Các giải pháp chủ yếu tăng lợi nhuận ở Công ty Giầy Ngọc Hà

Lời nói đầu Nói đến sản xuất kinh doanh, dù trong hình thái kinh tế xã hội nào, vấn đề quan tâm trước nhất vẫn là hiệu quả. Hiệu quả là mục tiêu phấn đấu của mọi nền sản xuất, là thước đo trình độ về mọi mặt của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải tự lấy thu bù chi, đảm bảo có lãi. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp biểu hiện tập trung ở lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được trong quá trình sản xuất kinh doanh

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1436 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp chủ yếu tăng lợi nhuận ở Công ty Giầy Ngọc Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.Sản xuất kinh doanh có hiệu quả, thu được lợi nhuận cao là điều kiện tiền đề để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển. Ngược lại, nếu doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ thì khó có thể đứng vững trên thị trường. Lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy kinh tế có hiệu lực nhất, kích thích mạnh mẽ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Phấn đấu để có lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng nhiều là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp. Chính vì vậy cần đi sâu nghiên cứu tìm hiểu các giải pháp phấn đấu tăng lợi nhuận.Để giải quyết vấn đề quan trọng này, trong qua trình thực tập tại Công ty Giầy Ngọc Hà, em đã mạnh dạn nghiên cứu và hoàn thiện chuyên đề tốt nghiệp với đề tài:" Các giải pháp chủ yếu tăng lợi nhuận ở Công ty Giầy Ngọc Hà ". Kết cấu của chuyên đề gồm 03 chương: Chương I : Những lí luận chung về lợi nhuận của Doanh nghiệp. Chương II : Thực trạng về Lợi nhuận của Công ty Giầy Ngọc Hà. Chương III : Một số giải pháp nhằm tăng lợi nhuận của Công ty Giầy Ngọc Hà. Chương I Những lý luận chung về Lợi nhuận của doanh nghiệp 1.1/ vai trò Lợi nhuận đối với doanh nghiệp Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế được thành lập để thực hiện các hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu thu lợi nhuận. Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh doanh do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách chủ sở hữu. Đồng thời là một pháp nhân kinh tế, hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật. Trong hệ thống kinh tế quốc dân doanh nghiệp có vị trí cực kỳ quan trọng. Doanh nghiệp là nơi làm ra sản phẩm, là tế bào của xã hội, là cơ sở của nền kinh tế quốc dân. Trước hết doanh nghiệp là đơn vị sản xuất, là nơi trực tiếp kết hợp lao động của con người với tư liệu sản xuất để tạo ra của cải mới cho xã hội. Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ sở, là một đơn vị thống nhất về sản xuất kỹ thuật, thống nhất về tổ chức và kinh tế, tự chủ kinh tế và tài chính. Hơn thế nữa, doanh nghiệp còn là tế bào của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy doanh nghiệp còn được gọi là đơn vị kinh tế cơ sở, nơi không chỉ tạo ra sản phẩm vật chất mà còn tạo ra thu nhập quốc dan và tích luỹ xã hội. Một phần sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất được xuất ra nước ngoài để thu ngoại tệ. Phần còn lại doanh nghiệp dùng để tiêu thụ trong nước để đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của xã hội, thu lợi nhuận về cho doanh nghiệp, phát triển sản xuất và đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Nhà nước của bất kỳ chế độ nào cũng phải dựa vào nguồn thu chủ yếu của các doanh nghiệp. Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp ngày càng phát triển để có nguồn thu phục vụ cho các nhu cầu kinh tế văn hoá, khoa học xã hội. Và chỉ khi các doanh nghiệp tồn tại, phát triển thì nền kinh tế quốc dân mới có thể tồn tại và phát triển. Doanh nghiệp là một đơn vị xã hội nơi hàng ngày người lao động học tập và làm việc, môi trường cho người lao động tiếp xúc trực tiếp trên máy móc, thiết bị, với nguyên liệu, nhiên liệu và tiếp xúc với nhau. Các hoạt động của Doanh nghiệp rất đa dạng tuỳ thuộc lĩnh vực kinh doanh, môi trường kinh doanh của doanh nghiệp và phù hợp với các mục tiêu dặt ra, các giai đoạn phát triển của doanh nghệp.Ví dụ như đối với doanh nghiệp sản xuất hoạt động chủ yếu là sản xuất tạo ra các sản phẩm hàng hoá cung cấp cho thị trường,mọi hoạt động đều hướng tới và phục người lao động (giảm nhẹ cường độ, đảm bảo an toàn lao động…..) và sản xuất các sản phẩm đảm bảo chất lượng, tiết kiệm nguyên liệu, sáng tạo ra các sản phẩm mới. Đối với doanh nghiệp Thương mại, mọi hoạt động nhằm thực hiện mua bán hàng hoá và đều hướng tới khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họ thoả mãn nhu cầu.Đối với doanh nghiệp dịch vụ thì mọi hoạt động đều nhằm thoả mãn một nhu cầu về phục vụ nào đó của khách hàng đó là các dịch vụ phi vật chất (Dịch vụ vận tải, thanh toán,tín dụng, bảo hiểm, khách sạn du lịch…). Các hoạt động của Doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường kinh doanh.Để đạt được mức doanh lợi mong muốn, doanh nghiệp cần phải có những quyết định về tổ chức hoạt động sản xuất, quản lý. Mọi quyết định đều phải gắn với môi trường xung quanh. Bao quanh doanh nghiệp là một môi trường kinh tế - xã hội phức tạp và luôn biến động. Ví dụ như: Doanh nghiệp luôn phải đối đầu với công nghệ. Sự phát triển của công nghệ là một yếu tố góp phần thay đổi phương thức sản xuất, tạo ra nhiều kỹ thuật mới dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ trong quản lý tài chính doanh nghiệp.Sự thắt chặt hay nới lỏng trong cơ chế quản lý tài chính, hàng lang pháp lý của nhà nước cũng ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác Doanh nghiệp phải dự tính được khả năng xảy ra rủi ro, đặc biệt là rủi ro tài chính để có cách ứng phó kịp thời, đúng đắn. Doanh nghiệp với sức ép của thị trường, sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ và những đòi hỏi về chất lượng, mẫu mã, giá cả hàng hoá, chất lượng dịch vụ ngày càng cao hơn, tinh tế hơn của khách hàng buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi chính sách sản phẩm, đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả và chất lượng cao….Tóm lại doanh nghiệp muốn phát triển bền vững thì phải luôn làm chủ và dự đoán được sự thay đổi của môi trường để sẵn sàng thích nghi với nó. Là một đơn vị kinh doanh, các hoạt động của doanh nghiệp cần đạt được các mục tiêu sau: a- Mục tiêu thu lợi nhuận: Là một đơn vị sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp cần phải thu được lợi nhuận sau khi đã bù đắp đủ những chi phí sản xuất kinh doanh, làm nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước và trang trải những thiệt hại bất thường mà doanh nghiệp phải chấp nhận để doanh nghiệp tiếp tục phát triển. Không có lợi nhuận doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động cầm chừng và không thể tái sản xuất mở rộng. Nếu thua lỗ thì doanh nghiệp không thể bảo toàn vốn và nhất định sẽ bị phá sản. Lợi nhuận là động lực thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. b- Mục tiêu cung ứng: Doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất và cung ứng sản phẩm hàng hoá để thoả mãn nhu cầu của thị trường. Đó là lý do để doanh nghiệp tồn tại, đứng vững trong kinh doanh và thu được lợi nhuận. Chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cung ứng càng tốt thì kinh doanh càng phát triển và lợi nhuận thu được càng lớn. Vì vậy doanh nghiệp phải biết dự đoán mhu cầu và thị hiếu của khách hàng, có kế hoạch sản xuất hàng hoá với chất lượng ngày càng cao để phát triển kinh doanh lâu dài và đứng vững trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường. c- Mục tiêu phát triển: Mở mang sản xuất và phát triển kinh doanh không những là yêu cầu bình thường của một doanh nghiệp mà còn là một dấu hiệu lành mạnh của một nền kinh tế phát triển. Do đó phấn đấu cho doanh nghiệp phát triển cũng có ý nghĩa là góp phần vào củng cố và phát triển nền kinh tế quốc gia. Để thực hiện mục tiêu phát triển nhà kinh doanh cần bỏ thêm vốn hoặc dành một phần lợi nhuận để mỏ rộng đầu tư, tăng thêm cơ sở vật chất- kỹ thuật của doanh nghiệp. d- Mục tiêu trách nhiệm xã hội: Là một đơn vị sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận, doanh nghiệp còn có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi khách hàng, của những người cung cấp cho mình và của công nhân viên trong doanh nghiệp. Quyền quan trọng nhất của người tiêu dùng là quyền được thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng về số lượng và đảm bảm chất lượng ngày càng tốt. Quyền này của khách hàng không mâu thuẫn với quyền lợi của doanh nghiệp mà còn ngược lại là một nhân tố thúc đẩy kinh doanh phát triển, vì sản phẩm của doanh nghiệp càng có uy tín với khách hàng thì doanh nghiệp càng có doanh thu lớn, càng thu được nhiều lợi nhuận doanh nghiệp càng phát triển, công nhân viên trong doanh nghiệp càng được cải tiện đời sống vật chất và tinh thần. 1.1.2 Vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp Như đã nói lợi nhuận là mục tiêu quan trọng nhất của doanh nghiệp. Lợi nhuận không chỉ phản ánh kết quả của sản xuất kinh doanh mà đã trở thành mục tiêu của sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Việc lựa chọn các phương án sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, cải tiến kỹ thuật, thực hiện các biện pháp tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm nhằm mục đích duy nhất là doanh nghiệp ngày càng thu được nhiều lợi nhuận. Lợi nhuận còn là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, là điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh. Vậy lợi nhuận là gì? Lợi nhuận của doanh nghiệp được hiểu là số chênh lệch giữa toàn bộ thu nhập và chi phí bỏ ra. Hay nói cách khác đó là số tiền doanh thu còn lại sau khi đã bù đắp các chi phí sản xuất bỏ ra và hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, là bộ phận giá trị thặng dư được người lao động sáng tạo ra cho xã hội. Cac-Mac, trong lý luận của mình, đã chỉ ra rằng: bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng phải tính toán lao động xã hội bỏ ra và kết quả sản xuất thu được. Lợi nhuận, do vậy, có một vai trò quan trọng không thể phủ nhận đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung. Vậy Vai trò của lợi nhuận đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện ở những điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, lợi nhuận là kết quả tổng hoà của hàng loạt các giải pháp kinh tế- kỹ thuật và tổ chức, nó phản ánh nhiều mặt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ khâu cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất đến khâu đưa sản phẩm tiêu thụ. Thông qua việc phân tích tình hình thực hiện lợi nhuận có thể đánh giá được trình độ của doanh nghiệp trong việc tổ chức quản lý và sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn. Lợi nhuận, chính vì vậy, là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ hai, lợi nhuận là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng tác động đến việc hoàn thiện các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Để có thể tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường cạnh tranh, các doanh nghiệp không còn con đường nào khác là phải tự bươn chải, lấy thu bù chi và đảm bảo có lãi. Lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp khai thác triệt để các nguồn lực sẵn có, sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn sao cho đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Lợi nhuận còn là cơ sở để doanh nghiệp chẳng những có thể tái sản xuất giản đơn mà còn có thể tái sản xuất mở rộng. Hơn nữa, đó còn là nguồn chủ yếu để cải thiện điều kiện sản xuất, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người lao động, là đòn bẩy góp phần khơi dậy tiềm năng của người lao động vì sự phát triển vững chắc của doanh nghiệp trong tương lai. Thứ ba, một doanh nghiệp làm ăn có lãi cho thấy triển vọng phát triển của doanh nghiệp đó trong tương lai. Đây chính là động lực để các nhà đầu tư bỏ vốn vào doanh nghiệp, làm tăng quy mô và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. Nhưng nếu như doanh nghiệp đó làm ăn thua lỗ, hoạt động không hiệu quả như mong muốn thì tất yếu sẽ có sự di chuyển vốn đầu tư sang lĩnh vực khác có lợi hơn. Thứ tư, lợi nhuận là nguồn để doanh nghiệp có thể thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước, thông qua đó góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nếu ví nền kinh tế như một cơ thể sống thì các doanh nghiệp chính là những tế bào. Cơ thể- nền kinh tế- muốn phát triển lành mạnh, vững chắc, thì mỗi tế bào của nó- các doanh nghiệp- phải lớn mạnh, phải làm ăn có lãi. Lợi nhuận mà các doanh nghiệp đạt được chẳng những là cơ sở để doanh nghiệp có thể tái sản xuất mở rộng, mà còn là tiền đề cho tăng trưởng kinh tế. Bằng việc trích nộp một khoản lợi nhuận vào ngân sách Nhà nước dưới hình thức thuế, các doanh nghiệp có thể đóng góp một phần đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Như vậy, lợi nhuận không chỉ là vấn đề sống còn đối với bản thân mỗi doanh nghiệp, mà còn là uy tín của doanh nghiệp đối với Nhà nước và các đối tác, là trách nhiệm của doanh nghiệp đối với cán bộ công nhân viên, động thời là nguồn tạo nên sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường, trước các đối thủ. làm ăn thua lỗ, doanh nghiệp sẽ không có điều kiện để tích luỹ, thậm chí để tái sản xuất giản đơn, chưa nói đến tái sản xuất mở rộng, ngoài ra, doanh nghiệp cũng không làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước và các đối tác, không có điều kiện quan tâm nhiều hơn đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của người lao động. Do đó, đối với mỗi doanh nghiệp, không ngững nâng cao lợi nhuận luôn luôn là điều trăn trở. Đối với người bỏ vốn đầu tư. Trước khi bỏ vốn cho một hoạt động kinh doanh nào đó, nhà đầu tư luôn muốn biết đồng vốn mà mình bỏ ra có khả năng sinh lời hay không. Lợi nhuận sau thuế mà doanh nghiệp có khả năng thu được chính là tương lai mà họ kỳ vọng. Phân tích tình hình thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp là một căn cứ giúp nhà đầu tư có thể cân nhắc để đưa ra những quyết định đúng đắn. Nếu doanh nghiệp hoạt động thua lỗ, không đạt hiệu quả như mong muốn thì tất yếu sẽ có sự di chuyển vốn đầu tư sang lĩnh vực khác có lợi hơn. Đối với toàn bộ nền kinh tế. Lợi nhuận của doanh nghiệp là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước dưới hình thức thuế. Nhà nước sử dụng ngân sách nhằm thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, tăng cường củng cố lực lượng an ninh quốc phòng, duy trì bộ máy hành chính, cải thiện đời sống vật chất lẫn văn hoá, tinh thần của nhân dân. Là thước đo đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, thế mà chỉ tiêu lợi nhuận đã không thể nói lên điều gì trong cơ chế cũ, bởi tình trạng “lãi giả lỗ thật” tràn lan. Chuyển sang cơ chế thị trường, khi mà các doanh nghiệp phải tự bươn chải để lấy thu bù chi và đảm bảo có lãi, lợi nhuận mới thực sự là mục tiêu sống còn, thực sự là thước đo quan trọng để đánh giá các mặt hoạt động của doanh nghiệp. 1.2. Phương pháp xác định lợi nhuận của doanh nghiệp. Do hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phong phú và đa dạng, nên lợi nhuận được hình thành từ nhiều bộ phận. Hiểu rõ nội dung đặc điểm của từng bộ phận là cơ sở để thực hiện tốt công tác lợi nhuận. Néu xét theo nguồn hình thành, lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận sau: 1.2.1- Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh: Là lợi nhuận thu được do tiêu thụ sản phẩm lao vụ dịchvụ của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ lợi nhuận. Bộ phận lợi nhuận này được xác định bằng công thức: Trong đó: LN: Là lợi nhuận của hoạt động kinh doanh Qi, Gi, Zi, Cpi,Ti: Lần lượt là khối lượng sản phẩm tiêu thụ, giá bán đơn vị hay giá vốn hàng bán, chi phí quản lý bán hàng, thuế của sản phẩm thứ i. Dựa vào công thức tổng quát ta thấy lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau: + Khối lượng sản phẩm tiêu thụ + Giá bán sản phẩm + Giá thành sản xuất (hoặc giá vốn hàng bán) + Chi phí quản lí và chi phí bán hàng + Tỷ suất thuế Ngoài năm nhân tố trên được thể hiện rõ qua công thức, lợi nhuận còn chịu ảnh hưởng của kết cấu mặt hàng. ảnh hưởng của kết cấu mặt hàng đến lợi nhuận thông qua tỷ suất lợi nhuận của mỗi sản phẩm khác nhau, nếu trong quá trình tiêu thụ, tăng khối lượng sản phẩm có tỷ suất lợi nhuận cao, giảm khối lượng sản phẩm có tỷ suất lợi nhuận thấpthì lợi nhuận chung sẽ tăng lên. 1.2.2- Lợi nhuận từ hoạt động tài chính. Đây là bộ phận lợi nhuận được xác định bằng chênh lệch giữa các khoản thu và chi về hoat động tài chính bao gồm: - Lợi nhuận về góp vốn tham gia liên doanh - Lợi nhuận về hoạt động đàu tư, mua bán chứng khoán ngắn và dài hạn. - Lợi nhuận về cho thuê tài sản - Lợi nhuận về các hoạt động đầu tư khác - Lợi nhuận về chênh lệch lãi tiền gửi ngân hàng và lãi tiền vay ngân hàng. - Lợi nhuận cho vay vốn - Lợi nhuận do bán ngoại tệ.. 1.2.3- Lợi nhuận bất thường (còn gọi là thu nhập đặc biệt) Là những khoản lợi nhuận mà doanh nghiệp không tính trước hoặc có tính đến nhưng ít có khả năng thực hiện, hoặc những khoản thu nhập không mang tính thường xuyên. Những khoản lợi nhuận bất thường có thể do chủ quan đơn vị hoặc khách quan đưa tới. Thu nhập của doanh nghiệp gồm: - Thu về do nhượng bán, thanh lý TSCĐ - Thu tiền được phạt vi phạm hợp đồng - Thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý, xoá sổ - Thu các khoản nợ không xác định được chủ - Các khoản thu nhập kinh doanh của các năm trước bị bỏ xót hay lãng quên ghi sổ kế toán năm nay mới phát hiện ra.... Các khoản thu trên đây sau khi đã trừ các khoản tổn thất có liên quan sẽ là lợi nhuận bất thường. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận Lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp nhất nó nói lên kết quả của sản xuất kinh doanh. Có thể nói mọi hoạt động diễn ra trong quá trình sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng đến lợi nhuận. Do vậy nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Để đảm bảo và lợi nhuận ta phải tác động vào các nhân tố chủ quan và tìm cách hạn chế ảnh hưởng của các nhân tố khách quan. Từ đó ta có thể xác định các phương hướng và biện pháp chủ yếu để đảm bảo và tăng lợi nhuận. Một cách tương đối người ta xác định các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận gồm: - Nhân tố số lượng và chất lượng sản phẩm tiêu thụ - Nhân tố giá cả - Nhân tố giá thành - Nhân tố chi phí ngoài sản xuất - Nhân tố thuế 1.3.1- Nhân tố khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Nhân tố khối lượng sản phẩm tiêu thụ là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi nếu tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ làm cho lợi nhuận tăng lên theo mối tương quan tỷ lệ thuận. Tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ nó chứng tỏ rằng sản phẩm của doanh nghiệp đã được thị trường và người tiêu dùng chấp nhận. Khối lượng sản phẩm tiêu thụ tăng lên thì khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ tăng lên. Khối lượng sản phẩm sản xuất phụ thuộc vào năng suất lao động của công nhân, thời gian làm việc và số lượng công nhân sản xuất trong doanh nghiệp. Không chỉ tăng khối lượng sản phẩm bằng cách kéo dài thời gian làm viểctong một ca hoặc tăng số lượng công nhân, mà chủ yếu là phải tăng năng suất lao động, sử dụng hết công suất thiết bị. Muốn vậy doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến tổ chức quản lí, kỹ thuật, mở rộng đầu tư chiều sâu làm cho quá trình sản xuất được tiến hành nhịp nhàng liên tục. Để tăng năng suất lao động đòi hỏi công nhân phải nâng cao chuyên môn, tay nghề, có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Các doanh nghiệp muốn tăng được khối lượng hàng hoá bán ra, ngoài việc tăng khối lượng sản phẩm sản xuất còn phải chú ý đến chất lượng. Chất lượng nói lên những đặc tính cơ bản khách quan của sản phẩm trong việc thoả mãn những nhu cầu nhất định của xã hội với những điều kiện kinh tế kỹ thuật trong từng thời kỳ. Trước đây trong cơ chế quản lí kinh tế hành chính quan liêu bao cấp, chất lượng sản phẩm chưa được đánh giá đúng mức. Các xí nghiệp sản xuất chỉ chạy theo số lượng mà mà chưa để ý đến chất lượng. Những sản phẩm kém phẩm chất vẫn được phân phối theo một giá cá nhất địng buộc người tiêu dùng phải chấp nhận bởi tình hình khan hiếm giả tạo lúc bấy giờ. Trong mấy chục năm liền chất lượng sản phẩm của ta gần như không thay đổi. Từ sau đại hội VI, mục tiêu “Năng suất- chất lượng - hiệu quả”được đưa lên hàng đầu. Chính sách mở cửa của Nhà nước cho phép các thành phần kinh tế cùng tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo nên cơ chế thị trường có cạnh tranh, lúc này người tiêu dùng có quyền lựa chọn những sản phẩm có chất lượng tốt giá cá phù hợp với túi tiền của mình. Do đó các doanh nghiệp phải quan tâm tới chất lượng, chất lượng sản phẩm càng cao thì giá cả sản phẩm cũng được nâng. Vì lợi nhuận cũng được tăng lên. Nếu chất lượng tăng mà giá bán vẫn giữ nguyên thì khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ tăng lên do đó lợi nhuận tăng. Vì vậy có thể nói việc tăng chất lượng sản phẩm là một biện pháp tích cực chủ yếu để tăng lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường, khối lượng và chất lượng sản phẩm sản xuất ra mới chỉ là điều kiện cần mà chưa phải là điều kiện đủ. Để tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải sản xuất cái gì? cho ai? và sản xuất như thế nào? điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải nhạy bén nắm bắt thị trường tìm ra kết cấu mặt hàng hợp lí, khi có kết cấu thì khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ tăng lên và mục đích cuối cùng là lợi nhuận được thoả mãn. Ngoài ra để đẩy mậnh tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp cần thường xuyên đổi mới mặt hàng về mẫu mã cũng như chất lượng sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu và nhu cấu của người tiêu dùng. Tăng cường công tác quảng cáo, tuyên truyền nhằm giới thiệu rộng rãi chất lượng mẫu mã sản phẩm để mở rộng thị trường tiêu thụ và xuất khẩu. 1.3.2- Nhân tố giá cả. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá và được thị trường chấp nhận. Giá cả vừa là nhân tố chủ quan, vừa có tính khách quan ở chỗ giá cả của thị trường phụ thuộc vào quan hệ cung cầu và mặt bằng giá cả, bên cạnh giá cả còn phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm. Trong điều kiện hiện nay doanh nghiệp có thể chủ động định giá bán sao cho thị trường chấp nhận được. Với các nhân tố khác không thay đổi, tăng giá bán là một biện pháp tích cực để tăng lợi nhuận. 1.3.3- Nhân tố giá thành Giá thành là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Đó là chi phí về tiền lương, chi phí về đối tượng lao động, chi phí khấu hao, tư liệu lao động và những chi phí khác bằng tiền. Giá thành là một chỉ tiêu chất lượng quan trọng nên phấn đấu hạ giá thành là một nhiệm vụ quản lí kinh tế. Hạ giá thành là giảm các khoản chi phí sản xuất cho một đơn vị sản phẩm. Thực chất của việc hạ giá thành là tiết kiệm lao động sống và lao động quá khứ, là biện pháp tổng hợp và trực tiếp nhất để thực hành tiết kiệm trong doanh nghiệp. Hạ giá thành là nguồn gốc để tái sản xuất mở rộng và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động. Hạ giá thành là cơ sở để tăng thêm lợi nhuận do đó doanh nghiệp có thể tăng thêm tiền vốn để mua sắm máy móc thiết bị để mở rộng sản xuất, đồng thời tăng quỹ phúc lợi và khen thưởng, xây dựng nhà ở... để từng bước cải thiện đời sống vật chất cho công nhân viên chức. Nhỡng phương hướng chủ yếu của việc phấn đấu hạ giá thành đó là: + Tăng năng suất lao động: tăng năng suất lao động sẽ giảm chi phí tiền lươngcho một đơn vị sản phẩm. + Cải tiến sử dụng tài sản cố định và tài sản lưu động cùng với việc tăng năng suất lao động. Việc cải tiến sử dụng tài sản cố định đảm bảo tăng sản lượng sản phẩm, nhờ đó giảm thấp các chi phí cố định trong giá thành đơn vị sản phẩm (như chi phí khấu hao chi phí quản lí). Cải tiến sử dụng tài sản lưu động là việc tiết kiệm tiêu dùng nguyên vật liệu cho một đơn vị sản phẩm là một phương hướng chủ yếu cho việc hạ giá thành. + Cải tiến quản lí và phục vụ sản xuất nhằm nâng cao chất lượng các công tác động thời tiết kiệm tuyệt đối các chi phí quản lí nhằm giảm nhẹ biên chế. 1.3.4- Chi phí ngoài sản xuất. Chi phí ngoài sản xuất bao gồm các chi phí chi ra trước quá trình sản xuất như chi phí công tác nghiên cứu mẫu mã, chế thử sản phẩm... và các chi phí sau quá trình sản xuất như chi phí về kho tàng, chi phí về tuyên truyền quảng cáo, chi phí bảo hành,... Hiện nay trong cơ chế thị trường chi phí ngoài sản xuất mỗi doanh nghiệp không nhỏ, vì vậy hạ thấp chi phí ngoài sản xuất sẽ tăng được tích luỹ đảm bảo cho sản phẩm của mình tiêu thụ với giá rẻ, chất lượng tốt và mang lại lợi nhuận cao. Để giảm chi phí ngoài sản xuất cần áp dụng các biện pháp tiết kiệm chi phí đóng gói vận chuyển đi tiêu thụ, bảo quản bốc dỡ và quản lí tỷ lệ hao hụt sản phẩm. 1.3.5- Nhân tố thuế. Thuế là khoản đóng góp mang tính pháp lệnh mà Nhà nước bắt buộc mọi người dân hoặc tổ chức kinh tế nộp vào ngân sách Nhà nước, nó không phụ thuộc vào giá thành sản phẩm cao hay thấp mà được xác định trên cơ sở thuế xuất do Nhà nước quy định. Thuế là khoản tích luỹ tiền tệ của Nhà nước có tính chất nghĩa vụ bắt buộc các doanh nghiệp nộp vào ngân sách. Mọi doanh nghiệp đều phải bình đẳng về thiế trước pháp luật. Chỉ có áp dụng thống nhất chính sách thuế đối với các doanh nghiệp mới tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hạch toán kinh doanh tiết kiệm chi phí nâng cao hiệu quả kinh tế, cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi mức thuế cao hay thấp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng hay giảm lợi nhuận. Chính vì sự ảnh hưởng này Nhà nước đã dùng thuế để điều tiết sản xuất Phần dưới đây chúng ta sẽ xem xét một số phương hướng, biện pháp chủ yếu làm tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp. 1.4 . Một số giải pháp chủ yếu tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp trong điều kiện sản xuất kinh doanh như hiện nay. Như phần trên đã trình bày, lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng có liên quan tới nhiều khâu của quá trình sản xuất. Bất kỳ một khâu nào trong quá trình sản xuất không hiệu quả cũng đều làm giảm lợi nhuận. Trong tổng lợi nhuận, lợi nhuận tiêu thụ của doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất. Chính vì vậy, luận văn xin giới hạn trong phạm vi lợi nhuận tiêu thụ và cácgiải pháp phấn đấu tăng lợi nhuận tiêu thụ của doanh nghiệp. Lợi nhuận được xác định theo công thức: Trong đó: LN: Là lợi nhuận của hoạt động kinh doanh Qi, Gi, Zi, Cpi,Ti: Lần lượt là khối lượng sản phẩm tiêu thụ, giá bán đơn vị hay giá vốn hàng bán, chi phí quản lý bán hàng, thuế của sản phẩm thứ i. Từ công thức trên ta thấy lợi nhuận tiêu thụ của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi doanh thu bán hàng, giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ và thuế gián thu. Nhưng cần nhận thức rõ rằng, thuế là chỉ tiêu thể hiện nghĩa vụ bắt buộc của doanh nghiệp đối với Nhà nước. Thuế là nhân tố khách quan ảnh hưởng nghịch chiều với lợi nhuận, doanh nghiệp không được tìm cách giảm thuế, trốn thuế để tăng lợi nhuận. Còn lại, lợi nhuận chịu ảnh hưởng của nhân tố doanh thu tiêu thụ và giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ. Nhưng mỗi nhân tố trên lại chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác theo những chiều hướng khác nhau. Vì vậy, những phương hướng chủ yếu để tăng lợi nhuận đều xoay quanh việc nghiên cứu và tác động vào các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận: Doanh thu tiêu thụ và giá thành sản phẩm. 1.4.1/Biện pháp thứ nhất: Tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ. Trong điều kiện các yếu tố các không đổi, việc tăng doanh thu tiêu thụ sẽ làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc tăng doanh thu lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố. Do vậy, để tăng doanh thu cần phải tác động vào các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu theo chiều hướng tích cực. Thứ nhất: Cần phải tăng số lượng và chất lượng của sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ. Thật vậy, từ công thức xác định lợi nhuận nêu trên.Ta thấy: nếu các nhân tố: giá bán, giá thành toàn bộ, thuế gián thu được cố định thì lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ sẽ tăng đồng hành với sự gia tăng của khốilượng sản phẩm tiêu thụ. Khối lượng sản phẩm tiêu thụ gia tăng trước hết phụ thuộc vào khối lượng và chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Để có thể tăng nhanh khối lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp cần đầu tư cho sản xuất về cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Đầu tư chiều sâu đồng nghĩa với việc hiện đại hoá máy móc thiết bị, mạnh dạn ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, song song với việc loại bỏ những máy móc đã lạc hậu, lỗi thời để các khâu của dây chuyền sản xuất được đồng bộ, hoạt động ăn khớp, nhịp nhàng với nhau. Bên cạnh đó là việc đầu tư nâng cao tay nghề cho công nhân để họ có thể làm chủ công nghệ hiện đại, vận hành có hiệu quả các dây chuyền sản xuất mới. Đầu tư chiều sâu cũng là một giải pháp để tăng khối lượng sản phẩm sản xuất. Doanh nghiệp có thể huy động thêm vốn để mua sắm máy móc thiết bị, song phải đảm bảo tính đồng bộ, phải tiên tiến, có như vậy năng suất mới được nâng cao. Ngoài ra, doanh nghiệp cần có những biện pháp tổ chức sản xuất hợp lý và hiệu quả. Các quy trình sản xuất phải ăn khớp, nhịp nhàng, lao động phải được bố trí phù hợp với kỹ năng và trình độ của họ. Các bộ phận phục vụ sản xuất phải luôn đảm bảo cho sản xuất được thường xuyên, không bị gián đoạn vì máy hỏng, mất điện, hay vì nguyên liệu không kịp cung cấp... Tuy nhiên, khối lượng sản xuất gia tăng không phải lúc nào cũng đồng hành với việc gia tăng khối lượng tiêu thụ. Từ sản xuất đến tiêu thụ là cả khoảng cách mà muốn vượt qua, các doanh nghiệp phải xây dựng được một cơ cấu sản phẩm và một chiến lược sản xuất không những cho phép tận dụng tối đa năng lực sản xuất sẵn có, mà còn có thể đáp ứng được tốt hơn nhu cầu tiêu dùng ngày một đa dạng của thị trường. Khối lượng tiêu thụ gia tăng còn phụ thuộc vào công tác tổ chức bán hàng của doanh nghiệp. Sản phẩm làm ra nhiều mà tiêu thụ chậm hoặc không tiêu thụ được thì vốn sẽ bị ứ đọng, quá trình sản xuất tiếp theo sẽ không thể tiến hành. Chính vì vậy, công tác tổ chức bán hàng được ví như chiếc cầu nối giữa tiêu dùng và sản xuất. Nếu doanh nghiệp biết kết hợp linh hoạt các hình thức bán hàng (bán tại kho, bán đại lý, bán buôn, bán lẻ...) thì hàng hoá của doanh nghiệp có thể len lỏi khắp mọi nơi. Nếu doanh nghiệp biết đa dạng hoá các phương thức bán hàng (tiền mặt, chuyển khoản, séc, ngân phiếu...) thì đối tượng khách hàng của doanh nghiệp có thể được mở rộng. Nếu doanh nghiệp tổ chức tốt các dịch vụ kèm theo (bảo hành, sửa chữa...) thì sản phẩm của doanh nghiệp càng chiếm được niềm tin yêu của khách hàng. Thứ hai, cần xây dựng kết cấu sản phẩm có lợi nhất. Ta đã biết, kết cấu sản phẩm là một nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu theo những chiều hướng khác nhau, nó có thể làm tăng hoặc giảm lợi nhuận tiêu thụ. Trong thực tế, nếu doanh nghiệp thay đổi kết cấu mặt hàng tiêu thụ theo hướng tăng tỷ trọng những mặt hàng có mức lợi nhuận đơn vị cao, giảm tỷ trọng tiêu thụ những mặt hàng có mức lợi nhuận đơn vị thấp sẽ làm cho doanh thu và lợi nhuận tăng lên và ngược lại. Tuy nhiên, về tính chất, việc điều chỉnh kết cấu mặt hàng tiêu thụ trước hết có thể do nhu cầu thị trường, tức là do nhân tố khách quan tác động, nhưng để đáp những yêu cầu thường xuyên biến động đó, bản thân chủ quản lý doanh nghiệp lại phải đưa ra các biện pháp điều chỉnh từ khâu sản xuất đến khâu bán hàng. Việc điều chỉnh này lại mang yếu tố chủ quan của doanh nghiệp. Nhưng có thể nói, không có một người quản lý doanh nghiệp nào lại thay đổi kết cấu theo hướng làm giảm lợi ích của doa._.nh nghiệp, do vậy, sự tác động của nhân tố này mang tính khách quan. Để đạt được lợi nhuận cao, doanh nghiệp cần đầu tư nghiên cứu, đa dạng hoá chủng loại sản phẩm, nhằm cung cấp và thoả mãn tối đa nhu cầu thị trường, đồng thời đảm bảo kết cấu mặt hàng tối ưu. Điều này thể hiện trước hết ở việc cải tiến mẫu mã, kiểu dáng bao bì đóng gói...Bên cạnh đó, cần mở rộng danh mục sản phẩm, đặc biệt những sản phẩm đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng và có mức lợi nhuận đơn vị cao. Thứ ba: Cần xây dựng một chính sách giá cả hợp lý. Chính sách giá cả cũng là một nhân tố không thể không đề cập đến, nó ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận theo những chiều hướng khác nhau. Sản phẩm sản xuất ra không những phù hợp với nhu cầu mà còn phải phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng, có như vậy mới có thể mở rộng khả năng và thị phần tiêu thụ, từ đó mới nâng cao doanh thu được. Giá cả luôn là công cụ sắc bén trong cạnh tranh, khi có sự tương đương về chất lượng sản phẩm giữa các doanh nghiệp trên cùng một thị trường thì giá cả “phải chăng” trở thành một vũ khí cạnh tranh đắc lực nhất trong việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là đối với những vùng thị trường mà thu nhập của đại đa số người dân còn chưa cao. Sản phẩm tiêu thụ được chứng tỏ nó đã được thị trường chấp nhận cả về giá cả và chất lượng. Sản phẩm tiêu thụ được ngày càng nhiều thì lợi nhuận của doanh nghiệp càng cao. Thứ tư: Cần làm tốt công tác thanh toán. Trong nền kinh tế toàn cầu, khách hàng của mỗi doanh nghiệp không chỉ ở một phạm vi nhỏ, mà mở rộng đến khắp mọi miền đất nước, toàn cầu. Do vậy, đa dạng hoá phương thức thanh toán sẽ là một điều kiện giúp cho doanh nghiệp mở rộng được mạng lưới tiêu thụ. Những phương thức đó có thể là thanh toán bằng tiền mặt, bằng séc, chuyển khoản, tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại, trả chậm,L/C...Với mỗi hình thức thanh toán có những ưu điểm riêng, cần linh hoạt áp dụng với những khách hàng khác nhau để có hiệu quả cao nhất, và đảm bảo thuận tiện cho khách hàng. Cuối cùng, một biện pháp không thể không nhắc đến, đặc biệt trong tình hình kinh doanh hiện nay, đó là việc tổ chức tốt công tác xây dựng các chiến lược chung, trong đó chiến lược chung Marketing đóng vai trò quan trọng. Doanh nghiệp cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chiến lược: chiến lược sản phẩm, chiến lược định giá, chiến lược phân phối và chiến lược xúc tiến yểm trợ. Có thể nói, việc tăng doanh thu của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các chính sách, chiến lược để đạt hiệu quả cao nhất 1.4.2/Biện pháp thứ hai: Hạ giá thành sản phẩm. Lnkd = Sti ( Gi – Ztbi – Tgi). Công thức trên cho thấy: Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá thành hạ sẽ làm cho lợi nhuận tăng lên và ngược lại. Giá thành toàn bộ của sản phẩm được xác định theo công thức: Ztb =Zsx +CFbh +CFqldn. Trong đó: Ztb: Giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ trong kỳ. Zsx: Giá thành sản xuất của sản phẩm tiêu thụ trong kỳ. Giá thành sản xuất của sản phẩm tiêu thụ là biểu hiện bằng tiền của những khoản chi phí sản xuất đã được tập hợp theo từng mặt hàng. Những khoản chi phí này là: Chi phí vật tư trực tiếp: Bao gồm các khoản chi phí nguyên vật liệu, động lực trực tiếp dùng cho sản xuất. Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm các khoản phải trả cho người lao động trực tiếp sản xuất ra sản phẩm như tiền lương, chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn. Chi phí sản xuất chung: Bao gồm các khoản chi phí chung phát sinh ở các phân xưởng, bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp như tiền lương trả cho nhân viên quản lý phân xưởng, khấu hao tài sản cố định... CFbh: Chi phí bán hàng. Chi phí bán hàng là những khoản chi phí phải bỏ ra đảm bảo cho quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được thực hiện như tiền lương trả cho nhân viên bán hàng, chi phí đóng gói vậnn chuyển sản phẩm... CFqldn: Chi phí quản lý doanh nghiệp. Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm chi phí quản lý hành chính, các chi phí chung khác liên quan đến hoạt động của toàn bộ doanh nghiệp như trả lương cho Ban giám đốc, chi phí tiếp tân... Như vậy, hạ giá thành sản phẩm thực chất là tiết kiệm các chi phí về lao động sống và lao động vật hoá bỏ ra cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Việc tiết kiệm các khoản chi phí trực tiếp tạo nên thực thể sản phẩm phải được thực hiện một cách hợp lý để không làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Đối với chi phí bán hàng phải tuỳ vào đặc điểm của sản phẩm, điều kiện tự nhiên, xã hội, thị trường tiêu thụ. Đây là phương hướng cơ bản, lâu dài để tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Đặc biệt trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh về giá, nếu giá thành sản phẩm càng thấp thì doanh nghiệp càng có lợi thế để hạ giá bán sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, làm tăng doanh thu, và tăng lợi nhuận. Việc tiết kiệm các chi phí về lao động sống, lao động vật hóa (chi phí nguyên vật liệu, máy móc, chi phí quản lý...) có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với toàn xã hội bởi nó làm cho lợi nhuận tăng lên mà không cần phải tăng chi phí. Vì vậy, nó tạo điều kiện cho doanh nghiệp không chỉ tự bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh có lãi, mà còn giúp cho doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm vốn để mở rộng quy mô sản xuất, tăng khối lượng sản phẩm sản xuất ra. Để hạ giá thành sản phẩm, nên chăng, doanh nghiệp nên áp dụng một số biện pháp sau: Một là: Phát huy tối đa năng lực sản xuất hiện có thông qua việc tăng cường sử dụng máy móc thiết bị về cả thời gian và công suất. Như vậy, mặc dù số tiền khấu hao tăng lên, song do khối lượng sản phẩm sản xuất tăng đồng hành với nó, nên chi phí khấu hao tính trên một sản phẩm lại giảm đi. Để có thể tận dụng tối đa năng lực sản xuất thì việc sắp xếp dây chuyền sản xuất, bố trí lao động phải hợp lý, giảm thiểu những giờ máy chạy không trọng tải...Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần phải quan tâm đến việc sửa chữa bảo dưỡng máy móc thiết bị thường xuyên, thực hiện đúng các yêu cầu của quy trình vận hành máy, tránh tình trạng hỏng hóc bất thường, gây gián đoạn sản xuất. Hai là: Đầu tư nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân, có chính sách khen thưởng kịp thời đối với những lao động có thành tích trong sản xuất, nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của họ, tổ chức sắp xếp lao động phù hợp với trình độ chuyên môn, bố trí hợp lý số lao động gián tiếp. Từ đó, doanh nghiệp có thể ghiảm chi phí quản lý hành chính, hạ giá thành, góp phần làm tăng lợi nhuận. Ba là: Tiết kiệm nguyên vật liệu dùng cho sản xuất có ý nghĩa, tác dụng to lớn trong việc hạ giá thành, vì chi phí nguyên vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản xuất sản phẩm. Doanh nghiệp cần chú ý những vấn đề sau: Trong khâu cung ứng nguyên vật liệu cần phải phải chọn nguồn cung cấp gần, thuận tiện cho việc chuyên chở, giá cả phải chăng, đặc biệt là phải ổn định hoá nguồn cung cấp những vật tư chính. Đây cũng là nhân tố giúp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành. Ngoài ra, doanh nghiệp cần phải chú ý đến khâu bảo quản, dự trữ vật tư, tránh tình trạng để vật tư bị thất thoát, mất phẩm chất, hay không đủ đảm bảo cho sản xuất được liên tục. Thực hiện quản lý và sử dụng nguyên vật liệu tiết kiềm ngay từ khâu mua vào, dự trữ bảo quản cho đến khâu sản xuất, áp dụng phương pháp quản trị hàng tồn kho dự trữ thích hợp nhằm tối thiểu hoá chi phí quản trị hàng tồn kho. Doanh nghiệp cần xây dựng các định mức tiêu hao vật tư cho một đơn vị sản phẩm, xây dựng định mức phế phẩm vật tư hợp lý. Đồng thời tham gia vào việc lựa chọn nguồn vật tư, địa điểm giao nhận hàng. Ngoài ra, doanh nghiệp cần dự đoán trước sự biến động của thị trường để xây dựng định mức dự trữ phù hợp, tránh dự trữ quá lớn, hoặc quá thấp, ảnh hưởng đến sản xuất. Phấn đấu giảm chi phí nguyên vật liệu nhằm giảm tiêu hao nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm. Muốn vậy phải áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, chú trọng nâng cao tay nghề và tinh thần trách nhiệm của người lao động trong sản xuất. Ngoài ra phải thường xuyêm kiểm tra, rà soát định mức tiêu hao vật tư, ngăn chặn và xử lý kịp thời các trường hợp gây thất thoát lãng phí vật tư. Có kế hoạch sử dụng nguyên vật liệu thay thế trong những trường hợp cần thiết trên cơ sở đảm bảo chất lượng sản phẩm cũng như giá thành của sản phẩm đó. 1.4.3/ Biện pháp thứ ba: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Yêu cầu hạch toán kinh tế và mục tiêu lợi nhuận đã đặt các doanh nghiệp trước vấn đề phải tổ chức sử dụng vốn kinh doanh sao cho tiết kiệm và có hiệu quả. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp gồm hai bộ phận: vốn lưu động và vốn cố định. Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của các loại vật tư, thành phẩm...Sử dụng có hiệu quả vốn lưu động có nghĩa là trong quá trình sản xuất phải tận dụng tối đa vốn sản xuất, tăng nhanh vòng quay vốn vật tư hàng hoá, tránh ứ đọng, mất mát hư hao. Tiết kiệm được chi phí sẽ làm giảm giá thành, từ đó làm lợi nhuận tăng lên. Vốn cố định là biểu hiện bằng của tài sản cố định. Đối với vốn cố định, doanh nghiệp phải thực hiện các biện pháp bảo toàn về cả mặt hiện vật lẫn giá trị. Nghĩa là phải có sự phân cấp quản lý chặt chẽ, huy động sử dụng tối đa tài sản cố định vào sản xuất, thanh lý nhượng bán kịp thời những tài sản cố định không cần dùng hoặc không thể sử dụng được nữa, thực hiện tôt việc sửa chữa bảo dưỡng, khấu hoa tài sản cố định một cách hợp lý. Song song với việc cần phải đổi mới, hiện đại hoá máy móc thiết bị để có thể nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Tóm lại, trên đây là một số phương hướng biện pháp, song không phải là giải pháp chung tối ưu cho tất cả các doanh nghiệp trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất và tăng lợi nhuận. Để có thể phát huy của một biện pháp nào đó, mỗi doanh nghiệp cần phải cân nhắc, đánh giá các mặt lợi thế của riêng mình (vốn, lao động, nguồn cung cấp, thị trường tiêu thụ...). Và vì lợi nhuận là kết quả tổng hoà của hàng loạt các giải pháp về kinh tế kỹ thuật và tổ chức, nên các doanh nghiệp cần phải phối hợp tất cả các mặt quản lý mới có thể tìm ra các giải pháp thích ứng nhất nhằm biến các lợi thế vẫn còn ở dạng tiềm năng thành hiện thực. Kết luận, toàn bộ chương I đã cho chúng ta những lý luận cơ bản về lợi nhuận và các phương hướng, biện pháp tăng lợi nhuận, trên cơ sở đó, cho phép chúng ta tiếp cận một cách dễ dàng hoạt động kinh doanh của công ty Giầy Ngọc Hà, nắm được thực trạng về tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty qua phần nghiên cứu ở chương II. Chương II Thực trạng lợi nhuận của Công ty giầy Ngọc Hà 2.1 Khái quát tình hình hoạt động của Công ty giầy Ngọc Hà 2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Công ty giầy Ngọc Hà, tên giao dịch quốc tế là NGOCHA SHOES COMPANY, tên viết tắt: SHOEHAMEX, là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc sở Công nghiệp Hà Nội, có trụ sở chính tại K12 - Đốc ngữ - Phường Cống Vị – Ba Đình – Hà nội. Tiền thân của Công ty giầy Ngọc Hà là cơ sở II của Xí nghiệp giầy da Hà Nội, được tách ra theo quyết định số 618/QĐUB ngày 12/4/1991 của UBND thành phố Hà nội, với tên ban đầu là Xí nghiệp giầy Ngọc Hà, sau đổi tên thành Công ty giầy Ngọc Hà theo quyết định đổi tên và bổ sung chức năng nhiệm vụ số 2295/QĐUB ngày 17/6/1993 của UBND thành phố Hà nội. Công ty giầy Ngọc Hà là một doanh nghiệp được Nhà nước cấp vốn lần đầu có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập. Công ty giầy Ngọc Hà có tài khoản gửi tại Ngân hàng Công thương Đống Đa, Ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng đầu tư và phát triển, công ty có con dấu riêng mang tên Công ty giầy Ngọc Hà. Khi mới thành lập, Công ty chỉ có 400 công nhân viên và số vốn ban đầu nhận bàn giao từ xí nghiệp giầy da Hà nội là 1.733.000.000 đồng trong đó: Vốn cố định: 1.072.000.000 đồng Vốn lưu động: 169.000.000 đồng Vốn khác : 492.000.000 đồng Dưới sự lãnh đạo của Ban Giám đốc công ty cùng với sự cố gắng của toàn thể cán bộ, công nhân viên chức trong toàn công ty, công ty đã tự tìm kiếm được khách hàng, vay vốn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị mới, xây dựng cải tạo nhà xưởng. Đồng thời, công ty luôn cố găng nâng cao chất lượng sản phẩm công ty sản xuất để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, luôn biết cải tiến mẫu mã phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Đến nay, Công ty đã tự khẳng định mình trên thị trường trong nước và quốc tế, sản phẩm của công ty được xuất khẩu tới các nước EU, Nhật Bản, Mỹ, Canađa... Đồng thời, Công ty luôn chú trọng đến thị trường nội địa. Trải qua quá trình xây dựng và phát triển, đến nay công ty giầy Ngọc Hà đã trở thành một doanh nghiệp vững mạnh có đủ sức đáp ứng yêu cầu của thị trường và thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Biểu: Một số chỉ tiêu Công ty Giầy Ngọc Hà đạt được Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2001 2002 1.Tổng doanh thu 1000 đ 36.560.000 39.542.000 47.450.000 2. Lợi nhuận 1000 đ 250.000 296.000 363.000 3. Thu nhập bq 1000/lđ/t 450 520 600 4. Sản lượng đôi 896.660 1.002.000 1.200.000 5. Kim ngạch xuất khẩu giầy USD 920.000 985.000 1.132.000 Qua biểu trên cho chung ta thấy được tình hình kinh doanh của Công ty giầy Ngọc Hà đang trên đà phát triển, các chỉ tiêu năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt năm 2002, Công ty đạt được các chỉ tiêu cao nhất từ khi thành lập tới nay, về mọi mặt. Tổng doanh thu năm 2002 tăng so với năm 2001 là 7.908.000.000 tỷ về số tuyết đối và 20% về số tương đối. Lợi nhuận năm 2002 tăng so với năm 2001 là: 67 tỷ về số tuyệt đối và 22,6 % về số tương đối. Thu nhập bình quân trên người lao động trung bình tăng 80.000 trên tháng tương đương với 15,38%. Về tổng sản lượng sản xuất năm 2002 đã tăng so với năm 2001 là 198.000 đôi, tương đương với 19,76% so với năm 2001. Đạt được thành quả kết đây là kết quả đáng mừng đối với toàn bộ cán bộ, công nhân viên trong công ty giầy Ngọc Hà. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức và chức năng nhiêm vụ của các phòng ban Bộ máy tổ chức và quản lý kinh doanh của Công ty dựa trên mô hình trực tuyến – chức năng. Mô hình tổ chức và quản lý kinh doanh của Công ty: đứng đầu là ban giám đốc, sau đó là các phòng ban được chia thành khối, khối quản lý và khối kinh doanh. Cơ cấu tổ chức là chế độ một thủ trưởng, theo mô hình trực tuyến chức năng. Giám đốc có quyền quyết định tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh. Phó giám đốc phụ trách sản xuất và giúp việc cho giám đốc trong việc điều hành các mảng khác nhau. Phó giám đốc quan hệ với các phòng ban và quản lý các phòng ban đó thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch của công ty đề ra. Giám Đốc Sơ đồ: Cơ cấu bộ máy tổ chức Công ty giầy Ngọc Hà PGĐ kinh doanh PGĐ kỹ thuật Phòng tổ chức hành chính Phòng kỹ thuật cơ điện Phòng kế hoạch kinh doanh Phòng kế toán tài chính Phòng Bảo vệ Phân xưởng Mũ (May II) Phân xưởng cặp túi (May I) Phân xưởng Giầy * Chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban Giám đốc: là người đại diện cho công ty, đứng đầu bộ máy quản lý trong công ty. Giám đốc có nhiệm vụ lãnh đạo chung toàn công ty, thông qua việc giao quyền cho các phó giám đốc điều hành, các trưởng phòng chức năng. Giám đốc chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh chung của Công ty. Phó giám đốc kỹ thuật: Là người chịu sự lãnh đạo trực tiếp của giám đốc Công ty. Có nhiệm vụ điều hành và triển khai kế hoạch, các chương trình nghiên cứu, phát triển khoa học kỹ thuật, đổi mới và nâng cao thiết bị công nghệ. Mặt khác, phó giám đốc chỉ đạo xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm công ty sản xuất ra. Phó giám đốc kinh doanh: thực hiện các nhiệm vụ được giám đốc giao về mặt kinh doanh. Chịu trách nhiệm nghiên cứu và phát triển thị trường, xây dựng chiến lược kinh doanh, tham mưu cho giám đốc trong việc thu hút vốn và kí kết các hợp đồng kinh tế. Phòng kỹ thuật cơ điện: có nhiệm vụ phụ trách về đảm bảo việc bảo dưỡng và sửa chữa các máy móc thiết bị và chịu trách nhiệm về kỹ thuật trong sản xuất. Phòng tổ chức hành chính: có nhiệm vụ tổ chức công việc có liên quan đến tuyển dụng, đào tạo và các vấn đề liên quan đến nhân sự trong công ty. Thực hiện các công việc liên quan đến tổ chức xây dựng các vấn đề nội bộ, đối ngoại cho công ty. Phòng kế toán tài chính: Phòng kế toán tài chính của công ty giầy Ngọc Hà gồm có kế toán trưởng, kế toán viên và thủ quỹ. Các thành viên trong phòng kế toán đều có nhiệm vụ giúp giám đốc và thực hiện công tác hạch toán , ghi sổ chi tiết các hoạt động kinh tế phát sinh. Đồng thời, phòng còn có nhiệm vụ tính chi tiết các khoản phải nộp cho Nhà nước. Phòng kế hoạch kinh doanh: Phụ trách các vấn đề có liên quan đến xây dựng các chiến lược kinh doanh, thực hiện các kế hoạch nhập xuất nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, đồng thời xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch năm tới. Phòng bảo vệ: có trách nhiệm đảm bảo trật tự, an ninh vững chắc toàn bộ cơ sở vật chất của Công ty. Hệ thống phân xưởng của Công ty gồm có ba phân xưởng; trong mỗi phân xưởng đều được chia ra làm nhiều tổ sản xuất, tuỳ theo các bước chế tạo sản phẩm, phụ trách tổ sản xuất là tổ trưởng. Phân xưởng may I Chuyên sản xuất các loại cặp túi xách, valy gia công xuất khẩu cho Hàn quốc và tiêudùng trong nước. Phân xưởng này gồm có 9 tổ với các dây chuyền công nghệ và thiết bị máy móc do Hàn quốc cấp. Phân xưởng II Chuyên sản xuất , gia công các loại mũ, găng tay. Phân xưởng này có 6 tổ sản xuất. Phân xưởng giầy: Chuyên sản xuất các loại giầy vải, thể thao, giầy da. Gia công cho Đài loan và tiêu dùng trong nước. Nguyên liệu sản xuất các loại vải, cao su và hoá chất chủ yếu nhập từ Đài loan. Phân xưởng này có 11 tổ sản xuất. 2.1.3 Đặc điểm và hoạt động kinh doanh của công ty giầy Ngọc Hà 2.1.3.1 Đặc điểm sản phẩm và thị trường Thị trường sản phẩm may mặc và sản xuất giầy, dép ở Việt nam nói riêng và khu vực các nước đang phát triển chịu sự cạnh tranh rất là gay gắt. Ngoài sức ép của hạn ngạch, các đối thủ bên ngoài thì mỗi doanh nghiệp cũng chịu sự cạnh tranh không kém phần khốc liệt đối với các doanh nghiệp trong nước. Sản phẩm chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn của công ty giầy Ngọc Hà là các chủng loại giầy, kế đến là các sản phẩm mũ, găng tay và các loại túi xách, valy. Sản phẩm của công ty chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu sang các bạn hàng truyền thống như: Túi xách và valy xuất khẩu cho các bạn hàng chủ yếu là Hàn Quốc và một phần nhỏ sang Đài Loan và phục vụ tiêu dùng trong nước. Các chủng loại sản phẩm mũ và găng tay chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Các chủng loại giầy da, vải và giầy thể thao của Công ty đã đang được xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản... Mặt hàng giầy là mặt hàng chiếm tỷ trọng trong tổng doanh thu của Công ty. Đồng thời, mặt hàng này cũng đang chịu sự cạnh tranh gay gắt của các đơn vị cùng ngành như: Công ty giầy Thượng Đình, Công ty giầy Thăng Long, Công ty giầy Thuỵ Khuê và đặc biệt là Công ty giầy Hà Nội. Công ty giầy Ngọc Hà, những ngày đầu thành lập với tổng số cán bộ, công nhân viên là 400 người thì cho đến nay con số đó đã là 780 người. Kim ngạnh xuất khẩu của công ty, trong những năm gần đây, tại các thị trường trọng yếu cũng không ngừng tăng lên. Kim ngạch xuất khẩu của công ty giầy Ngọc Hà được thể hiện qua bảng dưới đây: Biểu: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng giầy của Công ty giầy Ngọc Hà Đơn vị tính: USD Thị trường 2000 2001 2002 Bắc Mỹ 120.000 180.000 360.000 Châu á 440.000 480.000 625.000 EU 360.000 325.000 147.000 Tổng 920.000 985.000 1.132.000 Nguồn TL: Phòng kế hoạch kinh doanh công ty giầy Ngọc Hà 2.1.3.2 Đặc điểm về quy mô kinh doanh Về vốn: Trong những ngày đầu thành lập, Công ty giầy Ngọc Hà với số vốn ban đầu nhận bàn giao từ xí nghiệp giầy da Hà Nội là 1.733.000.000 đồng trong đó: Vốn cố định: 1.072.000.000 đồng Vốn lưu động: 169.000.000 đồng Vốn khác: 492.000.000 đồng Trải qua hơn 10 năm hoạt động sản xuất kinh doanh độc lập, nguồn vốn của công ty đã tăng lên đáng kể. Đặc biệt trong năm 2002, cơ cấu vốn của công ty bao gồm : Vốn cố định: 11.593.586.000 đồng Vốn lưu động: 2.351.485.000 đồng Vốn khác: 1.243.650.000 đồng Trong cơ cấu vốn sản xuất kinh doanh của công ty, vốn chủ yếu được huy động từ hai nguồn là vốn vay và vốn chủ sở hữu của công ty. Nguồn vốn chủ sở hữu của công ty không ngừng được tăng lên, cũng như cơ cấu vốn của công ty giầy Ngọc Hà. Biểu: Cơ cấu nguồn vốn của Cty Giầy Ngọc Hà Đơn vị tính: 1000 đồng Chỉ tiêu 2001 2002 Chênh lệch(+/-) Tỷ lệ(%) Vốn cố định 4.008.348 11.593.586 1.013.290 9,58 Vốnlưu động 3.241.516 3.741.516 500.000 27,00 Vốn khác 1.126.250 1.243.650 117.400 10,42 Nguồn TL: (Báo cáo tài chính năm 2002) Qua biểu trên cho thấy: - Vốn cố định của công ty năm 2002 tăng so với năm 2001 là 9,58%. - Vốn lưu động của năm 2002 tăng so với năm 2001 là 27%, tương ứng với số tuyệt đối là 500.000.000 đồng. Đây là lần tăng lớn nhất từ khi thành lập công ty giầy Ngọc Hà tới nay. - Vốn khác trong năm 2002 cũng tăng đáng kể so với năm 2001 là 10,42%. Về lao động: Ngày đầu thành lập, công ty giầy Ngọc Hà không ngừng tăng lên về chất lượng cũng như số lượng lao động. Hàng năm, ngoài công tác tuyển dụng thêm lao động công ty còn phát động các phong trào thi đua làm động lực thúc đẩy tinh thần lao động, sáng tạo trong đội ngũ cán bộ, công nhân viên của công ty. Công ty không ngừng nâng cao được thu nhập cho người lao động. Biểu: Thu nhập của người lao động Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2001 2002 Thu nhập bình quân 1000/lđ/t 450 520 600 Lao động BQ Người 600 729 780 Nguồn TL: Phòng tổ chức hành chính 2.1.3.3 Đặc điểm về quy trình công nghệ sản xuất giầy Quy trình sản xuất giầy của công ty giầy Ngọc Hà, cũng như các công ty sản xuất giầy khác, quy trình sản xuất theo các công đoạn nối tiếp và liên tục. Các nguyên liệu khác nhau sẽ được xử lý theo các công nghệ khác nhau, sau đó kết hợp các quy trình để tạo thành sản phẩm hoàn chỉnh. Nguyên liệu dùng vào sản xuất gồm các loại vải phin, da làm mũi giầy, các loại cao su làm đế giầy, các loại hoá chất sử dụng bao gồm: cácbonát, kẽm bột màu, paraphin, các chất xúc tác, chất trộn để làm dẻo cao su, tăng độ bền và chống lão hoá. Các công nghệ chủ yếu là của Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản.. 2.2 Một số kết quả được trong thời gian qua Từ khi thành lập đến nay, Công ty Giầy Ngọc Hà là một doanh nghiệp Nhà nước luôn luôn phấn đấu đi lên không ngừng trong sản xuất kinh doanh. Trong thời kỳ đất nước mở cửa, Công ty luôn tìm tòi hướng đi phù hợp với khả năng, tự khẳng định mình vươn lên tự chủ về sản xuất kinh doanh giúp Công ty tồn tại và phát triển ngày càng vững mạnh thực hiện tốt 3 lợi ích: Nhà nước, doanh nghiệp và Người lao động. Từ chỗ vốn ban đầu khi mới thành lập vào năm 1991 là 1.733.000.000 đồng, tính đến năm 2002 theo báo cáo quyết toán của đơn vị vốn chủ sở hữu là 8.763.154.000 VNĐ. Trong đó : Vốn cố định: 5.021.638.000 Vốn lưu động: 3.741.516.000 Bảng: Một số chỉ tiêu Công ty Giầy Ngọc Hà đạt được Đơn vị: 1000 đồng Chỉ tiêu 2001 2002 -/+ Tỷ lệ(%) 1.Tổngdoanhthu 39.542.000 47.450.000 7.908.000 20,00 2. Lợi nhuận 296.000 363.000 67.000 22,63 3. SốnộpN sách 264.618 299.446 34.828 13,75 4. Thu nhập BQ 520 600 80 15,38 Nguồn TL: Bảng cân đối kế toán năm2002 * Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước Công ty giầy Ngọc Hà là một doanh nghiệp Nhà nước, được Nhà nước cấp vốn lần đầu lên việc thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước thể hiện trên các loại thuế gián thu và trực thu. Thông qua các số liệu báo cáo quyết toán năm 2002, ta khảo sát tình hình thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước của Công ty giầy Ngọc Hà qua biểu sau: Chỉ tiêu Phải nộp đầu năm 2002 Số phải nộp năm nay Số đã nộp năm nay Số còn phải nộp đến 31/12/02 1.Thuế doanh thu -727.680 3.640.790 5.000.000 -631.510 2.Thuế lợi tức 5.834.950 32.382.340 40.000.000 -1.872.700 3.Thuế XNK 7.569.000 7.569.000 4. Thu trên SD vốn 23.611.060 203.507.740 230.000.000 -2.881.190 5. Thuế đất 5.789.450 5.789.450 6.Thuế khác 1.400.000 1.400.000 Cộng 34.507.740 248.499.880 289.758.450 -5.295.400 NGuồn TL: Báo cáo tài chính năm 2002 Công ty giầy Ngọc Hà Từ kết quả trên ta thấy trong năm 2001 Công ty giầy Ngọc Hà đã thực hiện tốt nghĩa vụ với Nhà nước. Đầu năm 2002, Công ty còn nợ Ngân sách 34.507.781 đồng thuế, nhưng cuối năm 2002 Công ty đã nộp thừa 5.295.414 đồng Điều đó đạt được là nhờ có sự cố gắng của toàn thể nhân viên trong Công ty cùng với sự sáng suốt của đội ngũ lãnh đạo trong công tác chiến lược kinh doanh. Bảng: Đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định Chỉ tiêu 2001 2002 Chênh lệch Tỷ lệ(%) Tổng doanh thu 39.542.000 47.450.000 7.908 20,0 Tổng lợi nhuận 296.000 363.000 67 22,63 Tổng TSCĐ BQ SD 10.580.290 11.593.580 1.013.290 9,58 Năng lực kinh doanh 3,39 3,76 0,37 10,91 Khả năng sinh lời TSCĐ 0,023 0,027 0,004 17,39 Nguồn TL: Báo cáo tài chính của Công ty giầy Ngọc Hà Bảng đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định ta có thể thấy hiệu quả sử dụng tài sản cố định của công ty năm 2002 tăng 1.013.290.000 đồng về chênh lệch tuyệt đối và tăng 9,58% về số tương đối. Theo chỉ tiêu năng lực kinh doanh cho biết cứ một đồng tài sản cố định bổ vào chi phí trong quá trình sản xuất sẽ tạo ra được 3,76 đồng doanh thu và 0,027 đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này của năm 2002 tăng tương ứng 0,37 và 0,004 so với năm 2001. Chứng tỏ tình hình sử dụng tài sản cố định của năm 2002 tốt hơn năm 2001, yếu tố đó đóng góp phần nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp lên. Hiệu quả sử dụng tài lưu động Tương tự như việc đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định, ta dùng biểu sau để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của Công ty giầy Ngọc Hà qua các năm 2002 và năm 2001. Bảng: Đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động Chỉ tiêu 2001 2002 Chênh lệch Tỷ lệ(%) 1.Tổng doanh thu 39.542.000.000 42.450.000.000 7.908.000.000 20,0 2. Tổng lợi nhuận 296.000.000 363.000.000 67.000.000 22,63 Tổng TSLĐ trong năm 9.680.038.155 11.602.932.280 1.922.894.125 19,86 Năng lực 3,71 3,76 0,05 1,35 Khả năng sinh lời của TSLĐ 0,025 0,027 0,002 8,00 NGuồn TL: Báo cáo tài chính năm 2002 Cty giầy Ngọc Hà Qua bảng tính toán trên ta thấy rằng cũng như tài sản cố định, năm 2002 tà sản lưu động cũng đã được Công ty giầy Ngọc Hà sử dụng đạt hiệu quả tốt trong kinh doanh hơn so với năm 2001. Cụ thể: trong năm 2002, 1 đồng tài sản lưu động mang lại cho Công ty 3,76 đồng doanh thu và 0,027 đồng lợi nhuận, cao hơn năm 2001 tương ứng là 0,05 đồng lợi nhuận, cao hơn năm 2001 tương ứng là 0,05 và 0,002 đồng. 2.3 Thực trạng lợi nhuận tại Công ty giầy Ngọc Hà Từ các số liệu báo cáo quyết toán ta có biểu đánh giá và so sánh tình hình thực hiện lợi nhuận của Công ty giầy Ngọc Hà 2 năm 2001 và 2002 như sau: Bảng đánh giá thực hiện lợi nhuận Đơn vị tính: 1000 đồng Chỉ tiêu Thực hiện năm 2001 Thực hiện năm 2002 So sánh năm 2002/2001 +/- % 1.Lợi nhuận thuần từ HĐKD 296.000 363.000 67.000 22,63 2. Lợi nhuận bất thường -13.700 -13.700 3. Tổng lợi nhuận 296.000 350.000 54.000 18,24 4. Thuế lợi tức phải nộp 94.720 112.000 18.000 19,14 5. Lợi nhuần ròng 201.280 238.000 36.720 18,24 NguồnTL: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002 Qua bảng chỉ tiêu cho chúng ta thấy được tình hình lợi nhuận của Công ty Giầy Ngọc Hà năm 2002 tăng so với năm 2001 là 7.908.000.000 đồng về số tuyệt đối và 20,0% về số tương đối. Chứng tỏ Công ty đã thực hiện kinh doanh tốt, đặc biệt trong lĩnh vực hoạt động sản xuất là nhiệm vụ chủ yếu của Công ty. Tiếp đến tình hình lợi nhuận và hoạt động thực hiện kế hoạch kinh doanh sẽ được biểu hiện rõ hơn qua bảng phân tích tình hình thực hiện lợi nhuận của Công ty giầy Ngọc Hà. Bảng Phân tích tình hình Thực hiện KH Lợi nhuận Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2001 2002 Tăng giảm so với năm trước Tỷ lệ so với doanh thu thuần Số tiền % 2001 2002 1. Tổng doanh thu 39542 47450 7908 20,0 100.35 100.33 2. Chiết khấu bán hàng 15 28 13 86.66 0.038 0.059 3. Thuế tiêu thụ 87 132 45 51.72 0.22 0.28 4. Doanh thu thuần 39440 47290 7850 19.90 100 100 5. Giá vốn hàng bán 38120 45020 6900 18.10 96.65 95.2 6. Lợi tức gộp 1320 2270 950 71.96 3.34 4.8 7. Chi phí bán hàng 645 1253 608 94.26 1.63 2.7 8.Chi phí QL DN 379 654 275 72.55 0.96 1.38 9. Lợi nhuận thuần từ hoạt động SXKD 296 363 67 22.63 0.75 0.86 0 0 10.Thu nhập HĐTC 0 0 11. Chi phí HĐTC 0 0 12. Thu nhập bất thường 0 0 0 0 13. Chi phí bất thường 13.7 0 0.029 14. Tổng lợi nhuận trước thuế 296 349.3 53.3 18.06 0.75 0.84 15.Thuế TNDN 94.72 111.776 17.056 18.06 0.24 0.24 16. Lợi nhuận ròng 201.28 237.524 36.244 18.06 0.41 0.51 Qua bảng phân tích tình hình thực hiện kế hoạch lợi nhuận năm 2002 ta có thể nhận xét như sau: Dựa trên số liệu tổng doanh thu năm 2002 và năm 2001, cho ta thấy doanh thu năm 2002 tăng so với năm 2001 là 7.908 triệu đồng, tăng xấp xỉ 20% về số tuyệt đối. So sánh tổng doanh thu so với doanh thu thuần thì năm 2002 cứ trong 1,0033 đồng doanh thu thì sẽ tạo ra 1,00 đồng doanh thu thuần, còn năm 2001 thì tương ứng là 1,0035 đồng tổng doanh thu mới có 1,00 đồng doanh thu thuần. Chính nguyên nhân trên đã làm cho lợi nhuận của năm 2002 tăng lên so với năm 2001. Qua bảng phân tích tình hình lợi nhuận ta thấy doanh thu thuần của năm 2002 tăng lên so với năm 2001 là 7.850 triệu đồng tương ứng với 19,90% về số tương đối. Một điều dễ thấy la lợi tức từ hoạt động sản xuất kinh doanh tăng so với năm 2001 là 67 triệu đồng, hay 22,67% về số tương đối. Đây là tín hiệu đáng mừng, thêm nữa tỷ lệ tăng giá vốn hàng bán là 18,1% là một con số không lớn lắm. Tuy nhiên, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp có xu hướng tăng cao. Đó là do nguyên nhân + Công ty giầy Ngọc hà không ngừng tăng về số lượng công nhân viên, và tăng chi phí đào tạo tay nghề, trình độ chuyên môn, làm cho chi phí quản lý doanh nghiệp năm 2002 tăng lên 275 triệu so với năm 2001 về số tuyệt đối. + Mặt khác, năm vừa qua công ty có đưa ra nhiều mẫu mã mới đối với mặt hàng giầy của công ty làm cho chi phí bán hàng của công ty tăng vọt . Năm 2002 tăng so với năm 2001 là 608 triệu đồng. Tuy nhiên, các khoản chi này cũng nhằm mục đích gia tăng lợi nhuận của cô._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28630.doc
Tài liệu liên quan