Các chính sách cơ bản tác động đến nông nghiệp nông thôn Việt Nam

Lời nói đầu Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta liên tục phát triển đạt được những thàh tựu rất đáng khích lệ với tốc độ tăng trưởng ngày càng cao, đời sống nhân dân được cải thiện .Sự chuyển biến tích cực đó thể hiện rõ nét nhất trong lĩnh vực kinh tế nông nhiệp, nông thôn. Nguyên nhân cơ bản của sự chuyển biến tích cực này chính là đường lối kinh tế của Đảng.Sự đổi mới được tiến hanh toàn diện trong tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội nông thôn.Song điều quan trọng có ý nghĩa

doc39 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1578 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các chính sách cơ bản tác động đến nông nghiệp nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quyết định nhất là đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế .Chính sự đổi mới này tạo động lực thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh, khơi dậy tính năng động sáng tạo của người lao động kích thích mạnh mẽ sự phát triểnvà tăng trưởng của nền kinh tế nước ta. Qua quá trình học tập và nghiê cứu Em đã nhận thức được vai trò của kinh tế nông nghiệp, nông thôn tác động đến quá trình phát triển kinh tế đất nước. Do vậy Em đã chọn nghiên cứu đề tài “Các chính sách cơ bản tác động đến nông nghiệp nông thôn Việt Nam”. Đây là lần đầu Em nghiên cứu về các chính sách nên có nhiều thiếu sót. Em mong Cô giáo và các bạn giụp đỡ và chỉ bảo thêm cho bài viết Em được thành công. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I Vai trò của Chính Phủ và các chính sách kinh tế đối với nông nghiệp – nông thôn. I. Vai trò nông nghiệp – nông thôn trong quá trình phát triển nền kinh tế quôc dân. 1. Đặc điểm kinh tế nông nghiệp – nông thôn. Nông nghiệp là ngành có lịch sử phát triển lâu đời, các hoạt động nông nghiệp đã có từ hàng nghìn năm nay kể từ khi con người từ bỏ nghề săn bắn và hái lượm. Do lịch sử lâu đời này mà nền kinh tế nông thôn được nói đến như là nền kinh tế truyền thống. Ngày nay, mặc dù với tiến bộ khoa học kỹ thuật, con người đã sản xuất ra được máy móc hiện đại, nhưng người nông dân vẫn thường áp dụng những kỹ thuật đã có từ hàng trăm năm, thậm trí hàng nghìn năm để trồng trọt. Vì thế rất khó thay đổi xã hội ở nông thôn. Nông nghiệp là ngành tạo ra sản phẩm thiết yếu nhất cho con người, lương thực là sản phẩm chỉ có ngành nông nghiệp sản xuất ra, con người có thể sống mà không cần sắt, thép, than, điện, nhưng không thể thiếu lương thực. Trên thực tế phần lớn các sản phẩm chế tạo có thể thay thế, nhưng không có sản phẩm nào có thể thay thế được lương thực. Do đó nước nào cũng phải sản xuất hoặc nhập khẩu lương thực. Hoạt động sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách quan. Trước hết nông nghiệp khác cơ bản với ngành khác ở chỗ tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai. Ngành nào tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng cần đất, nhưng không có ngành nào đất đai đóng vai trò chủ đạo như nông nghiệp. Gắn liền với vai trò chủ đạo của đất đai là ảnh hưởng của thời tiết. Cũng không có ngành nào ngoài nông nghiệp lệ thuộc vào sự thay đổi thất thường của thời tiết đến như vây. cùng với thời tiêt, độ mầu mỡ và cấu tạo thổ nhưỡng của đất đai mỗi nơi một khác lên việc lựa chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi và cả việc lựa chọn kỹ thuật canh tác cũng khác nhau. Nhưng trong nông nghiệp sự khác nhau về chất lượng đất trồng,khí hậu và nguồn nước sẵn có dẫn đến việc sản xuất chủng loại cây trồng cũng khác nhau và sử dụng các biện pháp canh tác cũng khác nhau. Ngành nông nghiệp còn có đặc điểm là tỷ trọng lao động và sản phẩm trong nông nghiệp có xu hướng giản dần. ở các nước đang phát triển nông nghiệp tập trung nhiều lao động hơn hẳn so với các ngành khác, trung bình thường chiếm từ 60-80% lao động. ở Việt Nam hiện nay tỷ lệ này là 75%. Ngược lại ở những nước có nền kinh tế phát triển sử dụng không quá 10%, như ở Mỹ chỉ chiếm 3%. Về sản phẩm, giá trị sản lượng nông nghiệp ở các nước đang phát triển thường chiếm từ 30-60%, trong khi ở các nước phát triển tỷ lệ này thường dưới 10% . Sự biến động này chịu ảnh hưởng của quy luật tiêu dùng sản phẩm và quy luật tăng năng suất lao động. 2. Vai trò của nông nghiệp – nông thôn với phát triển kinh tế. Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Bởi vì ở các nước này đa số nông dân sống dựa vào nghề nông. Để phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi cho nhân dân, chính Phủ cần có chính sách tác động vào khu vực nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất cây trồng và tạo ra nhiều việc làm ở nông thôn. Trừ một số ít nước dựa vào nguồn tài nguyên phong phú để suất khẩu, đổi lấy lương thực, còn hầu hết các nước đang phát triển phải sản xuất lương thực cho nhu cầu tiêu dùng của dân số nông thôn cũng như thành thị. Nông nghiệp còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động kinh tế. Với hơn 70% dân số sống ở nông thôn thực sự là nguồn nhân lực dự trữ dồi dào cho khu vực thành thị. Để đáp ứng nhu cầu lâu dài của phát triển kinh tế, việc gia tăng dân số ở khu vực thành thị sẽ không đủ khả năng đáp ứng. Cùng với việc tăng năng suất lao động trong nông nghiệp, sự di chuyển dân số ở nông thôn ra thành thị sẽ là nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hoá đất nước. Bên cạnh đó nông nghiệp là ngành cung cấp các nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Khu vực nông nghiệp có thể là ngành cung cấp vốn cho phát triển kinh tế, có ý nghĩa lớn là ngành cung cấp vốn tích luỹ ban đầu cho công nghiệp hoá. Đa số các nước đang phát triển có những thuận lợi đáng kể, đó là tài nguyên thiên nhiên và các sản phẩm nông nghiệp. ở các nước không giầu tài nguyên như dầu hoả, thì nông sản đống vai trò quan trọng trong xuất khẩu, và ngoại tệ thu được sẽ dùng để nhập khẩu máy móc trang thiết bị cơ bản và những sản phẩm trong nước chưa sản xuất được. Dân số nông thôn ở các nước đang phát triển còn là thi trường quan trọng để tiêu thụ sản phẩm công nghiệp như tư liệu sản xuất hàng tiêu dùng. Nếu Nhà nước có chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực nông thôn và thu nhập được phân phối công bằng thị trường nông thôn ngày càng có nhu cầu mở rộng về sản phẩm công nghiệp. Ngược lại, nếu có thị trường rộng lớn ở nông thôn thì công nghiệp có thể tiếp tục phát triển sau khi đã bão hoà nhu cầu thành thị về các sản phẩm công nghiệp. Như vậy, ở các nước đang phát triển sẽ không có sự phát triển quốc gia, nếu không có sự phát triển nông thôn. Những vấn đề về nghèo đói, bất công tăng lên, dân số tăng lên nhanh chóng và thất nghiệp ngày càng tăng đều có nguồn ngốc ở sự trì trệ và thụt lùi của các hoạt động kinh tế ở các vùng nông thôn so với thành thị. Do vậy phát triển nông nghiệp và nông thôn là cơ sở để thúc đẩy kinh tế đất nước. 3. Các giai đoạn phát triển nông nghiệp – nông thôn . Theo các nhà kinh tế, quá trình phát triển nông nghiệp –nông thôn có thể chia thành ba giai đoạn: * Nông nghiệp truyền thống: Nét chung của nông nghiệp truyền thống là nông dân vẫn canh tác theo những phương pháp đã có cách đây hàng thế kỷ. Người nông dân trong giai đoạn này luôn gắn với phong tục tập quán và họ không có khả năng thay đổi phương pháp trồng trọt để nâng cao sản lượng. Nhưng trong chính bản thân họ cũng không muốn thay đổi phương thức sản xuất lạc hậu đó. Đối với họ tránh được một năm mùa màng thất bại quan trọng hơn là thay đổi phương thức sản xuất để nâng cao sản lượng. Đặc điểm cơ bản của nông nghiệp truyền thống là sản xuất mang tính tự cung, tự cấp với một hoặc hai cây lương thực chủ yếu. Sản lượng và năng suất cây trồng thấp, chỉ sử dụng các công cụ đơn giản trong sản xuất. Do đó, quy luật lợi nhuận giảm dần được thể hiện rõ khi phải sử dụng lao động trên đất đai ngày càng cằn cỗi. Tuy vậy Nông nghiệp truyền thống hoàn toàn không phải là không có tiến triển, sự tiến triển diễn ra chậm chạp. Do trong quá trình sản xuất, họ cũng đúc rút ra một số kinh nghiệm tăng năng suất cây trồng. Giai đoạn này để áp dụng phương pháp canh tác mới cần có thời gian và ban đầu phải thử nhiệm một số hộ, một vài vụ, có kết quả tốt họ mới bắt chiếc làm theo. * Chuyển dịch cơ cấu Nông nghiệp - Đa dạng hoá cây trồng: Đa dạng hoá nông nghiệp là bước chuyển đầu tiên trong sự quá độ từ sản xuất tự, cung tự cấp sang chuyên môn hoá. Giai đoạn này cây lương thực cơ bản không còn là sản phẩm chính của nông nghiệp, bởi vì nông dân bắt đầu chuyển sang trồng các loại cây mang lại hiệu quả kinh tế cao (hướng ra thị trường). Những công việc này làm tăng hệ số sử dụng thời gian lao động trong nông nghiệp, giảm bớt thời gian nhàn rỗi. ở những nơi không đủ lao động trong thời vụ cao điểm thì có thể sử dụng máy móc công cụ nhỏ để tiết kiệm sức lao động(như máy cày, máy tuốt lúa, máy xay xát....) nhằm đảm bảo sức lao động cho các hoạt động khác. Để có thể giải phóng một phần đất đai để trồng cây thương phẩm mà vẫn đảm bảo cung cấp đủ lương thực cơ bản, bằng cách, nông dân sử dụng những giống cây trồng mới để tăng năng suất cây trồng chính như lúa, gô... Như vậy, việc đa dạng hoá cây trồng kết hợp với các biện pháp công nghệ, chủ yếu là công nghệ sinh học làm cho năng suất và sản lượng gia tăng. Người nông dân có thể bán sản phẩm dư thừa để nâng cao mức tiêu dùng cho gia đình và tăng đầu tư cho sản xuất. Việc đa dạng hoá cây trồng có thể làm giảm tác động do mất mùa cây trồng chính gây ra và đảm bảo thu nhập ổn định hơn. * Chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp thương mại hiện đại. Nông nghiệp chuyên môn hoá là giai đoạn cuối cùng và tiên tiến nhất của hộ nông dân cá thể. Đó là loại hình nông nghiệp phổ biến ở các nước công nghiệp phát triển. Nền nông nghiệp này đã đáp ứng và song hành với sự phát triển toàn diện trong các lĩnh vvực khác của nền kinh tế . Đời sống nông dân được cải tiện; tiến bộ của công nghệ sinh học làm tăng năng suất cây trồng kết hợp với cơ giới hoá làm tăng năng suất lao động và việc mở rộng thị trường trong nước và quốc tế tạo nên những yếu tố cơ bản cho sự tăng trưởng của nó. ở các trang trại chuyên môn hoá việc cung cấp lương thực cho gia đình với một số dư thừa để bán không còn là mục tiêu cơ bản. Gìơ đây sản xuất hoàn toàn cho thị trường và mục tiêu là lợi nhuận thương mại. Việc chú trọng sử dụng các yếu tố sản xuất không còn đặt vào đất đai, nước và lao động như trong nông nghiệp tự cung, tự cấp và cả trong nông nghiệp đa dạng hoá. Thay vào đó, việc tạo vốn và tiến bộ khoa học công nghệ đóng vai trò chính trong việc thúc đẩy tăng trưởng nông nghiệp. Đặc điểm chung của các trang trại chuyên môn hoá là chú trọng vào một hoặc hai loại cây nào đó. Sử dụng kết hợp các biện pháp tăng năng suất cây trồng và tăng năng suất lao động. Do thời kỳ này ở khu vực thành thị sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ cần nhiều lao động, cho nên ở nông thôn cần tiến hành cơ giới hoá, sử dụng máy móc thay thế lao động, để chuyển lao động từ nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. II. vai trò Chính Phủ và các chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn. 1. sự cần thiết trợ giúp của Chính Phủ đến phát triển nông nghiệp, nông thôn. Thành công hay thất bại của những nỗ lực nhằm chuyển hoá nền nông nghiệp không phụ thuộc vào khả năng và kỹ năng của người nông dân trong việc nâng cao năng suất cây trồng và nâng cao năng suất lao động mà quan trọng hơn còn phụ thuộc của chính Phủ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông dân. Như đã phân tích trong nền nông nghiệp truyền thống người nông dân cũng không muốn và cũng không có điều kiện áp dụng kỹ thuật mới, mà đây lại là yếu tố quyết định sự chuyển động của nông nghiệp. Do đó, chính Phủ cần có chính sách giúp đỡ về kỹ thuật (giống mới, biện pháp canh tác mới...) và hướng dẫn cho họ thực hiện những biện pháp này. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ, hình thức trang trại hộ gia đình là chủ yếu. Do đó họ không có khả năng xây dựng cơ sở hạ tầng. Để giúp họ đầu tư theo quy mô lớn như hệ thống điện, đường sá, thuỷ lợi... Chính Phủ cần có chính sách hỗ trợ họ dưới nhiều hình thức đầu tư để tạo điều kiện phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sản xuất nông nghiệp có độ rủi ro cao do hoạt động của nó phụ thuộc nhiều vào yếu tố khách quan, đặc biệt là thời tiết. Mặt khác do đặc điểm về co giãn cung, cầu sản phẩm nông nghiệp thường làm cho giá cả sản phẩm có biến động lớn. Do đó, chính Phủ cần có chính sách bảo hộ và trợ giúp về giá cả tạo sự ổn định cho sản xuất nông nghiệp. 2. Phân loại chính sách kinh tế tác động đến nông nghiệp, nông thôn. - Phân loại theo địa chỉ tác động của chính sách, có : + chính sách đầu vào của sản xuất. + chính sách tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất. + chính sách điều chỉnh đầu ra của sản xuất. - Phân loại chính sách theo mức độ quan trọng của mục tiêu cần đạt tới của chính sách, có : + chính sách phục vụ cho mục tiêu cơ bản. + chính sách phục vụ cho mục tiêu thứ yếu. + chính sách phục vụ cho mục tiêu tổng hợp. - Phân loại chính sách theo thời gian của mục tiêu cần đạt tới, có : + các chính sách tác động dài hạn. + các chính sách tác động trung hạn. + các chính sách tác động ngắn hạn. - Phân loại chính sách theo nhóm, có : Nhóm một : Bao gồm các chính sách có vai trò tác động trực tiếp vào người sản xuất, đó là : + chính sách trợ gí trực tiếp đối với sản phẩm đầu ra tại nơi sản xuất. + chính sách tín dụng. + chính sách thuế nông nghiệp. + chính sách sử dụng đất nông nghiệp. + chính sách khác. Nhóm hai : Bao gồm các chính sách có vai trò tác động gián tiếp vào người sản xuất, đó là : + chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sc và đới sống ở nông thôn. + chính sách nghiên cứu nông nghiệp và chuyển giao công nghệ. + chính sách khuyến nông, chuyển giao công nghệ sản xuất mới cho nông thôn. + chính sách thị trường, giá cả, tỷ giá hối đoái. + Các chính sách khác. III. Kinh nghiệm thực thi các chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn của một số nước. 1. Kinh nghiệm xây dựng xây dựng các chính sách tác động trực tiếp đến người sản xuất nông nghiệp. 1.1. Chính sách ruộng đất. Đối với sản xuất nông nghiệp nói chung và người nông dân nói riêng, ruộng đất luôn là điều kiện quyết định số một cho sự phát triển sản xuất. Ruộng đất ở các nước được sử dụng chi phối theo quyền tự do phát triển sản xuất, kinh doanh của hộ nông dân nói chung. Để thực hiện mục tiêu này, chính Phủ các nước tạo điều kiện cho nông dân được quyền sở hữu đất đai canh tác bằng nhiều cách như : chia đất công, bán giẻ trả dần, khai hoang đất mới ... Nông dân được quyền mua bán luân chuyển ruộng đất theo nhu cầu của cuộc sống và sản xuất, từ đó đất sản xuất được hình thành giá cả rõ ràng, tạo nên thị trường ruộng đất nói riêng và đất đai nói chung rất phổ biến ở châu Âu, châu Phi, châu á ... Trong điều kiện kinh tế thị trường, việc cho nông dân được quyền sở hữu ruộng đất canh tác là phù hợp. Bởi lẽ, trên cơ sở có chủ thực sự, có giá cả rõ ràng thì nguồn tài nguyên đất mới có điều kiện sử dụng có hiệu quả, được bảo vệ và phát triển độ mầu mỡ trong quá trình khai thác.Mặt khác chính sách này chính sách này có tác động kích thích phát triển sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường, với giá trị tăng cao, đảm bảo điều kiện nông dân phát huy hết khả năng kinh doanh nông nghiệp của từng hộ gia đình. Song, mặt trái của quả trình mua bán, luân chuyển tự do hoá ruộng đất đã dẫn đến sự tích tụ không hợp lý ruộng đất vào tay một số tư nhân không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp. Trả giá cho sự tích tụ này là có hàng triệu hộ nông dân do bán đất canh tác để lấy tiền sinh sống trước mắt, dẫn tới tình trạng cùng quẫn không còn đất sản xuất trong khi các khu vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ chưa đủ sức thu hút họ. Tình trạng này diễn ra phổ biến ở các nước châu Phi, Phillippin, Thái Lan ... làm cho tình hình xã hội nông thôn và toàn xã hội nói chung thiếu ổn định. Để hạn chế mặt tiêu cực trên đây, kinh nghiệm của một số nước châu Âu như Pháp, Thuỵ Điển... đã ban hành nhiều chính sách hạn chế tích tụ ruộng đất quá mức và quy định rõ các đối tượng được tham gia vào thị trường ruộng đất ở nông thôn. 1.2. chính sách hỗ trợ đầu vào cho sản xuất. Hỗ trợ đầu vào cho sản xuất đối với hộ nông dân là lĩnh vực thu hút nhiều sự quan tâm của các Chính Phủ. Những chính sách quan trọng thực hiện mục tiêu hỗ trợ đầu vào bao gồm : * Chính sách tín dụng ở hầu hết các nước đang áp dụng chế độ cho nông dân vay vốn với lãi suất ưu đãi, đặc biệt ;à các hộ nghèo, thiếu vốn sản xuất hoàn toàn có ý nghĩa to lớn trong việc giúp họ vươn lên thoát khỏi cảnh nghèo nàn. Có thể nói chính sách này có hiệu quả cả về mặt kinh tế và xã hội. Song thực tế áp dụng chính sách tín dụng ưu đãi đối với người sản xuất ở nông thôn trong nhiều năm gần đây người ta đã rút ra rằng: đa số các chương trình tín dụng có trợ cấp thường khó thành công, ít ra trên ba phương diện. Một là: Chính đối tượng cần được hưởng chế độ ưu đãi là các hộ nông dân nghèo thiếu vốn sản xuất lại thường được vay với tỷ lệ rất thấp. Còn phần lớn các khoản tín dụng này rơi vào các đối tượng không thuộc diện ưu đãi, có khả năng sử dụng ảnh hưởng của họ đối với công việc quản lý và phân phối tín dung để được nhận tín dụng. Vì vậy mục tiêu giảm nghèo của tín dụng ít thành công. Hai là: Để thực hiện mục tiêu tín dụng ưu đãi trên không gian rộng lớn ở các vùng nông thôn, Chính Phủ các nước đả phải dành ra khoản tiền khá lớn và trong một thời gian dài, dẫn đến áp lực tài chính cho ngân sách không chịu nổi. Để gỡ thế bí này, nhiều chính Phủ đã yêu cầu các ngân hàng mại tham gia một phần tài chính vào chương trình tín dụng có trợ cấp do Chính Phủ đề sướng, nhưng kết quả thu được rất không đáng kể. Ba là: Đa số những thất bại trong việc thực hiện chính sách tín dụng có trợ cấp là do thiếu một cơ chế về chi tiêu, kiểm soát cho vay chưa thích hợp để đảm bảo loại trừ tối đa các vi phạm mục tiêu của chính sách . Đó là những nguyên nhân chính dẫn đến tín dụng dành cho người nghèo rất khó đến tay họ. * chính sách hỗ trợ phân bón, thuốc trừ sâu để giúp nông dân tăng năng suất cây trồng và giảm thiệt hại sự tàn phá của dịch bệnh là một định hướng tiếp tục trong chính sách chung đối với nông nghiệp, nông thôn. Sự tài trợ phân bón, thuốc trừ sâu cho nông dân được nhiều Chính Phủ ở các nước châu á quan tâm, coi đây là vấn đề có tính chiến lược.Ví dụ ở một số nước, chính Phủ chỉ đạo việc bán phân bón cho nông dân thấp hơn giá thành sản xuất như ở Indônêxia giá bán chỉ bằng 40% giá thành sản xuất, còn một số nước, Chính Phủ cho cấp không phân bón và thuốc trừ sâu, như ở Malaixia...ở Nhật, Hàn Quốc chính sách ổn định giá và cung cấp thuận lợi phân bón và thuốc trừ sâu. * chính sách hỗ trợ đầu ra của sản xuất. Mục tiêu chính sách là bảo trợ sản xuất cho nông dân qua việc mua và ổn định đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp nhằm giảm thua thiệt cho nông dân khi giá thị trường giảm thấp hơn chi phí sản xuất. Điển hình sử dụng chính sách này là Inđônêxia, Nhật Bản, Trung Quốc, Cộng Đồng EEC với chính sách nông nghiệp chung CPA. Mỹ đã từng áp dụng chính sách trợ cấp đầu ra để điều chỉnh cho nông dân cắt giảm diện tích sản xuất nhằm ổn định cung cầu, trợ cấp khi cả giá thành cao hơn giá tiêu thụ... * chính sách thuế và phí đối với kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Thực tế cho thấy rõ là Chính Phủ các nước thực hiện chính sách thu thuế nhẹ hoặc không thu thuế nông nghiệp đối với nông dân để giảm gánh nặng đóng góp của nông dân, kích thích sản xuất phát triển. Chính Phủ không coi thuế nông nghiệp là nguồn thu chủ yếu của ngân sách... mà thu ở các khâu chế biến, xuất khẩu nông sản và từ các hoạt động kinh tế có giá trị khác, như Đài Loan, Malaixia...và ở một số nước châu Âu như Pháp, Đức, Tiệp... chỉ còn sử dụng chủ yếu là thuế đất và thuế thu nhập. Về chính sách phát triển thuỷ lợi và thu lợi phí, hầu hết các nước bỏ vốn đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp còn tư nhân và nông dân ít đâu tư. Đồng thời nhà nước thu thuỷ lợi phí ở mức thấp hoặc không thu để tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân thâm canh phát triển sản xuất. 2. Kinh nghiệm xây dựng các chính sách kinh tế tác động gián tiếp lên sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. * chính sách hỗ trợ, điều tiết sản xuất nông nghiệp thông qua thúc đẩy hạn chế xuất khẩu. Đối với chính sách xuất khẩu nông sản, Chính Phủ các nước rất quan tâm đến việc đảm bảo xuất khẩu sao cho có hiệu quả cao để đảm bảo và khuyến khích sản xuất trong nước. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển khi xuất khẩu nông sản chiếm vị trí ưu thế trong tổng giá trị xuất khẩu và là nơi tạo nhiều công ăn việc làm cho lao động ở nông thôn. Nhiều nước như Mỹ, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Braxin, Kenya...đều phải sử dụng triệt để hỗ trợ kinh tế của nhà nước và các biện pháp nhằm duy trì gia tăng sản xuất – xuất khẩu, trong điều kiện luôn diễn ra sự thay đổi giá cả trên thị trường thế giới. Kinh nhiệm chỉ ra rằng vai trò của Chính Phủ là xây dựng cho được một chính sách xuất khẩu hợp lý, liên tục theo rõi tìm kiếm thị trường giúp người sản xuất nông nghiệp, luôn luôn chuẩn bị các điều kiện để điều chỉnh cung- cầu các mặt hàng xuất khẩu và sẵn sàng hậu thuẫn về tài chính đối với các hoạt động xuất khẩu khi rơi vào tình trạng khó khăn. * chính sách đâu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế nông thôn. chính sách đâu tư phát triển phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là chính sách kinh tế lớn, thường chiếm tỷ trọng cao trong chi tiêu của chính Phủ các nước. Chức năng lớn nhất mà chính Phủ phải đảm nhận là đâu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông thôn. Mà vai trò chính là phát triển cơ sở hạ tầng phần cứng (đường xá, kho tàng, bến bãi, điện, thông tin liên lạc...) để tạo điều kiện phát triển kinh tế nông thôn, nhất là những vùng sản xuất hàng hoá phải đâu tư trước một bước. Ngoài việc đâu tư phát triển cơ sở hạ tầng phần cứng, nhà nước còn bỏ nhiều tiền vào đâu tư phát triển cơ sở hạ tầng mềm, đó là chi phí cho việc đào tạo phát triển tri thức kinh doanh cho lao động nông thôn ... coi khoản đâu tư này là dài hạn khôn khéo. Đặc biệt là sự thành công trong phát triển kinh tế nói chung và nông thôn nói riêng ở các nước công nghiệp mới ở châu á và ASEAN đã cho thế giới một bài học kinh nghiệm lớn về chính sách đâu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong những năm 1960- 1970. Tuy nhiên Chính Phủ các nước đã quá nhấn mạnh đâu tư vào phần cứng, mà ít quan tâm đến phần mềm tức là đâu tư phát triển nguồn nhân lực để có đủ khả năng quản lý, khai thác có hiệu quả cơ sở hạ tầng cứng. Đây là một kinh nghiệm mà Việt Nam cần rút ra. * chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp, dịch vụ nông thôn. Đây là một trong những chính sách có mục tiêu trợ giúp cho công nghiệp, song có tác động gián tiếp rất quan trong quá trình chuyển nền kinh tế có cơ cấu nông- công nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan ... là những điển hình tốt phát triển ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn bằng các doanh nghiệp nhỏ, đồng thời phát triển và bảo vệ môi trường nông thôn, đảm bảo tốt các điều kiện để sản xuất nông nghiệp gia tăng và không ngừng tăng năng suất lao động, năng suất cây trồng vật nuôi. Công nghiệp nông thôn ở Đài Loan phát triển thành công dựa trên cơ sở sử dụng triệt để các nguồn nguyên liệu tại chỗ và được sự hỗ trợ đắc lực của chương trình công nghiệp hoá đất nước do Chính Phủ chủ trương và điều khiển phong trào “ mỗi làng một nghề ”. 3. Bài học rút ra từ kinh nghiệm và sự vận dụng vào phát triển nông nghiệp – nông thôn Việt Nam. Từ các kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành công trong xây dựng các chính sách tác động trực tiếp và tác động gián tiếp lên kinh tế nông thôn ở các nước và lãnh thổ đã phân tích, có thể rút ra một số bài học sau : Một là : Kinh tế nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận quan trọng của mỗi hệ thống kinh tế, nó chứa đựng nhiều yếu tố khó khăn kém phát triển, người nghèo đông so với khu vực khác, vì vậy chính sách kinh tế của Chính Phủ phải thể hiện : - Coi trọng phát triển sản xuất, tạo cơ sở đảm bảo nguồn lương thực chính cho dân cư nông thôn và toàn xã hội. Trên cơ sở đó phát triển toàn nền kinh tế. - Sự nâng đỡ ưu đãi cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế đất nước, khi nông nghiệp, nông thôn còn yếu kém và trong hoàn cảnh lạc hậu, trợ giúp nông dân nghèo ở nông thôn được xem là tư tưởng trung nhất trong chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn. Hai là : Cùng khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, chính sách phải hướng vào tái tạo các nguồn lực đầu vào và bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo sự phát triển lâu bền. Đó là tiến bộ tích cực của chính sách kinh tế trong các điều kiện khác nhau. Ba là : Sự lựa chọn chính sách cho từng giai đoạn phát triển, đối với từng khu vực nông thôn khác nhau đóng vai trò quyết định sự thành công của quá trình vận hành. Không chính sách nào có thể tác động mọi mặt theo chủ quan, vì sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách tác động trực tiếp với chính sách tác động gián tiếp là một yêu cầu rất quan trọng. Bốn là : Cải cách và đổi mới chính sách kinh tế đối với nông nghiệp, nông thôn là quá trình liên tục cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tế. CHƯƠNG II Những chính sách CƠ BảN (CHủ YếU) TRONG NôNG NGHIệP NôNG THôN VIệT NAM THờI Kỳ ĐổI MớI. I . Những chính sách vĩ mô tạo môi trường phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn việt nam thời kỳ đổi mới. 1. Các chính sách có vai trò tác động trực tiếp vào người sản xuất. 1.1. chính sách tạo vốn (tín dụng) cho sản xuất. Trong thời kỳ đổi mới Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách về tạo vốn cho sản xuất nông nghiệp ở nông thôn, đó là chỉ thị 202-CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưỏng ngày 28-6-1991 về làm thử cho vay đến hộ sản xuất và nghị định số 14-CP ngày 2-3-1993 quy định về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông- lâm- ngư nghiệp và kinh tế nông thôn . Chính sách mới về tạo vốn khẳng định: Thực hiện cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất, bảo đảm nguyên tắc có hiệu quả kinh tế- xã hội., không phân biệt thành phần kinh tế, ưu tiên cho vay để thực hiện các dự án do chính Phủ quy định; chú trọng cho vay đối với hộ nghèo, gia đình chính sách, hộ vùng núi cao, hải đảo, vùng xa, vùng sâu, vùng kinh tế mới ... Cụ thể việc đổi mới chính sách tạo vốn cho nông thôn đã được thể hiện cụ thể là: + Việc cấp vốn cho sản xuất, bất kể loại hình nào cũng chuyển sang hình thức tín dụng thương mại với nhiều kênh khác nhau, xoá bỏ chế độ cho vay lãi suất ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà nước về sản xuất nông nghiệp và thực hiện lãi suất tương đương. + Đối tượng cho vay mở rộng tới hộ nông dân với tư cách là những đơn vị tự chủ sản xuất sản xuất kinh doanh hàng hoá nông thôn. Nếu năm 1981-1987, đối tượng cho vay chủ yếu là các doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước và các hợp tác xã nông nghiệp, thì sang giai đoạn 1988-1993 khách hàng chủ yếu của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam là các hộ nông dân. + Bình đẳng hoá các thành phần kinh tế trong quan hệ tín dụng với ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, xoá bỏ quy định áp dụng mức lãi xuất khác nhau giữa các khách hàng. Hệ thống lãi suất ưu đãi chỉ còn duy trì đối với các khoản tín dụng đặc biệt dành cho các vùng núi cao, hải đảo, vùng kinh tế mới... + Phát triển nhiều kênh truyền tải vốn cho vay tới hộ nông dân, đó là: Cho vay qua các tổ chức, các hội, đoàn thể... như (hội nông dân, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, đoàn thanh liên, hợp tác xã ...). Từ đó các hộ nông dân có cơ hội được vay vốn để tạo nhiều việc làm mới , tăng thu nhập, giảm nghèo đói. + Ngoài ra thu hút và mở các nguồn vốn cho vay của các tổ chức trong và ngoài nước, hình thành nhiều khoản cho vay theo mục tiêu dưới dạng dự án, chương trình tín dụng nhân đạo. Thực hiện chính sách mở cửa, trong những năm gần đây, đã có nhiều tổ chức phi chính Phủ nước ngoài đưa vốn vào Việt Nam cho nông dân vay để phát triển sản xuất. Nổi bbật nhất là các tổ chức như SIDA (Thụy Điển); Quaker (Mỹ); UNFPA (Liên hợp quốc thông qua FAO) Quỹ nhi đồng Anh (SCFGB); PAM ...với số vốn lên tới hàng triệu $. Điều đó góp phần đáng kể vào việc tạo vốn phát triển cho kinh tế nông thôn . Những nội dung đổi mới của chính sách tạo vốn tín dụng trên đây thực sự có tác dụng tích cực trên cả hai mặt hai mặt : Một là thực hiện cho vay tới các hộ nông dân với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế cùng hỗ trợ, tạo vốn ban đầu cần thiết để hộ nông dân phát triển sản xuất, xoá bỏ các khoản vay nguyên tắc kém hiệu quả trước kia. Chính sách này được đông đảo nông dân hưởng ứng thực hiện, vay- trả sòng phẳng. Theo báo cáo của NH Nông nghiệp Việt Nam, mặc dù lãi suất cho hộ nông dân vay không hề ưu đãi nhưng kêt quả trả nợ rất tốt. Đến cuối năn 1992 có tới 96% hộ nông dân vay đã thanh toán xong, chỉ có 4% nợ quá hạn, song số này vẫn có đủ khả năng trả nợ. Thực tế khẳng định thành công của chính sách tín dụng trong những năm vừa qua, đồng thời cho thấy vai trò to lớn của chính sách phát triển tín dụng tới hộ sản xuất, và dần dần hình thành thị trường vốn nông thôn, trong quá trình chuyển sang sản xuất hàng hoá nhiều thành phần. Hai là: nâng cao nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam phù hợp với yêu cầu đổi mới của cơ chế kinh tế và các chính sách vĩ mô khác, đặc biiệt là thích nghi với hoạt động tín dụng theo theo quy luật của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. 1.2. chính sách trợ giá trực tiếp đối với sản phẩm đầu ra. Do chính sách giá cả đã chuyển dần và đồng bộ từ cơ chế nhà nước quy định chủ quản, áp đặt nhiều giá sang cơ chế một giá, theo quy luật cung – cầu của thị trường và do thị trường quyết định. Cơ chế này ứng dụng đối với đại đa số các hàng hoá nông sản. Tác động của chính sách tự do hoá giá cả trên đây đã bước đầu tạo ra sự điều tiết từ phía thị trường, theo sự vận động của quan hệ cung cầu. Tuy nhiên, do tính tự phát của thị trường đã có tác động xấu đối với sản phẩm nông nghiệp. Đó là một số sản phẩm, ở một số vùng trong những thời điểm nhất định do giá hạ thấp, nông dân đã phải giảm sản xuất, hoặc phá bỏ để trồng cây khác có lợi hơn, hoặc giảm bớt đấu tư vào thâm canh để tránh thua lỗ. Nhận biết tác động xấu đó đối với một số sản phẩm trọng yếu, nhà nước đã thử nghiệm can thiệp vào thị trường nông sản bằng cách mua theo giá bảo trợ, cao hơn giá hình thành triên thị trường khi giá thị trường xuống thấp hơn giá thành sản xuất, trước hết là đối với lúa gạo (mức giá bảo trợ bằng giá thành trung bình cộng với lãi suất tối thiểu khoảng 20-30% so với giá thành). Đồng thời Nhà nước đã thực hiện cấp tín dụng lãi suất ưu đãi để các công ty lương thực có thể mua lúa dự trữ trong dân, ngoài ra còn thực hiện chính sách giảm thuế xuất khẩu. Thực tế cho thấy, nhờ sự can thiệp trực iếp của Nhà nước vào thị trường nông sản bằng các biện pháp trên, đã có tác dụng làm cho giá nông sản trong nâưm 1993 có tăng lên, và thu hẹp một phần giá cánh kéo, làm giảm bớt thua thiệt cho nông dân và khuyến khích ra tăng sản xuất. Thực tiễn những năm qua đã._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35339.doc
Tài liệu liên quan