Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân nghèo ở Đắc Lắc

lời nói đầu Đối với những nước chậm phát triển, sự đói nghèo của dân cư nói chung và nông thôn nói riêng đang là một trong những vấn đề nan giải, phức tạp có liên quan đến nhiều mặt kinh tế, chính trị, xã hội, đây là vấn đề bức thiết không chỉ ở từng quốc gia mà còn mang tính chất quốc tế trong những thập kỷ gần đây. Bên cạnh những biện pháp đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nhiều quốc gia và nhiều tổ chức quốc tế đã tổ chức, nghiên cứu và có những chương trình hành động cụ thể nhằm giảm tình t

doc50 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1978 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân nghèo ở Đắc Lắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rạng đói nghèo. ở nước ta, mặc dù trước đây và nhất là từ khi đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến tình trạng đói nghèo thông qua nhiều chính sách và giải pháp phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo như hỗ trợ việc làm tăng thu nhập, cải thiện vị trí xã hội cho người nghèo nhưng hiệu quả đạt được không cao, còn nhiều vấn đề kinh tế chính trị xã hội đặt ra cần phải giải quyết. Hơn nữa Việt Nam hiện nay vẫn là một trong những nước nghèo, trong đó có tỉnh Đắc Lắk. Xuất phát từ ý nghĩa và yêu cầu đó em chọn đề tài: “Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân nghèo ở Đắc Lắc” làm đề tài nghiên cứu của chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu đề tài: Dựa trên những vấn đề lý luận và phương pháp luận để xem xét đánh giá vấn đề nghèo đói của các hộ nông dân nghèo ở nông thôn, phân tích và đánh giá thực trạng nghèo đói ở vùng nông thôn Đắc Lắc và những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển sản xuất của các hộ nông dân nghèo tỉnh Đắc Lắc. Đối tượng phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu tình hình sản xuất, thu nhập và đời sống của nhóm hộ nông dân nghèo thông qua việc kiểm tra khảo sát các mô hình kinh tế hộ nông dân trong cơ chế quản lý mới. Về kết cấu: Ngoài mục lời nói đầu, kết luận, kiến nghị và mục tài liệu tham khảo, chuyên đề gồm ba chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nghèo đói và giải quyết vấn đề nghèo đói. Chương II: Thực trạng sản xuất và đời sống của cán bộ nông dân nghèo ở Đắc Lắc. Chương III: Những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển sản xuất của các hộ nông dân nghèo Đắc Lắc. Chương I Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nghèo đói và giải quyết vấn đề nghèo đói I-/ Quan niệm về nghèo đói. 1-/ Quan niệm và tiêu chuẩn phân định nghèo đói. a. Những quan niệm về nghèo đói. Trong mỗi chế độ xã hội cụ thể nước ngoài luôn luôn tìm mọi cách thúc đẩy sản xuất nâng cao đời sống của dân nhưng mức sống của mỗi thành viên trong xã hội vẫn khác nhau bởi mức sống của mỗi người lệ thuộc vào thu nhập của họ mà mức thu nhập của mỗi thành viên trong xã hội lại lệ thuộc vào khả năng, nghề nghiệp, vốn, trình độ kỹ thuật, và địa vị của họ trong xã hội, những người làm việc trong những ngành công nghiệp, dịch vụ thường có mức thu nhập cao hơn những người làm việc trong ngành nông nghiệp. Do vậy ở bất cứ chế độ xã hội nào, nước nào vẫn luôn có một nhóm người giàu và tồn tại nhiều hoặc ít số người nghèo. Trên cơ sở nhất trí với quan điểm xem xét nghèo đói của tổ chức Liên hiệp quốc, ngân hàng Châu á dã đánh giá về thực trạng nghèo đói và cho rằng những người nghèo đói là những người có ít tài sản nhà cửa là túp lều lụp xụp ở tạm đồ dùng trong gia đình không đầy đủ là những loại tài sản không có giá trị cao họ rất ít ruộng đất hoặc là không, về địa vị xã hội họ là những người thấp kém về mọi mặt. Ngân hàng phát triển Châu á đã đưa ra khái niệm nghèo đói. - Nghèo tương đối. - Nghèo tuyệt đối. Tiến sỹ MG.Quiria Ngân hàng phát triển Châu á cho rằng nghèo tương đối là tình trạng thu nhập không có khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu chỉ để duy trì cuộc sống cơ thể con người. Nghèo tuyệt đối là tình trạng thu nhập thấp không có khả năng đạt tới mức sống tối thiểu tại một thời điểm nào đó. Khái niệm nghèo tuyệt đối có xu hướng đề cập đến những người đang bị thiếu ăn theo nghĩa đen khái niệm nghèo tương đối đề cập đến những người nghèo nhất về phân phối thu nhập ở một nước nào đó. - Để tránh sự bất đồng ý kiến về khái niệm nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối giữa các nước nói chung, người nghèo và người không nghèo được xác định trang phạm vi của mỗi nước qua việc đưa ra khái niệm mức sống tối thiểu. - Để đưa ra một khái niệm nghèo đòi hỏi phải xác định các thành phần khácnhau của mức sống và thừa nhận mức tối thiểu của các thành phần cấu thành mức sống tối thiểu. ở Inđônêxia quan niệm cho rằng những người nghèo có thu nhập dưới 1/3 mức sống bình quân của xã hội thì được coi là nghèo và có qui định cụ thể những ai có mức thu nhập qui ra gạo bình quân đầu người dưới 225 kg/năm được coi là nghèo. ở Malayxia những người được coi là nghèo là những người có thu nhập thấp hơn 300 USD/năm. ở Việt Nam có nhiều quan niệm đánh giá đói nghèo khác nhau để thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước Bộ Lao động thương binh xã hội đã tổ chức hội thảo toàn quốc để thảo luận và thống nhất một số quan niệm về nghèo đói ở nước ta, đồng thời đưa ra những chỉ tiêu chuẩn mực để đánh giá nghèo đói. Dựa trên khái niệm do các tổ chức quốc tế đưa ra căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước, trung tâm nghiên cứu dân số và lao động Bộ Lao động thương binh và xã hội đã đưa ra định nghĩa để nhận dạng nghèo đói ở nước ta như sau: - Nghèo có hai loại nghèo: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. + Nghèo tuyệt đối là tình trạng của một bộ phận dân cư có thu nhập thấp không đủ khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu chỉ để duy trì cuộc sống. + Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cứ có mức thu nhập thấp không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu sinh hoạt xã hội ở một thời điểm nào đó. b. Tiêu chuẩn xác định ranh giới nghèo đói. Là mức chi phí cần thiết đảm bảo những nhu cầu cơ bản tối thiểu của các thành phần cấu thành mức sống tối thiểu. - Trong các nhu cầu cơ bản, sức ăn là quan trọng nhất không có ăn hoặc không được ăn đầy đủ sẽ dẫn đến suy dinh dưỡng, bệnh tật, nạn đói và chết sớm, cách đây gần ba thập kỷ người ta đã đưa ra mức nhu cầu năng lượng cho người trưởng thành (Kcalo/người/ngày) cho các vùng lớn: - Các nước công nghiệp: Châu Âu 2.570 (Kcalo/người/ngày), Bắc Mỹ (2.640/người/ngày). - Các nước đang phát triển: Viễn Đông: 2.290 (Kcalo/người/ngày), Cận Đông (2.400/người/ngày), Châu Phi 2.340, Châu á: 2.112 (người/ngày). ở Việt Nam mức qui định của việc dinh dưỡng về nhu cầu năng lượng khẩu phần bình quân cho người trưởng thành (BQNTT) như sau: Mức dinh dưỡng Mức năng lượng bình quân người trưởng thành Đói <1.500 Kcalo/ngày Thức ăn 1.500 - dưới 1.800 Kcalo/ngày Đe doạ 1.800 - dưới 2.000 Kcalo/ngày Tạm dư 2.100-dưới 2.400 Kcalo/ngày Dư ăn 2.400 - dưới 2.700 Kcalo/ngày Cao > 2.700 Kcalo/ngày Đối với những người nghèo cái quan trọng nhất của họ là bữa ăn, càng ở mức thu nhập thấp thì tỷ lệ chi cho ăn trong cơ cấu chi cho tiêu dùng càng lớn tuy nhiên để đảm bảo được nhu cầu tối thiểu cho sự phát triển của con người ta cần phải chi cho nhu cầu ăn mặc, chữa bệnh, giao tiếp. Ngoài mức chi tiêu, thu nhập bình quân đầu người, tình trạng nghèo khổ các dân cư còn được thể hiện qua tình trạng nhà ở, đồ dùng sinh hoạt, phương tiện và đối tượng sản xuất, trình độ văn hoá giáo dục, tình trạng sức khoẻ và vị trí chính trị, xã hội của con người. Từ ngày 1/4/1993 Nhà nước đưa ra mức lương tối thiểu cho người lao động đảm bảo nuôi sống mình cùng với một người ăn theo ở mức tối thiểu là 120.000 đồng/tháng tức là mức bình quân là 60.000đ/người/tháng tương đương với 30kg gạo (giá năm 1993 là 2.000đ/kg). Theo tính toán của một số nhà khoa học với điều kiện của Việt Nam để bảo đảm đủ dinh dưỡng thì tiêu chuẩn cho người Châu á, mức chi cho ăn bình quân đầu người phải là 20 kg gạo/tháng (13 kg cho lương thực, 7 kg cho thực phẩm) và mức chi cho ăn thường xuyên chiếm 2/3 tổng số chi tiêu. Vậy chi cho nhu cầu cơ bản của người Việt Nam phải là 30 kg gạo/người/tháng, các nhà khoa học đó cho rằng đây là ranh giới cho sự nghèo khổ ở Việt Nam. Trước mắt Bộ Lao động thương binh và xã hội cùng Tổng cục thống kê đã đưa ra mức ranh giới nghèo đói phục vụ cho phong trào “xoá đói giảm nghèo” đang diễn ra ở các địa phương như sau: - Nghèo tương đối có mức thu nhập dưới mức ranh giới nghèo khổ <25kg gạo ở thành thị; 20 kg gạo ở nông thôn, đồng bằng và trung du, <15 kg gạo ở miền núi và hải đảo. - Nghèo tuyệt đối: có mức thu nhập chỉ bảo đảm dưới mức sống tối thiểu từ (12-15kg gạo/người/tháng). Với mức này chỉ bảo đảm no bụng, dinh dưỡng mới đạt 1.530 Kcalo/ngày/người. - Diện thiếu đói: có mức thu nhập dưới mức 12kg gạo/người/tháng. - Đói gay gắt: có thu nhập dưới mức 8kg/người/tháng. - Nghèo khổ cần được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau tuỳ thuộc vào những giai đoạn cụ thể. 2-/ Tính chất tương đối của các quan niệm nghèo đói. - Mức độ giàu nghèo tuỳ thuộc vào sự phát triển sản xuất ở từng nước và mỗi chế độ xã hội, có những người được coi là nghèo khổ, ở chế độ chủ nghĩa tư bản nhưng mức sống, sinh hoạt xã hội lại cao hơn chế độ nô lệ và chế độ phong kiến bởi vì sức sản xuất ở chủ nghĩa tư bản phát triển cao hơn so với chế độ nô lệ và phong kiến. Những người được coi là nghèo khổ ở những nước kinh tế phát triển lại có mức sống và sinh hoạt xã hội cao hơn những người được gọi là giầu có ở các nước chậm phát triển, nếu đem so sánh mức thu nhập của họ với người dân của các nước Châu Phi và vùng Đông Nam á, người được coi là giầu cũng không thể có mức thu nhập đó được, ngay trong một quốc gia, những người nghèo khổ ở thành thị cũng có đời sống sinh hoạt xã hội bằng hoặc cao hơn những người trung bình hoặc giầu có ở vùng nông thôn, vùng dân tộc ít người. Là một phạm trù kinh tế xã hội nên khái niệm về sự giầu nghèo cũng mang đặc tính không gian và thời gian, khi xem xét sự giầu nghèo cũng phải đặt nó vào một thời gian và một không gian nhất định. ở các vùng khác nhau, các quốc gia khác nhau thìmức phân chia ranh giới nghèo khổ và tỉ lệ người nghèo trên tổng dân số cũng như số lượng người nghèo hoàn toàn khác nhau. Bảng 1: Mức thu nhập bình quân đầu người giữa các nhóm hộ nông dân ở Việt Nam Loại nhóm hộ Năm 1990 Năm 1991 Năm 1992 Mức TNBQ kg gạo/tháng/người Tỉ lệ % Mức TNBQ kg gạo/tháng/người Tỉ lệ % Mức TNBQ kg gạo/tháng/người Tỉ lệ % Giầu 75,44 8,06 84,5 9,7 89,7 15,0 Khá - 10,34 - 12,7 - 14,6 Trung bình - 26,54 - 28,2 - 21,0 Nghèo 13,00 45,62 15,00 34,6 15,0 29,8 Nghèo đói 10,33 9,44 11,47 14,8 13,2 19,6 Nguồn: Tổng hợp tài liệu điều tra về giàu nghèo của Bộ NN-CNTP-1993 II-/ Tình hình nghèo đói trên thế giới, giải pháp kinh nghiệm. 1-/ Thực trạng và nguyên nhân. a. Thực trạng. Để có chiến lược chống nghèo đói trên toàn cầu năm 1990 tổ chức Liên hiệp quốc đã tiến hành khảo sát tình trạng nghèo đói ở các nước đang phát triển. Qua điều tra thấy rằng số người nghèo trên thế giới còn rất nhiều (1.126 triệu người chiếm gần 1/7 dân số) trong đó số người cực nghèo không phải là ít (633 triệu người, chiếm gần 1/2 số người nghèo đói). Số người nghèo khổ thường tập trung ở các nước Đông Nam á (800 triệu người, chiếm 71,63% tổng số người nghèo), ấn Độ là nước nhiều người nghèo đói nhất trên thế giới (420 triệu người chiếm 37,63% tổng số người nghèo) chỉ số nghèo đó cũng cao nhất thế giới là (55% trong khi đó bình quân của thế giới là 3%) tỉ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi cao nhất thế giới là (199/1000 em, bình quân thế giới là 121/1000), tuổi thọ dân số ấn Độ thấp chỉ cao hơn các nước vùng xa mạc Sahara tuổi thọ bình quân của dân số ấn Độ thấp, trẻ em được đi học thấp nhất (21% trong khi đó bình quân thế giới 83%). Nơi nghèo thứ 2 trên thế giới là các nước Châu Phi thuộc xa mạc Sahara là (180 triệu người) song số người quá nghèo đói ở đây chiếm tỷ lệ cao nhất thế giới (66% tổng số người nghèo), khoảng cách nghèo khổ rất lớn (11%) số trẻ em bị tử vong dưới năm tuổi cao (196/1000), tuổi thọ bình quân thấp nhất thế giới, số trẻ em được đến lớp còn thấp, chỉ cao hơn ấn Độ. - Nước thứ ba có số người nghèo cao là Trung Quốc (210 triệu người) chiếm 20% dân số tương tự các chỉ tiêu bao gồm, chỉ số nghèo đói, tử vong của trẻ em dưới năm tuổi cũng vậy, có thể thấy ở biểu II thực trạng nghèo đói của thế giới. + Nhận xét: vùng Đông Nam á, Châu Phi, là nơi tập trung đồng người nghèo nhất của thế giới. Bảng 2: Tình trạng nghèo đói ở các nước đang phát triển 1985-2000 Khu vực Số người nghèo triệu người Tỷ lệ dân số dưới ngưỡng nghèo (%) 1985 1990 Dự báo 2000 1985 1990 Dự báo 2000 Bình quân chung các nước đang phát triển, trong đó. 1.051 1.933 1.707 30,5 29,7 24,1 Nam á 532 562 511 50,8 49 36,9 Đông á 182 169 73 43,2 11,3 4,2 Châu phi cận Sahara 184 216 304 47,6 47,8 49,7 Trung Đông và Bắc Phi 60 73 89 30,6 33,1 30,6 Đông Âu 5,0 5,0 4 7,1 7,1 5,8 (Châu Mỹ La Tinh và Caribe) 87,0 87,0 126,0 22,7 25,5 24,9 Nguồn: Ravabon, Datt Q chen, 1992 b. Nguyên nhân dẫn đến nghèo đói. Nguyên nhân nghèo đói của mỗi quốc gia đó là tiềm năng kinh tế thấp, trình độ văn hoá thấp, nợ nước ngoài nhiều, chi phí cho chiến tranh lớn, tỉ lệ tăng dân số cao đã hạn chế những biện pháp kích cầu, cung của Chính phủ những nước có tỷ lệ nghèo cao thường là: * Sản xuất chưa phát triển hoặc kém phát triển. ở những nước có nền kinh tế chưa phát triển, chưa thực hiện việc cơ giới hoá trong quá trình sản xuất, do đó năng suất lao động thấp, thu nhập của các thành viên trong xã hội không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu dẫn đến nghèo nàn khó khăn triền miên, hơn nữa ở những nước đang phát triển hoặc kém phát triển nhu cầu về lao động trong các ngành kinh tế thấp. Trong khi đó tỷ lệ sinh đẻ cao do đó dẫn đến thiếu việc làm trong xã hội, mặt khác lại bị các chính sách của các nước công nghiệp phát triển kìm hãm, cấm vận làm cho nền kinh tế của các nước này đi vào con đường khủng hoảng kinh tế chầm trọng. Những chính sách kinh tế xã hội của Chính phủ khi xem xét nghèo khổ trên thế giới Liên hiệp quốc đã đề cập đến chính sách đất đai của Chính phủ trong đó có sở hữu ruộng đất của nông dân, kết quả điều tra ở Băng la đét biểu 3 cho thấy. ở 8 nước sở hữu khác nhau từ thấp đến cao thu nhập bình quân của các gia đình có mối quan hệ tỷ lệ thuận với mức độ ruộng đất của họ, tỷ lệ người nghèo có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với mức ruộng đất của họ, nhóm gia đình không có ruộng đất thì tỷ lệ người nghèo cao, còn những người nghèo có ruộng đất ít bị nghèo đói hơn. Vì vậy một trong những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói của nông dân là họ không có đất đai để sản xuất, phải thuê mướn đất đai, đây chính là những bất lợi nhất cho người nghèo trong khi đó sự quan tâm của Chính phủ chỉ ở mức độ hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau. * Nguyên nhân cá nhân của người nghèo. Theo tổng kết của các nhà kinh tế học của thế giới khi trả lời câu hỏi tại sao trong xã hội lại có những người giầu có, và có những người nghèo khó thì họ cho rằng: - Sự khác nhau về của cải, tiền vốn, sự chênh lệch lớn nhất trong thu nhập là do sự khác nhau về sở hữu tài sản sau khi bố, mẹ giao thừa kế song chúng ta cũng nên hiểu rằng những người đạt được đỉnh cao của sự giầu sang là do họ khôn ngoan và sáng tạo, trong sản xuất và kinh doanh. - Sự khác nhau về năng lực cá nhân trong mọi gia đình đó là thể chất và tinh thần trong đó thông minh là biến số quan trọng nhất vì nó ảnh hưởng lớn đến việc tìm kiếm lợi ích của họ trên thị trường. Hơn nữa để được những tố chất đó thời kỳ thơ ấu các gia đình cần phải quan tâm nuôi dưỡng chu đáo nhưng trong đó những gia đình có điều kiện con em của họ tường khoẻ mạnh hơn nhiều so với các gia đình nghèo, do đó Chính phủ các quốc gia cần phải quan tâm hơn nữa, đưa ra những chính sách kinh tế và phi kinh tế thích đáng giúp người nghèo thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói. - Sự khác nhau về giáo dục và đào tạo, việc trẻ em không được đi học là một trong những cản trở lớn nhất đối với bình đẳng trong xã hội, vì vậy khi bước vào tuổi lao động do họ không có trình độ văn hoá, trình độ về kỹ thuật thường làm những công việc nặng nhọc, lao động thủ công, bằng chân tay là chủ yếu do đó ảnh hưởng đến năng suất lao động và thu nhập, đó là mức thu nhập ít ỏi, địa vị hèn kém trong xã hội, do vậy cái nghèo cứ bám theo họ mãi từ đời này đến đời khác. 2-/ Kinh nghiệm giải quyết nghèo khổ của tổ chức Liên hiệp quốc và một số nước vùng Đông Nam á. a. Kinh nghiệm của tổ chức Liên hiệp quốc. Khi xác định được nguyên nhân nghèo đói của từng nước, từng vùng và của mỗi thành viên trong xã hội, đó chính là những vấn đề tồn tại cần phải khắc phục. Do đó để đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu vấn đề đầu tiên cần phải nghĩ đến là làm gì làm như thế nào để thúc đẩy sản xuất phát triển và tạo ra mọi sự công bằng. - Kinh nghiệm của các nước phát triển là họ thúc đẩy cạnh tranh trong sản xuất, xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp, phát triển nền kinh tế phải dựa vào bàn tay “vô hình” và “hữu hình” của đất nước, tức là dựa vào thị trường và Nhà nước, lợi nhuận là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, cải tiến kỹ thuật, Nhà nước phải tạo ra một môi trường thông thoáng trong khi các chủ thể kinh doanh đang tìm kiếm lợi ích của mình, Nhà nước phải ngăn chặn những khuyết tật do cơ chế thị trường gây ra, thiết lập khuôn khổ pháp luật, điều tiết nền kinh tế thông qua thuế và chi tiêu của Chính phủ. Chính phủ phải cung cấp hàng hoá phục vụ cho lợi ích công cộng và đặt ra các loại thuế và các mức thu từng loại thuế để điều tiết sản xuất. Nhà nước phải bảo đảm công bằng xã hội, bằng các chính sách phân phối và các chính sách công bằng xã hội, đồng thời Nhà nước phải ổn định nền kinh tế vĩ mô để góp phần giảm bớt sự nghèo đói ở các nước nghèo nàn lạc hậu trên thế giới, các tổ chức quốc tế đã trích ra từ thu nhập quốc dân của các nước phát triển một số tiền thành lập Quĩ hỗ trợ các nước chậm phát triển, quỹ này sẽ được đưa đến các nước nghèo nàn bằng nhiều hình thức, như đào tạo cán bộ, nân cao trình độ tổ chức và quản lý, khoa học kỹ thuật, trợ cấp thiên tai, bảo vệ môi trường, chống suy dinh dưỡng của trẻ em và các hình thức vay ngắn hạn và dài hạn để đầu tư phát triển sản xuất với mức lãi suất thấp hoặc cho không. b. Kinh nghiệm giải quyết nghèo đói ở một số nước vùng Đông Nam á. * Trung quốc: - Là một nước có 210 triệu người nghèo đói đứng thứ hai thế giới sau ấn Độ, tỷ lệ nghèo đói chiếm 20% dân số. Trong đó có 80 triệu người quá nghèo đói, chiếm 8% dân số, song Trung Quốc là nước quan tâm đến vấn đề phát triển nông nghiệp, để thực hiện phương châm này Trung Quốc đã quốc hữu hoá, tập thể hoá đất đai, tư liệu sản xuất với phong trào thành lập công xã nhân dân nhằm tập trung chuyên môn hoá nền sản xuất với quy mô lớn và họ đã không ít gặp những khó khăn và thách thức trong sản xuất của nông dân, trong 10 năm lại đây Trung Quốc đã chuyển nền kinh tế từ sản xuất tập thể với mô hình công xã nhân dân sang mô hình kinh tế hộ khoảng 100 triệu hộ được giao hơn 10 triệu ha, ruộng đất để sử dụng lâu dài và có quyền chuyển nhượng, qui mô ruộng đất cho mỗi hộ khoảng 0,7ha phần đông các hộ mới chỉ đủ ăn do có chính sách chuyển nhượng đất của Nhà nước, một số hộ đã bỏ vốn ra mua bán chuyển nhượng và tập trung được nhiều ruộng đất hơn hình thành những trại gia đình, họ đã tạo ra khối lượng lớn nông sản phẩm hàng hoá cung cấp cho thị trường. Cũng thời gian này Chính phủ Trung Quốc đưa ra chương trình mới đối với phát triển nông nghiệp nông thôn đó là đưa khoa học công nghệ vào sản xuất và phát huy mọi năng lực sẵn có ở nông thôn để nâng cao năng suất, và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, với những chủ trương này Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng kể, sản xuất ngày càng phát triển, chi trong thời gian từ 1978-1984 giá trị sản lượng nông nghiệp mỗi năm tăng bình quân 10% và đã giải quyết việc làm cho 20% lao động ở nông thôn. III-/ Nghèo đói ở nông thôn Việt Nam và chương trình chống nghèo đói ở Việt Nam. 1-/ Thực trạng và nguyên nhân. a. Thực trạng. Thực trạng nghèo đói ở nước ta nhất là ở nông thôn những năm gần đây khi nền kinh tế thị trường bước đầu được hình thành, có những đặc điểm kinh tế xã hội đáng chú ý. - Đói nghèo do hậu quả trực tiếp thường xuyên của thiên tai, mất mùa và những hậu quả chiến tranh ác liệt kéo dài. - Đói nghèo ở nước ta thuộc những vùng sâu vùng xa khu căn cứ cách mạng trước đây, nơi có nhiều đồng bào dân tộc ít người sinh sống diễn ra gay gắt và thường xuyên. - Tình trạng đói nghèo ở nước ta phần lớn tập trung ở nông thôn, những gia đình thuần nông, độc canh trong nông nghiệp, tự cung tự cấp, ít tư liệu sản xuất, đông con, thiếu lao động, thiếu việc làm, thu nhập thấp, ngay cả tái sản xuất giản đơn cũng không có điều kiện để tích luỹ. - Trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở cửa sự nghèo đói ở nông thôn và thành thị còn đi liền với sự gia tăng các tệ nạn xã hội lại đẩy nghèo đói tới mức gay gắt hơn. Dễ nhìn thất tất cả các cùng nông thôn nước ta nơi quy tụ 80% dân cư cả nước sống bằng nghề nông đều diễn ra hiện tượng đói nghèo, tuy mức sống và tỷ lệ không giống nhau, điểm nóng gay gắt nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng đồng bào các dân tộc ít người, vùng căn cứ kháng chiến cũ. - Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam hiện nay ở cấp độ khác nhau tuỳ thuộc vào từng vùng. - Nghèo tuyệt đối (dưới mức 15/kg gạo/người) ở nông thôn chiếm từ 29,96% đến 35,56%, đô thị 42,87%. - Nghèo tương đối (dưới mức trung bình tại địa phương) nông thôn 57,56%, đô thị chiếm 42,87%. - Thiếu đói kinh niên (dưới 12kg/gạo/tháng) ở nông thôn từ 16,3-20,05%, đô thị 4,42%. + Phân tích thực trạng nghèo đói qua các số liệu trên ta có thể rút ra một số nhận xét: Thứ nhất, đặc điểm cơ bản nhất của tình trạng nghèo đói ở nông thôn thường rơi vào các hộ thuần nông, độc canh lúa. Thứ hai, nghèo đói ở nông thôn nước ta do ảnh hưởng của thiên tai (lũ lụt, hạn hán) kéo dài. Bảng 3: Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng của hộ qua các năm (Tính theo giá hiện hành) TNBQ năm 1994 (1.000đ) TNBQ Năm 1995 (1.000đ) TNBQ Năm 1996 (1.000đ) TNBQ Năm 1995 so với 1994 (%) TNBQ Năm 1996 so với 1995 (%) Cả nước 168,41 206,10 226,70 422,60 110,00 I. Chia theo khu vực hành chính - Thành thị 225,07 3.136,6 349,38 122,95 111,41 - Nông thôn 141,14 172,5 187,89 122,22 208,92 II. Chia theo vùng sinh thái - Vùng núi và trung du phía Bắc 132,36 160,65 173,76 121,37 108,16 - Vùng Đồng bằng sông Hồng 163,34 201,18 223,30 123,17 111,00 - Vùng Bắc Trung Bộ 133,00 160,21 174,05 120,46 108,64 - Vùng Duyên Hải Miền Trung 144,72 176,03 144,66 121,63 110,56 - Tây Nguyên 197,15 241,14 265,60 122,31 110,14 - Nam Bộ 275,34 338,91 378,05 123,09 111,56 - Đồng bằng sông Cửu Long 181,65 221,96 242,31 122,19 109,17 Nguồn: Vụ Tổng hợp - Bộ Kế hoạch và đầu tư - 1997 b. Nguyên nhân dẫn đến sự nghèo khổ. Đói nghèo hay nghèo khổ là một hiện tượng kinh tế xã hội, vừa là vấn đề lịch sử để lại, trong quá trình phát triển quốc gia nào cũng vấp phải. Sự nghèo khổ của nông dân không chỉ do một nguyên nhân mà do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Có thể nhận diện cụ thể thành sáu nhóm nguyên nhân sau: * Nhóm 1: Nguyên nhân chủ quan: - Không có kinh nghiệm làm ăn. - Thiếu vốn để sản xuất. - Thiếu việc làm. - Đất đai canh tác ít. - Đông con ít người làm. - Rủi ro, đau ốm. - Ăn tiêu lãng phí lại lười biếng. * Nhóm 2: Điều kiện tự nhiên. Đất đai cằn cỗi, ít mầu mỡ, canh tác khó dẫn đến năng suất thấp. * Nhóm 3: Sự quan tâm của xã hội và sự quản lý của chính quyền địa phương về kinh tế xã hội. * Nhóm 4: Kết hợp nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan: - Gặp rủi ro. - Mắc bệnh hiểm nghèo, chữa chạy tốn kém. - Lười lao động, ăn tiêu không có kế hoạch, nghiện hút, cờ bạc. * Nhóm 5: Nguyên nhân đầu vào và đầu ra. Thiếu thị trường cung cấp vật tư, nguyên vật liệu tiêu thụ sản phẩm, hoặc xa xôi hẻo lánh, cơ sở hạ tầng kinh tế chưa phát triển, Nhà nước chưa có chính sách thoả đáng. * Nhóm 6: Thiên tai nặng nề: như lũ lụt, mưa đá,... 2-/ Chương trình chống đói nghèo ở Việt Nam. So sánh với các nước trong khu vực Châu á Thái Bình Dương, nước ta chỉ có chương trình gián tiếp chống nghèo đói thông qua chiến lược phát triển kinh tế xã hội, cũng như các chính sách khuyến khích sản xuất khác, tức là nhằm vào mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn, thông qua đó giảm bớt sự nghèo đói và một số chương trình khác có tác động chống đói nghèo, như chương trình giải quyết việc làm, chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chương trình xoá đói giảm nghèo ở một số địa phương. Nhìn khái quát vấn đề này chúng ta có thể rút ra kết luận sau: - Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng, nhiều địa phương đã có Nghị quyết cơ quan lãnh đạo của Đảng và chính quyền đã thành lập ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo từ tỉnh đến xã, phường, đã đạt được những kết quả đáng kể. - Các cơ quan nghiên cứu khoa học cũng quan tâm nhiều về vấn đề này, và đang tích cực điều tra, nghiên cứu, phân tích, đánh giá và kiến nghị các biện pháp xoá đói giảm nghèo. + Tuy nhiên hoạt động xoá đói giảm nghèo còn gặp một số vấn đề khó khăn. - Còn có nhiều người, nhiều ngành, nhiều cấp nhận thức chưa đúng, vấn đề xoá đói giảm nghèo coi đó là vấn đề cơ bản, không phải là công việc cần thiết. - ở địa phương chưa có sự quan tâm đúng mức của Nhà nước về các chính sách hỗ trợ như văn hoá, giáo dục, y tế, giao thông. - Thủ tục cho nông dân nghèo vay vốn quá phức tạp, thời hạn thu hồi vốn quá ngắn cho nên nông dân không tin tưởng vào bản thân và khả năng trả vốn và lãi cho Nhà nước tuy mức độ và lãi suất ưu đãi. Nhiều khi cán bộ ngân hàng còn ngược đãi với dân khi làm thủ tục. - Nhà nước cấn phải ban hành những chính sách mới đối với người nghèo, như chúng ta biết người nghèo không có hoặc ít tư liệu sản xuất trong khi đó Nhà nước đòi hỏi thế chấp trong vay vốn. Chương II Thực trạng sản xuất và đời sống của các hộ nông dân nghèo ở Đắc Lắc I-/ Đặc điểm chung của vùng. 1-/ Đặc điểm tự nhiên: Đắc Lắc là vùng có điều kiện đất đai, khí hậu thích hợp cho phát triển cây cà phê, cao su, dâu tằm, điều, nhiều rau quả nhiệt đới, á nhiệt đới, và cả ôn đới là vùng có trữ lượng và diện tích rừng lớn nhất trong cả nước. Cà phê đã trở thành cây hàng hoá chủ lực không chỉ ở Đắc Lắc mà trong cả nước, nhiệt độ trung bình trong năm trên 210C còn chế độ mưa, nắng phân biệt rõ rệt. Đắc Lắc là vùng có lợi thế so sánh tuyệt đối với các vùng khác về tiềm năng, đây là vùng đất hứa hẹn. 2-/ Đặc điểm kinh tế xã hội. a. Xã hội. Đắc Lắc là một địa bàn rộng lớn, mật độ dân số trung bình hiện nay là 54 người/km2 nhưng phân bố không đồng đều giữa nông thôn và thành thị, trong đó dân tộc kinh chiếm 60,1% và các dân tộc ít người 39,9% và các dân tộc khác khoảng 150 ngàn người, đời sống của đồng bào quá thấp, một phần do thủ tục lạc hậu, phần do dân trí thấp. Theo số liệu của Uỷ ban dân tộc miền núi về phân bố theo thu nhập năm 1994 của các đồng bào dân tộc Đắc Lắc. - Số hộ giàu : 5.000 hộ chiếm 3,1% - Số hộ khá : 50.000 hộ chiếm 31,8%. - Số hộ trung bình : 62.000 hộ chiếm 39,5%. - Số hộ nghèo : 40.000 hộ chiếm 25,6%. Hiện nay còn 250 xã và 250 buôn làng với 23 nghìn hộ, khoảng 150 ngàn người sống ở các vùng sâu, vùng xa, khoảng 75% số hộ này có thu nhập bình quân dưới 25.000đ/tháng/người. b. Kinh tế. Mặc dù Đắc Lắc là vùng có tiềm năng nhưng tiềm năng chưa được khai thác đúng mức, nhìn chung đời sống nông dân Đắc Lắc vẫn còn nghèo, trừ một số nông dân ở vùng có sản xuất hàng hoá tập trung như cà phê, dâu tằm, đậu đỏ có thu nhập bình quân cao, còn đại bộ phận nông dân dựa vào sản xuất nông nghiệp với tập quán canh tác lạc hậu phương thức đốt nương làm rẫy là phổ biến có thu nhập bình quân thấp, thu nhập bình quân đầu người ở Đắc Lắc khoảng 100 USD, về cơ cấu kinh tế của vùng, kinh tế nông lâm nghiệp vẫn chiếm vị trí quan trọng chiếm 71% tổng thu nhập toàn vùng, các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp, chế biến nông sản chiếm 13% còn lại là các ngành dịch vụ buôn bán nhỏ và chế biến khoảng 16%. Tốc độ tăng GDP của Đắc Lắc chỉ đạt 3,8% trong khi đó cả nước đạt trên 8%. Số hộ nghèo ở Đắc Lắc chiếm 32% cao hơn 4,5% so với mức bình quân chung của cả nước, những năm gần đây do chính sách đổi mới nông thôn Đắc Lắc đã có tiến bộ hơn, số hộ nghèo ở nông thôn giảm từ 41% (1991) xuống còn 32% năm (1995) số hộ giầu mỗi năm tăng từ 1,2-1,7%. Trong tổng số hộ nông dân Đắc Lắc sống ở vùng nông thôn có tới 91% số hộ nông dân thu từ nông lâm nghiệp, 1,7% số hộ tự chế biến nông sản và 7,3% số hộ tự mua bán nhỏ, có thể nói rằng, cơ cấu kinh tế dân số và việc làm ở nông thôn Tây Nguyên chủ yếu vẫn là thuần nông. * Kết cấu hạ tầng: - Nông thôn Đắc Lắc có khoảng 6% nhà ở kiên cố, 47% nhà dạng bán kiên cố và 47% nhà tranh, tre, nứa lá có khoảng 35% số nhà của nông dân ở bám theo quốc lộ và đường huyện xã, hầu hết các hộ nông dân ở Đắc Lắc rất đông con, có hộ trên chín người con số hộ có 3-5 con chiếm 50%, 6-8 con chiếm 32% chính vì vậy bình quân diện tích nhà ở rất thấp. - Điện thắp sáng: mặc dù có trục đường điện cao thế 500Kv chạy qua vùng, tuy nhiên thiếu cơ sở hạ áp và đường dây hạ thế nên tới nay có hơn 45 xã trên 55 xã có điện về đến trung tâm xã nhưng số hộ dùng điện chỉ chiếm 25%. - Giao thông nông thôn: giao thông nông thôn chủ yếu là đường liên huyện, liên xã, tổng số đường huyện xã có khoảng 3.890 km trong đó có 130 km loại khá 764km đường loại trung bình và 2.086km đường loại xấu và rất xấu, trong 55 xã có 49 xã có đường ô tô vào đến trung tâm xã, còn khoảng hơn 6 xã chỉ có thể đi vào được mùa khô. - Thuỷ lợi: do điều kiện địa hình phức tạp, cho nên rất khó xây dựng công trình thuỷ lợi, hiện nay toàn vùng có 300 công trình trong đó có 225 hồ đập, trạm bơm lớn số còn lại công trình trạm, diện tích tưới có khoảng 3,6 vạn ha trong đó có 2,6 vạn ha là lúa mầu, 1 vạn ha là cây công nghiệp, việc sử dụng nước ngầm tưới cây công nghiệp đã và đang phát triển ở Đắc Lắc. - Văn hoá giáo dục: có 100% xã có trường cấp I gần 52% số xã có trường cấp II và rất ít xã có trường mẫu giáo nhà trẻ, trường cấp I, II chủ yếu làm bằng tranh, tre nứa lá hoặc cấp IV, chất lượng trường học và phương tiện giảng dạy thấp. - Y tế: các bệnh ỉa chảy, bướu cổ, sốt rét vẫn còn phổ biến ở nhiều vùng, có 83% số xã có trạm xá, nhưng trạm xá ở một số xã chỉ là nhà tạm, nhiều trạm xá xuống cấp nghiêm trọng, song vẫn chưa được đầu tư sửa chữa, thuốc chữa bệnh thiếu trầm trọng, số lượng y bác sỹ, y tá thiếu cả số lượng và chất lượng, khoảng cách từ các bản làng đến các trạm xá hoặc trung tâm y tế rất xa, trong khi đó mạng lưới y tế ở nông thôn kém phát triển, do đó số người được chăm sóc sức khoẻ cũng rất hạn chế, toàn vùng mới khám và chữa bệnh được khoản._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0035.doc
Tài liệu liên quan