Các chính sách phát triển ngoại thương nhằm thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu thế hội nhập ở Việt Nam

Lời mở đầu Xây dựng một đất nước Xã hội chủ nghĩa trong điều kiện bị bao vây kinh tế mà sự “dòm ngó” của các nước Tư bản chủ nghĩa điều đó hoàn toàn không phải là dễ dàng với bất cứ một quốc gia nào nói chung và Việt nam nói riêng. Việc phát triển kinh tế song đồng thời lại phải gắn liền với đảm bảo an ninh quốc phòng lại càng trở nên khó khăn đối với một nước như Việt Nam chúng ta. Trong xu thế quốc tế hoá như hiện nay, buộc các nước phải hoà mình vào một thế giới hoà bình và ổn định, và để có

doc43 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các chính sách phát triển ngoại thương nhằm thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu thế hội nhập ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được như vậy bản thân mỗi quốc gia phải có trách nhiệm hội nhập vì chính lợi ích của bản thân mình và cũng vì lợi ích của thế giới. Song một thực tế đã chứng minh, một quốc gia muốn phát triển lại đòi hỏi quốc gia đó phải có một cơ cấu kinh tế nội thân hợp lý. Tức bố trí các ngành sản xuất một cách khoa học và đạt hiệu quả cao nhất. Như một nhà kinh tế đã nói “Ngoại thương là chìa khoá cho sự phát triển của một quốc gia” và điều đó đã được thực tế xác nhận trong quá trình phát triển của các quốc gia phát triển. Việc xây dựng một chính sách ngoại thương phù hợp là vô cùng cần thiết trong xu thế hội nhập và sự biến đổi liên tục của tình hình thế giới. Ngoại thương phát triển thúc đẩy nền kinh tế gia tăng từ đó xác định một cơ cấu kinh tế phù hợp với sự phát triển. Chính vì vai trò to lớn của hoạt động ngoại thương như vậy mà tôi lựa chọn đề tài: “Các chính sách phát triển ngoại thương nhằm thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu thế hội nhập ở Việt Nam” để nghiên cứu cho đề án môn chuyên ngành. Kết cấu bài viết gồm ba phần: Phần I: Việt Nam với xu thế hội nhập quốc tế. Phần II: Cơ cấu kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập Phần III: Chính sách ngoại thương Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Vì điều kiện thời gian và vốn hiểu biết có hạn nên trong bài viết còn nhiều sai sót và không sát thực xin được góp ý của thầy cô giáo và các bạn. Xin chân thành cảm ơn GS. PTS Vũ Thị Ngọc Phùng; TS Ngô Thắng Lợi đã giúp em hoàn thành bài viết này. phần I việt nam với xu thế hội nhập quốc tế I-/ Việt Nam - ASEAN (The Association of Southest Asian Nation - Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á) 1. Việt Nam - ASEAN: Quá trình hội nhập và ý nghĩa của việc Việt Nam tham gia ASEAN. 1.1. Quá trình hội nhập: Trong xu thế hội nhập quốc tế kể từ sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, sự phát triển kinh tế của các quốc gia - xu hướng bảo đảm an ninh chính trị ngày càng trở thành nhiệm vụ bức thiết cho tất cả các quốc gia trên thế giới nói chung và các nước Đông Nam á nói riêng. Chính điều đó đã thúc đẩy sự liên minh, liên kết về kinh tế và chính trị xã hội giữa các quốc gia trong khu vực. Như chúng ta đã biết, sau khi giành được độc lập, các quốc gia Đông Nam á bước vào giai đoạn phục hồi phát triển đất nước. Các nước này với chế độ xã hội vốn là thuộc địa, nửa thuộc địa, nửa phong kiến, trình độ sản xuất còn thấp. Theo ước tính của Cục Thống kê Liên Hợp Quốc thì thu nhập quốc dân tính theo bình quân đầu người ở khu vực này vào khoảng từ 37 đến 71 USD, cơ cấu sản phẩm nông nghiệp trong sản xuất chiếm 72%, dân số tập trung vào các vùng Đồng Bằng, thị trường nội địa nhỏ bé, bị chia cắt; phương tiện thanh toán chưa được phát triển,... a. Sự phát triển kinh tế thế giới sau chiến tranh thế giới II và thực tế đất nước, các nước Đông Nam á đề ra đường lối công nghiệp hoá vào đầu những năm của thập kỷ 60 với chính sách thay thế nhập khẩu và sau đó chuyển sang chính sách khuyến khích xuất khẩu, tự do hoá mậu dịch, tận dụng vốn kỹ thuật của nước ngoài. Chính vì vậy đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển không ngừng với tốc độ 5% vào những năm 50, 6% vào những năm 60 và đạt 7,2% vào những năm 70. Chính những thành quả về kinh tế này đã liên tục cải thiện đời sống nhân dân, hệ thống giáo dục, y tế có những bước phát triển mới,... Trên cơ sở của sự phát triển năng động về kinh tế, quan hệ giao lưu hàng hoá giữa các nước trong khu vực đã được thiết lập với quan điểm chung là hỗ trợ nhau cùng phát triển. Hoàn cảnh lịch sử đã tạo những điều kiện khách quan, chủ quan và sự tác động qua lại giữa các quốc gia trong khu vực Đông Nam á, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự ra đời của tổ chức ASEAN. Như chúng ta đã biết, năm 1967 là năm đánh dấu sự ra đời của đứa con tinh thần - Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á và ngày nay ASEAN ngày càng có vai trò to lớn không chỉ ở Đông Nam á, khu vực Châu á mà cả khu vực Châu á - Thái Bình Dương và thế giới. Tuy rằng, sự ra đời ASEAN khởi đầu không được suôn xẻ cho lắm, các nước trong ASEAN đều có những tham vọng riêng của họ: Indonexia không giấu giếm tham vọng vị trí lãnh đạo. Malaixia muốn lợi dụng ASEAN như công cụ đối phó với xung đột chủng tộc trong nước và tranh chấp lãnh thổ với các quốc gia lân bang. Philipin lo ngại xung đột với Malaixia xung quanh vấn đề Sabah. Thái Lan hoảng sợ “hội chứng cộng sản” lan toả từ Đông Dương. Singapore tìm cách khắc phục thế bị cô lập, thù ghét trong khu vực. Chính vì những tham vọng riêng này vào thời điểm bấy giờ mà ASEAN không thể trở thành một tổ chức chỉ đạo thống nhất siêu quốc gia, mà chỉ là cơ quan phối hợp hoạt động dung hoà quyền lợi, chế ước quyền lực giữa các quốc gia thành viên. Và đặc điểm này đã chi phối quá trình hợp tác an ninh - chính trị của ASEAN. Để thực hiện mục tiêu hợp tác an ninh - chính trị, ASEAN áp dụng hai biện pháp: + Một là: Thúc đẩy quan hệ hữu nghị, tìm kiếm con đường thương lượng để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp giữa các hội viên. + Hai là: Phối hợp chính sách ngoại giao với nhau để có chiến sách lược thống nhất, nhằm ngăn chặn nguy cơ xâm lược, lật đổ, can thiệp từ bên ngoài; chống tham vọng bá quyền của các nước lớn đồng thời lợi dụng mâu thuẫn của các nước lớn: chủ động tạo lập thế cân bằng an ninh chiến lược trong khu vực. Mục tiêu và quan điểm của ASEAN là rộng mở và liên kết toàn khu vực “Hiệp hội mở cửa cho tất cả các nước trong khu vực Đông Nam á tán thành các mục đích, nguyên tắc và mục tiêu” đã nêu trong tuyên bố Băng Cốc 8/8/1967: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hoá, thông qua từ nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác, thúc đẩy hoà bình và ổn định khu vực; tôn trọng công lý, nguyên tắc pháp luật và hiến chương Liên Hợp Quốc. Đồng thời tuyên bố cũng xác định mối quan hệ hợp tác giữa các nước trong khu vực trên tất cả các mặt cơ bản như thúc đẩy sự hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau trong các lĩnh vực kinh tế xã hội, văn hoá, khoa học và kỹ thuật, hành chính và đoà tạo,... b. Vì một Đông Nam á hùng mạnh, với vai trò là thành viên trong khu vực Việt Nam nhất thiết phải tham gia Hiệp hội vì mục đích và vì chính ngay nhu cầu hội nhập quốc tế trong tương lai. Chúng ta trở thành quan sát viên của tổ chức ASEAN 7 - 1992 đã là một sự cố gắng không mệt mỏi với tinh thần “Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”. Song việc Việt Nam tham gia ASEAN cũng có những quan điểm khác nhau trong các nước thành viên. Malaixia và Indonexia ủng hộ Việt Nam tham gia, song Singapore và Thái Lan không tán thành. Malaixia và Indonexia cho rằng: Việc Việt Nam nói riêng và các nước Đông Dương nói chung tham gia ASEAN sẽ có tác dụng chủ yếu trong lĩnh vực hoà bình, an ninh khu vực, bởi nước ta là nước lớn thứ hai trong khu vực, là nước láng giềng của Trung Quốc, có tiềm lực quốc phòng mạnh, đã từng chiến thắng nhiều nước đến xâm lược,... và nước ta sẽ là “nước đệm” giữa các nước trong khu vực và các nước ngoài khu vực. Trong khi đó Thái Lan và Singapore xem Việt Nam là cơ hội tốt để buôn bán kinh doanh, đầu tư,... khi trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN. Tuy nhiên, việc Việt Nam gia nhập ASEAN không phải là hoàn toàn dễ dàng như chúng ta đã tưởng do những chính sách đối ngoại của ta trước đó cản trở: Năm 1978, Việt Nam đưa quân vào Campuchia giải phóng nhân dân Campuchia khỏi hoạ diệt chủng Pônpốt và ở lại đó 10 năm là vi phạm nguyên tắc “Bất khả xâm phạm lãnh thổ” của tổ chức ASEAN. Hơn thế nữa, sau những biến cố biên giới Việt Nam - Trung Quốc năm 1979 cũng khiến cho ASEAN băn khoăn trong việc kết nạp thêm Việt Nam vào ASEAN bởi lẽ “ASEAN không muốn trở thành một số nước chống Trung Quốc”. Sau một loạt những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, với đường lối đối ngoại đa dạng hoá, đa phương hoá và bày tỏ quan điểm “muốn làm bạn với tất cả các nước” đã tác động tích cực tới quan hệ Việt Nam - ASEAN. Hội nghị ngoại trưởng thường kỳ lần thứ 27 (Từ 22 - 27/7/1994) tại Băng Cốc đã đánh dấu bước ngoặt lớn trong quan hệ Việt Nam - ASEAN, cả 6 nước thành viên tán thành đón nhận Việt Nam tham gia ASEAN và mong muốn Việt Nam tham gia càng sớm càng tốt. Ông Gôchoctông thủ tướng Singapore nói: “Có được một ASEAN với toàn thể 10 nước thành viên khu vực Đông Nam á là một hãnh diện” “ASEAN phải vươn tới đội hình lớn để giành lấy sự kính trọng của thế giới”. Và như mong muốn năm 1999 lần lượt các nước Mianma - Lào - Campuchia là những thành viên cuối cùng tham gia vào một ASEAN 10 quốc gia độc lập. Sau khi là quan sát viên của ASEAN (7/1992), Việt Nam đã tích cực tham gia các lĩnh vực chuyên ngành trên các lĩnh vực: khoa học kỹ thuật, y tế, văn hoá, môi trường và du lịch,... dần dần quan hệ Việt Nam - ASEAN được hoàn thiện vào năm 1994. Và để đánh dấu, đặt nền móng cho sự phát triển trong quan hệ Việt Nam - ASEAN là việc Việt Nam chính thức là thành viên thứ 7 của ASEAN vào ngày 28/7/1995. 1.2. ý nghĩa việc Việt Nam gia nhập ASEAN. Quan hệ kinh tế ngày càng mở rộng giữa các quốc gia đó là yếu tố thúc đẩy quá trình hoà nhập của Việt Nam vào thị trường khu vực và thế giới. Điều này có ý nghĩa chính trị xã hội không chỉ với Việt Nam mà cả khu vực. Đại sứ các nước ASEAN tại Việt Nam khi nhận định về ý nghĩa quan trọng của Việt Nam gia nhập ASEAN viết: “.... Việt Nam gia nhập ASEAN sẽ góp phần to lớn cho việc xây dựng cộng đồng Đông Nam á đã được đề cập đến trong bản tuyên ngôn thành lập ASEAN tại Băng Cốc. Có Việt Nam ở ASEAN, viễn cảnh về một Đông Nam á thống nhất rất có thể trở thành hiện thực trong một tương lai không xa. ... Việc kết nạp Việt Nam vào khối ASEAN sẽ đem lại lợi ích cho cả Việt Nam, sẽ là một thành viên hữu ích chỉ trong việc thúc đẩy hợp tác và hợp nhất kinh tế giữa các nước ASEAN mà còn góp phần quan trọng trong việc duy trì hoà bình và thịnh vượng trong khu vực. Với tư cách là nước thành viên ASEAN Việt Nam sẽ giữ vững được mức tăng trưởng kinh tế nhờ buôn bán và đầu tư nước ngoài vào nhiều hơn. Việt Nam gia nhập ASEAN cũng sẽ mang lại sự năng động hơn cho nền kinh tế của các nước trong khu vực vì nguồn tài nguyên của Việt Nam phần lớn còn rất nhiều”. Ngoài ra thông qua hội nhập ASEAN Việt Nam sẽ học hỏi được rất nhiều ở các nước thành viên, như kinh nghiệm của Thái Lan - Philipin về nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản, kinh nghiệm của Singapore về tổ chức thị trường vốn. Kinh nghiệm của Malaixia và Indonexia về chế biến và xuất khẩu khoáng sản,... 2. Thách thức đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập ASEAN Trước tiên, phải nói rằng sự tụt hậu về công nghệ là yếu tố đầu tiên gây trở ngại cho Việt Nam trong quá trình hội nhập, với 60% công nghệ đã đi vào quá trình thải hồi thì trái lại vẫn tồn tại trong những cơ sở sản xuất ở Việt Nam. Chúng ta đi sau họ từ 20 đến 25 năm, điều đó gây trở ngại rất lớn đến vấn đề sản phẩm xuất khẩu của ta vào thị trường khu vực. Vào những năm đầu thập kỷ 70, các nước ASEAN đã chuyển hướng chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu rất sớm và trên cơ sở đó các nước ASEAN đạt được tốc độ tăng trưởng cao 7% đến 98%, tỉ lệ tiết kiệm cũng tăng lên tương xứng với tốc độ phát triển (tiết kiệm của họ chiếm trung bình 40% GDP, trong khi đó Việt Nam hiện nay tiết kiệm cho đầu tư chỉ chiếm 28% GDP và chiến lược cho năm 2005 lượng tiết kiệm cho đầu tư tăng lên 35% GDP) , cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, mức thu nhập bình quân đầu người cao, nhìn chung cơ sở hạ tầng và kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý, Marketing của các nước ASEAN hơn hẳn Việt Nam. Xét về cơ cấu kinh tế, mà ta tập chung vào cơ cấu ngoại thương Việt Nam và ASEAN có nhiều điểm tương đồng. Trong giai đoạn hiện nay khi mà các nước ASEAN đang khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu truyền thống và hàng công nghiệp chế biến do chính sách bảo hộ mậu dịch và bảo hộ công nghiệp của Mỹ, Nhật Bản - EU ngày càng chặt chẽ, giảm khối lượng buôn bán với các nước ASEAN, thì Việt Nam chúng ta cũng cần tiêu thụ những sản phẩm tương tự. Hơn thế nữa, khi trình độ công nghệ của ta lạc hậu hơn so với quốc tế nói chung và các nước ASEAN nói riêng thì chính chúng ta lại phải chịu sức ép từ chính các quốc gia ASEAN khi họ muốn chuyển giao công nghệ kỹ thuật lạc hậu vào Đông Dương làm hạn chế đối với nhu cầu hiện đại hoá, công nghiệp hoá của chúng ta. Chính những điều này nó đòi hỏi bản thân chúng ta khi tham gia chuyển giao phải có những cơ quan thẩm định, xét duyệt trình độ công nghệ một cách khoa học và khắt khe, cơ chế quản lý của chúng ta cũng phải nghiêm ngặt hơn trong việc đánh giá đúng tuổi và trình độ công nghệ. Quan hệ mậu dịch Việt Nam - ASEAN chưa thoát khỏi cơ cấu giản đơn, cán cân thương mại còn mất cân đối lớn, tỉ lệ xuất khẩu của Việt Nam đến thị trường ASEAN mới chỉ chiếm gần 30% giá trị xuất khẩu của Việt Nam, trong khi đó hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN chiếm hơn 45% giá trị nhập khẩu của Việt Nam. Trước tình hình này, đòi hỏi chính bản thân chúng ta phải khắc phục và xác định cơ cấu ngành hàng xuất khẩu của mình ra làm sao tránh tình trạng mất cân đối. Trong điều kiện hiện nay, khi đã là thành viên đầy đủ của ASEAN Việt Nam phải tuân thủ theo các “luật chơi” mà tổ chức đề ra. Chúng ta nhất thiết phải tham gia tổ chức mậu dịch tự do AFTA mà phải tuân thủ các qui chế Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Đây là cơ hội và cũng đồng thời là khó khăn cho chúng ta trong quá trình hội nhập vào mạng lưới mậu dịch rộng lớn của các nước ASEAN. Chúng ta đặt mục tiêu vào năm 2008 tỉ lệ trao đổi nội bộ ASEAN tăng từ 18% giá trị ngoại thương lên 50% giá trị ngoại thương của ASEAN. Sự hội nhập, xâm nhập thị trường quốc tế theo cả hai chiều sẽ đặt Việt Nam vào thế cạnh tranh gay gắt đặc biệt họ lại là những nước có kinh nghiệm. Và một điều khiến chúng ta phải lo nghĩ là liệu Việt Nam có thể trở thành nơi cung cấp lao động và nguyên liệu thuần tuý cho các nước ASEAN. Một thiệt thòi nữa mà Việt Nam cũng phải gánh chịu đó là trong qui định của CEPT không giảm thuế quan cho các sản phẩm nông nghiệp. Trong khi hàng nông sản lại là sản phẩm chủ lực trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay. Điều này đòi hỏi các nhà lãnh đạo Việt Nam trong thương lượng nội bộ ASEAN sẽ cân nhắc trong những lần họp tới. 3. Thuận lợi và khó khăn khi Việt Nam tham gia AFTA 3.1. Hiệp định thuế quan có hiệu lực chung CEPT để thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA. Hiệp định thuế quan CEPT thực chất là cơ sở để ASEAN áp dụng và hình thành khối mậu dịch tự do Đông Nam á. Vì vậy để nắm vững “luật chơi” khi thực hiện AFTA chúng ta phải xem xét những nội dung mà CEPT đã thực hiện. * Những vấn đề được đề cập trong CEPT. - Mọi thành viên sẽ tham gia vào CEPT. - Sử dụng mã HS 6 số để mã hoá các sản phẩm. - Được phép loại trừ một số sản phẩm cụ thể theo mã cấp 8/9 nếu các nước thành viên nào tạm thời sẵn sàng đưa những sản phẩm ấy vào CEPT. - Được phép loại trừ đối với những sản phẩm nhạy cảm ra khỏi CEPT đồng thời không được đòi hỏi những ưu đãi miễn trừ dành cho sản phẩm ấy mà Hiệp định qui định. Đồng thời trong Hiệp định cũng qui định: - Một sản phẩm được xem là có xuất xứ từ các nước ASEAN nếu thành phần nguyên liệu cấu thành sản phẩm có 40% là có xuất xứ từ ASEAN. - Những nước thành viên đã cắt giảm thuế cho những sản phẩm được thoả mãn ở đây từ 20% và dưới 20% giảm xuống 0-5% buôn bán theo kế hoạch CEPT. - Cho phép các nước thành viên tìm thêm các biện pháp cho lĩnh vực hợp tác biên giới và không biên giới để hỗ trợ cho mục tiêu tự do hoá mậu dịch. - Duy trì chế độ ưu đãi giữa các nước thành viên. Các nước thành viên cam kết không áp dụng các biện pháp tính giá trị thu thuế của hải quan, thu các loại phí mới hoặc các biện pháp hạn chế thương mại nhằm vô hiệu hoá những ưu đãi miễn trừ. 3.2. Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). 3.2.1. Hiệp định khung về đẩy mạnh hợp tác kinh tế ASEAN (Frame work Agreement on Enhancing ASEAN Economic Coporation). a. Lĩnh vực hợp tác: * Trong thương mại: - Tất cả các nước thành viên ASEAN thoả thuận thành lập và tham gia khu vực mậu dịch tự do AFTA trong 15 năm dưới sự giám sát, kiểm tra, điều phối của một hội đồng ở cấp Bộ trưởng. - AFTA hoạt động theo Hiệp định CEPT, đối với những sản phẩm không có trong CEPT áp dụng thoả thuận ưu đãi thương mại ASEAN PTA (The ASEAN Pefezential Trading Arrangement). - Cho phép các nước thành viên giảm hoặc huỷ bỏ hàng rào phi quan thuế trong xuất nhập khẩu các sản phẩm đã được thoả thuận trong các chương trình hiện có hoặc các chương trình khác sẽ phát sinh trong quá trình hoạt động. - Các nước thành viên tìm kiếm thêm các biện pháp cho các lĩnh vực hợp tác chung biên giới hoặc không chung biên giới để hỗ trợ cho tự do hoá thương mại. * Hợp tác về công nghiệp, khoáng sản và năng lượng. * Hợp tác về tài chính ngân hàng. * Hợp tác về lương thực nông, lâm nghiệp. thì vẫn được hưởng những ưu đãi miễn trừ của Hiệp định. b. Sản phẩm: Hiệp định qui định những sản phẩm được hưởng những qui chế của Hiệp định bao gồm tất cả các sản phẩm chế tạo: - Hàng công cụ sản xuất. - Nông sản chế biến (với nông sản thô sẽ có qui định riêng). c. Lịch trình giảm thuế. + Tiến hành giảm mức thuế xuất xuống còn 20% trong thời gian từ 5-8 năm và các nước thành viên sẽ thực hiện giảm thuế hàng năm theo công thức: (X - 20)% / 5 X: Mức thuế xuất hiện đang áp dụng của mỗi nước thành viên. + Tiếp tục giảm mức thuế xuất từ 20% hoặc dưới 20% trong thời gian 5 năm. Và mức giảm tối thiểu là 5% lượng được giảm. + Đối với những sản phẩm hiện đang có thuế xuất 20% hoặc dưới 20% (vào thời điểm 1/1/1993) thì các nước thành viên sẽ quyết định chương trình giảm thuế riêng và giữa các nước được phép thoả thuận giảm thuế xuống còn 0-5% đối với từng loại sản phẩm. + Các sản phẩm hiện đang có mức thuế xuất 20% hoặc dưới 20% vẫn được hưởng ưu đãi miễn trừ. + Không bắt buộc các nước thành viên phải giảm thuế xuất ngay xuống 0-5%. d. Những qui định khác. - Giữa các nước thành viên sẽ huỷ bỏ số lượng với những sản phẩm nằm trong kế hoạch CEPT, được hưởng ưu đãi miễn trừ. - Sau khi những sản phẩm được hưởng ưu đãi miễn trừ sẽ từng bước huỷ bỏ hàng rào phi quan thuế trong thời hạn 5 năm. - Các nước thành viên sẽ có ngoại lệ trong chế độ hạn chế ngoại hối của mình có liên quan đến thanh toán các sản phẩm. * Hợp tác về viễn thông. Không chỉ dừng ở đó ASEAN còn tăng cường hợp tác giữa các nước thành viên trong lĩnh vực nghiên cứu, chuyển giao kỹ thuật, du lịch, phát triển nguồn nhân lực, khuyến khích quan hệ tay đôi giữa các nước thành viên với các nước ngoài khối, cho phép kinh tế tư nhân tự do hoạt động cả trong và ngoài khối. 3.2.2. Tuyên bố Singapore 1992 (Singapore Declaration 1992). Sau 25 năm thành lập, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ IV tại Singapore đã mở ra một thời kỳ mới cho sự hợp tác giữa các nước trong khối, ở đó tuyên bố Singapore đã nêu rõ quan điểm, lập trường, phương hướng hợp tác, đối ngoại của ASEAN. * Hướng hợp tác kinh tế ASEAN. Nỗ lực đẩy mạnh hợp tác kinh tế giữa các nước thành viên ASEAN theo tinh thần Hiệp định khung về đẩy mạnh hợp tác kinh tế ASEAN. - Thiết lập khu vực mậu dịch tự do AFTA, lấy kế hoạch thuế quan ưu đãi hữu hiệu chung CEPT làm cơ chế hoạt động, phấn đấu đến năm 2003 mức thuế hữu hiệu 0-3%. - Tăng cường đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp. - Hợp tác tài chính, tạo điều kiện tự do chu chuyển vốn và các nguồn tài chính khác. - Đẩy mạnh hợp tác khu vực, xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao và cải tiến hệ thống bưu điện, viễn thông với chất lượng cao, giá thấp. - Lấy việc hợp tác giữa các nước trong ASEAN và ngoài ASEAN làm nhiệm vụ bổ trợ cho việc phát triển thị trường của ASEAN. - Tăng cường và thiết lập hợp tác với các nước khác, tổ chức kinh tế khác: APEC - EAEC (East Asia Economic Caucus). - Đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực có liên quan đến kinh tế: khoa học, chuyển giao kỹ thuật và phát triển nguồn nhân lực. - Tăng cường hợp tác đối thoại quốc tế nhằm mở rộng thị trường. - Tập chung hợp tác trong lĩnh vực bảo toàn nguồn năng lượng, không ngừng nghiên cứu nhiên liệu thay thế. - Tôn trọng và phát huy nguyên tắc thương mại rộng mở tự do của GATT. 3.3. Thuận lợi khó khăn khi Việt Nam tham gia AFTA. Với tinh thần chung của Hiệp định khung AFTA trên nguyên tắc hoạt động của CEPT để thấy rõ thuận lợi và khó khăn trong việc thực hiện AFTA ta sẽ nghiên cứu những lợi thế so sánh của Việt Nam với các nước ASEAN. Khó khăn: Đầu tiên ta phải kể đến những hậu quả nặng nề của quá khứ đem lại. Điều này cũng có nghĩa dẫn đến sự khác nhau về thể chế kinh tế và cơ chế quản lý, chuyển đổi từ nền kinh tế tập chung sang nền kinh tế thị trường trong điều kiện các quan hệ thị trường chưa thực sự trưởng thành. - Thứ đến, đó là khoảng cách về trình độ công nghệ phát triển kinh tế giữa Việt Nam và các nước ASEAN. Đó là bất lợi và mối lo ngại lớn trong quá trình hoà nhập. - Cạnh tranh gay gắt trong thị trường đầu tư do sản phẩm xuất nhập khẩu của Việt Nam và các nước ASEAN tương đối giống nhau mà trình độ công nghệ của Việt Nam lại đi sau các nước ASEAN khác từ 15 đến 20 năm. - Vấn đề con người đối với Việt Nam lại là vấn đề đáng lo ngại nhất kể cả về trình độ quản lý kinh tế của cán bộ quản lý, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra của tình hình mới. Thuận lợi: Việt Nam và các nước ASEAN là những láng giềng lâu đời trong giao lưu kinh tế, văn hoá và chúng ta tương đối hiểu biết lẫn nhau vì vậy chúng ta sẽ có những lợi thế cụ thể trong việc buôn bán thương mại. - Có điều kiện thu hút được nhiều vốn đầu tư từ những nước thừa vốn, có hàm lượng kỹ thuật cao: Singapore - Thái Lan,... - Sử dụng lao động rẻ trong nước bằng cách tham gia chuyển giao những công nghệ thâm dụng lao động từ các nước trong khối. - Tận dụng lao động rẻ có hàm lượng chất xám cao để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang các nước khu vực. - Sử dụng vốn và kỹ thuật cao của các nước trong khu vực nhằm khai thác tài nguyên và xây dựng cơ sở hạ tầng. - Khi tham gia thực hiện AFTA chúng ta sẽ được hưởng qui chế hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) của Mỹ là: “Trợ giá nguyên liệu cho phép nhập để sản xuất hàng hoá đó phải dưới 65% của toàn bộ giá trị của sản phẩm đó khi vào lãnh thổ hải quan Mỹ” và “Giá trị một sản phẩm được chế tạo ở hai hoặc trên hai nước là hội viên của một hiệp hội kinh tế, liên minh thuế quan, khu vực mậu dịch tự do thì coi như là sản phẩm của một nước”. Vì vậy ta có điều kiện khi nhập nguyên liệu của các nước ASEAN khác để sản xuất mà sản phẩm đó vẫn được hưởng GSP. 4. AFTA với thương mại và sản xuất trong nước của Việt Nam Thực chất của vấn đề này là chúng ta xem xét khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam so với hàng hoá các nước ASEAN khác trên thị trường trong nước, thị trường ASEAN và ngoài ASEAN. Song ta thấy, khả năng cạnh tranh của một hàng hoá phụ thuộc vào giá cả - chủng loại, mẫu mã và khả năng thâm nhập thị trường. Việc thực hiện AFTA sẽ dẫn đến xoá bỏ thuế nhập khẩu trong nội bộ các nước ASEAN, nhưng giữ nguyên thuế nhập khẩu với thế giới bên ngoài điều này dẫn đến ba hiệu quả: - Phân bố lại các luồng buôn bán giữa các nước ASEAN; - Sự thay đổi trong buôn bán với các nước ngoài khu vực và làm thay đổi luồng đầu tư, hình thành quá trình chuyên môn hoá sản xuất đồng thời tạo sự kiểm soát và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước AFTA trong buôn bán nội bộ và tương quan với bên ngoài. Cùng với việc hình thành khu vực mậu dịch tự do FTA là sự tăng lên trong tính cạnh tranh của hàng hoá, đòi hỏi các nước phải có kế hoạch chuyên môn hoá sản phẩm cao hơn. Sự vận động của thị trường là chuyển các cơ sở sản xuất từ nơi giá thành cao đến nơi giá thành thấp. Mức chênh lệch giá thành càng lớn thì luồng di chuyển sản xuất sẽ càng mạnh. Cụ thể đối với Việt Nam sẽ có tác động: * Đối với xuất khẩu: Mức thuế quan thấp, việc thâm nhập thị trường và chuyển hàng hoá vào các nước khác hoàn toàn dễ dàng, điều này chứng tỏ AFTA tạo điều kiện cho xuất khẩu hàng hoá vào thị trường ASEAN. Một thị trường rộng lớn với 10 thành viên (500 triệu dân). Điều này giúp huy động tiềm năng lao động và tài nguyên dồi dào của Việt Nam vào phát triển xuất khẩu. Trong những năm qua, tốc độ tăng kim ngạch buôn bán của Việt Nam với thị trường ASEAN tăng 27%, với doanh số buôn bán 1/3 kim ngạch ngoại thương nước nhà, điều này có được là do: Thứ nhất: Về cán cân buôn bán nước ta vẫn đang ở thế nhập siêu với thị trường ASEAN, song xuất khẩu có xu hướng gia tăng do việc chúng ta xuất khẩu dầu thô sang Singapore tăng lên (năm 1999 ta xuất được 14.300 nghìn tấn), triển vọng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường ASEAN chưa có nhiều hứa hẹn thay đổi mạnh, do cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. . Thứ hai: Do cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của ta sang thị trường ASEAN chủ yếu là những mặt hàng nông sản sơ chế thuộc loại nhạy cảm và nhạy cảm cao làm chậm quá trình giảm thuế. Số các mặt hàng nông sản được bổ xung thêm vào AFTA chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ mà số lượng của ta lại rất lớn, đó là một thiệt thòi của chúng ta. Đối tượng chủ yếu của CEPT là các sản phẩm công nghiệp chế biến, vì vậy trước tình trạng công nghiệp hiện tại chúng ta phải đối đầu không cân xứng với các nước ASEAN có kỹ thuật cao như Singapore, Malaixia. Như vậy, với cơ cấu xuất khẩu như hiện nay, lợi ích mà chúng ta thu được từ AFTA không đáng kể, do sức cạnh tranh và ưu đãi với hàng hoá xuất khẩu của ta còn thấp kém so với khu vực. Đối diện với thực tế và tương lai thì chúng ta chỉ có thể cạnh tranh trên thị trường ASEAN những sản phẩm mang tính độc đáo của bản sắc Việt Nam. Thứ 3: Với 2/3 doanh số buôn bán của Việt Nam với ASEAN được vận chuyển và lấy Singapore làm thị trường trung gian, điều đó cũng gây tổn thất rất nhiều cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia xuất khẩu. Còn với các nước khác: Malaixia - Thái Lan, Philipin hàng Việt Nam chủ yếu là nông sản chưa chế biến và đều thuộc loại hàng nhạy cảm vì vậy không được hưởng quyền lợi cắt giảm thuế. Nói tóm lại, CEPT chưa cải thiện được thị trường xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường ASEAN mà chỉ có tác dụng sang thị trường khác do việc hạ được chi phí sản xuất do nhập nguyên liệu của các nước ASEAN. * Đối với nhập khẩu: Với 857 mặt hàng Việt Nam nhập khẩu đã có trong qui chế cắt giảm thuế của CEPT từ 1/1996, điều này gây cho các doanh nghiệp Việt Nam sớm phải cạnh tranh trên thị trường quốc tế trong điều kiện tụt hậu về công nghệ hiện tại, hàng Việt Nam thua về chất lượng, chủng loại và số lượng. Vì vậy Việt Nam đang phải chịu sức ép về khả năng chiếm lĩnh thị phần trên chính thị trường nội địa. Hàng hoá nhập tràn ngập thị trường nội địa gây khó khăn cho các cơ sở sản xuất trong nước: dệt, giầy dép, hàng cơ khí,... Vấn đề đặt ra với Việt Nam là phải cơ cấu mặt hàng xuất khẩu như thế nào để đủ sức cạnh tranh với hàng hoá trong khu vực và thế giới, liệu chúng ta có nên bảo hộ tiếp tục đối với một số hàng hoá. Theo tôi, để đảm bảo cạnh tranh, nhà nước nên chỉ xác định một số sản phẩm trước mắt chưa có trong CEPT song sẽ có mặt trong đó để bảo hộ và qui định thời gian cụ thể cho từng mặt hàng nhằm đuổi kịp và vượt các nước ASEAN trong tương lai (khoảng từ 5-8 năm) nếu không sẽ bị thải loại. Đây là thách thức mà AFTA đặt ra cho các nhà sản xuất Việt Nam. Việc tham gia AFTA sẽ tăng nguồn FDI vào Việt Nam từ các nước trong ASEAN và ngoài ASEAN. Song vấn đề với chúng ta là làm sao sử dụng FDI có hiệu quả vì thực tế FDI chỉ có tác dụng tăng trưởng kinh tế chứ không nâng cao khả năng cạnh tranh. Đó là những vấn đề mà AFTA đem đến cho sản xuất và đầu tư trong nước của Việt Nam. Lý thuyết “Đàn nhạn bay” lúc này chắc chắn phát huy tác dụng. II-/ Việt Nam trong quá trình hội nhập WTO 1. Đàm phán và Việt Nam gia nhập WTO. Trong xu thế hội nhập quốc tế thúc đẩy, đòi hỏi các quốc gia trên thế giới phải có những bước thay đổi nhất định cùng hoà mình vào cộng đồng nhằm phát triển nỗ lực hoà bình và kinh tế quốc gia. Không chỉ dừng lại ở những quan hệ lân bang khu vực mà trái lại chúng ta phải chủ động hoà mình vào thế giới tham gia hoà nhập vào các tổ chức quốc tế: Liên Hợp Quốc (UMDF); Hiệp hội các quốc gia Châu á Thái Bình Dương APEC; Tổ chức các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và WTO. Song vấn đề với chúng ta là phải làm sao để được hưởng những tối huệ quốc mà WTO đem lại cho việc rộng mở của chúng ta. Vấn đề đầu tiên để tham gia là làm sao đàm phán nhằm thoả thuận và được sự đáp ứng của các quốc gia trong việc Việt Nam gia nhập WTO. Thực chất của vấn đề đàm phán Việt Nam WTO là vấn đề làm sao cho Mỹ chấp nhận sự có mặt của chúng ta trong WTO, bởi lỹ Mỹ đóng vai trò “lãnh đạo” trong các vấn đề của WTO: Xét về phương diện thị trường thì Mỹ là thị trường hấp dẫn nhất mà tất cả các nước đều tìm kiếm để nâng cao lợi ích kinh tế của mình. Việc đàm phán mở cửa thị trường của Việt Nam - WTO thực chất là đàm phán Việt - Mỹ nhằm đạt được những sự nhượng bộ của Mỹ với Việt Nam trên cơ sở có đi có lại. Hơn thế nữa, nếu chúng ta có là thành viên của WTO đi nữa mà không đạt được một sự thoả thuận nào với Mỹ thì cũng không được hưởng qui chế MFN và GSP. Do vậy đàm phán song phương Việt - Mỹ có tính độc lập và then chốt với việc gia nhập WTO. . Không chỉ dừng ở đó, trở ngại còn đến Việt Nam trên con đường gia nhập WTO là Luật Jackson - Vanik, luật chống bán phá giá và đối kháng của Mỹ (AD & CVD law) liên quan đến cơ chế quản lý giá cả và sự can thiệp của Nhà nước vào công nghiệp và các doanh nghiệp Nhà nước (SOEs) vì vậy việc xem xét lại chính sách công nghiệp và các SOEs là điều quan trọng mà chúng ta phải làm. Vì vậy điều cơ bản với chúng ta là phải làm sao thoả hiệp nhằm đạt được những ưu đãi trong MFN và GSP của Mỹ trước khi là thành viên chính thức của WTO. 2. WTO - cơ chế mang lại sự tin cậy của quốc tế vào chính sách của mỗi quốc gia. Thành lập vào tháng 1/1995, WTO nhằm quản lý các hiệp ước thương mại đa biên được thương lượng bởi các thành viên của tổ chức này. Khi hiểu về WTO ta cũng có thể có hai cách hiểu: Thứ nhất: WTO là một cơ quan được gắn với hàng loạt các qui định và luật pháp về việc sử dụng các chính sách thương mại tác động đến luồng mậu dịch quốc tế. Thứ hai: WTO là một thị trường mà ở đó các nước thành viên trao đổi “hàng hoá” là các sự nhượng bộ thâm nhập thị trường lẫn nhau và chấp nhận những nguyên tắc của luật chơi. Với vai trò và nguyên tắc hoạt động như vậy, WTO đòi hỏi các thành viên của nó phải ._.đảm bảo các chính sách thương mại trên cơ sở không phân biệt đối xử, nguyên tắc thực thi phải rõ ràng. WTO cung cấp nguyên tắc pháp lí cho các nước để thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết, cải tiến các thủ tục giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, với vai trò và vị trí quan trọng của WTO, các quốc gia bé có thể lấy lại sự công bằng từ các cường quốc kinh tế về thương mại và các lãnh thổ liên hiệp thuế quan trên cơ sở khiếu nại, đòi hỏi các quốc gia cường quốc trả lại quyền lợi với sự bênh vực của quốc tế. Với vai trò và lợi ích to lớn như vậy, tưởng rằng WTO sẽ ngày càng trở thành một tổ chức lớn mạnh về cả thành viên và vai trò dung hoà quyền lợi, dần xoá bỏ các khoản thuế quan và phi thuế quan với các hàng hoá và dịch vụ vì một thế giới hoà bình và thống nhất. “Nghiên cứu KT số 264 - 5/2000 trang 70 - Nguyễn Trường Sơn”. 3. Một số chính sách cho Việt Nam trong quá trình hội nhập. Đối diện với thực tế và xu thế hội nhập quốc tế của Việt Nam - AFTA, APEC và WTO - vào nền kinh tế thế giới. Theo tác giả Nguyễn Trường Sơn, Việt Nam cần áp dụng 5 biện pháp chính sau: 1. Thiết lập một uỷ an chính sách kinh tế và thương mại quốc tế thường trực của thủ tướng chính phủ, được uỷ quyền chịu trách nhiệm về kế hoạch và giám sát thực thi chính sách kinh tế nói chung, là người thương lượng thương mại quốc tế cũng như là cơ quan thuộc về hành pháp chịu trách nhiệm trước quốc hội. 2. Xây dựng một chính sách công nghiệp được dựa trên định hướng thương mại. 3. Một chương trình trợ giúp điều chỉnh thương mại cần được xây dựng nhanh chóng để giảm bớt khó khăn cho khu vực bị ảnh hưởng bởi quá trình hội nhập. 4. Tính toán đầy đủ chi phí về tổ chức và vận hành các Hiệp định quốc tế như AFTA - APEC và WTO. 5. Xây dựng chính sách song phương quốc gia thống nhất như một công ty trong cạnh tranh toàn cầu trong một thị trường quốc tế cạnh tranh chưa hoàn hảo. Đó là ý kiến riêng của tác giả Nguyễn Hải Trường, song thiết nghĩ trong điều kiện hiện tại của Việt Nam thì việc chịu trách nhiệm và tiến hành đi sâu, đi sát thực tế là yếu tố cơ bản và cần thiết. Có đi sâu, trực tiếp chịu trách nhiệm về những quyết định của mình thì người thực thi mới toàn tâm, toàn lực,... Từ đó nâng cao tính cộng đồng trong quản lý, tránh những quyết định chủ quan duy ý chí vì tư lợi riêng của cá nhân mà thiệt hại cho xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. phần II cơ cấu kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập I-/ Vai nét về cơ cấu kinh tế Việt Nam những năm qua. 1. Cơ cấu kinh tế. Khi bắt đầu bước vào nghiên cứu cơ cấu kinh tế nói riêng và cơ cấu nói chung, chúng ta có nhiều cách tiếp cận đến vấn đề này, bởi lẽ, cơ cấu theo triết học là dùng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỉ lệ và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Cơ cấu còn biểu hiện như là tập hợp những mối quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Chính vì vậy, khi tiếp cận khái niệm cơ cấu kinh tế ta có thể nhìn nhận từ nhiều phía khác nhau: * Đứng trên góc độ duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống có thể hiểu: Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ nhưng tương tác qua lại cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian và điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất định. * Một cách tiếp cận khác cho rằng: Cơ cấu kinh tế là tổng hợp các bộ phận hợp thành tổng thể nền kinh tế quốc dân và mối quan hệ của các bộ phận đó với nhau biểu hiện bằng tỉ trọng của mỗi bộ phận và vị trí của nó trong tổng thể nền kinh tế. Tuỳ thuộc vào mỗi cách tiếp cận và nghiên cứu mục đích khác nhau mà chúng ta có những dạng cơ cấu kinh tế khác nhau: + Đứng trên góc độ phân công lao động xã hội: Chúng ta có cơ cấu các ngành kinh tế. ở đó nó biểu hiện sự phát triển của phân công lao động xã hội cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ. + Tính chất xã hội hoá của sản xuất: Chúng ta có cơ cấu kinh tế theo thành phần sở hữu (Kinh tế Nhà nước, Kinh tế tập thể, Kinh tế tư nhân, Kinh tế cá thể,...) + Căn cứ vào tính chất của tổ chức sản xuất theo lãnh thổ: Ta có cơ cấu các vùng kinh tế (vùng kinh tế trọng điểm - vùng kinh tế hỗ trợ - ...) và cơ sở để đánh giá phân loại cơ cấu vùng kinh tế này là dựa trên những điều kiện lịch sử - kinh tế - xã hội của mỗi vùng. + Trên giác độ mở cửa nền kinh tế: Cơ cấu ngoại thương. Trong phạm vi bài viết này để tiện nghiên cứu, tôi chỉ xin tập chung vào cơ cấu các ngành kinh tế của Việt Nam những năm gần đây, dưới sự tác động của ngoại thương tới sự chuyển dịch các ngành kinh tế. 2. Thực trạng cơ cấu kinh tế Việt Nam những năm gần đây. Trước tiên, khi nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế chúng ta xem qua bảng tỉ trọng các ngành kinh tế biểu hiện cơ cấu ngành kinh tế những năm gần đây. Cơ cấu GDP theo ba nhóm ngành Đơn vị: % Năm Nhóm ngành 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1999 2000 - Tổng số 100 100 100 100 100 100 100 100 100 - Công nghiệp 23.8 27.3 28.9 29.6 30.1 30.7 31.2 34.4 38.39 - Nông nghiệp 40.5 33.9 33.9 29.9 28.7 27.5 27.2 25.5 20.21 - Dịch vụ 37.5 38.8 41.2 41.7 42.4 42.1 42.6 40.5 40.41 Nguồn: - Tổng cục thống kê. Trích chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong xu thế hội nhập - Lê Du Phong - NXB Chính trị Quốc gia - 2000 - Kế hoạch <Dự thảo kế hoạch 5 năm 2001 - 2005) Như vậy, theo bảng trên chúng ta có thể thấy rằng, xu hướng và thực tế chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của chúng ta hoàn toàn tích cực, có được như vậy là do những năm qua Nhà nước ta có nhiều chủ trương, chính sách phù hợp để thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Có được sự thành công này là do sự tiến bộ của một số ngành rất rõ rệt trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng bình quân của nhóm ngành lớn của nền kinh tế cũng khác nhau, tăng trưởng nhanh nhất thuộc về nhóm ngành công nghiệp, sau đến dịch vụ và tiếp đến là nông nghiệp. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7 năm từ 1991 - 1997 đạt 3,4%, trong khi công nghiệp 13,5% và dịch vụ là 9,3%. Đặc biệt nước ta kể từ sau khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á, chúng ta vẫn luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP khá cao: Năm 1998 là 5,8% trong đó có sự đóng góp của công nghiệp 10,5%, nông nghiệp 2,7% và dịch vụ là 4,2%. Đến năm 1999, trong khi các nước Đông Nam á vẫn cố gắng khắc phục mức tăng trưởng âm của nền kinh tế thì chúng ta vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 4,8% (Công nghiệp 7,7%, nông nghiệp 5,2% và dịch vụ 2,3%). Trong sự phát triển đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành ngoại thương Việt Nam. Năm 1998 với kim ngạch xuất khẩu 8,9 tỉ USD, tưởng rằng con số 10 tỉ USD đối với ta năm 1999 là hoàn toàn khó khăn song chúng ta vẫn đạt được với con số 11,5 tỉ USD tăng 23% so với năm 1998, đặc biệt trong sự tăng trưởng này các sản phẩm nông sản tăng mạnh: gạo tăng hơn 20%, cao su 38%, cà phê 27%, hồ tiên tăng 2,3 lần, chè 13% và dầu thô tăng trên 20%. Cũng trong năm nay, nhập siêu tăng 5,2% mức nhập siêu năm 1998 - bội chi ngân sách thấp hơn 5%. Đó là biểu hiện hoàn toàn sáng sủa đối với nền kinh tế Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển của chúng ta trong tương lai (Thời báo kinh tế Việt Nam - Số 15, 16, 17, 18 - 04/02/2000 - 11/02/2000) Xu thế biến đổi cơ cấu kinh tế của chúng ta là hoàn toàn phù hợp với xu thế chuyển dịch của thế giới trong điều kiện hội nhập trên con đường vươn lên một nước công nghiệp hùng mạnh trong tương lai. II. Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2001 - 2005 1. Vai trò ngoại thương trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Thực chất của vấn đề ngoại thương đó là quan hệ trao đổi buôn bán trong nội bộ vùng đất nước, khu vực và mối quan hệ đối ngoại với thế giới bên ngoài. Khai thác và sử dụng triệt để mối quan hệ bên ngoài nhằm phát huy lợi thế của vùng - quốc gia đó là mong muốn của các nhà lãnh đạo, xuất khẩu sản phẩm có lợi thế so sánh và nhập khẩu những sản phẩm không có lợi thế so sánh để tăng tích cực hiệu quả của nền kinh tế. Tham gia vấn đề chuyển giao công nghệ với khu vực - thế giới đó là xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế quốc tế. Nâng cao năng suất lao động, sử dụng có hiệu quả các nhân tố sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nhằm nâng cao tính cơ động của vốn đầu tư. Từng bước thực hiện công nghiệp hoá trong các vùng kinh tế - ngành kinh tế, công nghiệp hoá trong công nghiệp - công nghiệp hoá trong nông nghiệp và cả trong lĩnh vực dịch vụ nhằm tạo môi trường thông thoáng trong sản xuất. Việc hiện đại hoá công nghệ trong công nghiệp làm tiền đề thúc đẩy sản xuất trong các lĩnh vực khác: nông, lâm, ngư nghiệp, giao thông vận tải và dịch vụ,... Ngoại thương phát triển từ đó tạo môi trường thông thoáng cho việc tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra, cơ hội và thời cơ cho sản xuất từ đó cũng được mở rộng, vấn đề tiêu thụ và thu hồi vốn nhanh hơn thúc đẩy một chu trình sản xuất ngắn hạn từ đó tạo đà cho phát triển sản phẩm. Vì vậy vấn đề phát triển ngoại thương thực tế là công nghiệp hoá trong sản xuất. Công nghiệp phát triển, từ đó thúc đẩy các ngành sản xuất khác: nông, lâm, ngư nghiệp,... tạo ra nhiều loại sản phẩm, hàng hoá khác nhau, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và thị trường xuất khẩu. Nói riêng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp năm 1997 là 134.076 tỉ đồng (giá so sánh năm 1994), đến năm 1998 mặc dù ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á, song giá trị sản xuất công nghiệp vẫn tăng 10.5% với tổng giá trị 148.154 tỉ đồng và đến năm 1999 giá trị đó vẫn tiếp tục tăng với 159.562 tỉ VNĐ (tăng 7,7%). Kim ngạch hàng xuất khẩu công nghiệp nói riêng cũng tăng lên tương ứng và chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch hàng xuất khẩu. Một dấu hiệu đáng mừng là đến năm 1999 giá trị hàng xuất khẩu qua chế biến của Việt Nam tăng lên 18% góp phần đưa tỉ trọng của nhóm hàng này từ 53% tổng giá trị xuất khẩu lên 59% năm 1999 (con số - sự kiện bước đột phá trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam năm 1999. Đức Trung số 1, 2/2000). Một số mặt hàng công nghiệp nước ta đã dần chiếm vị trí và đứng vững trên thị trường thế giới: Dầu thô, thiếc, hàng may mặc, hàng dệt kim (năm 1997 chúng ta xuất 9.416 nghìn tấn dầu thô - đến năm 1999 mức xuất dầu thô của ta đã đạt 14.742 nghìn tấn; 1.349 triệu USD của hàng may mặc năm 1997 - đến 1999 con số này là 1.682 triệu USD. Và đặc biệt, nhằm mục tiêu khuyến khích xuất khẩu trong ngành dệt may, năm 1999 vừa qua Tổng công ty dệt may đã chi 4,6 tỉ VNĐ để thưởng cho các công ty dệt may về những thành tựu đạt được. Tỉ trọng 4 nhóm hàng: dệt may, giầy dép, sản phẩm gỗ tinh chế và điện tử trong kim ngạch xuất khẩu tăng từ 27,8% lên 31% trong 2 năm 97 và 98. Nhóm nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế chủ lực bao gồm dầu thô, gạo, thuỷ sản, cà phê, cao su và điều nhân chiếm 45% kim ngạch xuất khẩu năm 1998 và đến năm 1999, 5 mặt hàng chủ lực: dầu thô, dệt may, gạo, thuỷ sản và than đá đã chiếm tới 64,5% tổng giá trị xuất khẩu cả nước. (Thời báo Kinh tế số 86 - 27/10/1999 - Con số và sự kiện, số 1,2/2000). Đứng trước xu thế cùng hợp tác phát triển và chính sách kinh tế mở, cùng với những thành tựu của khoa học, kỹ thuật đã tác động tích cực đến xu thế quốc tế hoá, đó là xu thế phân công lao động, hợp tác phát triển theo chiều sâu, phân chia thị trường quốc tế Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN 5/1997 và là thành viên của APEC tháng 11/1998 và trong tương lai sẽ là thành viên của WTO, một thị trường rộng lớn sẽ đón chào những sản phẩm của Việt Nam trong điều kiện cạnh tranh hoàn toàn tự do với mức lãi suất ưu đãi liệu chúng ta có khai thác được những lợi thế này, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào mỗi doanh nghiệp vào chính sách khuyến khích của Đảng và Nhà nước. Nhất thiết trong điều kiện hội nhập này, Nhà nước ta phải có chiến lược công nghiệp hoá thích hợp (xin lưu ý, đối với các tổ chức sản phẩm được hưởng ưu đãi thuế quan chỉ bao hàm những sản phẩm công nghiệp chế biến và một số sản phẩm nông sản, nước ta sản phẩm xuất khẩu là hàng nông sản là chủ yếu). Nói một cách tổng quát, là chúng ta lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá nào cho phù hợp: chiến lược hướng ngoại hay hướng nội? Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là tận dụng lợi thế so sánh của nước ta so với các nước khác. Tranh thủ sức mua trên thị trường thế giới để tích luỹ vốn nhằm nhanh chóng mở rộng qui mô sản xuất, tạo khả năng nhập vật tư thiết bị, sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hoá, dịch vụ có giá trị lớn hơn, chất lượng cao hơn đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Không chỉ dừng ở đó, chiến lược xuất khẩu sẽ tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho các tầng lớp dân cư. Đứng trước thực tế xuất khẩu của ta hiện nay, chúng ta thực sự lo lắng và phải chịu nhiều thiệt thòi trong việc xuất khẩu sản phẩm thô. Thực tế xu thế thế giới hiện nay, giá trị của sản phẩm đã qua chế biến thường cao hơn rất nhiều so với giá của sản phẩm thô. Lấy ví dụ hiện nay, giá một thùng dầu thô là 117 USD/thùng thì giá cũng một lít dầu qua chế biến khoảng 0,28 USD/lít. Sự thiệt hại này là vô cùng to lớn cho các nước đang phát triển trong việc xuất khẩu sản phẩm thô. Đối với nước ta hiện nay, với 77 triệu dân, nước lớn thứ hai ở Đông Nam á (sau Indonexia) thì thị trường nội địa cũng không thể bỏ qua, bởi lẽ các nước khác: Thái Lan, Đài Loan, Hàn Quốc,... cả Mỹ và EU cũng đang có những tham vọng xâm chiếm thị trường này. Vì vậy chúng ta có thể khẳng định rằng, công nghiệp hoá hướng nội là yêu cầu khách quan, chúng ta có lợi thế hơn họ trên thị trường này là chúng ta nắm rõ sở thích, thói quen, sự đòi hỏi thị hiếu của người tiêu dùng. Dân số 77 triệu, tốc độ tăng trưởng kinh tế mấy năm gần đây tăng liên tục (Năm 98: 5,8%, năm 1999 là 4,8% và dự kiến năm 2000 này khoảng 6,8%) và trong tương lai những năm tới còn cao hơn nữa. Vì vậy nhu cầu tiêu dùng của nhân dân là rất lớn (Thời báo Kinh tế - số 15,18 - 2/2000). Ngoại thương, góp phần vào việc hoạch định các chiến lược nhập khẩu phù hợp với sản xuất trong từng thời kỳ, đồng thời tìm kiếm những nguồn hàng mới với chất lượng cao hơn và rẻ hơn, chính điều đó giúp công nghiệp nước ta phát triển, sản xuất ra các hàng hoá thay thế được hàng hoá nhập khẩu. Kinh nghiệm của các nước NICs cho thấy, chiến lược phát triển công nghiệp được chia ra làm nhiều giai đoạn: Thời kỳ đầu thập kỷ 60 tập chung vào công nghiệp sử dụng nhiều lao động, thập kỷ 70 là phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn tạo sức bật cho nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao: Điện tử, vi tính,... phần mềm,... Và bài học với Việt Nam là trong giai đoạn đầu chúng ta có thể đi theo con đường của các nước NICs và một số nước ASEAN đã đi. Chúng ta có thể sử dụng số lượng lao động dồi dào, giá rẻ để sản xuất ra nhiều loại hàng hoá xuất khẩu. Tăng cường phát triển các ngành công nghiệp chế biến để thay đổi cán cân thương mại, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng. Trong những giai đoạn tiếp theo, với ưu thế của những nước đi sau, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ ngày càng tiên tiến, phải chăng chúng ta nên đi thẳng vào lĩnh vực công nghệ, tận dụng tối đa sự phát triển của công nghệ, óc tinh hoa sáng tạo của người Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên, mà trong năm 1997 vừa qua kim ngạch xuất khẩu phần mềm của Việt Nam đạt 2,5 triệu USD và kế hoạch đặt ra trong năm 2000 là 3,5 triệu USD (Báo Hà Tây - Tìm hiểu vấn đề phát triển công nghệ thông tin 14 - 11 - 2000). Điều đó đã chứng tỏ sự thành công trên con đường phát triển của nền công nghiệp Việt Nam nói riêng và ngoại thương Việt Nam nói chung. Trong những năm qua, chúng ta đã thấm nhuần quan điểm, sản xuất là gốc, sản xuất quyết định phân phối lưu thông. Chuyển sang nền kinh tế thị trường yếu tố quyết định sản xuất của các đơn vị - doanh nghiệp là sức mua. Chu kỳ sống của sản phẩm ngày càng bị rút ngắn, tác động của khoa học kỹ thuật làm thay đổi cả về mẫu mã và chất lượng sản phẩm hàng hoá rất mau lẹ. Điều này đã kìm hãm sự phát triển sản xuất của nước ta, nếu chúng ta vẫn quyết định chiến lược xuất khẩu và lấy việc khai thác sản phẩm thô và các sản phẩm mang tính chất truyền thống là chủ chốt. Nhất thiết phát huy vai trò ngoại thương trong việc chuyển dịch cơ cấu từ thuần nông sang cơ cấu nông - công nghiệp và dịch vụ với sản phẩm đa dạng cho phép lựa chọn sản phẩm với chất lượng cao. Đứng trước khó khăn thực tế, kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp còn mang nặng tính độc canh lao động chủ yếu tập chung trong nông nghiệp (71% lao động nông thôn). Sản xuất của người nông dân chưa trực tiếp đối mặt với thị trường. Chính vì những yếu tố này, mà các cơ quan thương nghiệp của ta cần phải hỗ trợ người sản xuất, định hướng tổ chức lại thị trường, định hướng sản phẩm và cách tiêu thụ sản phẩm làm ra. Kinh nghiệm thực tế khi áp dụng tại một số địa phương cho thấy, khi chuyển hướng cơ cấu kinh tế, việc chuyển hướng không thoát ly khỏi bối cảnh thị trường trong nước và thị trường thế giới. Chuyển hướng cơ cấu kinh tế cũng không tách rời việc tổ chức lại mạng lưới thương mại và dịch vụ của Nhà nước, để nó đóng vai trò nòng cốt trong việc tiêu thụ sản phẩm của nông dân làm ra. Chỉ có những tổ chức thương mại lớn mới có khả năng hỗ trợ người sản xuất cạnh tranh trên thị trường. Phát huy vai trò thương mại đối với các ngành sản xuất để hình thành chiến lược sản phẩm, phát huy lợi thế so sánh chứ không phải chỉ đơn thuần dựa vào sản xuất là điều kiện cốt yếu và vô cùng cần thiết trong tiến trình hội nhập. Căn cứ vào mặt hàng sản xuất, điều kiện tự nhiên của từng vùng để có kế sách hợp lý trong sản xuất, tránh tình trạng nơi có nguyên liệu thì không có người sản xuất và nơi sản xuất lại thiếu thốn nguyên vật liệu, giảm tối đa chi phí giao dịch, từ đó giảm giá thành sản xuất. Không phải ngẫu nhiên, chúng ta đứng thứ 3 thế giới về kim ngạch xuất khẩu gạo (liên tục tăng trong những năm gần đây: năm 1997: 3,553 triệu tấn - năm 1998 là 3,8 triệu tấn và năm 1999 vừa qua là 4 triệu tấn (Thời báo kinh tế Việt Nam - Kinh tế 1999 - 2000), song giá gạo của chúng ta vẫn thấp hơn giá gạo của các nước trong khu vực: Thái Lan, Indonexia,...). Điều đó là do chất lượng gạo của chúng ta còn thấp hơn so với chất lượng gạo của họ. Điều này đặt ra vấn đề cho chúng ta là phải tìm cách tăng chất lượng gạo lên bằng cách chuyên canh vùng trồng lúa và tìm giống lúa gạo mới có chất lượng cao hơn. Thiết nghĩ chỉ có bằng cách đó chúng ta mới có lợi thế về giá gạo xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, áp dụng những thành quả của công nghệ sinh học nhằm tăng năng suất cây trồng và vật nuôi, tập chung được số lượng lớn để xuất khẩu. Quản lý chặt chẽ việc khai thác bừa bãi nguồn tài nguyên rừng và biển, hình thành những tổ chức khai thác có kế hoạch và đúng yêu cầu đảm bảo môi trường sinh thái bền vững, tránh tình trạng khai thác bừa bãi, vô tổ chức, và phân tán. Nhằm đảm bảo an toàn cho nguồn tài nguyên rừng và biển. Đó là vai trò của ngoại thương trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập. Ngày càng xa rời cơ cấu thuần nông nghiệp mà nước ta đã mang suốt 55 năm qua. 2. Định hướng cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005. Trước khi xem xét và vạch ra con đường cho cơ cấu kinh tế trong tương lai, chúng ta phải xuất phát từ những quan điểm chỉ đạo trong việc định hướng. 2.1. Quan điểm chuyển dịch trong điều kiện hội nhập. * Thực hiện bước chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế với tốc độ nhanh theo xu thế công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Tăng đáng kể tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu ngành, đồng thời giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp. Chủ trương tăng ngành công nghiệp sử dụng hàm lượng vốn cao. * Chuyển dịch cơ cấu ngành theo xu thế hội nhập quốc tế, thực hiện các bước chuyển dịch theo các điều khoản cam kết với các tổ chức quốc tế: AFTA, APEC, WTO,... đến năm 2006 và 2010, đồng thời tìm ra hướng đi và tiến hành phân ngành kinh tế. * Đảm bảo xu thế phát triển bền vững bằng cách gắn liền với các ngành có lợi thế về nguồn lực. Không trú trọng, tập chung vào những ngành “không chân” - ngành do nước ngoài đầu tư. Từ đó xác định các ngành đầu tư kéo theo (Tức các ngành bổ trợ). * Chuyển dịch cơ cấu ngành theo quan điểm hiệu quả kinh tế xã hội. Đó chính là vấn đề về giải quyết lao động dư thừa. 2.2. Con số chỉ tiêu trong định hướng chuyển dịch. Trên cơ sở những quan điểm chuyển dịch trên, chúng ta vạch ra dạng cơ cấu ngành, xác định cơ cấu trong điều kiện trước mắt là: công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Từ đó tạo đà cho cơ cấu: công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp trong tương lai. Trong thời gian đầu 2001 - 2005, Đảng và Nhà nước đã đặt ra chỉ tiêu: Cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2001 - 2005 Đơn vị: % Ngành Tỉ trọng Tốc độ Tỉ trọng lao động Công nghiệp 38-39 12 22 Nông nghiệp 20-21 4 55 Dịch vụ 40-41 7 23 Tổng số 100 Tốc độ chung: 7 Tổng số: 100 Nguồn: Dự thảo chiến lược 2001 - 2005 - Bộ KH - ĐT 2.3. Biện pháp thực hiện cơ cấu kinh tế. Từ những chỉ tiêu đặt ra trong bản dự thảo chiến lược, Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã nêu ra biện pháp tổ chức thực hiện đối với từng nhóm ngành trong ba ngành kinh tế lớn. + Nhóm ngành có khả năng cạnh tranh hiện tại: Đây chủ yếu là những ngành có lợi thế về tài nguyên và lao động. Bao gồm: Khoáng sản, nông sản, thuỷ sản, các loại cây công nghiệp và dệt may. Chúng ta nhận định hiện nay các ngành này còn nhiều song giá trị gia tăng thấp do chi phí cao, đồng thời các ngành này có biểu hiện về việc giảm lợi thế. Giải pháp: 1. Xoá bỏ dần các chính sách bảo hộ, khuyến khích nhập khẩu nhằm tăng khả năng cạnh tranh. 2. Giảm chi phí trong giá thành sản phẩm của các sản phẩm trong ngành này bằng cách tăng cường các hoạt động đầu tư theo chiều sâu. 3. Tạo môi trường thông thoáng trong xuất - nhập khẩu hàng hoá. 4. Đề ra chiến lược qui hoạch về thị trường xuất khẩu. Thành lập các trung tâm xúc tiến tìm thị trường từ đó có cơ sở lựa chọn việc giao dịch. + Nhóm ngành có khả năng cạnh tranh trong tương lai trong điều kiện có sự tác động tích cực từ Chính phủ (Các ngành non trẻ). Bao gồm: - Ngành chế biến nông - thuỷ sản. - Cơ khí chế tạo. - Điện - điện tử và dịch vụ. Giải pháp: 1. Bảo hộ phát triển bằng các chính sách thuế và hạn ngạch. 2. Tăng cường mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài tích cực tham gia chuyển giao công nghệ. 3. Mở rộng các phương thức đầu tư phát triển bằng cách hoàn thiện và hiện đại các thành phần, loại hình tham gia đầu tư. + Nhóm ngành không có khả năng cạnh tranh. Bao gồm: - Những ngành đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao, nhiều vốn. - Những ngành không gắn liền với các yếu tố tài nguyên và lao động. Giải pháp: 1. Không tiếp tục duy trì bảo hộ, mở rộng các hình thức đầu tư nước ngoài khuyến khích họ đầu tư vào những ngành này. 2. Tích cực tham gia chuyển giao công nghệ để chọn những mặt hàng phù hợp với điều kiện Việt Nam. 3. Tích cực đào tạo lao động theo đường lối dài hạn, tạo nguồn lao động có tay nghề cao. Phần III Chính sách ngoại thương Việt Nam trong xu thế hội nhập I-/ Chính sách ngoại thương Việt Nam từ 1975 đến nay. 1. Giai đoạn Nhà nước giữ độc quyền ngoại thương. Giai đoạn này kéo dài từ năm 1975 đến cuối thập niên 80 với nguyên tắc chi phối hoạt động ngoại thương “Nhà nước giữ độc quyền tuyệt đối về ngoại thương và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác”. Tiêu biểu và nổi bật của ngoại thương Việt Nam giai đoạn này nổi lên một số vấn đề sau: - Xuất hiện độc quyền ngoại thương trong các doanh nghiệp trực tiếp tham gia hoạt động xuất - nhập khẩu, song đồng thời cũng phải gánh chịu nợ tồn đọng rất nặng nề do các doanh nghiệp khác uỷ thác. Bởi lẽ, có tình trạng này là do quyền xuất nhập khẩu tập chung trong tay các doanh nghiệp Nhà nước. Trong đó chỉ có một số ít công ty được phép tham gia xuất - nhập khẩu trực tiếp, tất cả các doanh nghiệp khác có nhu cầu xuất - nhập khẩu hàng hoá đều phải uỷ thác qua các đơn vị xuất - nhập khẩu trực tiếp. - Tính chất ngoại thương mang đậm tính Nhà nước với khu vực thị trường hẹp (Trong giai đoạn này là chủ yếu quan hệ với khối SEV): mọi điều khoản liên quan đến việc xuất - nhập khẩu hàng hoá đều do Nhà nước quyết định, Nhà nước là chủ thể đàm phán ký kết hiệp ước thương mại và nghị định thư trao đổi hàng hoá hàng năm, giá cả được thoả thuận theo sự sắp xếp và thương lượng giữa các Chính phủ. Đồng tiền được sử dụng trong quan hệ trao đổi là đồng Rúp chuyển nhượng - tỉ giá hối đoái được áp dụng theo cơ chế tỉ giá cố định, trong điều kiện lạm phát cao. - Mọi hoạt động xuất - nhập khẩu được chỉ huy thống nhất từ Trung ương thông qua hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh mang tính “giao nộp - cấp phát” với chủ trương “Nhà nước nắm độc quyền ngoại thương và Trung ương thống nhất quản lý công tác ngoại thương”. Trong giai đoạn này, chúng ta chưa có ranh giới rõ ràng giữa hai khái niệm: quản lý Nhà nước về ngoại thương và quản lý kinh doanh ngoại thương, bởi vậy Nhà nước thường can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Với cơ chế và chủ trương như trên đã không thúc đẩy được sự sáng tạo của đơn vị kinh doanh, hiệu quả sử dụng nguồn lực kinh tế trong xuất - nhập khẩu không cao. Chính vì vậy, trong giai đoạn này cán cân thương mại của ta luôn mất cân đối nặng (nhập siêu), nhịp độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu thấp (6%-7%/năm). Chính điều này, Nhà nước đã phải chuyển chiến lược thay thế nhập khẩu sang chiến lược khuyến khích xuất khẩu từ đó tạo ra động lực mới cho hoạt động ngoại thương. 2. Giai đoạn chuyển từ chiến lược thay thế hàng nhập khẩu sang chiến lược khuyến khích xuất khẩu. Giai đoạn này kéo dài từ cuối thập niên 80 đến nay nhằm phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế trong những hoàn cảnh mới. Đảng và Nhà nước đã chủ động đưa ra một số văn bản đánh dấu những bước phát triển này: Nghị định 64/HDBT ngày 10/6/1989 về chế độ tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Nghị định 114/HDBT ngày 07/4/1992 về chế độ và tổ chức hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng tự do hoá, mở rộng quyền kinh doanh xuất - nhập khẩu cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Gần đây nhất là Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 qui định về Luật Thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu - gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài,... cơ chế quản lý “Nhà nước độc quyền ngoại thương” đã thay đổi căn bản, chúng ta tập chung và chú trọng nhiều vào điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu bằng cách mở rộng các chính sách và hình thức đầu tư, tạo điều kiện trong các qui định hành chính và cơ sở luật pháp. Phải nói rằng trong những năm gần đây chúng ta đã và đang tiến hành đổi mới nhiều mặt trong quá trình hội nhập mà nổi bật lên là một số mặt sau: - Về thuế quan: Chúng ta chỉ áp dụng thuế chủ yếu trên hàng nhập khẩu, còn đối với hàng xuất khẩu chúng ta ưu đãi trong vấn đề thuế quan với mức thuế suất không đáng kể. Từng bước chuyển đổi mức thuế suất - nhập khẩu sao cho phù hợp với yêu cầu của CEPT sau khi Việt Nam ra nhập AFTA. - Về cơ chế quản lý xuất - nhập khẩu: Phải nói rằng trong thời gian gần đây cơ chế của ta có phần cởi mở hơn, không còn gò bó, luẩn quẩn trong việc “độc quyền” xuất nhập khẩu đối với các doanh nghiệp Nhà nước nữa, mà chúng ta cho phép mọi thành phần kinh tế hợp pháp được quyền trực tiếp xuất nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề trong giấy phép kinh doanh. Vươn tới việc thống nhất hoạt động thương mại, không phân biệt nội thương và ngoại thương nữa. - Về nguyên tắc: Mọi chủ thể kinh tế có quyền xuất - nhập khẩu mọi chủng loại hàng hoá, ngoại trừ các loại hàng cấm xuất - nhập khẩu và một số loại hàng hoá xuất nhập khẩu có điều kiện theo qui định của một số văn bản pháp qui (Nghị định 57). - Thay đổi nhiều trong việc phân bổ Quota xuất khẩu: Đối với gạo Chính phủ cấp hạn ngạch qua Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành có thừa gạo để phân bổ lại cho các đầu mối xuất khẩu gạo tại địa phương. Đối với hàng dệt may tiến hành phương thức đấu thầu. - Thủ tục quản lý xuất - nhập khẩu: Được đơn giản hoá nhiều tránh gây tình trạng phiền hà, phức tạp cho người tham gia xuất - nhập khẩu, tạo môi trường thông thoáng trong hoạt động này. Giảm tối đa thời hạn quản lý hàng xuất nhập khẩu tại hải quan bằng cách phân luồng theo thứ tự ưu tiên (luồng xanh: giải quyết song thủ tục trong vòng 4 giờ, luồng vàng: trong 8 giờ, luồng đỏ: hơn 8 giờ nhưng không quá 72 giờ). - Nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu: Chính phủ quyết định thành lập quĩ thưởng xuất khẩu áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc xuất khẩu các sản phẩm mới, chất lượng cao, mở rộng thị trường và thâm nhập thị trường mới (theo Quyết định 764/QĐ-TTg - 24/8/1998). Sự thành công trong cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của nước ta từ năm 1998 đến nay, đó là thành quả của gần 10 năm phấn đấu không mệt mỏi của toàn Đảng, toàn dân ta vì một nước Việt Nam vững mạnh và vì một thế giới hoà bình, ổn định. Chúng ta từng bước hoàn thiện thêm chủ trương xây dựng nền kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu đi đôi với việc bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, bằng văn bản pháp qui cụ thể (Nghị quyết Trung ương 4 khoá VIII). Tất cả những điều đó nhằm nâng cao cạnh tranh của nền kinh tế và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên chính thị trường nội địa, khu vực và thế giới. Tránh quan liêu, bao cấp trong quá trình quản lý xuất nhập khẩu, thủ tục rườm rà trong khâu vận chuyển, xét cấp giấy phép xuất - nhập khẩu,... đó là những điều, những lý do khiến chúng ta cần phải xem xét và tiếp tục quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. II-/ Định hướng và kiến nghị phát triển ngoại thương Việt Nam 2001 - 2005. 1. Định hướng phát triển ngoại thương. Nhằm mục tiêu phát triển ngoại thương phù hợp với quan điểm phát triển ngoại thương đã nêu trên, có thể đưa ra một số hướng phát triển cơ bản cho ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới: 1.1. Định hướng cơ bản cho nhịp độ tăng xuất nhập khẩu. Như trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam cho đến những năm 2003 chúng ta đã coi “Ngoại thương là hạt nhân của bài toán tăng trưởng, nhịp độ tăng nhanh của hoạt động xuất nhập khẩu sẽ kéo theo nhịp độ tăng trưởng chung của nền kinh tế cũng nhanh lên tương ứng”. Bài học của các quốc gia đi trước đã cho thấy điều đó là hoàn toàn đúng. Xem xét nền kinh tế của một số nước đã thành công trong giai đoạn những điều kiện như Việt Nam hiện nay. nhịp độ tăng xuất nhập khẩu và GDP của một số nước có nền kinh tế đang tăng trưởng tốt ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0144.doc