. Tiếp đó là vấn đề tuyển dụng và đào tạo đội ngũ nhân viên thiết kế có trình độ và khả năng tiếp cận thị trường Hàn Quốc. Công ty có thể liên kết với các trung tâm thời trang Hàn Quốc để tìm hiểu về sản phẩm, về nhu cầu, thị hiếu của khách hàng từ đó có những sản phẩm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng và đem lại doanh thu lớn cho công ty.
Điều kiện thực hiện giải pháp: Hoạt động nghiên cứu sản phẩm mới phải được quan tâm đúng mức. Công các nghiên cứu sản phẩm mới phải gắn liền với thị hiếu của người tiêu dùng Hàn Quốc và phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của công ty.
2.2.8. Huy động thêm và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn.
Căn cứ thực hiện giải pháp: Là một mô hình doanh nghiệp cổ phần hoá hiệu quả của tỉnh Bắc Giang nguồn vốn của công ty đã liên tục tăng qua các năm. Tuy nhiên để chuyển sang hình thức xuất khẩu trực tiếp, đòi hỏi công ty phải huy động một nguồn vốn rất lớn để có thể đáp ứng được các nhu cầu về: nguyên, phụ liệu đầu vào cho sản xuất; máy móc sản xuất, công tác giới thiệu sản phẩm...
Nội dung của giải pháp: Để có đủ vốn đáp ứng cho sản xuất thì ngoài huy động vốn từ vay ngân hàng, từ các tổ chức kinh tế, cán bộ công nhân viên, các cổ đông...Công ty có thê huy động thêm vốn bằng cách phát hành cổ phiếu. Hiện nay thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển mạnh, điều đó hứa hẹn mang đến cho công ty một kênh huy động vốn lớn nếu công ty sử dụng một cách có hiệu quả thị trường này. Bên cạnh đó công ty cũng cần tăng cường liên kết với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may khác để có thể tận dụng được nguồn vốn của nhau phục vụ cho phát triển hoạt động xuất khẩu.
Điều kiện thực hiện giải pháp: Nhà nước cần tạo một môi trường vốn sôi động và linh hoạt hơn nhất là thị trường chứng khoán để các doanh nghiệp có thể huy động được nguồn vốn trên thị trường này. Bên cạnh đó công ty cũng phải đặc biệt chú ý tới hiệu quả sử dụng vốn như: Đầu tư có trọng điểm, tránh dàn trải và đặc biệt là vấn đề tăng quay vòng vốn.
2.2.9. Xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm công ty Cổ Phần May Bắc Giang
Điều kiện thực hiện giải pháp: Thương hiệu và hình ảnh của công ty giữ một vị trí quan trọng trong việc cạnh tranh cuả các sản phẩm trên thị trường. Công ty đã xuất khẩu rất nhiều sản phẩm sang thị trường Hàn Quốc trong thời gian qua. Tuy nhiên do chủ yếu là gia công xuất khẩu lên thương hiệu sản phẩm dệt may của công ty chưa được nhiều người biết đến.
Nội dung của giải pháp: Khi từng bước chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp công ty cần phải xây dựng và quảng cáo mạnh mẽ cho thương hiệu của mình. Vì kinh phí cho việc đăng kí thương hiệu của công ty tại đất nước Hàn Quốc là khá lớn, chính vì thế công ty có thể thực hiện các biện pháp quảng cáo thương hiệu khác như: Quảng bá trong nước, quảng bá qua Internet, sử dụng việt kiều nước ta để giao hàng tận tay cho người tiêu dùng, tạo lập mối quan hệ tốt với khách hàng để qua đó tạo uy tín...Và trong dài hạn biện pháp cần thiết phải thực hiện để quảng cáo thương hiệu của công ty là đăng kí thương hiệu ở Hàn Quốc, thuê công ty tư vấn riêng, tiếp thị thông qua Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam và qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Điều kiện thực hiện giải pháp: Công ty phải đầu tư mạnh mẽ cho công tác Marketing giới thiệu sản phẩm. Phải xây dựng được đội ngũ nhân viên Marketing giỏi và có kinh nghiệm trong giao dịch thương mại và giới thiệu sản phẩm.
2.2.10. Đảm bảo tốt các điều kiện về sản phẩm dệt may xanh- sạch
Căn cứ đưa ra giải pháp: Trong xu thế hội nhập cạnh tranh gay gắt khi đưa hàng ra các thị trường lớn, dệt may Việt Nam cũng đang gặp phải không ít khó khăn trước những rào cản thương mại, những tiêu chuẩn mà đối tác đặt ra. Trong số hàng loạt các tiêu chuẩn bắt buộc đặt ra đối với hàng dệt may, các nhà nhập khẩu hiện quan tâm nhiều đến tiêu chuẩn xanh, sạch đối với sản phẩm ngay từ khâu nguyên liệu đến thành phẩm...
Một thực tế đặt ra đối với công ty ngành dệt may Việt Nam là cho đến nay, việc sản xuất các sản phẩm “xanh” chưa được quan tâm áp dụng đúng mức. Một số nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp còn chưa được trang bị kiến thức hoặc hiểu biết còn hạn chế về những yêu cầu “xanh” đối với các sản phẩm dệt may xuất khẩu. Ngoài ra, phần lớn các xí nghiệp trong dây chuyền nhuộm-hoàn tất vẫn còn sử dụng một số hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm và các hóa chất gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái, sức khỏe người lao động và thậm chí đến cả người sử dụng sản phẩm.
Nội dung của giải pháp: Để giải quyết được tình trạng trên, đòi hỏi trước tiên vẫn là ý thức của nhà sản xuất trong việc thực hiện các tiêu chuẩn về vệ sinh xanh sạch trong sản xuất. còn về phía công ty Cổ Phần May Bắc Giang trong công tác làm hàng xuất khẩu, cần rà soát một cách kỹ lưỡng, cẩn thận những hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm đang sử dụng (bao gồm cả hàng nhập khẩu và sản xuất trong nước), phải biết rõ nguồn gốc, xuất xứ của chúng và cần có “hồ sơ” của từng loại hóa chất, chất trợ, từng mẫu thuốc nhuộm. Đó là “Phiếu các số liệu an toàn” (safety data sheets) mà các hãng sản xuất hóa chất, thuốc nhuộm đều có. Thay thế vào đó là những hóa chất , chất phụ trợ thân thiện với môi trường, các thuốc nhuộm biết rõ nguồn gốc xuất xứ, chất lượng tốt, loại mới, không độc hại và ít ô nhiễm môi trường. Song song với hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm (dùng cả trong nhuộm và in hoa) là công nghệ áp dụng và máy móc thiết bị tương ứng.
Để phát triển bền vững, tăng trưởng mạnh, tạo sức mạnh cạnh tranh với các nước xuất khẩu hàng dệt may trên thị trường rộng lớn và “khó tính” như Hàn Quốc, các vấn đề tiêu chuẩn hàng hóa và môi trường cũng cần được công ty ưu tiên lên hàng đầu trong chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh trong tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất. Căn cứ vào các tiêu chuẩn và các yêu cầu sinh thái của hàng dệt may nhập khẩu vào các thị trường Hàn Quốc, công ty cần có những biện pháp giám sát kiểm tra để nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của hàng hóa. Những tiêu chuẩn như thế sẽ tạo ra những sức ép “bên trong” nhằm tạo ra các sản phẩm “xanh” phù hợp.
Điều kiện thực hiện giải pháp: Trên cơ sở những tiêu chuẩn chung của quốc tế và trong nước về sản phẩm dệt may “ Xanh- sạch”, công ty phải xây dựng được các tiêu chuẩn riêng cho các nhóm sản phẩm của mình. Chính những quy định về tiêu chuổn đó sẽ là thước đo xuyên suất trong quy trình sản xuất của doanh nghiệp. Sự tôn trọng và tuân thủ theo những tiêu chuẩn này sẽ là yếu tố tiên quyết cho sự phát triển bền vững của công ty.
2.3. Kiến nghị với nhà nước
2.3.1. Tạo hành lanh thông thoáng hơn nữa để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sản phẩm dệt may bằng việc hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động xuất nhập khẩu
Cần đơn giản hoá các thủ tục nhập nguyên phụ liệu, nhập hàng mẫu, nhập bản vữ để thực hiện các hợp đồng gia công xuất khẩu vẫn còn rườm rà, mất nhiều thời gian, gây khó khăn cho các doanh nghiệp.
Đơn giản hoá thủ tục hoàn thuế thu nhập và xây dựng mức thuế chi tiết cho các nguyên liệu nhập khẩu.
Áp dụng hình thức khai báo một lần cho một lượng hàng hoá lớn xuất khẩu nhiều lần trong một thời gian xác định.
Áp dụng tin học vào quản lý gia công và sản xuất hàng xuất khẩu, công tác giám sát Hải Quan tại cửa biển, đăng kí tờ khai. Nên chăng Hải Quan cấp chứng chỉ xanh cho các doanh nghiệp xưa nay làm ăn nghiêm chỉnh để giảm bớt phiền hà trong thủ tục.
Hoàn chỉnh việc khẳng định pháp lý trách nhiệm tự kê khai, tự áp mã thuế và chịu trách nhiệm của doanh nghiệp.
2.3.2. Có những chính sách khuyến khích, thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thi trường Hàn Quốc
Nhà nước cần có các chính sách tạo điều kiện cho công ty đủ sức cạnh tranh trong bối cảnh của sự toàn cầu hoá:
Trước hết là cho tiếp tục áp dụng thuế suất xuất khẩu hàng dệt may bằng 0% để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
Với mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu trên cơ sở khai thác, phát huy hiệu quả, nội lực của đất nước, Bộ tài chính cần xem xét lại mức thuế nhập khẩu của các mặt hàng trong nước đã bắt đầu sản xuất được, trong đó có sợi, vải, để đảm bảo sản xuất trong nước tránh tình trạng giá thành sản xuất của sản phẩm lại lớn hơn giá nhập khẩu, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá của các doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài. Nhà nước cần miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất các chủng loại sản phẩm( mặt hàng dệt, phụ liệu may...) thay thế nhập khẩu để làm hàng phục vụ sản xuất xuất khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có thể bán ngang hoặc thấp hơn giá nhập sản phẩm cùng chủng loại và tạo cho hàng may mặc xuất khẩu được theo phương thức FOB.
Bên cạnh đó, nhà nước có thể áp dụng một số biện pháp khác như cấp tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu...nhằm giúp công ty giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh, tăng thu nhập, lợi nhuận đẩy mạnh được hoạt động xuất khẩu. Cụ thể của biện pháp đó như sau:
+ Thành lập quỹ bảo hiểm và quỹ hỗ trợ xuất khẩu chung cho cả nước đồng thời cho phép Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam thành lập quỹ bảo hiểm riêng cho ngành nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp khi giá cả trên thị trường thế giới biến động cũng như gặp rủi ro trong hoạt động xuất nhập khẩu
+ Chính phủ hỗ trợ cho các doanh nghiệp dệt may thông qua công cụ lãi suất, tạo điều kiện cấp vốn, cho vay vốn với lãi suất thấp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dệt may có thể có điều kiện phát triển sản xuất, mở rộng thị trường.
Hiện nay công ty Cổ Phần May Bắc Giang được tổ chức và hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, trong công ty có bộ phận phòng kế toàn tài chính là đầu mối và phương tiện giúp công ty huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong các cá nhân, tổ chức thành viên và các tổ chức kinh tế, tài chính khác. Để có thể mở rộng sản xuất hơn nữa vào thị trường Hàn Quốc doanh nghiệp cần phải huy động thêm một lượng vốn rất nhiều từ bên ngoài. Công ty cũng có định hướng sử dụng nguồn vốn vay từ nhà nước, nếu nhà nước có chính sách lãi suất hỗ trợ cho các doanh nghiệp dệt may thì điều này sẽ tạo ra được cơ hội tốt cho doanh nghiệp sớm chuyển hướng sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm.
Bên cạnh đó, nhà nước cần duy trì tốt quan hệ tài chính tín dụng, tiền tệ, sự biến động về tỉ giá đồng USD so với VNĐ. Đặc biệt trong mấy tháng gần đây tình hình kinh tế trong nước có nhiều biến động của lạm phát và USD giảm giá mạnh so với VNĐ gây ảnh hưởng tiêu cực cho doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu hàng hoá nói chung và các doanh nghiệp trong ngành dệt may nói riêng. Do đồng tiền thanh toán trong giao dịch xuất nhập khẩu của các công ty chủ yếu là đồng USD, chính vì thế đồng USD mất giá đồng nghĩa với việc lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bị giảm, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn. Để giải quyết vấn đề này nhà nước lên áp dụng chính sách giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, đẩy nhanh tiến độ hoàn thế để doanh nghiệp không bị chôn vốn, kẹt tiền trong các cơ quan thuế. Đồng thời nhà nước cũng nên có chính sách hỗ trợ người lao động để họ có thể yên tâm sản xuất và giảm thiểu nguy cơ đình công..
2.3.3. Thiết lập mối quan hệ Kinh Tế- Chính Trị bền vững với Hàn Quốc tạo cơ sở thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm sang Hàn Quốc
Với cơ cấu kinh tế giữa hai nước Việt Nam- Hàn Quốc mang tính bổ sung nhiều hơn là cạnh tranh việc tăng cường quan hệ kinh tế- thương mại với Hàn Quốc sẽ giúp chúng ta tranh thủ được sự trợ giúp kĩ thuật của Hàn Quốc thông qua các chương trình, dự án hợp tác kinh tế để phát triển các ngành công nghiệp trong nước nói chung và phát triển ngành dệt may nói riêng.
Ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đang thu hút các nhà đầu tư Hàn Quốc. Với lợi thế giá công nhân rẻ hơn so với Trung Quốc, lực lượng lao động khéo léo, có kĩ năng nếu nhà nước có những chính sách khuyến khích đa dạng dành cho nhà đầu tư Hàn Quốc thì rất có khả năng sẽ tạo ra được làn sóng đầu tư từ Hàn Quốc sang thị trường dệt may Việt Nam.
Như vậy xuất khẩu dệt may sang thị trường Hàn Quốc có rất nhiều cơ hội để phát triển. Tuy nhiên để nắm bắt được cơ hội đó thì vấn để ổn định trong mối quan hệ kinh tế chính trị giữa Việt Nam- Hàn Quốc là điều kiện tiên quyết. Điều này đòi hỏi Đảng và nhà nước phải có chính sách ngoại giao tốt, tăng cường mối quan hệ giữa hai nước để tạo điều kiện cho xuất khẩu sản phẩm dệt may.
nKÕT LUËN
Trong mục tiêu phát triển của mình, để có thể hội nhập sâu rộng và thành công trên thị trường dệt may thế giới. Hơn lúc nào hết, các doanh nghiệp dệt may trong nước cần phải có kế hoạch sản xuất kinh doanh hợp lý để không bị bất ngờ với điều kiện mới và đặc biệt là không bị vi phạm vào những quy luật chung trong sân chơi quốc tế.
Trong thời gian qua, dưới tác động của những diễn biến chung trên thế giới và những biến động lớn của ngành dệt may. Yêu cầu đặt ra với các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu là cần phải có kế hoạch thị trường tốt, nâng cao chất lượng sản phẩm và phải có bước đi hợp lý mới có thể phát triển bền vững trong môi trường cạnh tranh quốc tế.
Công ty Cổ Phần May Bắc Giang cũng đang từng bước gia nhập sâu hơn vào thị trường quốc tế. Với những kết quả công ty đã đạt được trên thị trường Hàn Quốc thời gian qua và những định hướng công ty đã đặt ra cho phép chúng ta kì vọng vào sự phát triển mạnh mẽ của công ty trong thời gian tới. Bên cạnh sự nỗ lực, cố gắng từ phía công ty cần có sự hỗ trợ từ phía các cơ quan hữu quan của nhà nước. Với sự quyết tâm đạt được mục tiêu và sự hỗ trợ đồng bộ của nhà nước nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may, tôi tin tưởng rằng trong một tương lai không xa sản phẩm dệt may của công ty Cổ Phần May Bắc Giang sẽ có chỗ đứng và đứng vững trên thị trường Hàn Quốc.
TµI LIÖU THAM KH¶O
1. ĐHQG- Nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu
2. NXB Bộ Thương Mại và Du Lịch- chính sách và biện pháp quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu
3. NXB Thống Kê - Công nghiệp Dệt May Việt Nam, thực trạng, chính sách và triển vọng
4. NXB Thống Kê - Quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu Nguyễn Lương Tiểu Bằng - Đi tìm con đường phát triển cho dệt may Việt Nam
TC Thương mại 2005/Số 14
5. Nguyễn Hà, vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - TC Thương mại 2005/Số 14
6. Trang Web của bộ Công Thương:
7. Trang Web Dân Trí:
8. Trang Web của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư:
9. Trang Web của tỉnh Bắc Giang:
10. Trang Web của công ty Cổ Phần May Bắc Giang:
11. Trang Web nghiên cứu Hàn Quốc:
12. Trang Web của bộ Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam:
MôC LôC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7314.doc