Các giải pháp cơ bản để tiến hành Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

Phần I: Lời mở đầu Từ Đại hội Đảng lần thứ III đến nay, Đảng ta luôn luôn xác định CNH là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Thực hiện nhiệm vụ đó, những năm qua, nhất là những năm đổi mới, chúng ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, tạo ra thế và lực mới cho phép chuyển sang một thời kỳ phát triển cao hơn, đẩy tới một bước CNH, HĐH nước nhà. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện CNH những năm trước đây, do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân chủ quan nóng vội, chúng ta đã mắc phả

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1467 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp cơ bản để tiến hành Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i một số sai lầm khuyết điểm. Muốn tiếp tục phát huy thành tích, khắc phục yếu kém đẩy lùi nguy cơ tụt hậu về kinh tế, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng một nước nghèo để phát triển nhanh trên con đưòng đã lựa chọn. Chúng ta không còn cách nào khác là đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Một thời kỳ phát triển mới đang mở ra trên đất nước ta, mục tiêu từ nay đến năm 2000, phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định. "Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở mức cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh". Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước là cả một sự nghiệp to lớn và lâu dài. Trong khuôn khổ của một đề án, em không thể bao quát đánh giá hết quá trình CNH, HĐH ở nước ta và với vốn kiến thức còn hạn chế, bài viết của em khó tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót. Em rất mong được sự hướng dẫn giúp đỡ của thầy giáo để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo. Phần II: Những vấn đề CNH- HĐH ở nước ta A- Lý luận chung: I/ Sự cần thiết của CNH - HĐH ở Việt Nam: Muốn cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, đất nước từng bước tiến lên CNXH, đi đối với việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiên tiến, chúng ta nhất thiết phải phát triển lực lượng sản xuất với năng suất lao động ngày càng cao. Mà muốn có lực lượng sản xuất hùng hậu và năng suất lao động xã hội cao thì không thể chỉ dựa vào nền nông nghiệp lạc hậu, sử dụng lao động thủ công; trái lại phải phát triển mạnh công nghiệp cùng với đổi mới công nghệ ngày càng hiện đại tạo nền tảng cho sự phát triển nhanh, hiệu quả cao và bền vững cho toàn bộ nền KTQD. Nói cách khác chúng ta phải tiến hành CNH theo hướng HĐH. CNH là một giai đoạn phát triển tất yếu đối với các quốc gia muốn tiến lên từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Đây là xu thế chung của lịch sử. Đối với nước ta CNH-HĐH nền kinh tế là một đòi hỏi tất yếu của việc phát triển mô hình kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Quan điểm này khẳng định CNH-HĐH là vấn đề quan trọng đặc biệt, là bước phát triển tất yếu đối với nước ta, nhất là trong điều kiện hiện nay khi nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội kém phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật chưa xây dựng được bao nhiêu, kinh tế tuy có phát triển khá nhưng năng suất, chất lượng và hiệu quả còn rất thấp, còn nhiều yếu tố chưa vững chắc, khả năng cạnh tranh còn quá thấp so với nhiều nước xung quanh. Thực tế này cho thấy nguy cơ tụt hậu xa hơn vẫn còn rất lớn, cho nên chỉ có CNH-HĐH mới là con đường cơ bản khắc phục được những yếu kém của nền kinh tế nước ta, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ được độc lập chủ quyền, sớm thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, đảm bảo định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, thực tiễn đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã chỉ rõ sự nghiệp đổi mới là sự nghiệp của quần chúng, CNH-HĐH cũng là sự nghiệp của toàn dân, vì lợi ích của nhân dân và do dân thực hiện. Quần chúng nhân dân khi nhận thức đầy đủ lợi ích của CNH-HĐH họ sẽ phấn đấu vươn lên học tập để nâng cao trình độ văn hóa, kỷ luật, tay nghề để làm chủ được công nghiệp hoá, hiện đại hóa, họ sẽ là người đóng góp sức lao động, tài năng, sáng tạo, tiền vốn, tài sản của mình cho sự nghiệp CNH-HĐH. II/ Thực chất của công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Trong điều kiện ngày nay, quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hóa (CNH-HĐH) dù trên góc độ nào cũng không đồng nhất quá trình phát triển công nghiệp. Tuy quá trình CNH-HĐH này có những nét riêng đối với từng nước, nhưng đó chỉ là sự vận dụng một quá trình có tính chất phổ biến cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước mà thôi. Công nghiệp hóa là quá trình rộng lớn và phức tạp, bản chất của quá trình này bao hàm trên các mặt sau đây: a) Công nghiệp hóa là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành chiếm vị trí trọng yếu. Thực hiện CNH-HĐH trong điều kiện cách mạng khoa học - kỹ thuật ngày nay, quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ cho các ngành phải gắn liền với quá trình hiện đại hóa ở cả phần cững và phần mềm của công nghệ. Quá trình này cũng đồng thời là quá trình xây dựng xã hội văn minh công nghiệp và cải biến các ngành kinh tế, các hoạt động theo phong cách của nền công nghiệp lớn hiện đại. Quá trình ấy phải tác động làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội nhanh và ổn định, cải thiện đời sống xã hội và tinh thần của các tầng lớp dân cư, thu hẹp dần chênh lệch trình độ kinh tế - xã hội của đất nước với các nước phát triển. a) CNH-HĐH xét trên góc độ kinh tế -kỹ thuật: Là cái đích cần vươn tới trong quá trình CNH-HĐH. Nhưng sự vươn lên về trình độ công nghiệp này lại bị ràng buộc bởi yêu cầu đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội. Xét toàn cục, CNH-HĐH chỉ là phương tiện, điều kiện để đạt tới mục tiêu của quá trình CNH-HĐH mà thôi. Giải quyết quan hệ này có liên quan trực tiếp đến bước đi của quá trình hiện đại hóa theo những điều kiện cụ thể của đất nước. ý tưởng muốn đi vào công nghệ hiện đại ở tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động nhằm nhanh chóng xóa bỏ tình trạng nghèo nàn lạc hậu là ý tưởng phiêu lưu độ quản lý có hạn và thiếu thôn trầm trọng thêm những vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước. Trong điều kiện nhân lực dồi dào, trình độ quản lý có hạn và sự thiếu thốn trầm trọng về vốn đầu tư, cần phải dành ưu tiên hiện đại hóa các ngành, các lĩnh vực "đầu tàu" mà sự phát triển các ngành khác góp phần cải thiện vị trí đất nước trong quan hệ kinh tế quốc tế. Việc kết hợp công nghệ với nhiều trình độ khác nhau trở thành một tất yếu khách quan. Quan niệm một cách đơn giản theo kiểu "cũ người mới ta", "cái không tiên tiến của nước khác này là cái hiện đại của mình" trong lựa chọn công nghiệp nhập sự thiếu hiểu biết và thiếu thông tin đã dẫn đến các nước đang phát triển đến lựa chọn thiết bị lạc hậu hoặc thiết bị lạc hậu hoặc thiết bị cũ đã được tân trang lại. Cái giá phải trả quá đắt, tốc độ hiện đại hóa không được đẩy nhanh. b) Quá trình CNH-HĐH không chỉ phát triển công nghiệp: mà là quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của một nước. Đó là lẽ tất yếu vì nền kinh tế của mỗi nước là một hệ thống thông nhất, các ngành, các lĩnh vực hoạt động có quan hệ tương đối với nhau. Sự thay đổi ở các ngành kinh tế, lĩnh vực hoạt động này sẽ kéo theo hoặc sẽ đòi hỏi sự thay đổi thích ứng ở các ngành, các lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy quá trình CNH-HĐH, cũng gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu các ngành kinh tế. Trong sự chuyển dịch cơ cấu của quá trình CNH-HĐH vị trí của các ngành sẽ được thay đổi và các ngành có quan hệ ràng buộc với nhau: Sự chuyển dịch cơ cấu, kinh tế ở các nước đang phát triển trong quá trình CNH-HĐH nói chung diễn ra theo xu hướng sau đây: - Nông nghiệp, trong giai đoạn đầu giữ vị trí hàng đầu, là hoạt động kinh tế cơ bản của dân cư, tạo ra những hàng hoá tiêu dùng thiết yếu cho dân cư và bảo đảm một số điều kiện quan trọng cho phát triển công nghiệp. Đến trình độ phát triển nhất định, khi những nhu cầu cơ bản về lương thực, thực phẩm đã được bảo đảm, nông nghiệp sẽ chuyển vị trí xuống hàng thứ yếu. Tỷ trong lao động nông nghiệp trong lao động xã hội và giá trị sản phẩm nông nghiệp trong tổng giá trị sản lượng sẽ giảm dần. Cũng cần nói thêm rằng, trên thế giới gần như không có nước nào làm giàu bằng nông nghiệp thuần túy. Công nghiệp trong nhận thức luôn được coi là ngành quan trọng nhưng trong mỗi giai đoạn đầu của CNH-HĐH, cả nước đang phát triển chỉ có lực lượng công nghiệp nhỏ bé sản xuất hàng tiêu dùng đơn giản và khai thác các sản phẩm thô từ tài nguyên thiên nhiên. Trong quá trình CNH-HĐH công nghiệp luôn được giành ưu tiên phát triển. Tuy CNH-HĐH không đồng nhất với phát triển công nghiệp, nhưng không thể CNH-HĐH nếu không phát triển mạnh công nghiệp. Bởi vậy, với vị trí khiêm tốn ban đầu, công nghiệp dần dần chiếm lĩnh vị trí hàng đầu trong cơ cấu kinh tế quốc dân của đất nước. - Các hoạt động dịch vụ sản xuất và dịch vụ đời sống là điều kiện để phát triển các ngành kinh tế và cải thiện đời sống của dân. Không thể có quá trình công nghiệp hóa nhanh bằng hệ thống dịch vụ, đặc biệt là hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế tồi được. Ngay giai đoạn đầu của quá trình CNH-HĐH cần chú ý thỏa đáng cho phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng để phát triển sản xuất và thu hút đầu tư nước ngoài. Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi nước trong quá trình CNH-HĐH sẽ trải qua giai đoạn: từ cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ chuyển sang cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ. c) Quá trình công nghiệp hóa trong bất kỳ giai đoạn nào cũng đều là quá trình kinh tế - kỹ thuật vừa là quá trình kinh tế - xã hội. Việc thực hiện có kết quả quá trình CNH-HĐH sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kỹ thuật, thấp kém về kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi "vòng luẩn quẩn". Đồng thời, quá trình công nghiệp hóa cũng gắn liền với quá trình thủ tiêu tình trạng lạc hậu về xã hội văn minh công nghiệp. Quá trình kinh tế - xã hội có quan hệ ràng buộc nhau. Quá trình kinh tế kỹ thuật tạo điều kiện vật chất kỹ thuật cho việc thực hiện các nội dung của quá trình kinh tế - xã hội. Ngược lại, quá trình kinh tế - xã hội góp phần tạo nên động lực cho thực hiện quá trình kinh tế - kỹ thuật. Đối với mỗi nước, CNH-HĐH là quá trình lịch sử lâu dài. Theo nhà kinh tế học W.Rostow, sư phát triển của mỗi đất nước trải qua 5 giai đoạn: Xã hội truyền thống. Chuẩn bị tiền đề cho cất cánh; cất cánh; tiến tới sự trưởng thành; Tiêu dùng ở trình độ cao. Có thể thấy quá trình CNH-HĐH được khởi đầu bằng việc "chuẩn bị tiền đề cho cất cánh", được thực hiện mạnh mẽ trong giai đoạn "cất cánh" và kết thúc khi xã hội đã "tiến tới sự trưởng thành". Khoảng thời gian của mỗi giai đoạn và toàn bộ quá trình CNH-HĐH dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiều nhân tố chủ quan và khách quan, trong đó nhân tố xác định đúng mô hình chiến lược và tổ chức thực hiện tốt chiến lược CNH-HĐH đúng vai trò cực kỳ quan trọng. Khi đất nước đạt tới trình độ nhất định về kinh tế - xã hội - kỹ thuật - xã hội, quá trình CNH-HĐH sẽ kết thúc. Để đánh dấu điểm mốc này cần có những tiêu chuẩn cụ thể nhận định, tiêu chuẩn này không phải chỉ là sự so sánh trình độ đạt được với trình độ của đất nước trong quá khứ, mà còn phải so sánh với các nước khác theo những chuẩn mực chung (chẳng hạn mức tổng sản phẩm trong nước tính bình quân đầu người, tỷ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm trong nướ; mức này lượng tiêu chuẩn tiêu dùng tính theo đầu người; lượng calo tiêu thụ bình quân đầu người...) d) Quá trình CNH-HĐH cũng đồng thời là quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Trong điều kiện ngày nay, mở rộng phân công lao động quốc tế và quốc tế đời sống trở thành xu thế phát triển ngày càng mạnh mẽ. Mỗi nước trở thành một bộ phận của hệ thống kinh tế thế giới, có tác động tương hỗ ở mức độ khác nhau với kinh tế của các nước, khác nhau và chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế - xã hội chung của thế giới. ở mỗi nước, việc xác định mục tiêu, phương thức CNH-HĐH cần phải phân tích, dự đoán được những biến động kinh tế - xã hội chung của thế giới đặc biệt là của các nước trong khu vực. Cần phải đặt sự phát triển kinh tế của đất nước trong việc xây dựng hệ thống kinh tế mở, tăng cường quan hệ thương mại quốc tế tham gia vào quá trình cạnh tranh và liên kết kinh tế quốc dân. Về nguyên tắc, việc thực hiện CNH-HĐH phải dựa vào các nguồn lực trong nước là chủ yếu. Việc xây dựng kinh tế mở, thực hiện phương châm "tự lực cánh sinh", phải tiến hành trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của đất nước để tham gia tích cực vào quan hệ kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh này, việc tranh thủ sự trợ giúp về tài chính, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý... từ bên ngoài phải được coi là một điều kiện đặc biệt quan trọng nhất là trong giai đoạn đầu của quá trình CNH-HĐH. Thực tiễn cho thấy hàng trăm nước lạc hậu có thể kế thừa những kinh nghiệm đồ sộ và sự trợ giúp bên ngoài của các nước phát triển, nhưng những thành công lại quá ít ỏi. Bối cảnh quốc tế và thực trạng trong nước cụ thể rất khác nhau, sự sao chép máy móc kinh nghiệm các nước khác nhau chưa bao giờ đem lại tấm gương thành công nào cả. Vả lại, mọi sự giúp đỡ đề có giá theo tinh thần có đi có lại. Việc khai thác các nguồn lực tư nhân, phát huy lợi thế tự nhiên để tham gia vào quan hệ quốc tế kết hợp với việc bảo tồn và tái tạo các nguồn lực ấy. Mọi sự lạm dụng "sức mạnh của con người trong chinh phục tự nhiên" theo kiểu bóc lột, hủy hoại tài nguyên sẽ dẫn con người đến chỗ tàn phá ngay môi trường tồn tại của chính mình. e) CNH-HĐH không phải là mục đích tự thân vận động mà là một phương thức có tính chất phổ biến để thực hiện mục tiêu của mỗi nước. Mỗi nước đề có hệ thống mục tiêu riêng của mình. Tuy vậy, về hình thức vấn có thể thấy được tương đồng về hệ thống mục tiêu của các nước. Đó là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại, khai thác có hiệu quả các nguồn lực đất nước, bảo đảm nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh và ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp dân cư... Mục tiêu của mỗi nước phụ thuộc vào quan điểm của hệ thống chính trị lãnh đạo. Phương hướng qui mô và nhịp điệu CNH-HĐH phụ thuộc vào đặc điểm chính trị xã hội của từng nước. Đó chính là một trong những biểu hiện của quan hệ biện chứng giữa cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng. Và không thể thực hiện thành công CNH-HĐH nếu không có hệ thống chính trị - xã hội ổn định và không được đổi mới. Ngược lại, cũng không thể giữ được ổn định về chính trị - xã hội, chủ quyền của đất nước không thực hiện có hiệu quả quá trình CNH-HĐH. Chính vì vậy, chúng ta có thể khái quát rằng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại có thể là nền đại công nghiệp cơ khí hóa cân đối và hiện đại dựa trên trình độ khoa học công nghệ ngày càng phát triển cao. Cơ sở vật chất - kỹ thuật đó phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa sản xuất và lao động cao. Để có được cốt lõi vật chất - kỹ thuật như vậy, tất cả các nước phải tiến hành xây dựng nó. Nói cách khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại và quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước trong hệ thống kinh tế "mở". Đây là một trong những nhiệm vụ to lớn, khó khăn nhất, nhưng có tính chất quyết định đối với sự sống còn của bất cứ xã hội nào, nước nào. Chỉ khi tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại như vậy mới có thể làm thay đổi căn bản đời sống vật chất và tinh thần của xã hội, đẩy mạnh tốc độ, tăng năng suất lao động và thỏa mãn ngày càng đa dạng các nhu cầu của nhân dân. B- Nội dung của đề tài: I/ Những khó khăn và thuận lợi khi nước ta tiến hành CNH-HĐH. Có thể chia quá trình CNH ở nước ta trong hơn 30 năm qua thành 2 giai đoạn lớn: 1960 - 1986 và 1986 đến nay: 1. Giai đoạn 1960-1986: Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là thực hiện một chiến lược nhất quán được xác định từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960) và có điều chỉnh, bổ sung chút ít trong các Đại hội IV (12/1976); V (1981) và các hội nghị Trung ương. Đại hội Đảng lần thứ III chỉ rõ: "Muốn cải tiến tình trạng nông nghiệp lạc hậu hiện nay của nước ta, đưa nước ta chế độ sản xuất nhỏ là chủ yếu lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hóa XHCN. Vì vậy CNH XHCN là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở nước ta"(1) và (2) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc Đảng lao động Việt Nam (9-1960) và "chủ trương của Đảng và công nghiệp hóa XHCN ở miền Bắc là: "Xây dựng một nền kinh tế XHCN cân đối và hiện đại, kết hợp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp năng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại"(2). Trong khoảng thời gian ngắn ngủi (1961-1964) CNH ở miền Bắc đã được tiến hành với nhịp điệu khẩn trương trong điều kiện hòa bình và thu được kết quả đáng ghi nhận. Năm 1965 so với 1955 vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong công nghiệp tăng 6 lần: Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 9,2 lần, trong khi đó đầu tư cơ bản cho nông nghiệp chỉ tăng 1,96 lần và giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 1,6 lần. Trong thời kỳ 1961-1965. Tố độ tăng bình quân giá trị tổng sản lượng công nghiệp là 13,4%, của nông nghiệp 4,1%. Do vậy tỷ trọng của công nghiệp trong thu nhập quốc dân tăng từ 16% (1957) lên 18,2% (1960) và 22,2% (1965); Còn tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 44,3% (1957) xuóng 42,3% (1960) và 41,7% (1965). Đến năm 1964 miền Bắc nước ta về căn bản giải quyết được vấn đề lương thực và đáp ứng được 90% nhu cầu hàng tiêu dùng đồng thời bắt đầu tạo nguồn tích lũy từ trong nước. Đầu năm 1965, đế quốc Mỹ đã mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc. Trước tình hình mới đó Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế cho phù hợp với thời chiến, đồng thời vẫn đảm bảo phương hướng lâu dài cho sự nghiệp công nghiệp hóa. Đảng ta chủ trương vừa chú trọng đúng mức xây dựng kinh tế trung ương vừa lấy xây dựng kinh tế địa phương làm trọng tâm, vừa sản xuất vừa chiến đấu. Ngay trong những năm có chiến tranh phá hoại do đế quốc Mỹ gây ra, vốn chi cho phát triển kinh tế vẫn tăng lên. So với thời kỳ 1955-1957 vốn chi cho phát triển kinh tế trong thời kỳ 1965-1968 tăng 5,7 lần. Mặc dù năm 1972 là năm đế quốc Mỹ đánh phá ác liệt nhât, vốn chi cho phát triển kinh tế vẫn gấp 2,4 lần so với 1960 và gấp 1,8 lần so với 1964. Vốn đầu tư vào công nghiệp luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư cho khu vực sản xuất vật chất nói riêng và cho nền kinh tế quốc dân nói chung: 37,4% (1958-1960); 44% (1961-1965); 32,4% (1966-1971); 32,9% (1972-1975). Trong đó phần đầu tư của Nhà nước cho công nghiệp địa phương quản lý tăng nhanh về tốc độ và nâng lên về tỷ trọng. Dù trong hòan cảnh phải đánh trả hai lần chiến tranh phá hoại ác liệt, phải tập trung sức người, sức của cho giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, miền Bắc vẫn tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội tiếp tục công nghiệp hóa và đã đạt được thành tựu: "Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội được xây dựng một bước. Đã có những cơ sở đầu tiên của công nghiệp nặng. Năng lực các ngành công nghiệp, giao thông, xây dựng đều tăng so với trước chiến tranh". Nếu trong thời kỳ 1961-1965 tốc độ tăng bình quân hàng năm của tài sản cố định là 15,5% thì trong suốt thời kỳ chiến tranh phá hoại (1966-1970) tốc độ vẫn là 12,2%. Tài sản cố địnhh 1975 so với năm 1960: trong công nghiệp tăng 4,5 lần, trong nông nghiệp tăng 6,0 lần. Đến năm 1975 cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch quan trọng, tỷ trọng công nghiệp trong thu nhập quốc dân được nâng lên 16% (1957); 18,2% (1960); 22,2% (1965); 26,6% (1971); 24% (1974); 28,7% (1975). Cơ cấu công nghiệp đã có sự phát triển và chuyển dịch. Những cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng đã được xây dựng và phát triển như: điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất, vật liệu xây dựng... tốc độ phát triển của các ngành thuộc công nghiệp nhóm A nhanh hơn tốc độ phát triển chung của toàn ngành công nghiệp. Năm 1975 so với năm 1955 giá trị sản lượng ngành điện lực 22,3 lần, của ngành cơ khí gấp 59,8 lần và ngành hóa chất gấp 79,1 lần. Trên miền Bắc đã hình thành nhiều khu công nghiệp tập trung: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Bắc, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định, Thanh Hóa, Vinh... Đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và công nhân kỹ thuật tăng khá nhanh, là vốn quý, là yếu tố quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa ở thời kỳ này và các thời kỳ sau. Năm 1975 so với năm 1955, số cán bộ có trình độ đại học và trên đại học tăng hơn 120 lần, cán bộ có trình độ trung học chuyên nghiệp gấp hơn 84 lần: công nhân kỹ thuật năm 1975 tăng gấp 6 lần năm 1960. Tỷ lệ cán bộ khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ trong tổng số công nhân viên chức đã tăng từ 2% (1955) đến 3,5% (1960) và 19,5% (1975). Tỷ lệ công nhân kỹ thuật đã tăng từ 17% năm 1960 lên 53,4% (1975). Riêng trong công ngheiẹpnăm 1975 đã có trên 8.000 cán bộ đại học. 20.000 cán bộ trung học chuyên nghiệp và khoảng 210.000 công nhân kỹ thuật. Năm 1975 đất nước thống nhất. Sự hợp nhất hai miền có cơ sở kinh tế rất khác nhau về nguyên lý, mục tiêu cơ cấu kinh tế, hoàn cảnh, điều kiện trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi so với đầu nhưng năm 60 cho phép và đòi hỏi phải có chiến lược công nghiệp hóa thích hợp hơn. Nhưng trên thực tế đường lối công nghiệp hóa mà Đại hội Đảng lần thứ III đã được xác định vẫn giữ nguyên và thực hiện trên phạm vi cả nước. Đại hội Đảng lần thứ IV (12/1976) chỉ rõ: Điều đó có ý nghĩa quyết định là phải thực hiện CNH XHCN, tạo ra một cơ cấu kinh tế công nông nghiệp hiện đại. Con đường cơ bản để tạo ra cơ cấu ấy là ưu tiên phát triển công nghiệp năng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm, phát huy năng lực sẵn có và xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp năng, đặc biệt là cơ khí". Do có chủ trương nôn nóng, chủ quan duy ý chí như trên, cộng với sai lầm trong tổ chức chỉ đạo, trong cơ chế và chính sách nên trong thời kỳ 1976-1980 nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng, cơ cấu kinh tế ngày càng trở nên bất hợp lý và mất cân đối nghiêm trọng, nông nghiệp yếu kém không đáp ứng yêu cầu trong nước, công nghiệp nặng đầu tư lớn nhưng không phát huy được tác dụng. Thời kỳ 1976-1980, tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng bình quân 1,4%, thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,4% trong khi đó dân số tăng 2,24% một năm, sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm chỉ tăng 0,6%, trong đó công nghiệp quốc doanh giảm 2,6%; sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 1,9% một năm. Trước tình hình đó và từ hội nghị trung ương 6 (khóa IV) năm 1979 và tiếp đó là đại hội V, Đảng ta đã nhận thấy cần phải nhận thức đúng hơn vị trí của nông nghiệp và phải bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều chỉnh cơ cấu đầu tư Đại hội Đảng lần thứ V (1981) đã xác định: "Nội dung chính của CNH XHCN trong 5 năm (1981-1985) và những 80 là tập trung sự phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng"(1) Văn kiện Đại hội V của Đảng . Sự điều chỉnh, thay đổi bước đầu trong nhận thức và chủ trương đã có tác động nhất định đến phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa. Bình quân hàng năm thời kỳ 1981-1985 sản xuất công nghiệp tăng 9,5%; sản xuất nông nghiệp tăng 5,3%; cơ cấu công nghiệp trong thu nhập quốc dân sản xuất vẫn được tăng từ 20,2% (1980) lên 30% (1985). 2. Giai đoạn từ 1986 đến nay: Đây là giai đoạn có sự đổi mới toàn diện và đồng bộ cả về nhận thức, quan điểm và về tổ chức chỉ đạo thực hiện. Đại hội lần thứ VI đã xác định rõ những quan điểm, chủ trương, phương hướng đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNCH. Đại hội chỉ rõ: "Tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo"(1) (2) Văn kiện Đại hội VI của Đảng và "trước mắt là trong kế hoạch 5 năm 1986-1990 phải thật sự tập trung sức người, sức của vào thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu..."(2). Thực hiện 3 chương trình mục tiêu thực chất đó cũng là chuyển hướng chiến lược công nghiệp hóa từ ưu tiên phát triển công nghiệp năng sang lấy nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm. Từ những quan điểm và chủ trương đổi mới trên, Đảng và Nhà nước đã cụ thể hóa bằng cơ chế và thành các chính sách, biện pháp thực hiện, đáng kể nhất đó là: Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, chính sách kinh tế đối ngoại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính sách tài chính - tiền tệ kiềm chế lạm phát, chuyển cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhờ vậy mặc dù có "cú sốc" lớn là Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã làm mất đi khoản viện trợ khoảng 1 tỷ đô la năm, bằng gần 7% GNP và mất đi thị trường không chuyển đổi, mặc dù Mỹ còn gây khó khăn do tiếp tục chính sách cấm vận, nhưng nền kinh tế đã vượt qua trạng thái suy giảm, giảm lạm phát đáng kể, điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, tiếp tục công nghệp hóa. Lạm phát từ mức 3 con số: 1986: 587,2%; 1987: 416,77%; 1988: 410,9% giảm xuống còn 2 con số: 1989: 30%; 1990: 52,8%. Trong thời kỳ 1986-1990 tốc độ tăng bình quân hàng năm của tổng sản phẩm xã hội: 4,8%: thu nhập quốc dân: 3,9%, giá trị tổng sản lượng công nghiệp: 5,2%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp: 3,5%; giá trị xuất khẩu: 28%; cơ cấu công nghiệp, nông nghiệp trong thu nhập quốc dân sản xuất đã có sự điều chỉnh: Công nghiệp: 30% (1985); 23% (1990); còn nông nghiệp 47,3% (1985); 46,6% (1990). Cơ cấu công nghiệp bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng thích hợp và có hiệu quả hơn. Năm 1976 trong cơ cấu giá trị tổng sản lượng công nghiệp ngành điện lực chỉ chiếm 3,665; cơ khí (bao gồm cả điện tử) 9,65%; hóa chất phân bón, cao su: 8,26% thì năm 1990 tỷ trọng tương ứng của các ngành đó là 5,1%:15,9%:9,4%. Nếu so sánh giá trị tổng sản lượng công nghiệp của năm 1990 với năm 1976 thì chỉ số phát triển công nghiệp của cả nước là 2,13 lần, trong đó: Điện lực 2,96 lần; cơ khí 3,52 lần; hóa chất, phân bón, cao su: 2,13 lần. Giữa các ngành công nghiệp nhóm A và công nghiệp nhóm B đã bước đầu có sự điều chỉnh trong sự phát triển theo hướng chú trọng thích đáng hơn đến phát triển các ngành công nghiệp nhóm B để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước và để sử dụng tốt hơn các nguồn lực: vốn, kỹ thuật truyền thống, lao động, công nghiệp nhóm A chiếm 33,8% (thời kỳ 1976 - 1980): 33,5% (thời kỳ 1981-1985) và 32,9% (1990). Tương ứng với các thời kỳ đó, công nghiệp nhóm B chiếm tỷ trọng: 66,5% và 67,1%. Công nghiệp ngoài quốc doanh phát triển khá, lực lượng sản xuất bước đầu được giải phóng. Khu vực công nghiệp quốc doanh sau thời gian phải đương đầu với các thử thách quyết liệt khi chuyển sang cơ chế mới tưởng chứng không vượt qua nổi (năm 1989 giảm 2,5% so với 1988) nhưng đến năm 1990 công nghiệp quốc doanh đã thích nghi dần với cơ chế mới một số ngành, một số cơ sở chủ yếu là quốc doanh trung ương đã khôi phục đưọc sản xuất và tiếp tục phát triển. Nếu năm 1976 công nghiệp quốc doanh chiếm 58,6%; giá trị tổng sản lượng công nghiệp cả nước thì năm 1989 chiếm 57,0%, còn công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 31,4% (1976); 43% (1989). Tiếp tục những quan điểm, chủ trương, chính sách đổi mới, đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991) đã xác định rõ mục tiêu, phương hướng nội dung của phát triển kinh tế - xã hội và của công nghiệp hóa. Đại hội đã chỉ rõ: "Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải tiến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển... phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân"(1) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. "Mục tiêu tổng quát của chiến lược đến năm 2000 là: ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh vào đầu thế kỷ 21"(2) Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000 Đại hội VII cũng xác định mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm (1991-1995) là: "Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế"(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Quá trình đổi mới đã tạo nên những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, thành tựu CNH trong các năm 1991,1992,1993 cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực chất so với nhiều năm trước đây. Lạm phát tiếp tục được kiềm chế: chỉ số giá bán lẻ tăng bình quân tháng của năm 19911 4,4%; 1992:1,3%; 9 tháng đầu năm 1993: 0,5%. Chênh lệch giá trị nhập và xuất giảm đáng kể. Sự phát triển của công nghiệp trong những năm đổi mới, không chỉ thể hiện ở tốc độ tăng trưởng mà quan trọng hơn là ở việc chú trọng hơn tới đổi mới công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp ở sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng sản xuất gắn với thị trường trong và ngoài nước, phát triển nhanh các ngành có lợi thế so sánh, các ngành tác động tích cực đối với sự phát triển chung của nền kinh tế quốc tế, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và đa dạng hóa các loại hình tổ chức kinh doanh. Ngành dầu khí có sự phát triển vượt bậc. Ngành than bước vào thị trường thế giới với khối lượng xuất khẩu vượt 1,6 triệu tấn. Ngành sản xuất điện phát triển mạnh. Thúc đẩy quá trình thay đổi và phát triển cơ cấu kinh tế từ giản đơn, lạc hậu trì trệ kém hiệu quả dần dần tiến tới một cơ cấu có nhiều ngành, nhiều thành phần: Trong những năm đầu của quá trình đổi mới của CNH đã mang sắc thái mới, đã có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung và bước đầu đồng bộ hóa, cụ thể hóa bằng cơ chế và chính sách. Do vậy CNH đã được tiến hành phù hợp hơn với hoàn cảnh quốc tế và điều kiện, khả năng trong nước, các tiềm tàng, nguồn lực của đất nước bước đầu được khơi dậy, kinh tế phát triển thực chất hơn. - Tạo ra nguồn lao động và đội ngũ lao động dồi dào có trình độ dân trí được nâng cao, tỷ trọng lao động có trình độ nghề nghiệp, kỹ thuật ngày càng cao. Có đạt được những thành tích và kết quả đó vào bối cảnh cụ thể của đất nước: Điểm xuất phát ban đầu thấp, chiến tranh kéo dài nhiều năm và để lại hậu quả nặng nề, diễn biến tình hì._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0403.doc
Tài liệu liên quan