Lời mở đầu
Phát triển kinh tế nông nghiệp nông nghiệp nông thôn. là một vấn dề rộng lớn, phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau như; các yếu tố về thể chế chính sách, điều kiện tự nhiên khoa học công nghệ, về vốn và các điều kiện khoa học công nghệ, yếu tố vùng địa lý, về vốn và các điều kiện kinh tế xã hội, yếu tố thị trường quốc tế. Tuy vậy, trong những năm đổi mới vừa qua, nhân tố đổi mới cơ chế chính sách là nhân tố nổi trội nhất, tác đọng mạnh mẽ lên sự tăng trưởng và phát triể
30 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2222 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Các chính sách cơ bản của Chính phủ để phát triển nông nghiệp - Nông thôn trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n của kinh tế nông nghiệp- nông thôn.
Ngay tại Đại hội đảng toàn quốc lần thứ V đã khẳng định “Tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu”.
Mặt khác với hơn 70% dân số sống chủ yếu ở nông thôn, 76% dân số nước ta làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, hơn 50% tổng kim ngạch xất khẩu là do ngành nông nghiệp đóng góp. Do đó trong thời gian qua Đảng và nhà nước ta đã tập trung mọi nguồn lực cho phát triển nông nghiệp nông thôn.
Xuất phát từ thực tế khách quan và tính cấp thiết của đề tài. Em chọn đề tài: “Các chính sách cơ bản của chính phủ để phát triển nông nghiệp- nông thôn Việt nam trong giai đoạn hiện nay”.
Nội dung của đề tài này bao gồm:
Phần i: Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường nói chung và trong kinh tế nông nghiệp- nông thôn nói riêng.
Phần ii: Các chính phát triển kinh tế nông nghiệp- nông thôn việt nam trong giai đoạn hiện nay.
Phân iii: các giải pháp cơ bản để hoàn thiện chính sách phát triển nông nghiệp- nông thôn việt nam trong giai đoạn hiện nay.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng thời gian và khả năng có hạn cho nên bài viết này sẽ không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự góp ý của cô phụ trách đề tài và của các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn cô nguyễn kim dung đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn em thực hiện đề tài này.
Phần i
Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường nói chung và đối với phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nói riêng
I-/ Vai trò và các công cụ điều tiết của chính phủ trong nền kinh tế thị trường:
1-/ Vai trò của chính phủ trong hoạt động điều tiết nền kinh tế:
Từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang nặng tính hiện vật chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nền kinh tế phải trải qua thời kỳ quá độ. Đó là thời kỳ mà cơ chế cũ chưa hoàn toàn mất đi và cơ chế mới nó cũng chưa thực sự ra đời và hoạt động trên cơ sở của chính nó và phát huy tác dụng. Trong điều kiện đó vai trò của chính phủ là rất quan trọng, và vai trò của chính phủ nó được thể hiện qua:
Thứ nhất: Là nước sử dụng quyền lực của mình để tiếp tục thực hiện quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế trong nước với các nội dung cụ thể sau:
Xoá bỏ các tình trạng độc quyền và ban hành các đạo luật chống độc quyền bằng cách taọ điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Tạo ra các điều kiện cũng như các tiền đề pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của các thị trường cần thiết như: thị trường về vốn, thị trường chứng khoán, thị trường lao động.
Hai là: Nhà nước là người thiết lập và duy trì quyền sở hữu các nguồn lực kinh tế theo hướng xác định rõ chủ sở hữu đích thực của các công dân, của các doanh nghiệp tập thể, tư nhân và nhà nước, cụ thể là:
Giao quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân, với các quyền cụ thể là: Thừa kế, thế chấp, cho vay, chuyển nhưọng và chuyển đổi.
Cho thuê hoặc đấu thầu các tài sản sản xuất.
Cho nước ngoài thuê đất và các tài sản phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Ba là: Nhà nước đóng vai trò là” bà đỡ” cho sự ra đời của cơ chế thị trường, các thành phần kinh tế, hướng dẫn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kinh doanh có hiệu quả. Để hoàn thành chức năng này nhà nước cần:
- Xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo môi trường đâù tư hấp dẫn cho các doanh nghiệp.
- Xây dựng các khuôn khổ pháp lý sao cho thoả mãn các yêu cầu: Một mặt các doanh nghiệp tự do kinh doanh, mặt khác nhà nước vẫn có thể kiểm soát nghĩa vụ của các doanh nghiệp đối với nhà nước.
Ban hành các chính sách kinh tế hấp dẫn để khuyến khích các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài mở rộng sản xuất.
Bốn là: đơn giản hoá các thủ tục hành chính sao cho bộ máy nhà nước đơn giản gọn nhẹ năng động, đơn giản hoá các thủ tục hành chính.
Như vậy vai trò của chính phủ ngày càng trở nên quan trọng. Tuy vậy, muốn đạt được kết quả cao thì nhà nước phải quán triệt nó bằng các công cụ kinh tế của mình.
2-/ Các công cụ điều tiết nền kinh tế quốc dân của chính phủ:
Trong quá trình quản lý nền kinh tế của mình chính phủ sử dụng:
Thứ nhất: nhà nước sử dung công cụ kế hoạch hoá của mình để điều tiiết nền kinh tế quốc dân: Nó là hoạt động có ý thức khách quan của nhà nước nhằm định hướng phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như các giải pháp cơ bản để thực hiện định hướng đó với hiệu quả kinh tế xẫ hội là lớn nhất.
Thứ hai: Chính phủ sử dụng luật pháp của mình để thực thi công tác quản lý của mình, bằng việc ban hành các chính sách, chỉ thị, nghị quyết, quyết định.
Thứ ba: Nhà nước sử dụng chính sách tài chính và tiền tệ để điều tiết nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ: Đây là hệ thống các chỉ tiêu chính sách cuối cùng mà nhờ tác động của các chinh sách tiền tệ đưa lại, cụ thể là vấn đề tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, giảm thiểu thất nghiệp, giảm thiểu chu kỳ thăng trầm kinh tế, ổn địng kinh tế.
+ Các công cụ điều tiết của chính sách tiền tệ:
+ Các công cụ điều tiết một cách gián tiếp:
+ ấn định lãi xuất tiền gửi và lãi xuất tiền vay.
+ ấn định hạn mức tín dụng.
+ Phát hành các trái phiếu nhà nước để giảm lượng tiền trong lưu thông.
+ Phát hành tiền trực tiếp cho ngân sách và cho đầu tư.
+ Công cụ gián tiếp bao gồm
+ Chính sách thị trường mở.
+ Chính sách lãi xuất chiết khấu.
+ Chính sách dự trữ bắt buộc.
Chính sách tài chính:
Nhà nước sử dụng công cụ này để điều tiết nền kinh tế và quản lý nguồn tài chính thông qua ngân sách nhà nước. Trong chính sách này nhà nước sử dụng công cụ thuế và phân phối nguồn thu nhập quốc dân.
Chính phủ sử dụng công cụ của mình để diều tiết nền kinh tế quốc dân, nhưng không phải chính phủ sử dụng đồng thời các chính sách, mà tuỳ từng trường hợp, điều kiện mà chính phủ sử dụng các chính sách cho phù hợp.
II-/ Vai trò của các chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn:
1-/ Vai trò của phát triển nông nghệp- nông thôn với phát triển kinh tế xã hội ở việt nam.
Xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, hơn 70% dân số sống ở nông thôn, nền nông nghiệp nước ta chịu tác động của nhiều yếu tố như: Khí hậu, đất đai, môi trường sinh thái. Mặc dù phải chịu nhiều tác động như vậy nhưng kinh tế nông nghiệp - nông thôn vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế:
Thứ nhất: Nó cung cấp nguồn vốn lớn tạo tích ban đầu cho nền kinh tế. Cũng như các nước đang phát triển khác, nền kinh tế chủ yếu đi lên tư nông nghiệp, với hai bàn tay trắng nền kinh tế nước ta đi lên bằng nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm bàn đạp để phát triển các ngành khác.
Thứ hai: cung cấp nguồn nguên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp chế biến như: công nghệp chế biến mía đường, cao su, cà phê, chè,...
Thứ ba: nó cung cấp lao động cho các ngành khác trong nền kinh tế. trong thời gian mùa vụ thì họ chủ yếu tập trung vào sản xuất, trong lúc rỗi rãi thì họ di cư lên các khu vực thành thị, thị trấn để tìm kiếm việc làm.
Thứ tư: Nó là thị trường tiêu thụ các sản phẩm chủ yếu của công nghiệp và dịch vụ.
Với một nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, trong những năm qua Đảng và nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách để phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, làm cho nền kinh tế việt nam từng bước vững vàng đi lên. Để đạt được điều đó nó có sự đóng góp không nhỏ của các chính sách phát triển kinh tế nói chung, và của các chính sách phát triển nông nghiệp- nông thôn nói riêng.
2-/ Vai trò của các chính sách trong phát triển nông nghiệp- nông thôn ở nước ta:
Nó tác động, điều chỉnh các bộ phận cấu thành hệ thống kinh tế như: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng.
Nó tạo ra sự phát triển cân đối giữa tổng cung và tổng cầu trong nền kinh tế, từ đó thúc đẩy kinh tế nông nghiệp nông thôn phát triển theo dúng tiềm năng sẵn có của nó.
Nó tác động đến sự phân phối thu nhập, nâng cao điều kiện sống và điều kiện đói nghèo ở nông thôn. Như vậy nền kinh tế nước ta phát triển có sự đóng góp không nhỏ của kinh tế nông nghiệp- nông thôn, nó như một chỉ tiêu đánh giá quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nềnkinh tế quốc dân, cũng như các vấn đề khác của các lĩnh vực khác. chính phủ ta luôn quan tâm đến kinh nghiệm của cấc nước đi trước. Để từ đó rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm quý báu:
III-/ Một số bài học kinh nghiệm về phát triển kinh tế nông nghiệp- nông thôn ở các nước trong khu vực:
Qua một thời gian dài tìm hiểu và nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế ở một số nước có điều kiện kinh tế cũng như điều kiện tự nhiên tương đồng với nước ta. Đảng và nhà nước ta đã tiến hành tổng kết và dưa ra các bài học kinh nghiệm sau:
1-/ Coi kinh tế nông nghiệp - nông thôn là bộ phận quan trọng trong hệ thống kinh tế.
2-/ Cùng với việc khuyến khích sản xuất nông nghiệp, chính sách phải hướng vào tái tạo các nguồn lực đầu vào, bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo sự phát triển bền vững.
3-/ Sự lựa chọn chính sách phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
4-/ Cải cách kinh tế nông nghiệp nông thôn là một quá trình liên tục, không có khuôn mẫu.
5-/ Tất cả các chính sách mà chính phủ can thiệp đều quan trọng và cần thiết song các nỗ lực thường tập trung vào các chính sách: thị trường, giá cả, chính đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, chính sách bảo trợ sản xuất nông nghiệp, giảm nhẹ điều tiết thu nhập từ nông dân.
Phần ii
các chính sách phát triển nông nghiệp - nông thôn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
I-/ Các chính sách kinh tế được áp dụng cho nông nghiệp - nông thôn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay:
Xuất phát từ bối cảnh chung của nền kinh tế, nông nghiệp- nông thôn việt nam trong thời gian qua có nhiều chuyển biến tích cực. Để đạt điều điều này Đảng và nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách nhằm tiếp tục duy trì sự phát triển của nông nghiệp- nông thôn, đồng thời tạo ra thời kỳ mới cho nông dân việt nam. Đó là thời kỳ mà nhân dân ta không chỉ có đủ ăn mà còn là giai đoạn hưởng thụ những thành quả lao động sáng tạo của mình. Tiếp thu tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI- 1986, tháng 7-1993 Đảng và nhà nước ta tiến hành sửa đổi luật đất đai, trong đó có chính sách ruộng đất nông nghiệp.
1-/ Chính sách ruộng đất ( Được ban hành và sửa đổi tháng7-1993 ).
Nếu như trước năm 1986 ruộng đất thuộc quyền sở hữu của hợp tác xã và hợp tác xã tiến hành khoán sản phẩm tới từng hộ gia đình, nhóm người lao động (chỉ thị khoán 100 ngày 13/1/1981 của ban bí thư trung ương Đảng), tuy nhiên đến bây giờ nó không còn phù hợp nữa. Vì vậy để đáp ứng với tình hình đổi mới của sản xuất nông nghiệp- nông thôn Đảng và nhà nước ta đã tiến hành ban hành và sửa đổi chính sách ruộng đất. Chính sách ruộng đất mới ra đời có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó giúp cho người nông dân có ruộng đất để sản xuất và phần nào nó góp vaò sự ổn định của sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động, giảm đói nghèo.
Nội dung cơ bản của chính sách ruộng đất:
Thứ nhất: Ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý. Hộ gia đình nông dân được nhà nước giao đất và mặt nước sản xuất nông- lâm- ngư để sử dụng lâu dài.
Thứ hai: Thời gian giao đất và sử dụng đối với cây hàng năm là 20 năm, với cây lâu năm là 50 năm.
Thứ ba: Trong thời gian sử dụng đất người dân phải nộp các khoản thuế một cách đầy đủ.
Thứ tư: nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho dân cư. Nếu chưa kịp cấp giấy chứng nhận thì cấp giấy chứng nhận tạm thời cho họ.
Khi ban hành chính sách này nhà nước ta xuất phát từ tình hình thực tế trong nước vì thế trong quá trình thực hiện nó đã đạt được những kết quả đáng khả quan.
1. 2. Tiến độ thực hiện chính sách ruộng đất:
Theo báo cáo cuả cục địa chính việt nam đến nay trong nông thôn mới thực hiện giao khoán cho các hộ gia đình được: 2126619 ha bằng 39% tổng diện tích đất canh tác. Số hộ được cấp giấy chứng nhdụng đất nông nghiệp 1439618 bằng 28. 7% tổng số hộ được cấp giấy chứng nhận sử dụng đất nông nghiệp và số diện tích đã được cấp giấy là 1257148 ha, bằng 16. 7% số diện tích cần phải cấp.
Để đảm bảo cho việc thực hiện chính sách này một cách có hiệu quả Đảng ta đã đề ra các chính sách khác để thực hiện một cách đồng bộ:
2-/ Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và tạo vốn cho kinh tế nông thôn Việt nam trong giai đoạn hiện nay.
Cùng với chính sách ruộng đất thì trong những năm vừa qua, Chính phủ ta cũng có những chính sách thúc đẩy cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Điều đó nó càng khẳng định vai trò của nông nghiệp- nông thôn và trong đó thì yếu tố về cơ sở hạ tầng là rất quan trọng. Để đánh giá một nước có trình độ dân trí, trình độ công nghiệp hoá hay không thì người ta căn cứ vào cơ sở hạ tầng nông thôn. Vì vậy việc ban hành và sửa đổi chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và tạo vốn cho kinh tế nông thôn là điều cần thiết.
2. 1. Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng:
Xuất phát từ cơ sở hạ tầng nông thôn Việt nam trong thời gian gần đây còn có nhiều hạn chế. Vì vậy trong thời gian qua để củng cố lại cơ sở hạ tầng nông thôn Đảng và nhà nước ta đã đề ra các chính sách sau:
Thứ nhất là: Tỷ trọng đầu tư dành cho thuỷ lợi từ 60%- 70% tổng nguồn vốn đầu tư, nhưng trước hết phải tập trung vào nâng cấp các cơ sở hiện có sau đó mới tiến hành xây dựng mới và mua sằm, và dành một phần đáng kể vào xây dựng hệ thống đường giao thông nông thôn trên cơ sở phát triển giao thông nông thôn đến năm 2010.
Thứ hai là: Về công tác xây dựng hệ thống trường học, trung tâm văn hoá, y tế xã hội thì tổ chức huy động từ các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, ngân sách nhà nước, nguồn vốn FDI, nguồn vốn ODA của các tổ chức phi chính phủ (trước đây đầu tư vào lĩnh vực này chỉ có nguồn vốn của nhà nước).
Thứ ba là: Tăng cường thêm vốn cho công tác nghiên cứu và chuyển giao cong nghệ hiện đại cho nông thôn.
Thứ tư là: công tác nghiên cứu nông nghiệp và đào tạo cán bộ khuyến nông nghiệp được hưởng chế độ ưu tiên đảm bảo bù đắp đủ các chi tiêu cần thiết.
Thứ năm là: Đối với ngành năng lượng cần tổ chức lắp đặt hệ thống đồng hồ đo điửn và điều chỉnh mức giá chung cho bằng với mức giá ở thành thị.
Thứ sáu là: Vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trực tiếp sản xuất như : nhà xưởng, máy móc thiết bị, kho tàng bến bãi ở nông thôn chuyển thành vốn tín dụng dài hạn với lãi suất thấp để khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia đầu tư phát triển.
2. 2. Về tạo vốn sản xuất cho nông thôn:
Về tạo vốn cho sản xuất nông thôn Đảng ta đề ra các chính sách cụ thể sau:
Một là: Tiến hành sửa đổi luật đầu tư, để khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào nông thôn nhiều hơn.
Hai là: Xây dựng cơ sở hạ tầng thuận lợi cho việc phát triển đầu tư.
Ba là: Huy động nguồn vốn cho sản xuất từ nhiều nguồn vốn khác nhau như: nguồn vốn ODA, FDI, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư.
3-/ Vấn đề về tổ chức và chính sách phát triển thị trường nông thôn cho kinh tế nông thôn.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta gặp nhiều khó khăn trở ngại hơn hẳn ở đô thị trong việc tiếp cận các loại thị trường khác nhau. Vì vậy muốn giúp đỡ cho nông dân, nông nghiệp, nông thôn đi vào hoạt động kinh tế theo định hướng thị trường mà không chịu nhiều thua thiệt thì cần phải có sự can thiệp của nhà nước. Sự kết hợp hài hoà giữa thị trường và các chính sách kinh tế đối với nông thôn là điều kiện đảm bảo cho nông thôn phát triển.
Từ kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm từ các nước, từ thực tế nông nghiệp- nông thôn việt nam. Đảng và nhà nước ta đã đề ra các chính sách cụ thể cho phát triển nông nghiệp- nông thôn việt nam.
3. 1. Chính sách về thị trường tiêu thụ hàng hoá nông sản cho nông nghiệp- nông thôn việt nam.
Thứ nhất là: tổ chức nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng của từng khu vực dân cư trong cả nước.
Thứ hai là: kiên trì thực hiện chính sách tự do hoá thương mại nói chung và các mặt hàng nong sản nói riêng. Khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham ra lưu thông hàng hoá nông lâm thuỷ sản.
Thứ ba là: thương nghiệp quốc doanh tập trung nắm giữ các mặt hàng thiết yếu, có dự trữ lưu thông để điều hoà cung cầu, chủ động can thiệp vào thị trường khi cần thiết, kể cả nông thôn và thành thị.
Thứ tư là: Nhà nước có hệ thống tiếp thị nông sản phẩm trên các khu vực để thông báo các biến động của thị trương nông sản phẩm trên tương khu vực và trên cả nước cho người sản xuất biết. Đồng thời chủ động hình thành các trung tâm buôn bán nông sản phẩm thiết yếu của các vùng sản xuất hàng hoá tập trung để cá nhà buôn có điều kiện tổ chức thu gom và tập trung nông sản từ các nơi sản xuất.
Thứ năm là: nhà nước quy định rõ các tiêu chuẩn kỹ thuật như văn minh thương nghiệp, chất lượng sản phẩm, vệ sinh và kiểm tra sát sao việc thực hiện của các nhà buôn.
Thứ sáu là: đối với các vùng nông thôn miền núi xa xôi nhà nước giao trách nhiệm trao đổi hàng hoá cho các công ty thương nghiệp nhà nước với chế độ bù đắp thoả đáng cá kinh phí và miễn thuế doanh thu. Khuyến khích mở mang các chợ nông thôn, tạo điều kiện cho giao lưu hàng hoá nhỏ và phân tán phát triển.
3. 2. Về chính sách phát triển hàng nông-lâm-thuỷ sản.
Trong nhưng năm qua hoạt động sản xuất hàng nông lâm-thuỷ sản đã gia tăng đáng kể và ngày càng có sức cạnh tranh trên thị trường. Tình hình gia tăng gía cả các mặt hàng nông sản như: giá gạo, giá cà phê, giá cao su..., nó đã tạo lợi thế cho các mặt hàng này của Việt nam tham gia ngày càng có uy tín và vị trí trên thị trường thế giới. Song rất nhiều lợi thế đã không được phát huy do trình độ sản xuất, chế biến của Việt nam còn quá thấp, giá thành sản phẩm cao, chất lượng vệ sinh còn kém. Vì vậy chính sách xuất khẩu nông lâm-thuỷ sản đã được nhà nước ta quy định như sau:
Một là: Cần phải nghiên cứu tỉ mỉ, chi tiết về khả năng tiêu thụ của từng loại mặt hàng với các tiêu chuản như mẫu mã, chất lượng cụ thể mà từng thị trường trên thế giới yêu cầu đáp ứng.
Hai là: Có quy định cụ thể mức thu thuế xuất nhập khẩu đối với từng loại mặt hàng.
Ba là: Thị trường chủ yếu của mặt hàng nông-lâm-thuỷ sản của nước ta là thị trường truyền thống như: Nga, Trung Quốc và thị trường các nước Đông Âu.
3.3. Chính sách về thị trường vốn và tư liệu sản xuất cho kinh tế nông nghiệp- nông thôn.
Trong thời gian qua chúng ta đã thực thi nhiều biện pháp nhằm ổn định giá cả của hàng hoá và giá cả của tiền tệ nhằm huy động nguồn vốn cho nông thôn. Nhà nước ta quy định cụ thể cho từng loại như sau:
Một là: nhà nước quy hoạch taọ mặt bằng nhiều nơi ở nông thôn để cho các thành phần kinh tê có điều kiện về vốn và hiểu biết về hoạt động kinh doanhcacs mặt hàng tư liệu sản xuất phục vụ cho sản xuất nông- lâm- ngư nghiệp và các hoạt động sản xuất khác phát triển.
Hai là: Tăng cường chức năng giám sát của cơ quan quản lý thị trường tư liệu sản xuất nông thôn để kiểm tra và xử lý kịp thời các vụ buôn bán hàng giả gây thiệt hại cho sản xuất; đồng thời là trung tâm tư vấn về tư liệu sản xuất mới cho nông thôn
3. 4. Chính sách về thị trường lao động và việc làm ở nông thôn.
Đối với các chính sách ruộng đất và chính sách thị trường đầu ra cho sản xuất nông nghiệp-nông thôn thì chính về thị trường lao động và việc làm ở nông thôn cũng như các chính sách về công nghệ nó là tiền đề tác động trực tiếp đến sự phát triển của các chính sách đó. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra các chính sách cơ bản sau để giải quyết vấn đề về thị trường lao động và việc làm ở nông thôn như sau:
Một là: Mở rộng hoạt động hướng nghiệp và tư vấn về nghề nghiệp của các trung tâm hướng nghiệp trung ương từ thành thị chuyển về nông thôn.
Hai là: Triển khai các hoạt động nghiên cứu về nhu cầu việc làm đối với từng đối tượng lao động để từ đó tạo ra chính sách phù hợp.
Ba là: Nghiên cứu sự di chuyển lao động giữa các vùng nông thôn để đề ra giải pháp hợp lý các quá trình di chuyển và khuyến nghị phát triển việc làm ở từng vùng, mở rộng các làng nghề truyền thống.
4-/ Chính sách xã hội:
Trong thời gian qua cùng với việc ban hành và sửa đổi các chính sách kinh tế. Đảng và Nhà nước ta cũng tập trung vào việc ban hanh và sửa đổi các chính sách xã hội bởi các vấn đề về xã hội nó có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế nước nhà. Trong các chính sách đó thì chính sách xoá đói giảm nghèo là một trong những được chính phủ ta đặt lên hàng đầu. Theo số liệu thống kê trong sáu năm từ 1992-1998 cả nước đã đầu tư 10927 tỷ đòng cho trương trình xoá đói giảm nghèo và đã mang lại kết quả: hàng năm số hộ đói nghèo đã giảm xuống chừng 1, 8 đến hai phần trăm. Đến tháng 7/1998 còn 17, 4% hộ đói nghèo (theo tính toán của chính phủ Việt nam). Nhưng theo tính toán của ngân hàng thế giới chúng ta có khoảng 50% số hộ nghèo đói.
Để giải quyết vấn đề này trong thời gian qua chúng ta đã có các biện pháp:
Một là: Về chính sách ruộng đất Nhà nước đã đề ra các chính sách:
Nhà nước đã trả lại phần ruộng đất của hộ nông dân đói nghèo, nợ sản phẩm cũ đã bị rút bớt ruộng để các hộ nông dân này canh tác tự đảm bảo cục sống, giảm nghèo đói cho gia đình họ.
Hợp tác xã và các cấp chính quyền xác định đúng sổ nợ cũ khó trả của số hộ nông dân nghèo đói bị nợ sản phẩm của hợp tác xã, của ngân hàng và có giải pháp xoá một phần hoặc xoá cả số nợ sản phẩm và khoanh nợ ngân hàng cho các chủ nông hộ đang trong hoàn cảnh nghèo đói.
Nhà nước đã có các chính sách trợ cấp và miễn giảm thuế đối với các hộ nghèo.
Hai là: Về chính sách vốn đầu tư cho các hộ nông đân đói nghèo:
Trên cơ sở xác định đúng tiêu chuẩn hộ đói, nghèo và hướng dẫn lập kế hoạch làm ăn, Nhà nước cho vay không lãi, không thế chấp và chuyển thẳng tiền mặt trực tiếp theo đơn xin vay của hộ đói( khoảng 3 triệu đồng) và hộ nghèo( khoảng 2 triệu đồng).
Nhà nước cho phép các tổ chức tham gia vào chương trình này bằng các ngồn vốn khác nhau.
Ngoài ra chính phủ còn có các chương trình trợ cấp cho các hộ nông dân vùng núi, vùng sâu, vùng xa tiến hành trợ giá nông sản cho các vùng đó. Các chương trình đó đã đạt được kết quả rất cao làm cho bộ mặt nông thôn ngay càng được phát triển.
Cùng với các chính sách cơ bản ở trên Đảng và Nhà nước ta còn thực hiện những chính sách khác, để cùng hỗ trợ cho các chính sách cơ bản ở trên giải quyết một cách tốt nhất vấn đề phát triển nông nghiệp- nông thôn ở nước ta.
5-/ Các chính sách khác.
5. 1. Chính sách tỉ giá:
Năm 1986 chính sách phá gí đồng tiền của Đảng và Nhà nước ta đã làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Vì vậy trong những năm gần đây chính phủ ta luôn thực thi chính sách ổn định tỉ giá của đồng tiền trong nước, bởi sự gia tăng đột ngột của tỉ gia thông qua biện pháp chủ động phá giá đồng tiền nội tại một cách chủ quan không dựa trên quan hệ cung cầu ngoại tệ đều sẽ đưa nền kinh tế đi đến khủng hoảng, ảnh hưởng xấu đến nông nghiệp nông thôn, phá vỡ cơ cấu kinh tế nông thôn.
5.2. Chính sách điều tiết nông dân và kinh tế nông thôn:
Nó thể hiện sự tổng hợp mối quan hệ giữa Nhà nước đối với nông thôn và nông dân. Trong những năm đổi mới vừa qua, quan điểm của Nhà nước ta về chính sách điều tiết là làm giảm nhẹ các khoản chi phí của nông dân, đồng thời hỗ trợ các mặt để nông dân nông thôn vươn lên vượt qua đói nghèo.
5.3. Chính sách phát triển các hoạt động công nghiệp và dịch vụ nông thôn:
Xuất phát từ thực tiễn khách quan cảu tình hình kinh tế trong nước và trong khu vực Đảng ta đã đề ra các chính sách phát triển các hoạt động công nghiệp và dịch vụ nông thôn hư sau:
Một là: Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt quy hoạch phát triển khu công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Trong quá trình quy hoạch phải coi trọng việc gắn nó với quy hoạch xây dựng các tụ điểm dân cư theo hướng đô thị hoá và hiện đại hoá kinh tế nông thôn.
Hai là: Gắn chính sách phát triển các nghành công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn trong thể chiến lược công nghiệp hoá đất nước. Định hướng phát triển ông nghiệp ở nông thôn được xác định ngay từ đầu. Định hướng phát triển các nghành công nghiệp lớn cần hướng vào phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Ba là: Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thốnh cung cấp điện cho nông thôn. Trước hết tập trung cho các xã các vùng đông dân cư và vùng sản xuất hàng hoá tập trung, vùng khó khăn, vùng thưa dân, chưa đủ khả năng đi sâu vào sản xuất hàng hoá.
5.4. Chính sách đào tạo cán bộ cho nông nghiệp và nông thôn.
Cũng như các chính sách khác chính sách đào tạo cán bộ cũng được chinhs phủ ta quan tâm, coi nó như là cái gốc tạo nên sự phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Thứ nhất là: Thường xuyên tiến hành công tác nâng cao trình độ quản lý chô đội ngũ lãnh đạo, thông qua các khoá học ngắn hạn và trao đổi kinh nghiệm.
Thứ hai là: Có chính sách đãi ngộ với đội cán bộ có năng lực và trình độ.
Với các chính sách cơ bản của mình, Đảng và nhà nước ta đã phần nào tạo ra sự đổi khác cho bộ mặt kinh tế nông nghiệp- nông thôn ở nước ta trong thời gian vừa qua. Điều này, nó được thể hiện rõ nhất thông qua những kết quả sau đây:
II-/ Những ảnh hưởng của chính sách kinh tế đối với sự phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn trong giai đoạn hiện nay.
Có thể nói công cuộc đổi mới kinh tế giai đoạn đầu của việt nam là sự gặp gỡ giữa tìm tòi sáng tạo của quần chúng, cán bộ ở cơ sở địa phương- Những người hàng giờ hàng ngày gắn bó với thực tế với lợi ích của người lao động, với sự đổi mới tư duy của các cấp lãnh đạo. Sự gặp gỡ đó thể hiện sự gắn bó của người lãnh đạo với cuộc sống hàng ngày của người nông dân, lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân đó là đặc trưng quan trọng của công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta.
Với những kết quả và kinh nghiệm đã đạt được trong giai đoạn 1981- 1985 Đảng cộng sản việt nam đẫ kịp thời rút ra thực tiễn và kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành công để đi đến quyết định đổi mới một cách toàn diện nền kinh tế. Trong đó có đổi mới cơ chế chính sách nông nghiệp- nông thôn.
1-/ Tác động đến sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
1.1. Vị trí của nông - lâm- ngư nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
Trong 3 năm 1996- 1998 cơ cấu kinh tế nông thôn đã chịu sự tác động tích cực của sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế quốc dân nói chung theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Giá trị công nghiệp và dịch vụ tiếp tục tăng trong cơ cấu GDP tiếp tục tăng cả về số tuyệt đối và số tỷ trọng, nông nghiệp tuy vẫn tăng số tuyệt đối nhưng tỷ trọng giảm dần do tốc độ tâng trưởng của nó tăng chậm hơn so với công ngiệp và dịch vụ.
Tốc độ tăng trưởng của công ngiệp năm 1996 là 13. 87%, năm 1997 là 13% và năm 1998 là 12%. Trong khi tốc độ tăng trưởng tương ứng của nông nghiệp là 4. 4%, 4. 2%, và 2%. Khu vực kinh tế nông thôn từ năm 1996-1998 liên tục được mùa, sản lượng thực tăng bình quân là 1. 2 triệu tấn/ năm. công nghiệp nông thôn và các nghành dịch vụ tiếp tục phát triển và mở rộng, nhất là các vùng nông thôn ngoại ô thành phố, thị xẫ, khu công nghiệp, khu chế xuất nên tốc độ tăng trưởng cao hơn nông nghiệp. Công nghiệp xây dựng tăng từ 6%-7%, dịch vụ tăng 5%. Tốc đọ tăng trưởng của công nghiệp và dịch vụ cao hơn nông nghiệp nó làm cho nền kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ.
Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã hình thành nghành sản xuất quan trọng gắn với các hoạt động chế biến vận chuyển, bảo quản nông –lâm- thuỷ sản và sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất nông nghiệp
Sự chuyển dịch của lao động sang các nghành khác là không đáng kể. Bởi vì nông nghiệp đã phần nào tạo ra sự ổn định cho phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Mặt khác việc thay đổi nghành nghề và lĩnh vực hoạt động nó diễn ra một cách không dễ dàng. Nó cần phải có những tiền đề và điều kiện lao động nhất định liên quan đến vốn đầu tư, khoa học công nghệ.
Về mặt xuất khẩu sản phẩm nông – lâm- ngư nghiệp tuy tỷ trọng có giảm nhưng nó vẫn chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
1.2. Cơ cấu kinh tế nội bộ nông- lâm- ngư nghiệp.
Cơ cấu nội bộ của nghành nay giảm(1996- 1998)dần về mặt tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng của nghành thuỷ sản, ổn định tỷ trọng của nghành lâm nghiệp, nhưng tốc độ tăng trưởng của mỗi nghành vẫn tăng dần với nhịp độ khác nhau: nông nghiệp tăng từ:4-4. 5%, lâm nghiệp 1%, thuỷ sản 5- 6%.
Nông nghiệp có tỷ trọng lớn trong nghành nông lâm thuỷ sản nhưng có xu hướng giảm dần tỷ trọng. Bình quân giai đoạn (1996- 2000) tỷ trọng nông nghiệp giảm 0. 1%/ năm. Lâm nghiệp vừa chiếm tỷ trọng nhỏ lại phát triển không ổn định, vốn rừng suy giảm, nhất là rừng tự nhiên buộc nhà nước phải đóng cửa rừng.
Cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi:
Nó có sự tiến bộ hơn so với thời kỳ 1991- 1995. Tỷ trọng chăn nuôi năm 1998 chỉ đạt 21% và dự báo đến năm 2000 cũng chỉ đạt ở mức 24%.
Tác động đén cơ cấu vùng nông thôn và nông- lâm- ngư nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
1.3. Tình hình chung:
a. Một là về diện tích đất tự nhiên:
Đất đai tập trung nhiều ở vùng miền núi, trung du ( chiếm 31. 7% so với diện tích cuả nước), tiếp theo là vùng tây nguyên chiếm 16. 9%, khuiV cũ 15. 5%, duyên hải miền trung 13. 8%, Đồng bằng sông cửu long 11. 9%, Đông nam bộ 7. 0%, và đồng bằng sông hồng là 3, 8%.
b. Về lao động: Lao động việt nam phân bố không đều, lao động tập trung chủ yếu ở hai vùng châu thổ: Đồng bằng sông cửu long (29. 1%), Đồng bằng sông hồng (19. 1%), và miền núi trung du (18. 8%) trong tổng số lao động dân cư của cả nước.
c. Về dân số:
Dân cư phân bố không đều, dân cư sống chủ yếu ở hai vùng châu thổ là đồng bằng sông cửu long (22. 2%), Đồng bằng sông hồng là: (20, 1%), và miền núi trung du là: 4. 1%
1.4. Bố trí sản xuất:
a. Nghành trồng trọt:
Thứ nhất về cây lương thực chủ yếu tập trung ở hai đồng bằng châu thổ sông hồng và đồng bằng sông cửu long.
Thứ hai về sản lượng thóc:
Miền nam chiếm 61. 1% (đồng bằng sông cửu long chiếm 50.5%), miền bắc chiếm30, 9% (đồng bằng sông hồng chiếm18. 5%).
Thứ ba: Cây công nghiệp ngắn ngày thì nó tập trung chủ yếu ở miền nam.
Thứ tư về cây công nghiệp dài ngày: Cây chè chủ yếu nó được trồng ở miền bắc ( chiếm 75. 8% diện tích, 67. 8% sản lượng ), còn cây cao su, cà phê thì tập trung chủ yếu ở miền nam, tỷ lệ diện tích và sản lượng tương ứng của cà phê là: 97. 9% và 99. 1%, cao su 96, 6% và 95, 8%.
Thứ năm là về các loại rau quả: Phát triển nhiều ở miền bắc (diện tích 58, 7% và sản lượng là 58, 9%) và chủ yếu ở đồng bằng sô._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0056.doc