TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI :
CÁC BIỆN PHÁP TỰ VỆ TRONG THƯƠNG MẠI- THỰC TIỄN SỬ
DỤNG
Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS. HOÀNG NGỌC THIẾT
Sinh viên thực hiện : VŨ THỊ PHƯƠNG THẢO
Lớp : PHÁP 1- K38E
Hà Nội, 2003
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa kinh tế Ngoại Thương, Thầy chủ nhiệm khoa TS. Vũ Sỹ Tuấn đã tạo điều kiện cho em được học tập và nghiên cứu trong một môi trường khoa h
109 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4111 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế- Thực tiễn sử dụng ở một số nước trên thế giới và Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ọc thuận lợi. Em cũng xin cảm ơn Thầy giáo PGS.TS Hoàng Ngọc Thiết, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành bản Khoá luận tốt nghiệp này!
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
AFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN.
APEC : Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương
ASEAN : Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á. ASEM : Diễn đàn hợp tác Á-ÂU.
CEPT : Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung khu vực
ASEAN
EU : Liên minh Châu âu.
GATS : Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
GATT : Hiệp định chung về thuế quan và thương mại. MOFTEC : Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế (Trung Quốc ). METI : Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (Nhật). MOF : Bộ Tài Chính.
TRIPS : Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
SETC : Uỷ ban Kinh tế và Thương mại nhà nước Trung Quốc . USITC : Uỷ ban Thương mại quốc tế Mỹ.
WTO : Tổ chức Thương mại thế giới.
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu ....................................................................................................... 1
Chương 1: Khái quát chung về các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế............................................................................................................... 4
1.1. Khái niệm, lịch sử phát triển và vai trò của các biện pháp tự vệ
trong thương mại quốc tế............................................................................. 4
1.1.1. Khái niệm ............................................................................................ 4
1.1.2. Lịch sử phát triển của các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế .....12
1.1.2.1 Theo quy định của GATT 1947 ...................................................... 12
1.1.2.2 Theo quy định của WTO ............................................................... 14
1.1.3. Vai trò của các biện pháp tự vệ ........................................................ 15
1.2. Các biện pháp tự vệ theo hiệp định đa biên của WTO .......................... 17
1.2.1. Biện pháp thuế quan.......................................................................... 17
1.2.2. Biện pháp phi thuế quan.................................................................... 19
1.3. Nguyên tắc và thủ tục áp dụng các biện pháp tự vệ ............................. 22
1.3.1. Điều kiện để áp dụng các biện pháp tự vệ ....................................... 22
1.3.2. Nguyên tắc áp dụng........................................................................... 24
1.3.2.1 Nguyên tắc không phân biệt đối xử................................................. 24
1.3.2.2 Nguyên tắc áp dụng các biện pháp tự vệ trong phạm vi và mức độ
cần thiết ...........................................................................................................25
1.3.2.3 Nguyên tắc đảm bảo việc bồi thường tổn thất thương mại ............ 26
1.3.3. Thủ tục, thời hạn và một số vấn đề liên quan đến việc áp dụng
biện pháp tự vệ ....................................................................................... 27
1.3.3.1 Thủ tục điều tra .............................................................................. 27 a. Căn cứ tiến hành điều tra .......................................................................... 27 b. Thủ tục điều tra ........................................................................................ 28
1.3.3.2 Áp dụng các biện pháp tự vệ .......................................................... 30
1.3.3.3 Thời hạn áp dụng ........................................................................... 31
1.3.3.4 Đình chỉ, rà soát, gia hạn và tái áp dụng các biện pháp tự vệ ...... 32
Đình chỉ..................................................................................................... 32
Rà soát....................................................................................................... 33
Gia hạn ...................................................................................................... 33
Vấn đề tái áp dụng .................................................................................... 34
Chương 2: Thực tiễn sử dụng các biện pháp tự vệ ở một số nước và
khu vực trên thế giới ..................................................................................... 35
2.1. Thực tiễn sử dụng các biện pháp tự vệ thương mại ở Mỹ .................... 35
2.1.1. Lịch sử ra đời của các biện pháp tự vệ ở Mỹ .................................... 35
2.1.2. Thủ tục điều tra và áp dụng các biện pháp tự vệ ............................. 37
2.1.3. Thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ .................................................... 40
2.1.4. Thực tế một số trường hợp cụ thể về việc áp dụng các biện pháp
tự vệ ở Mỹ ............................................................................................... 42
2.2. Thực tiễn sử dụng các biện pháp tự vệ thương mại ở EU .................... 48
2.2.1. Sơ lược về Quy chế 3285/94/EC- Quy chế về các biện pháp tự vệ
của EU ..................................................................................................... 48
2.2.2. Thủ tục áp biện pháp tự vệ của EU ................................................... 49
2.2.2.1 Thủ tục cung cấp thông tin và tham vấn ........................................ 49
2.2.2.2 Thủ tục điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ ................................. 50
2.2.3. Áp dụng và thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ ................................. 52
2.2.4. Thực tế một số trường hợp áp dụng biện pháp tự vệ ở EU .............. 54
2.3. Thực tiễn sử dụng các biện pháp tự vệ thương mại ở Trung Quốc
và Nhật bản............................................................................................... 57
2.3.1. Khái quát về chính sách tự vệ thương mại của Trung Quốc ........... 57
2.3.1.1 Điều kiện để tiến hành điều tra áp dụng biện pháp tự vệ .............. 58
2.3.1.2 Điều tra để xác định sự tồn tại của thiệt hại .................................. 60
2.3.1.3 Áp dụng các biện pháp tự vệ .......................................................... 61
2.3.1.4 Thời hạn áp dụng và thủ tục rà soát các biện pháp tự vệ .............. 62
2.3.2. Khái quát về chính sách tự vệ của Nhật Bản .................................... 62
2.3.2.1 Theo Quy tắc về các biện pháp khẩn cấp ....................................... 62
2.3.2.2 Theo Sắc lệnh liên bộ về thuế quan nhập khẩu đặc biệt................. 65
2.3.3. Thực tế một số trường hợp áp dụng biện pháp tự vệ ở Trung
Quốc và Nhật .......................................................................................... 66
Chương 3: Thực tiễn về tự vệ thương mại ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt công tác này trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ............................................................................................. 70
3.1. Thực trạng về tự vệ thương mại ở Việt Nam trong thời gian qua ........ 70
3.1.1. Về chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ............................................................................... 70
3.1.1.1 Khái quát về chủ trương và sự cần thiết phải thực hiện chính sách tự vệ thương mại của Nhà nước Việt Nam .................................. 70
3.1.1.2 Thực tế tiến hành tự vệ thương mại của Việt Nam ........................ 72
3.1.2. Nguyên nhân của thực trạng trên ...................................................... 74
3.1.2.1 Nguyên nhân nhận thức .................................................................. 74
3.1.2.2 Nguyên nhân thực tiễn .................................................................... 75
3.1.3. Thực trạng pháp luật về tự vệ thương mại của Việt Nam ................ 76
3.1.3.1 Sự cần thiết phải ban hành văn bản pháp luật về tự vệ thương
mại ........................................................................................................ 76
3.1.3.2 Một số vấn đề cơ bản của Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam ..................................................... 77
3.1.3.3 Tác động của việc ban hành Pháp lệnh về tự vệ ............................ 79
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tự vệ thương mại
của Việt Nam .................................................................................................. 80
3.2.1. Sự cần thiết và phương hướng hoàn thiện pháp luật về tự vệ
trong thương mại ..................................................................................... 80
3.2.1.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về tự vệ thương mại của
Việt Nam ............................................................................................... 80
3.2.1.2 Phương hướng triển khai và hoàn thiện công tác tự vệ thương
mại ở Việt Nam trong thời gian tới ....................................................... 82
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt công tác tự vệ thương mại trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam ........................... 83
3.2.2.1 Đối với Nhà nước ............................................................................ 83
3.2.2.1.1 Hoàn thiện hệ thống luật pháp điều chỉnh thương mại đặc biệt
là pháp luật về tự vệ thương mại ....................................................... 83
3.2.2.1.2 Nâng cao nhận thức của cơ quan nhà nước và doanh nghiệp về
công tác tự vệ thương mại ................................................................. 85
3.2.2.1.3 Xây dựng và kiện toàn bộ máy Nhà nước chuyên trách trong
lĩnh vực tự vệ thương mại ................................................................. 87
3.2.2.1.4 Tư vấn và hỗ trợ các doanh nghiệp những thông tin về tự vệ
thương mại ......................................................................................... 88
3.2.2.2 Đối với doanh nghiệp ..................................................................... 88
3.2.2.2.1 Tham gia vào các Hiệp hội Doanh nghiệp để tăng cường sức mạnh trong tự vệ thương mại ............................................................ 88
3.2.2.2.2 Chủ động tiếp cận và chuẩn bị đầy đủ kiến thức về tự vệ
thương mại để sử dụng khi cần thiết tiến hành tự vệ ......................... 89
3.2.2.2.3 Khẩn trương tìm hiểu và chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, bằng chứng để
tiến hành yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp tự vệ và biện pháp
trả đũa thương mại.............................................................................. 90
3.2.2.3 Một số kiến nghị khác ..................................................................... 91
Kết luận .......................................................................................................... 93
Danh mục tài liệu tham khảo ....................................................................... 95
LỜI NÓI ĐẦU
Tổ chức thương mại thế giới - WTO chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01 tháng 01 năm 1995 sau kết quả của vòng đàm phán Uruguay. Mục đích khi thành lập tổ chức này là tạo một diễn đàn, là nơi để cho các Quốc gia đàm phán thúc đẩy tự do hoá thương mại thông qua việc dỡ bỏ các hàng rào làm trở ngại đến tiến trình này. Là một cơ chế quốc tế bao gồm các Hiệp định đa biên và nhiều bên về thương mại, tổ chức thương mại thế giới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của các Quốc gia khác nhau có thể xâm nhập thị trường nước ngoài một cách tự do, bình đẳng và không bị hạn chế nhằm tìm kiếm cơ hội kinh doanh, thu lợi nhuận một cách hợp pháp.
Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của ASEAN, ASEM, APEC, tham gia vào CEPT và khu vực mậu dịch tự do AFTA của khu vực Đông Nam Á và đang tích cực tiến hành đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO. Việc ký kết các Hiệp định thương mại song phương cũng như tham gia các Hiệp định thương mại đa phương đã mở ra những cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế theo xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá. Thời gian vừa qua, trong tiến trình đổi mới, Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn trong việc xây dựng và điều chỉnh chính sách pháp luật quốc gia cho phù hợp với pháp luật quốc tế. Luật doanh nghiệp 1999, Luật đầu tư nước ngoài 1996 sửa đổi bổ sung năm 2000, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi năm 1998, Luật Hải quan năm 2001 lần lượt ra đời đã phần nào đáp ứng được những yêu cầu của tiến trình cải cách hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế quốc tế nói riêng.
Thực hiện chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế, dần dần hội nhập kinh tế quốc tế một cách có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo độc lập tự chủ thì việc xây dựng một văn bản pháp lý có giá trị cao để điều chỉnh các nguyên tắc cơ bản khi tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tạo
thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia tích cực vào hoạt động ngoại thương là cần thiết. Chính vì vậy, nhu cầu đặt ra cho nền kinh tế chuyển đổi và đang từng bước hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực như Việt Nam là nghiên cứu một cách nghiêm túc các quy định quốc tế, học tập kinh nghiệm của các nước đi trước để vận dụng vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của mình. Thực tiễn thương mại của Việt Nam trong những năm qua đã chứng minh nhu cầu áp dụng biện pháp tự vệ trong trường hợp cần thiết để hạn chế sự gia tăng đột biến của một loại sản phẩm cụ thể nào đó.
Gần đây chúng ta đã kịp thời ban hành Pháp lệnh về đối xử Tối hụe quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế và Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 25 tháng 5 năm 2002 và chính thức có hiệu lực vào ngày 01 tháng 9 năm 2002. Sự ra đời của hai Pháp lệnh này, đặc biệt là Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam đã phần nào khắc phục được những thiếu sót của Pháp luật Việt Nam về thương mại quốc tế, tạo ra hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi và là bước chuyển linh hoạt cho việc Việt Nam đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO.
Xuất phát từ thực tiễn thương mại về bảo hộ hàng hoá nói chung và tự vệ thương mại nói riêng ở Việt Nam, với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này trên cơ sở đó có thể đóng góp một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo hộ tự vệ thương mại cũng như của pháp luật về tự vệ thương mại ở Việt Nam, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế- Thực tiễn sử dụng ở một số nước trên thế giới và Việt Nam” làm đề tài Khoá luận của mình. Công việc nghiên cứu bắt đầu từ việc tìm hiểu nội dung chế định về tự vệ thương mại theo quy định của Tổ chức thương mại thế giới, tìm hiểu lý thuyết và thực tiễn áp dụng biện pháp tự vệ ở một số nước và khu vực điển hình trên thế giới qua đó sẽ làm rõ nội dung các quy định của pháp luật quốc tế cũng như các quy định của luật pháp Việt
hơn nữa cũng như góp phần minh bạch hoá chính sách và các quy định pháp luật của Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, người viết đã sử dụng phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp dựa trên sự vận dụng kết quả các công trình khoa học đã công bố, các văn bản pháp luật, các tài liệu tham khảo…vv. Tuy vậy, đây là một đề tài còn rất mới và chưa được nghiên cứu sâu, nguồn tài liệu tham khảo còn hạn chế nên bài khoá luận này không tránh được những thiếu sót, rất mong nhận được sự phê bình, nhận xét và đóng góp ý kiến để bài viết được hoàn thiện hơn.
Bài Khoá luận tốt nghiệp này bao gồm có Lời nói đầu và ba chương:
Chương I : Khái quát chung về các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
Chương II: Thực tiễn sử dụng biện pháp tự vệ ở một số nước và khu vực trên thế giới
Chương III: Thực tiễn về tự vệ thương mại ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt công tác này trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Cuối cùng là phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo.
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP TỰ VỆ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm, lịch sử phát triển và vai trò của các biện pháp tự
vệ trong thương mại quốc tế.
1.1.1.Khái niệm về các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế.
Tổ chức thương mại thế giới WTO được thành lập dựa trên cơ sở Hiệp định Marakesh năm 1994, chính thức đi vào hoạt động từ năm 1995 sau kết quả của vòng đàm phán Uruguay. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong việc thành lập và hoạt động của tổ chức này là đảm bảo cho tự do hoá thương mại được diễn ra một cách thuận lợi. Vậy tự do hoá thương mại là gì?
Tự do hoá thương mại là việc dỡ bỏ những hàng rào thương mại do các nước lập nên nhằm làm cho luồng hàng hoá, dịch vụ, tư bản (vốn) và thể nhân được di chuyển từ nước này sang nước khác được thuận lợi hơn trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng. Trên cơ sở lý thuyết về lợi thế so sánh, lợi ích lớn nhất của tự do hoá thương mại là thúc đẩy ngày càng nhiều nước tham gia buôn bán trao đổi hàng hoá quốc tế, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với người tiêu dùng, hàng hoá lưu thông dễ dàng hơn đem lại cho họ cơ hội lựa chọn hàng hoá tốt hơn với giá rẻ hơn. Người tiêu dùng ở đây có thể hiểu là những nhà sản xuất nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất ra những hàng hóa khác.
Ngoài những lợi thế khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào luật chơi chung của thế giới, các nước cũng phải chấp nhận những nhượng bộ và chịu những rủi ro nhất định. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà các nước lại dựng lên những hàng rào làm cản trở đến sự lưu thông của hàng hoá. Lý do để các nước làm việc này là nhằm bảo hộ sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hoá bên ngoài. Điều này có ý nghĩa lớn vì sản xuất trong nước suy giảm sẽ làm ảnh hưởng lớn đến công ăn việc làm và qua đó sẽ ảnh hưởng đến tình hình ổn định xã hội của một quốc gia.Mặt khác, việc bảo hộ thuơng mại một cách tràn lan, không hạn chế sẽ làm cho các ngành sản xuất nội địa
hoạt động trì trệ và sẽ ngăn cản sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việc tự do hoá thương mại ở những mức độ khác nhau sẽ làm yếu đi hoặc mất dần các hàng rào nói trên. Qua đó, các quy tắc chung của WTO đặt ra những ngoại lệ cho phép các doanh nghiệp trong nước và Chính phủ của họ thực hiện những hành động nhất định nhằm bảo vệ quyền lợi của mình khi bị tác động bởi chính sách tự do hoá thương mại. Đó chính là các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế.
Các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế có thể được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng, các biện pháp tự vệ bao gồm các biện pháp mà một nước sử dụng nhằm bảo hộ cho các nhà sản xuất hay hàng hoá của nước đó trước sự cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài. Các biện pháp tự vệ theo nghĩa trên là rất rộng, được áp dụng trong nhiều trường hợp khác nhau và chịu sự giám sát của các Hiệp định đa biên của WTO, chẳng hạn như các biện pháp kiểm dịch thực vật, các biện pháp trợ cấp, các biện pháp chống bán phá giá…Cần lưu ý là các Hiệp định đa biên tương ứng chịu trách nhiệm giám sát việc thực thi các biện pháp trên trong những điều kiện chặt chẽ chứ không nhằm mục đích tạo điều kiện cho các nước thành viên sử dụng thường xuyên các biện pháp bảo hộ trên nhằm làm cản trở đến tự do hoá thương mại.
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì các biện pháp tự vệ là các biện pháp thương mại khẩn cấp do một nước áp dụng tạm thời để giúp làm giảm nhẹ gánh nặng cho ngành công nghiệp nội địa của mình khi ngành này bị tổn hại do hàng nhập khẩu gia tăng. Trong những điều kiện nhất định, một nước có thể áp dụng những biện pháp thương mại nhằm hạn chế lượng hàng nhập khẩu của một sản phẩm nào đó để bảo vệ ngành sản xuất nội địa đó của mình. Đôi khi người ta còn gọi đó là “ điều khoản giải thoát” bởi vì nó giúp cho một nước “thoát khỏi” nghĩa vụ của mình trong những trường hợp đặc biệt. Theo cách hiểu này thì khi tiến hành mở cửa thị trường và thực thi chính sách tự do hoá thương mại, ngành sản xuất trong nước có thể bị suy yếu và gặp khó khăn nghiêm trọng do gặp phải sự cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài. Do vậy, ngành sản xuất đó có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước mình về khả năng áp dụng các biện pháp tự vệ để ngành này có thể thích nghi được với
sự cạnh tranh. Các biện pháp tự vệ trong trường hợp này chịu sự điều chỉnh của Hiệp định về các biện pháp tự vệ trong khuôn khổ WTO.
Các nguyên tắc về các biện pháp tự vệ đầu tiên được quy định trong Điều XIX, GATT 1947, hiện nay đã được quy định rõ ràng và đầy đủ hơn trong Hiệp định về các biện pháp tự vệ - một trong các Hiệp định đa biên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Lời nói đầu của Hiệp định này đã ghi nhận rằng các Quốc gia thành viên thừa nhận sự cần thiết phải làm rõ và củng cố các định chế của GATT 1994, đặc biệt là điều XIX của GATT 1994 nhằm thiết lập một sự giám sát đa phương trên cơ sở các biện pháp tự vệ và triệt tiêu các biện pháp nhằm né tránh sự giám sát này. Theo đó, nếu do hậu quả của những diễn biến không lường trước được của các tình huống và do kết quả của các cam kết theo Hiệp định này, một sản phẩm được nhập khẩu vào lãnh thổ của bên ký kết đó với số lượng tăng mạnh và với điều kiện tới mức gây tổn hại hay đe doạ gây tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất sản phẩm tương tự hay cạnh tranh trực tiếp trong nước thì bên ký kết có thể dừng hay trì hoãn thực hiện toàn bộ hay một phần các cam kết theo các Hiệp định của WTO về hàng hoá, có thể rút bỏ hay điều chỉnh nhân nhượng về thuế quan, trong chừng mực liên quan đến sản phẩm đó và trong thời gian cần thiết để dự liệu và khắc phục tổn hại đó.
Trên cơ sở của Điều XIX của GATT 1947 và sau này Tổ chức thương mại thế giới WTO đã kế thừa, Điều II, Hiệp định đa biên về các biện pháp tự vệ trong khuôn khổ WTO cũng đã quy định rằng một thành viên có thể áp dụng một biện pháp tự vệ cho một sản phẩm chỉ khi thành viên đó đã xác định được, theo những điều khoản trong Hiệp định, là sản phẩm đó được nhập vào lãnh thổ mình khi có sự gia tăng nhập khẩu tương đối hay tuỵêt đối so với sản phẩm nội địa, và theo đó có thể gây ra hoặc đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nội địa sản xuất ra sản phẩm tương tự hoặc các sản phẩm cạnh tranh trực tiếp. Vậy nội dung của các quy tắc trên được hiểu ra sao?
Các quy tắc trên thừa nhận rằng khi thực hiện các cam kết của mình liên quan đến chính sách tự do hoá thương mại, một số ngành sản xuất nội địa có thể gặp phải những khó khăn và phải đối phó lại với những vấn đề cần điều chỉnh theo sự cạnh tranh tăng lên của hàng hoá nhập khẩu. Việc nhập khẩu hàng hoá này gia tăng với số lượng tuyệt đối hoặc tương đối so với ngành hàng sản xuất nội địa mà họ không thể dự đoán được tình huống này vào thời điểm thực hiện các cam kết. Sự gia tăng này tác động đến các ngành sản xuất nội địa, gây thiệt hại hay đe doạ gây thiệt hại cho ngành chuyên sản xuất những hàng hoá giống với hàng hoá nhập khẩu về chức năng, công dụng, tính năng kỹ thuật và các thuộc tính cơ bản khác hoặc có thể là hàng hoá được người mua chấp nhận thay thế cho hàng hoá thuộc phạm vi áp dụng các biện pháp tự vệ do ưu thế về giá và mục đích sử dụng. Nhằm mục đích thực hiện các cam kết trong khuôn khổ của GATT, các bên ký kết cũng thừa nhận tầm quan trọng của việc điều chỉnh cơ cấu và sự cần thiết phải tăng cường chứ không phải là hạn chế
cạnh tranh trên thị trường quốc tế1.
Hiệp định đa biên về các biện pháp tự vệ có phạm vi áp dụng cho tất cả các loại hàng hoá nhưng cũng đưa ra hai ngoại lệ không thuộc phạm vi áp dụng chung của Hiệp định. Ngoại lệ thứ nhất là điều khoản về tự vệ đặc biệt trong khuôn khổ Hiệp định về nông nghiệp đối với một vài sản phẩm đặc biệt trong những tình huống nhất định2. Ngoại lệ thứ hai là về cơ chế tự vệ tạm thời áp dụng cho một vài mặt hàng dệt may chưa được tự do hoá theo Hiệp định về hàng dệt và may mặc3.
Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam năm 2002 cũng khẳng định Chính Phủ Việt Nam có quyền áp dụng các biện pháp tự vệ trong trường hợp một loại hàng hoá được nhập khẩu quá mức vào Việt Nam và gây ra thiệt hại hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất nội địa. Cũng giống như Hiệp định về các biện pháp tự vệ, Pháp lệnh cũng đã giải thích một số thuật ngữ như: nhập khẩu hàng hoá quá mức, thiệt hại nghiêm trọng,
ngành sản xuất trong nước, hàng hoá tương tự và hàng hoá cạnh tranh trực
1 Lời nói đầu Hiệp định về các biện pháp tự vệ
2 Xem điều V Hiệp định đa biên về hàng nông nghiệp- GATT 1994
3 Xem điều VI Hiệp định đa biên về hàng dệt may- GATT 1994
tiếp… đồng thời cũng đưa ra những tiêu chí xác định làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp tự vệ.
Để hiểu rõ hơn về các biện pháp tự vệ, chúng ta phải đặt việc nghiên cứu các trường hợp của việc áp dụng các biện pháp tự vệ với các biện pháp khác có liên quan đến việc bảo hộ hàng hoá trong thương mại quốc tế như là các biện pháp chống bán phá giá, các biện pháp chống trợ cấp hay biện pháp trả đũa trong thương mại quốc tế.
Các biện pháp chống bán phá giá, các biện pháp chống trợ cấp của Chính Phủ và các biện pháp tự vệ đều có chung mục đích là bảo vệ hàng hoá sản xuất trong nước trước việc tự do hoá thương mại mà hệ quả là sự xuất hiện của hàng hoá nước ngoài trên thị trường nội địa. Trước đây, khi vấn đề tự do hoá thương mại chưa được đặt ra, các nước thường xuyên sử dụng các công cụ thuế quan và phi thuế quan rất cao để ngăn chặn thậm chí là triệt tiêu số lượng hàng hoá nhập khẩu. Cùng với tiến trình tự do hoá thương mại và dỡ bỏ các rào cản thương mại thì các biện pháp thuế quan và phi thuế quan vẫn được sử dụng nhưng chỉ ở mức độ thấp, hạn chế và tuỳ thuộc vào từng trường hợp. Tuy nhiên, đôi khi chúng ta thường nhầm lẫn bản chất của các biện pháp tự vệ với các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp của Chính phủ. So với biện pháp tự vệ, các biện pháp bảo hộ này có những điểm khác biệt chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, về bản chất và mục đích áp dụng, các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp đều là những biện pháp chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc tế hoặc do bán phá giá (bán hàng hoá thấp hơn giá trị sản xuất hoặc thấp hơn giá trị thông thường nhằm xâm nhập thị trường một nước khác, tiến tới triệt tiêu đối thủ cạnh tranh trong thị trường đó) hoặc do được trợ cấp của Chính phủ (các ưu đãi về miễn thu, thoái thu hoặc giảm những khoản thu đáng ra phải đóng hoặc giao vốn trực tiếp). Hành vi bán phá giá là hành vi cạnh tranh không lành mạnh xuất phát từ phía các doanh nghiệp, còn hành vi trợ cấp là hành vi xuất phát từ phía Chính Phủ. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh này gây ảnh hưởng tới hoạt
động của các doanh nghiệp, các đối thủ cạnh tranh khác và xa hơn là ảnh hưởng tới người tiêu dùng, do vậy các nước đặt ra các biện pháp nhằm chống lại các hành vi này. Còn các biện pháp tự vệ được áp dụng nhằm bảo hộ sản xuất trong nước trước sự nhập khẩu hàng hoá quá mức, không thể lường trước vào thị trường nội địa và đang gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc có bằng chứng cho thấy sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành sản xuất nội địa. Khác với các quy định về cạnh tranh không lành mạnh do bán phá giá và do được trợ cấp, biện pháp tự vệ xuất phát từ việc hàng hoá nhập khẩu gia tăng đột biến nhưng không bị quy là hành vi cạnh tranh không lành mạnh của nhà cung cấp nước ngoài. Về bản chất, các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp đều có mục đích là đưa cạnh tranh trở lại vị thế cân bằng trong khi đó biện pháp tự vệ lại có mục đích hạn chế cạnh tranh trong điều kiện đặc biệt và chỉ mang tính chất tạm thời để cho ngành sản xuất trong nước có thể tồn tại, cạnh tranh sẽ không bị thủ tiêu và quan hệ thương mại được duy trì lâu dài.
Thứ hai, sự khác biệt giữa các biện pháp này nằm ở điều kiện áp dụng theo đó mức độ tổn hại của ngành sản xuất được nêu lên để chứng minh hành động tự vệ của Chính phủ cao hơn nhiều so với mức đòi hỏi của việc đánh thuế đối kháng và thuế chống bán phá giá. Trong trường hợp áp dụng biện pháp tự vệ thì thiệt hại đối với ngành sản xuất phải là nghiêm trọng. Trong khi đó, bên yêu cầu áp dụng các biện pháp chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc tế chỉ cần chứng minh có hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi đó đã gây ra thiệt hại vật chất là đủ.
Thứ ba, để chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của nhà sản xuất nước ngoài, nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp thuế quan. Tức là họ chỉ được sử dụng thuế đối kháng, thuế chống bán phá giá hay đánh thuế bổ sung vào số lượng hàng hoá nhập khẩu nhằm triệt tiêu sự gian lận trong thương mại quốc tế mà không được sử dụng các biện pháp phi thuế quan như trong trường hợp tự vệ thương mại.
Thứ tư, về nguyên tắc áp dụng, để chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh của bên cung cấp hàng hoá nước ngoài thì nước nhập khẩu chỉ được đánh thuế chống phá giá hay thuế đối kháng vào số lượng hàng của nước cung cấp hàng hoá có hành vi cạnh tranh không lành mạnh đó mà không đánh thuế vào các mặt hàng của các nước khác không liên quan và không là đối tượng của thuế chống phá giá hay thuế đối kháng. Còn trong trường hợp áp dụng các biện pháp tự vệ thì nước nhập khẩu, theo quy định của WTO, phải tuân thủ nguyên tắc Tối huệ quốc, không phân biệt nguồn gốc xuất xứ hàng hoá: Nghĩa là một khi đã áp dụng biện pháp tự vệ đối với loại hàng hoá nhập khẩu từ nước nào thì cũng phải áp dụng các biện pháp đó cho loại hàng hoá cùng loại nhập khẩu từ các nước khác. Sở dĩ có sự khác biệt như vậy là vì các biện pháp tự vệ là biện pháp đánh vào hàng hoá nhập khẩu nhằm mục đích hạn chế chứ không nhằm mục đích trừng phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh của hàng hoá nhập khẩu.
Thứ năm, khác với các biện pháp chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nước áp dụng biện pháp tự vệ phải cam kết đảm bảo đưa ra một mức bồi thường thoả đáng đối với các nước chịu thiệt hại phát sinh từ hệ quả của việc áp dụng các biện pháp tự vệ. Khi áp dụng các biện pháp tự vệ, bên áp dụng phải đưa ra mức đền bù thoả đáng trên cơ sở tham vấn, đàm phán với nước cung ứng hàng hoá và trong trường hợp không đạt được mức bồi thường thoả đáng, bên bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu cơ quan giải quyết tranh chấp cho phép được tiến hành hành động trả đũa. Vậy trả đũa là gì, nó có phải là các biện pháp tự vệ không? Trả đũa được áp dụng trong trường hợp nào, việc áp dụng nó sẽ có hệ quả gì, và trả đũa có liên quan._. gì đến các cuộc chiến tranh thương mại?
Biện pháp trả đũa cũng được xem là một trong những biện pháp bảo hộ hàng hoá trong thương mại quốc tế và là biện pháp tự vệ nếu hiểu theo nghĩa rộng. Còn nếu xét cụ thể về mặt bản chất, mục đích áp dụng, điều kiện áp dụng hay mức độ áp dụng thì biện pháp trả đũa và biện pháp tự vệ là hoàn toàn khác nhau. Biện pháp trả đũa là hệ quả của việc vi phạm các nghĩa vụ trong thương mại, không chỉ từ việc các bên không thoả thuận được mức bồi
thường khi áp dụng biện pháp tự vệ mà còn do việc áp dụng các biện áp chống cạnh tranh không lành mạnh không có căn cứ và bên kia không tuân thủ các khuyến nghị của các cơ quan giải quyết tranh chấp. Điều này có nghĩa là: chẳng hạn khi một bên vi phạm nghĩa vụ nêu trong GATT hay các Hiệp định kèm theo, cơ quan giải quyết tranh chấp có thể cho phép bên bị ảnh hưởng nâng thuế suất đánh vào sản phẩm nhập khẩu từ nước vi phạm với kim ngạch mua bán của các sản phẩm này sẽ phải tương đương với kim ngạch bị ảnh hưởng bởi các biện pháp đang bị khiếu kiện1.
Các biện pháp trả đũa thông thường phải được cơ quan giải quyết tranh
chấp cho phép và trong cùng một lĩnh vực của GATT, GATS hay TRIPS. Tuy nhiên, nếu cơ quan giải quyết tranh chấp xem xét thấy không thể áp dụng biện pháp trả đũa trong cùng một lĩnh vực thì có thể cho phép trả đũa ở các lĩnh vực khác của cùng một Hiệp định. Một ví dụ cụ thể về trả đũa trong thương mại quốc tế: Mới đây, Uỷ ban Châu Âu đã kiện Hoa kỳ ra cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO về việc Hoa kỳ nâng mức thuế thép nhập khẩu từ 8% lên 30% gây ra thiệt hại cho Liên minh Châu âu. Do không đạt được thoả thuận về mức bồi thường với Hoa kỳ nên cơ quan giải quyết tranh chấp đã cho phép Uỷ ban Châu âu áp dụng các biện pháp trả đũa lại Hoa Kỳ bằng cách đánh thuế cao vào một số mặt hàng nông sản nhập khẩu vào Châu Âu từ Hoa kỳ.
Trả đũa có thể đánh vào một mặt hàng cùng loại hoặc có thể không đánh vào mặt hàng đó mà đánh vào những mặt hàng khác có vị trí quan trọng trong chiến lược xuất khẩu của nước đã áp dụng biện pháp tự vệ với mình trước đó. Người ta gọi đó là biện pháp trả đũa chéo. Chỉ trong rất ít các trường hợp đặc biệt và là phương sách cuối cùng, cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO mới cho phép trả đũa chéo giữa các Hiệp định, có nghĩa là áp đặt thuế suất cao hơn đối với hàng hoá do có sự vi phạm nghĩa vụ của Hiệp định GATS hay của Hiệp định TRIPS.
Như vậy có thể hiểu trả đũa trong thương mại quốc tế là quyền tự vệ của
nước cung cấp hàng hoá bị áp dụng biện pháp tự vệ, sử dụng các công cụ của
1 Xem cuốn Hướng dẫn doanh nghiệp về hệ thống thương mại thế giới, bản dịch của Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam , Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2001
chính sách thương mại quốc tế nhằm gây ảnh hưởng tới hàng hoá của một nước khác vì mục đích gây ra một thiệt hại nhất định cho nước đó. Theo quy định của Điều XIX khoản 3b của GATT thì “ nếu như các biện pháp tự vệ đã áp dụng theo tinh thần của Điều XIX, đoạn 2, không tham vấn trước, gây thiệt hại hay đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất trong nước, trên lãnh thổ của một bên ký kết khác chịu tác động của các biện pháp đó, khi mỗi sự chậm trễ có thể gây ra thiệt hại khó có thể khắc phục được, bên ký kết này có quyền ngừng cho hưởng các nhân nhượng hay ngừng các nghĩa vụ khác trong thời hạn cần thiết để ngăn ngừa hay khắc phục thiệt hại đó.
Trên thực tế, việc áp dụng các biện pháp trả đũa chỉ thực sự diễn ra giữa các nước có nền kinh tế mạnh và tỷ trọng thương mại lớn. Việc trả đũa nhau giữa các nước lớn về kinh tế thực chất là những cuộc chiến thương mại mà chúng ta thường thấy trong thời gian gần đây. Đối với các nước mà tỷ trọng hàng hoá xuất nhập khẩu trong thương mại quốc tế không đáng kể thì việc trả đũa trong thương mại quốc tế là không thực tế, không hiệu quả và có thể gây ra những bất lợi trong quan hệ thương mại với các nước có nền kinh tế lớn mạnh hơn.
1.1.2. Lịch sử phát triển của các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế.
1.1.2.1 Theo quy định của GATT 1947.
Tự do hoá thương mại không phải lúc nào cũng diễn ra một cách suôn sẻ, trên thực tế đã xuất hiện không ít những trở ngại. Việc mở cửa biên giới, nếu như nó tạo ra những lợi ích cho người tiêu dùng và những nhà sản xuất phải nhập khẩu nguyên liệu, sản phẩm là đầu vào thì ngược lại, nó gây ra cho những nhà sản xuất nội địa những khó khăn nhất định, thị trường của họ bị đe doạ rơi vào tay các tư bản nước ngoài. Như vậy, ở đây diễn ra hai xu hướng một ủng hộ tự do hoá thương mại, một tìm cách hạn chế. Quốc gia là chủ thể điều hoà những lợi ích đối lập trên khi hoạch định và xây dựng chính sách
thương mại của mình1.
1 Xem Patrick & Dominique Carreau, Manuel Droit international économique, Bản tiếng Pháp, NXB Paris 1998
Tư tưởng tự do hoá thương mại kết hợp với việc cơ cấu lại ngành sản xuất nội địa bằng cách giúp đỡ các ngành công nghiệp bị ảnh hưởng từ việc cạnh tranh thay đổi hướng đi thích hợp từ đó có thể tận dụng những ưu thế của cạnh tranh và giải quyết được những vấn đề khác trong đó có vấn đề việc làm. Việc chuyển đổi lại cơ cấu nâng cao năng lực cạnh tranh cần có một khoảng thời gian thích hợp và một cơ chế thương mại toàn cầu cho phép các nước tạm thời rút lui các cam kết của mình thông qua các biện pháp bảo hộ.
Các biện pháp bảo hộ thông qua con đường tự vệ thương mại có nguồn gốc từ Hoa kỳ. Nó xuất hiện lần đầu tiên trong đạo luật về tự do hoá chính sách thương mại của Mỹ vào năm 1934 và được sử dụng trong Hiệp định thương mại giữa Mỹ và Mêhicô năm 1943. Tổng thống Mỹ Truman đã đưa ra đề xuất về điều khoản miễn trừ nghĩa vụ trong các Hiệp định thương mại của Mỹ mà chúng ta hiểu ngày nay đó là việc cho phép dựng lên những rào cản tạm thời đối với hàng hoá nhập khẩu gia tăng gây thiệt hại cho các ngành sản xuất nội địa2. Năm 1947, Mỹ và 21 quốc gia khác đã thoả thuận đàm phán về văn kiện GATT trong đó có chứa đựng điều khoản về hành động trong trường hợp khẩn cấp. Thông qua Điều XIX trong GATT 1947 về thương mại hàng hoá, Chính phủ các nước đã nhất trí về những điều khoản miễn trừ nghĩa vụ tạm thời khi xảy ra tình thế cấp thiết.Theo đó, GATT 1947 quy định rằng nếu
do hậu quả của những diễn biến không lường trước được của các tình huống và do kết quả của các cam kết theo Hiệp định này, khi một sản phẩm được nhập khẩu vào lãnh thổ của bên ký kết đó với số lượng tăng mạnh và với điều kiện gây tổn hại hay đe doạ gây tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất sản phẩm tương tự hay cạnh tranh trực tiếp trong nước thì bên ký kết có thể dừng toàn bộ hay một phần các cam kết, rút bỏ hay điều chỉnh nhân nhượng về thuế quan, trong chừng mực liên quan đến sản phẩm đó và trong thời gian cần thiết để dự liệu và khắc phục tổn hại đó.
Tuy nhiên , GATT 1947 mới chỉ là bước mở đầu cho quan hệ giao thương
được tự do phát triển. Cùng với quá trình phát triển chung của thương mại
2 Xem cuốn Về hệ thống thương mại thế giới, Luật lệ và chính sách về quan hệ kinh tế quốc tế, John.H.Jackson, bản dịch của Phạm Viên Phương & Huỳnh Thanh, NXB Thanh niên 2001
toàn cầu nó đã dần bộc lộ những hạn chế nhất định làm cơ sở cho một số Quốc gia lợi dụng để từ bỏ các nghĩa vụ trong các cam kết của họ:
Thứ nhất GATT 1947 chỉ có duy nhất điều XIX quy định về tự vệ trong việc nhập khẩu hàng hoá và do thiếu các quy định giải thích nên các thuật ngữ được sử dụng trong GATT 1947 như sự gia tăng quá mức và không thể lường trước được, thiệt hại nghiêm trọng, ngành sản xuất trong nước…vv được sử dụng một cách tuỳ tiện bởi các nước nhập khẩu. Những đánh giá của các nước này thường mang tính chủ quan.
Thứ hai, các điều khoản miễn trừ nghĩa vụ được bên nhập khẩu áp dụng một cách đơn phương mà không cân nhắc đến quyền lợi của các bên xuất khẩu do không có quy định về thủ tục kiểm tra và giám sát việc thực hiện các biện pháp tự vệ. Hơn nữa, các biện pháp tự vệ được áp dụng không hạn chế về thời gian nên hệ quả là được sử dụng một cách thường xuyên và liên tục.
Thứ ba, việc thực thi quy chế Tối huệ quốc không mang ý nghĩa tích cực do bên nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ “vùng xám” hay còn gọi là biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện dẫn đến việc đối xử không công bằng trong quan hệ thương mại giữa các Quốc gia. Điều này đi ngược lại nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của WTO nói chung và GATT nói riêng.
Sự tồn tại của các hạn chế nói trên dẫn đến hệ quả là thương mại bị cản trở, các nước sử dụng tối đa quy định về tự vệ trong thời gian không hạn chế. Theo thống kê của cơ quan giải quyết tranh chấp thì cho đến trước khi diễn ra vòng đàm phán Uruguay đã có hơn 150 vụ tranh chấp1 liên quan đến việc vận dụng điều XIX của GATT 1947. Tại vòng đàm phán Tokyo trước đó, các quốc gia cũng đã thất bại khi những cố gắng của họ về việc soạn thảo một Hiệp định về các biện pháp tự vệ bổ sung cho quy định của GATT đã không được thông qua.
1.1.2.2 Theo quy định của WTO.
Năm 1994, cùng với việc thành lập ra tổ chức thương mại thế giới(WTO), một hệ thống các quy tắc thương mại đa biên đã được thiết lập và ngày càng
1 Xem Patrick Juillard & Dominique carreau, Manuel Droit international économique, Bản tiếng pháp, NXB Paris 1998
được hoàn thiện hơn. Mục tiêu của hệ thống WTO là tạo cơ hội cho các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của các nhà xuất khẩu có thể thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách tự do mà không gặp phải các rào cản thương mại và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của các Quốc gia khác nhau có thể cạnh tranh với nhau một cách bình đẳng và không bị gián đoạn bởi việc áp đặt các hạn chế. GATT 1994 và Hiệp định về các biện pháp tự vệ vẫn bảo lưu các quy định của GATT 1947 đồng thời cũng có những sửa đổi bổ sung cho phù hợp nhằm đảm bảo cho việc trao đổi, giao lưu thương mại giữa các quốc gia diễn ra thuận lợi, đảm bảo cho các quốc gia nhập khẩu không phải chịu những thiệt hại do tác động khi tham gia thương mại toàn cầu.Bên cạnh đó, Hiệp định cũng có quy định việc bảo vệ quyền lợi của các nước cung ứng hàng hoá khi bị nước nhập khẩu áp dụng các biện pháp tự vệ. So với các quy định của GATT 1947, GATT 1994 và Hiệp định về các biện pháp tự vệ có những thay đổi cơ bản sau:
Thứ nhất, khác với quy định của GATT 1947, Hiệp định về các biện pháp tự vệ đã giải thích cụ thể các điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ đồng thời làm rõ các khái niệm mà Hiệp định chung GATT 1947 không quy định chặt chẽ. Việc giải thích này đã phần nào hạn chế việc sử dụng tuỳ tiện các khái niệm dựa trên ý chí chủ quan của nước nhập khẩu.
Thứ hai, Hiệp định xoá bỏ biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện, hay bất kỳ các biện pháp tương tự nào khác muộn nhất là đến ngày 1/1/1999 trừ trường hợp đặc biệt không quá một năm nhưng phải được sự đồng ý của Tổ chức thương mại thế giới. Đó là trường hợp của Liên minh Châu âu đối với việc nhập khẩu ô tô từ Nhật Bản với thời gian kéo dài là muộn hơn 1 năm, đến ngày 1/1/2000.
Thứ ba, các nước thành viên nhập khẩu khi áp dụng biện pháp tự vệ phải chịu sự giám sát, kiểm tra của Uỷ ban tự vệ của WTO, đồng thời phải tiến hành tham vấn các bên có liên quan để các bên này có quyền trình bày ý kiến, quan điểm và đưa ra chứng cứ bảo vệ quyền lợi của mình.
Thứ tư, trong trường hợp cần thiết để ngăn chặn thiệt hại thì nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp tự vệ tạm thời trong một thời hạn hợp lý với điều kiện các biện pháp điều tra vẫn được tiến hành sau đó.
Thứ năm, thời hạn áp dụng các biện pháp tự vệ không kéo dài như trước
đây mà giới hạn trong khoảng thời gian tối đa là 8 năm.
Thứ sáu, GATT 1947 cho phép tự do áp dụng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan trong khi GATT 1994 khuyến khích áp dụng các biện pháp thuế quan và tiến tới hạn chế việc áp dụng biện pháp phi thuế quan.
1.1.3. Vai trò của các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế.
Thứ nhất, các biện pháp tự vệ nhằm giảm nhẹ hay trợ giúp khắc phục thiệt hại gây ra do việc nhập khẩu hàng hoá tăng một cách bất thường, không thể lường trước vào thị trường nội địa.
Khi thực hiện các cam kết về tự do hoá thương mại, các nước phải chấp nhận từ bỏ sự bảo hộ của mình đối với các mặt hàng sản xuất trong nước và chấp nhận rằng hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài vào sẽ được hưởng các lợi ích tương tự và bình đẳng như hàng hoá trong nước theo nguyên tắc đối xử Quốc gia. Tuy nhiên, trong các quy định của WTO còn có những ngoại lệ nhất định nhằm đảm bảo quyền lợi của các thành viên trong những trường hợp khẩn cấp như cho phép các bên tham gia ký kết sử dụng các biện pháp tự vệ trong một khoảng thời gian hạn chế nhất định không nhằm mục đích bảo hộ lâu dài cho sản xuất nội địa mà chỉ để khắc phục hay giảm nhẹ những thiệt hại cho các doanh nghiệp trong nước trước tình huống bất thường từ việc hàng hoá nước ngoài nhập khẩu không hạn chế về số lượng vào thị trường nội địa của họ. Các biện pháp tự vệ sẽ chấm dứt khi mối nguy hiểm trong tình huống đặc biệt không còn nữa.
Thứ hai, các biện pháp tự vệ góp phần tăng cường, khuyến khích tính cạnh tranh thông qua việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất chứ không phải vì mục đích ưu đãi, bảo hộ ngành sản xuất trong nước hay hạn chế sự cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài trong thị trường nội địa.
Đây là một quy định mang tính chất nhân nhượng và ưu đãi dành cho các nước đang phát triển, các nước đang trong thời kỳ chuyển tiếp mà nền công nghiệp của họ chưa sẵn sàng và cũng chưa đủ sức đương đầu với cạnh tranh quốc tế. Theo đó, một khoảng thời gian hợp lý sẽ dành cho họ để họ tháo gỡ những khó khăn trước mắt, tìm ra đối sách lâu dài để nâng cao sức hấp dẫn của sản phẩm mà họ làm ra, thúc đẩy cạnh tranh với hàng nhập khẩu thông qua những biện pháp thích hợp thu hút sự lựa chọn của người tiêu dùng đối với hàng nội địa, thông qua chiến lược tự điều chỉnh lại cơ cấu sản xuất, nâng cao trình độ sản xuất , cải tiến quy trình công nghệ để có thể thích ứng được với sự thay đổi trên. Do vậy, các biện pháp tự vệ chỉ mang tính chất nhất thời và từng bước. Trong thời hạn áp dụng sẽ được giảm nhẹ và dần tiến tới xoá bỏ. Mặt khác, những quy tắc của GATT cũng thừa nhận rằng Chính phủ của các nước đang phát triển, trong khi theo đuổi những chương trình và chính sách phát triển kinh tế có thể thấy cần hỗ trợ cho những ngành sản xuất mới hoặc cho sự phát triển hơn nữa những ngành sản xuất hiện có được quyền áp dụng các biện pháp tự vệ. Các quy tắc về tự vệ cho mục đích này thường chứa đựng những điều kiện nghiêm ngặt hơn so với mục đích trên.
Bên cạnh những mặt tích cực khi áp dụng các biện pháp tự vệ còn tồn tại những hạn chế. Đó là việc bảo hộ một cách tràn lan hàng hoá nội địa sẽ dẫn tới sự ỷ lại của các nhà sản xuất trong nưóc, dẫn tới việc mất khả năng cạnh tranh, không tận dụng tốt các nguồn lực sẵn có và sự hao phí tài nguyên là không tránh khỏi. Hạn chế thứ hai, như trên đã phân tích, đó là việc nước áp dụng biện pháp tự vệ phải hứng chịu sự trả đũa của các nước khác và là một trong những nguyên nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh thương mại không cần thiết, gây bất lợi cho các bên.
1.2 Các biện pháp tự vệ theo Hiệp định đa biên của WTO.
Trước đây, khi vấn đề tự do hoá thương mại chưa được đặt ra, các nước
đều có xu hướng sử dụng các biện pháp thuế quan và biện pháp phi thuế quan
thật cao nhằm bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước. Các biện pháp bảo hộ được sử dụng phổ biến bao gồm: các biện pháp thuế quan, các biện pháp phi thuế quan (hạn ngạch, giấy phép xuất nhập khẩu, cấm xuất nhập khẩu, hạn chế xuất nhập khẩu tự nguyện), và các biện pháp kỹ thuật khác.
Cùng với tiến trình tự do hoá thương mại trên thế giới mà các hàng rào này đã dần dần bị dỡ bỏ. Các quy định của Hiệp định về các biện pháp tự vệ cho phép các quốc gia sử dụng biện pháp thuế quan và phi thuế quan để bảo hộ sản xuất trong nước. Theo đó, các quốc gia sẽ lựa chọn, hoặc là tăng mức thuế đã cam kết vượt lên trên mức thuế trần hay áp dụng các hạn chế định lượng như quota. Khác với biện pháp chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ được sử dụng thuế quan bổ sung, các biện pháp tự vệ cho phép sử dụng các hạn chế định lượng. Các nước khi sử dụng các biện pháp tự vệ thì không được sử dụng các biện pháp khác như hạn chế xuất khẩu tự nguyện hay các công cụ của hàng rào kỹ thuật…Các quốc gia cũng có thể sử dụng biện pháp tự vệ tạm thời với điều kiện phải tuân thủ các điều kiện của Hiệp định.
Biện pháp thuế quan.
Các biện pháp bảo hộ hàng hoá trong thương mại quốc tế được phép duy trì với hai điều kiện: chỉ ở mức độ hợp lý và chỉ thông qua thuế quan. Đây là một trong bốn quy tắc cơ bản của GATT và WTO. Vậy thuế quan là gì và vì sao chỉ bảo hộ thông qua thuế quan mà không tính đến các công cụ bảo hộ
khác?
Thuế quan hay còn gọi là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế quá cảnh được đánh tuỳ theo đối tượng bị thu thuế. Về bản chất thì đây là loại thuế gián thu đánh vào hàng hoá khi chúng di chuyển từ lãnh thổ hải quan này sang lãnh thổ hải quan khác.Thuế quan là công cụ đảm bảo tính minh bạch và dễ dự đoán, được thể hiện bằng những con số rõ ràng. Do vậy người ta có thể dễ dàng thấy được mức độ bảo hộ dành cho một ngành sản xuất. Thuế quan cao tức là mức độ bảo hộ cao và như vậy sẽ dẫn đến hệ quả là hàng hoá nước ngoài khó xâm nhập được vào thị trường. Ngược lại, thuế quan thấp có nghĩa là mức độ bảo hộ thấp, điều này có thể hiểu rằng các ngành hàng của nước đó
có được một sự ổn định nhất định khi cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài. Khi tham gia vào quá trình hội nhập, thông qua đàm phán và lịch trình giảm thuế quan của một nước, người ta cũng sẽ dễ dàng dự đoán được tốc độ cắt giảm thuế quan, đồng nghĩa với việc thay đổi mức độ bảo hộ và mức độ mở cửa thị trường. Vậy có nghĩa là thuế quan tỷ lệ thuận với mức độ bảo hộ hàng hoá trong nước và tỷ lệ nghịch với mức độ mở cửa thị trường và mục tiêu của các vòng đàm phán thương mại là dỡ bỏ các rào cản thương mại đang tồn tại giữa các nước trong đó thuế quan là rào cản quan trọng nhất.
Sở dĩ thuế quan được sử dụng một cách phổ biến và là công cụ bảo hộ
lâu đời nhất bởi vì nó có các tác động sau:
Thuế quan có tác động điều tiết nhập khẩu lượng hàng hoá tràn vào thị trường nhất định. Thuế suất của một loại hàng hoá cao sẽ làm cho lượng nhập khẩu loại hàng hoá đó giảm xuống. Đây là mục đích của việc áp dụng các biện pháp tự vệ. Việc sử dụng thuế quan không dẫn tới triệt tiêu quan hệ thương mại như trường hợp sử dụng hạn ngạch vì dù cho thuế suất có tăng cao đi chăng nữa thì hàng hoá nước ngoài vẫn có cơ hội xâm nhập vào thị trường. Trong khi đó, nếu như đã đạt được mức nhập khẩu theo quota thì nhà sản xuất nước ngoài không còn cơ hội tìm kiếm lợi nhuận ở nước nhập khẩu trong thời gian bị áp dụng hạn ngạch.
Thuế quan giúp các nhà sản xuất nội địa có thể bán hàng trên thị trường nội địa mà không phải chịu sức ép cạnh tranh, phục vụ cho các mục tiêu kinh tế là bảo hộ sản xuất . Đây là chức năng quan trọng nhất của thuế quan.
Thuế quan có tác dụng tăng thu cho ngân sách nhà nước, nhất là đối với những nước đang phát triển thì thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách. Việc cắt giảm thuế quan khi gia nhập vào tiến trình tự do hoá thương mại theo xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá đã gây ra những ảnh hưởng nhất định đối với các khoản thu cho ngân sách và khiến cho nhà nước phải tìm các khoản thu khác để bù đắp.
Thuế quan là công cụ phục vụ các mục tiêu phi kinh tế như giảm bớt việc nhập khẩu các hàng hoá mà nhà nước không khuyến khích vì nó ảnh
hưởng đến đời sống môi trường, đạo đức xã hội và điều tiết tiêu dùng trong xã hội.
Trên thực tế có rất nhiều mức thuế khác nhau được vận dụng trên cơ sở cam kết của từng nước. Chẳng hạn như mức thuế mà các nước dành cho nhau theo quy chế Tối huệ quốc, mức thuế mà các nước phát triển dành ưu đãi phổ cập cho các nước đang phát triển hay cũng có trường hợp không đánh thuế đối với hàng hoá có xuất xứ từ lãnh thổ của các nước thành viên trong cùng khối liên minh kinh tế hay khu vực mậu dịch tự do. Hiện nay, theo yêu cầu chung của WTO, các Quốc gia thành viên đều có xu hướng và buộc phải cắt giảm thuế đến một mức tối thiểu, thậm chí là triệt tiêu hẳn thuế quan tạo điều kiện cho hàng hoá có thể lưu thông một cách tự do mà không bị hạn chế. Các nước đều có một lộ trình cắt giảm để thực hiện nghĩa vụ trong một khoảng thời gian nhất định. Hệ quả của việc cắt giảm thuế quan này là hàng hoá nước ngoài được nhập khẩu tự do và không bị hạn chế gây ra bất lợi cho hàng hoá sản xuất trong nước. Trong trường hợp như vậy các nước được phép sử dụng biện pháp thuế quan bằng cách tăng thuế nhập khẩu nhằm mục đích tự vệ. Mức thuế gia tăng trong trường hợp này phải hợp lý, có tính đến việc không gây cản trở hơn cho hoạt động thương mại giữa các nước, chỉ được duy trì mức tăng này trong một thời gian hợp lý và dần phải được dỡ bỏ. Hiệp định về các biện pháp tự vệ thừa nhận rằng các nước nhập khẩu có quyền lựa chọn một trong hai biện pháp hoặc là biện pháp thuế quan hoặc là biện pháp phi thuế quan, trên cơ sở ưu tiên sử dụng biện pháp thuế quan.
Biện pháp phi thuế quan.
Các quy tắc của Hiệp định về các biện pháp tự vệ và Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam năm 2002 đề cập đến hai biện pháp chủ yếu là biện pháp thuế quan và biện pháp hạn chế số lượng. Các biện pháp hạn chế số lượng vốn dĩ là các biện pháp mang tính chất hành chính
pháp lý (khác với thuế quan là biện pháp kinh tế pháp lý)1. Biện pháp này ít
1 Xem Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế, Đại học Luật Hà nội, Nhà xuất bản Công an Nhân dân 2001
khi được sử dụng và cũng chỉ được sử dụng khi mà biện pháp thuế quan trở nên kém tác dụng do lượng hàng hoá nhập khẩu vẫn tăng, không hề giảm xuống đáng kể, do vậy nguy cơ gây hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất nội địa vẫn còn. Biện pháp phi thuế quan còn được sử dụng khi một nước muốn phân biệt đối xử với một hàng hoá nhất định nhập khẩu từ nước khác cũng có phân biệt đối xử với nước đó trong quan hệ thương mại quốc tế. Các biện pháp phi thuế quan bao gồm hạn ngạch, cấm nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện,…vv
Cho đến nay, công cụ hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VERs) trong khuôn khổ của WTO đã bị cấm sử dụng vì nó tạo ra sự phân biệt đối xử rõ rệt. Thay vào đó, để hạn chế hàng hoá nước ngoài nhập khẩu vào lãnh thổ nước mình, các nước thường sử dụng công cụ thuế quan hoặc hạn ngạch hoặc kết hợp cả hai kèm theo đó là những giấy phép bắt buộc phải có. Vậy biện pháp hạn ngạch là gì và so với biện pháp thuế quan thì hạn ngạch có được những lợi thế gì khi sử dụng?
Hạn ngạch còn gọi là quota hay hạn chế số lượng xuất nhập khẩu thuộc nhóm các biện pháp hành chính phi thuế quan. Theo đó, hạn ngạch nhập khẩu là quy định của nước nhập khẩu về mức cao nhất của giá trị hay khối lượng hàng hoá được phép nhập khẩu từ một thị trường nhất định trong một thời hạn xác định1. Thuật ngữ hạn ngạch không được định nghĩa một cách thực sự trong khuôn khổ WTO. Điều 3 Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài của Việt nam cũng chỉ liệt kê hai biện pháp tự vệ chủ yếu là thuế quan và hạn ngạch cùng với một số biện pháp khác do Chính phủ quy định.
Hiện nay trên thực tế, có hai loại hạn ngạch: hạn ngạch tuyệt đối và hạn ngạch thuế suất thuế quan. Hạn ngạch tuyệt đối là hạn ngạch mà khi áp dụng nếu hàng hoá nhập khẩu vượt quá một khối lượng đã quy định thì không được cấp giấy phép nhập khẩu. Thực chất đây là cơ chế cấp phép không tự động khi vượt quá một khối lượng nào đó. Còn hạn ngạch thuế suất thuế quan là hạn ngạch mà khi áp dụng nếu khối lượng hàng hoá nhập khẩu không vượt qua mức quy định thì sẽ đánh thuế suất thông thường, ngược lại sẽ áp dụng thuế suất bổ
sung hoặc đánh thuế tăng lên theo từng phần tăng tương ứng của số lượng hàng hoá nhập khẩu.
Hạn ngạch được sử dụng để ngăn cản không cho hàng hoá nhập khẩu ồ ạt vào thị trường nội địa gây tổn hại cho các doanh nghiệp trong nước hoặc ngăn không cho hàng hoá có chất lượng thấp, giá trị thấp vào thị trường gây xáo trộn cạnh tranh (theo quan điểm của đa số các nước nhập khẩu thì hàng hoá có giá trị thấp đều là hàng hoá hoặc do bán phá giá hoặc do trợ cấp của Chính phủ hay của một tổ chức công cộng nào đó ở nước xuất khẩu). Việc nhập khẩu hàng hoá đó với một số lượng nhất định sẽ gây thiệt hại cho nhà cung cấp trong nước. Còn khi hạn ngạch được sử dụng bằng không, tức là trường hợp cấm nhập khẩu, cấm xuất khẩu thì quan hệ thương mại sẽ bị triệt tiêu.
Để áp dụng biện pháp tự vệ dưới hình thức hạn chế số lượng đối với nhập khẩu, theo quy định chung của WTO, nước thành viên phải tuân theo một số quy định như: thành viên đó phải đảm bảo được rằng số lượng hàng hoá nhập khẩu không bị giảm xuống dưới mức nhập khẩu trung bình của 3 năm tiêu biểu trước đây nếu số liệu thống kê của các năm đó vẫn còn có khả năng cung cấp được hoặc lượng hàng hoá nhập khẩu có thể được giữ ở mức thấp hơn chỉ khi đưa ra được những giải trình rõ ràng là một mức hạn chế khác biệt như vậy là cần thiết nhằm ngăn chặn những tổn thất nghiêm trọng hoặc để khắc phục những tổn thất đó.
Một cách khác để áp dụng việc hạn chế số lượng có hiệu quả là dựa trên các hạn ngạch quốc tế về nhập khẩu và sau đó phân phối các hạn ngạch đó cho các nước cung cấp hàng hoá (nước xuất khẩu). Khi cố định được các hạn ngạch và các phần hạn ngạch thì nước áp dụng biện pháp tự vệ phải thực hiện việc tham vấn với các nước có những lợi ích đáng kể trong việc cung cấp sản phẩm cho nước này đồng thời đạt được các thoả thuận với các nước cung cấp này về phần hạn ngạch họ được quyền xuất khẩu vào thị trường của nước đó. Nếu như biện pháp này không mang tính khả thi thì nước áp dụng biện pháp tự vệ phải phân phối các phần hạn ngạch giữa các nước có lợi ích đáng kể
trong việc cung cấp các sản phẩm dựa trên các tỷ lệ của các nước này về tổng số lượng hay giá trị nhập khẩu của các sản phẩm này vào nước mình trong suốt thời kỳ tiêu biểu. Khi thực hiện như vậy cần phải chú ý một cách đúng mức đến bất kỳ yếu tố đặc biệt nào có ảnh hưởng đến việc mua bán sản phẩm
này1.
Trong khuôn khổ WTO thì hạn ngạch tuyệt đối ít được sử dụng và tiến tới phải được xoá bỏ. Khi thực hiện quyền tự vệ của mình theo Hiệp định về các biện pháp tự vệ, WTO không khuyến khích sử dụng công cụ này vì nó có nhiều khả năng dẫn tới ngăn cản hoạt động tự do hoá thương mại, một trong 4 nguyên tắc cơ bản của WTO. Hơn thế, nếu sử dụng hạn ngạch thì quốc gia đó sẽ phải chịu thiệt hại một số giá trị không nhỏ, khác trong trường hợp khi sử dụng biện pháp thuế quan nguồn thu cho ngân sách cũng vẫn sẽ được đảm bảo. Trong xu thế tự do hoá thương mại, các nước đều có xu hướng ít sử dụng hạn ngạch hơn. Thay vào đó họ sử dụng biện pháp thuế quan truyền thống hay kết hợp hai biện pháp này thành hạn ngạch thuế suất thuế quan, tức là mức thuế sẽ tăng dần lên tương ứng với số lượng hàng hoá nhập khẩu .
Một số công cụ khác mang tính chất hành chính là công cụ giấy phép nhập khẩu hoặc hàng rào kỹ thuật, kiểm dịch hay xác định quy tắc xuất xứ, xác định giá trị hải quan,…Các biện pháp này chịu sự giám sát của các Hiệp định liên quan của GATT. Các công cụ, biện pháp này đưa ra những tiêu chuẩn nhất định và tỏ ra hữu hiệu hơn công cụ thuế quan và hạn ngạch trong việc kiểm soát khối lượng hàng hoá nhập khẩu. Tuy WTO không khuyến khích sử dụng các biện pháp này và các công cụ này không được sử dụng trong trường hợp tự vệ nhưng các nước đều có xu hướng sử dụng nó không chỉ vì tính hiệu quả của nó mà còn vì bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng trong nước. Các biện pháp này thường mang tính chủ quan chủ yếu nhằm bảo hộ sản
xuất trong nước, WTO coi những biện pháp này làm hạn chế rõ rệt tác dụng
1 Xem Tài liệu của Hội nghị liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD)-Trainfortrade-Module 6 “về các biện pháp tự vệ”, tháng 6/1996
của tự do thương mại nên yêu cầu xoá bỏ. Thay vào đó, nếu có nhu cầu áp dụng biện pháp tự vệ thì các nước chỉ có thể sử dụng thuế quan và hạn ngạch.
1.3 Nguyên tắc và thủ tục áp dụng các biện pháp tự vệ.
1.3.1. Điều kiện để áp dụng các biện pháp tự vệ.
Các nước nhập khẩu trước khi áp một biện pháp tự vệ đối với một loại hàng hoá thì cần phải hội đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, phải có sự gia tăng đột biến một khối lượng lớn hàng hoá nhập khẩu vào thị trường nội địa.
Việc xác định sự gia tăng hàng hoá nhập khẩu phải căn cứ vào một số tiêu chí cụ thể. Đó là sự gia tăng một cách tương đối hay tuyệt đối về số lượng, khối lượng hay giá trị của loại hàng hoá đó so với số lượng, khối lượng hay giá trị của hàng hoá tương tự hoặc hàng hoá cạnh tranh trực tiếp được sản xuất trong nước. Sự gia tăng về số lượng hàng hoá nhập khẩu đó phải là không lường trước được, nghĩa là sự biến đổi đó xảy ra sau khi các bên đã đàm phán và không có gì để khẳng định rằng các nhà đàm phán, những người đã đưa ra nhượng bộ, có thể hay lẽ ra phải dự đoán được sự biến đổi đó. Các quy tắc của WTO không đưa ra các tiêu chí cụ thể về việc xác định sự gia tăng hàng hoá nhập khẩu vì có thể mức nhập khẩu tuy tăng nhẹ nhưng lại gây thiệt hại không hề nhỏ cho ngành sản xuất nội địa. Do vậy, việc đưa ra một mức cụ thể như vậy sẽ không thể phản ánh chính xác được sự gia tăng bất thường của loại hàng hoá đó. Các quy định này chủ yếu do các nước áp dụng xác định dựa trên số liệu thống kê hải quan.
Thứ hai, việc gia tăng hàng hoá nhập khẩu đó phải gây thiệt hại hay đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất nội địa.
Đây là điều kiện quan trọng làm cơ sở cho việc đưa ra biện pháp tự vệ. Điều kiện này phải hoàn toàn gắn với điều kiện về sự gia tăng đột biến hàng nhập khẩu. Ở đây, thuật ngữ “tổn hại nghiêm trọng” được hiểu là sự suy giảm toàn diện đáng kể tới vị trí của ngành công nghiệp nội địa. Việc xác định tổn
hại sẽ dựa trên kết quả điều tra theo đó cơ quan chức năng sẽ đánh giá những yếu tố kinh tế có liên quan đến tình hình sản xuất của ngành này bao gồm:
- Tốc độ và số lượng gia tăng nhập khẩu của sản phẩm có liên quan một cách tương đối hay tuyệt đối;
- Thị phần trong nước của phần gia tăng nhập khẩu;
- Sự giảm sút thực tế về sản lượng, doanh số, thị phần, lợi nhuận, năng suất, tỷ suất đầu tư…;
- Tác động đến tăng trưởng kinh tế xã hội…
Ngoài ra, thuật ngữ “ngành sản xuất nội địa” được hiểu là toàn bộ các nhà sản xuất sản phẩm tương tự hoặc các sản phẩm trực tiếp cạnh tranh trong phạm vi lãnh thổ một nước, hoặc tập hợ._.p lệnh điều chỉnh thương mại quốc tế kể trên. Pháp lệnh về Chống bán phá giá và chống trợ giá thì còn đang trong giai đoạn soạn thảo. Do đó chúng ta cần xây dựng và hoàn thiện hơn nữa các văn bản điều chỉnh các vấn đề về thương mại quốc tế. Công việc này cần phải được tiến hành một cách song song và đồng bộ, không nên để tình trạng Luật ra đời từ lâu mà vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành. Và như vậy, bên cạnh những nỗ lực to lớn khi ban hành ra Pháp lệnh về tự vệ thương mại của Việt Nam thì chúng ta cũng phải hết sức chú trọng đến vấn đề hoàn thiện nó, bởi chỉ có thông qua quá trình hoàn thiện thì Pháp lệnh này nói riêng và các Pháp lệnh khác nói chung mới tỏ rõ tác dụng và góp phần làm vững mạnh hơn hệ thống luật pháp đối ngoại của Việt Nam.
3.2.1.2 Phương hướng triển khai công tác tự vệ thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới
Về cơ bản việc hoàn thiện các văn bản pháp luật bảo hộ nói chung và tự vệ thương mại nói riêng phải phù hợp với tiến trình tự do hoá thương mại và các cam kết quốc tế của Việt Nam đồng thời không được đi ngược lại với lợi ích quốc gia dân tộc. Trong thời gian tới đây, khi Việt Nam chính thức thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA và trong tiến trình đàm phán gia nhập WTO thì việc trước tiên phải làm là phải dỡ bỏ các hàng rào bảo hộ mậu dịch vốn được coi là tấm lá chắn an toàn cho các ngành công nghiệp non yếu của ta. Khi đó để tự vệ một cách hợp pháp vừa đảm bảo an toàn cho các ngành sản xuất trong nước trước những tác động xấu từ bên ngoài vừa không trái với
những quy định chung thì chính sách bảo hộ nói chung và cơ chế tự vệ nói riêng của chúng ta cần phải được hoàn thiện theo một số phương hướng chung như sau:
- Chỉ cho phép bảo hộ tự vệ trong những trường hợp thật cần thiết, khi đã xác định được đầy đủ các điều kiện theo quy định chung của pháp luật quốc tế để áp dụng biện pháp tự vệ;
- Chỉ áp dụng biện pháp tự vệ trong thời hạn, phạm vi và mức độ cần thiết đủ để ngăn ngừa hay khắc phục những thiệt hại hay nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Chỉ bảo hộ, hỗ trợ cho một số ngành sản xuất trong nước trọng điểm có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đáp ứng nhu cầu phát triển về sau, tăng thu ngân sách và giải quyết lao động. Không áp dụng biện pháp tự vệ một cách tràn lan tạo tâm lý ỷ lại của các ngành sản xuất trong nước;
- Việc bảo hộ thông qua biện pháp tự vệ phải phù hợp với tiến trình tự do hoá thương mại và các cam kết quốc tế của Việt Nam. Thông qua các chính sách về bảo hộ nói chung và tự vệ nói riêng phải thể hiện được tinh thần hợp tác, tôn trọng lẫn nhau, đôi bên cùng có lợi đồng thời không làm mất đi bản sắc riêng của nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam;
- Đặc biệt chúng ta phải hết sức thận trọng và cân nhắc khi đưa ra các quy định về việc áp dụng các biện pháp tự vệ, biện pháp trả đũa cũng như nguy cơ bị trả đũa từ các nước có liên quan;
- Việc hoàn thiện luật pháp về bảo hộ nói chung và tự vệ nói riêng cũng phải chú trọng đến tính phù hợp, tương thích với các văn bản luật lệ khác như Luật Hải quan, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Pháp lệnh về chống bán phá giá…và các Hiệp định thương mại đã và sẽ ký kết với các nước trên thế giới…
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt tự vệ thương mại trong nhập
3.2.2.1 Đối với Nhà nước (ở tầm vĩ mô)
3.2.2.1.1 Hoàn thiện hệ thống luật pháp điều chỉnh thương mại đặc biệt là
Pháp lệnh về tự vệ thương mại
Đây là một kiến nghị không mới, mặc dù chúng ta đã hết sức cố gắng trong việc xây dựng và ban hành ra một khung pháp lý phù hợp với pháp luật quốc tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ song như thế chưa đủ. Hệ thống pháp luật điều chỉnh thương mại của chúng ta còn chưa đầy đủ và chưa đồng bộ, đôi khi còn chồng chéo lên nhau gây khó hiểu và hoạt động còn chưa có hiệu quả rõ rệt. Do đó, Nhà nước ta cần phải hoàn thiện hơn nữa hệ thống luật pháp này thông qua quá trình rà soát, sửa đổi, bổ sung, thay thế, loại bỏ hay làm mới các quy định có liên quan Quá trình này phải được tiến hành một cách đồng bộ và thống nhất giữa các Bộ, ngành, cơ quan hữu quan. Ngoài ra để xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh cần nhanh chóng ban hành Luật về cạnh tranh và chống độc quyền, về chống gian lận thương mại và các yếu tố pháp lý quan trọng khác của nền kinh tế thị trường. Quan trọng nhất tạo ra sự thuận tiện và cũng phải đảm bảo tính minh bạch trong nội dung các văn bản đó. Cũng để có ưu thế về cạnh tranh trên bình diện quốc gia, chúng ta cũng phải tạo ra một hành lang pháp lý thuận lợi, an toàn, ổn định, cần phải công khai minh bạch hoá chính sách pháp luật về hoạt động kinh doanh, nhất là các chính sách về xuất nhập khẩu và tài chính. Bên cạnh đó cần xây dựng và công bố lộ trình cụ thể các danh mục cắt giảm thuế quan và phi thuế quan hàng năm để thực hiện các cam kết quốc tế của chúng ta, xây dựng các phương án giảm và ràng buộc thuế quan ở mức trần để đàm phán gia nhập WTO, đồng thời cũng chú trọng xây dựng và hoàn thiện các biện pháp bảo hộ phi thuế quan hữu hiệu phù hợp với thông lệ quốc tế tạo điều kiện bảo hộ hợp lý cho các nhà sản xuất trong nước khi chúng ta buộc phải cắt giảm thuế quan.
Đó là về hệ thống pháp luật điều chỉnh thương mại nói chung còn đối
vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam thì tôi xin có một vài kiến nghị sau đây:
Thứ nhất, Pháp lệnh về tự vệ chỉ quy định về quyền tự vệ của Việt Nam mà chưa đề cập đến các quy định trong trường hợp nào thì Việt Nam sẽ áp dụng biện pháp trả đũa một nước nếu như nước đó đã áp dụng biện pháp tự vệ không có căn cứ hoặc điều kiện áp dụng trái với nguyên tắc và quy định trong các Hiệp định song phương giữa nước đó với Việt Nam. Mặc dù thực tiễn cho thấy Việt Nam chỉ là một đối tác nhỏ bé với lượng hàng hoá chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn trong thương mại quốc tế, trong các tranh chấp thương mại thì bao giờ xu hướng bất lợi cũng nghiêng về phía Việt Nam song việc bổ sung quy định này vào Pháp lệnh trong thời gian tới hoặc xây dựng riêng một văn bản về trả đũa trong thương mại là vô cùng cần thiết để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam.
Thứ hai, Pháp lệnh của ta quy định rằng các biện pháp tự vệ sẽ được rút ngắn trên cơ sở kết quả rà soát của Bộ Thương mại. Việc rà soát này chỉ được thực hiện sau một nửa thời gian áp dụng biện pháp tự vệ đó là 3 năm. Trong khi đó theo tinh thần của Hiệp định về các biện pháp tự vệ thì biện pháp tự vệ sẽ được áp dụng nhưng theo hướng giảm dần mức độ áp dụng mà không cần dựa trên kết quả rà soát nếu như biện pháp tự vệ có thời hạn áp dụng trên 1 năm và dưới 3 năm. Còn trong trường hợp trên 3 năm thì phải tiến hành rà soát biện pháp tự vệ đó trước khi nới lỏng theo như quy định trong Pháp lệnh. Theo tôi, việc nới lỏng mức độ áp dụng biện pháp tự vệ theo thời gian áp dụng là cần thiết cho phù hợp với luật pháp quốc tế chứ không nên quy định một cách cứng nhắc như ở trong Pháp lệnh của ta.
Thứ ba theo quy định của Pháp lệnh tự vệ thì các biện pháp tự vệ được áp dụng không phân biệt đối xử và không phân biệt xuất xứ hàng hoá trừ trường hợp ngoại lệ là các biện pháp tự vệ có thể không áp dụng đối với hàng hoá có xuất xứ từ những nước kém phát triển. Về mặt lý luận, quy định này phù hợp
nhiên trên thực tế việc áp dụng quy định này lại nảy sinh ra một số khó khăn nhất định chẳng hạn như trong số các nước có lượng hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam thì chỉ có một số nước có lượng nhập khẩu tăng mạnh trong khi thị phần nhập khẩu của các nước khác không tăng thậm chí còn giảm đi. Việc áp dụng biện pháp hạn ngạch dựa trên tỷ lệ hàng hoá nhập khẩu sẽ gây bất lợi đối với một số nước có lượng nhập khẩu vaò Việt Nam giảm đi trong khi những nước có lượng nhập khẩu tăng mạnh thì sẽ ít bị ảnh hưởng hơn bởi quyết định của nước áp dụng biện pháp tự vệ, Chúng ta cần thiết phải nghiên cứu bổ sung thêm ngoại lệ này bằng cách đưa thêm vào Pháp lệnh quy định việc phân bổ hạn ngạch, thoả thuận áp dụng hạn ngạch chỉ đối với một số nước có thị phần nhập khẩu tăng lên một cách tuyệt đối hay tương đối so với lượng nhập khẩu trung bình trong khoảng thời gian 3 năm trước đó. Hơn nữa chúng ta cũng nên quy định bổ sung thêm vào khoản 2 điều 21 Pháp lệnh về tự vệ năm 2002 trường hợp nếu thị phần nhập khẩu từ các nước kém phát triển vượt quá bao nhiêu phần trăm thì có thể vẫn áp dụng một biện pháp tự vệ nhằm mục đích kiểm soát được lượng hàng hoá nhập khẩu từ những nước này.
3.2.2.1.2 Nâng cao nhận thức của cơ quan nhà nước và doanh nghiệp về công tác tự vệ thương mại
Vấn đề tự vệ thương mại là một vấn đề còn rất mới mẻ trong nhận thức của các cơ quan từ cấp Nhà nước xuống cấp doanh nghiệp của Việt Nam. Từ trước khi ban hành Pháp lệnh về tự vệ năm 2002 trở về trước, ở Việt Nam chưa hề có một văn bản bản nào quy định hay giải thích về vấn đề này. Sự hiểu biết về vấn đề liên quan đến các biện pháp tự vệ ngay trong các cơ quan và công chức hoạch định chính sách thương mại cũng còn rất hạn chế huống chi là cấp doanh nghiệp địa phương. Kể từ khi ban hành Pháp lệnh tự vệ tháng
5 năm 2002 đến nay thì tình hình đã được cải thiện đôi chút. Chúng ta đã biết được những khái niệm cơ bản nhất về các biện pháp tự vệ. Tuy nhiên sự nhận thức về vấn đề này còn chưa phổ biến và chưa thực sự có chiều sâu. Việc
khác như biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp…vẫn còn thường xuyên và phổ biến. Do đó trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ như hiện nay việc nâng cao nhận thức của các cơ quan nhà nước nói chung và các doanh nghiệp nói một cách cụ thể là hết sức cần thiết. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của chúng ta như Bộ Thương mại, Bộ Tài chính và các Bộ liên quan khác đã nhận thức được tầm quan trọng cũng như là sự cần thiết phải xây dựng và ban hành một chính sách tự vệ thương mại của riêng Việt Nam để chuẩn bị cho tiến trình hội nhập quốc tế một cách phù hợp và an toàn. Song như thế chưa đủ, thực tế thương mại rất phong phú đa dạng và luôn luôn biến động, các vấn đề mới phát sinh ngày càng tinh vi và phức tạp hơn. Những gì chúng ta đã có sẽ sớm trở nên lạc hậu cứng nhắc. Do vậy cùng với việc nâng cao nhận thức của các cơ quan nhà nước để góp phần làm cho hệ thống chính sách thương mại nói chung và tự vệ nói riêng của chúng ta trở nên linh hoạt, hiệu quả và ngày càng hoàn thiện hơn, thì việc nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp cũng cần phải được chú trọng nhằm làm cho các doanh nghiệp hiểu rõ hơn, hiểu toàn diện hơn bản chất của vấn đề trên cơ sở đó có thể tự hoạch định ra cho mình hướng đi và cách làm phù hợp nhất để vừa không trái với nguyên tắc luật lệ chung vừa tận dụng được nhiều cơ hội và thuận lợi nhất.
Để nâng cao nhận thức của các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp về công tác tự vệ thương mại thì chúng ta phải xúc tiến tổ chức nhiều hơn nữa các chương trình, hội thảo bàn về công tác này, học tập và nghiên cứu các kinh nghiệm áp dụng và tiến hành tự vệ của các nước bạn, tổ chức các khoá đào tạo cho các quan chức chính phủ và cho các cá nhân trong ngành thương mại và công nghiệp để giúp họ làm quen hoàn toàn với yêu cầu về điều kiện, trình tự, thủ tục điều tra và các trình tự tiến hành tự vệ…vv
3.2.2.1.3 Xây dựng và kiện toàn bộ máy Nhà nước chuyên trách trong lĩnh vực tự vệ thương mại
Để có thể áp dụng các biện pháp tự vệ cần có một cơ quan chuyên trách chịu trách nhiệm các khâu từ khâu nhận hồ sơ, tiến hành các công việc điều tra, ra quyết định liên quan đến việc áp dụng các biện pháp tự vệ và các
công tác khác như thu thập thông tin, tổ chức các buổi tham vấn, nghiên cứu…vv. Theo quy định của Pháp lệnh về tự vệ thì Bộ Thương mại là cơ quan đầu mối thực hiện các công việc trên, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Thương mại đã được Chính phủ giao. Trên thực tế đa số các nước đều theo mô hình này nhưng cũng có nước chọn mô hình cơ quan chịu trách nhiệm là một cơ quan liên ngành. Nếu theo mô hình cơ quan liên ngành thì tổ chức bộ máy sẽ cồng kềnh dẫn đến việc điều phối sẽ khó khăn hơn. Còn ở Việt Nam, tuy Bộ Thương mại là cơ quan đầu mối chuyên trách có thẩm quyền điều tra và áp dụng biện pháp tự vệ song Bộ này cũng cần phải phối hợp chặt chẽ với một số Bộ ngành hữu quan khác đặc biệt là Bộ Tài chính, các Bộ chuyên ngành phụ trách các ngành sản xuất, Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thống kê… Trên cơ sở đó, Bộ Thương mại sẽ phải lập ra một Nhóm chuyên trách hoặc Nhóm đặc trách theo vụ việc gồm các thành viên đại diện của các Bộ ngành nói trên. Nhóm này sẽ thực hiện chức năng điều tra, đề xuất biện pháp áp dụng và thực thi các công việc liên quan đến việc áp dụng các biện pháp tự vệ.
Vấn đề thành lập cơ quan trực thuộc Bộ Thương mại chuyên quản lý và điều tra, giám sát việc thực hiện các biện pháp tự vệ cần phải được xúc tiến nhanh và phải đảm bảo hoạt động của các cơ quan này không bị chi phối từ phía Chính phủ cũng như các doanh nghiệp, không bị chồng chéo về thẩm quyền với các cơ quan khác và quan trọng là phải đảm bảo được tình hình nhân sự trong hoàn cảnh hiện nay khi chúng ta đang cải cách bộ máy nhà nước sao cho gọn nhẹ mà hoạt động vẫn có hiệu quả. Như vậy vấn đề này cần được Chính phủ sớm quy định cụ thể trong văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này.
3.2.2.1.4 Tư vấn và hỗ trợ các doanh nghiệp những thông tin về tự vệ thương mại
Vấn đề thông tin trong thời đại hiện nay không còn là một vấn đề nan giải như trước đây. Ngày nay nhờ vào các phương tiện thông tin đại chúng phổ biến như truyền thanh, truyền hình, mạng Internet…chúng ta có thể có được bất kỳ thông tin cần thiết vào bất kỳ lúc nào và bất cứ ở đâu. Vấn đề đặt
thực và hữu ích cho vấn đề mà chúng ta đang nghiên cứu. Cụ thể ở đây là vấn đề tự vệ thương mại. Vì đây là một chủ đề còn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam nên thông tin về vấn đề này ở Việt Nam còn rất hạn chế và sơ sài. Do đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần sớm ban hành những văn bản thông tin có liên quan đến vấn đề tự vệ thương mại trong nước và quốc tế để nâng cao sự hiểu biết cho các doanh nghiệp về vấn đề này đồng thời cũng để hướng dẫn, tư vấn các doanh nghiệp trong việc nhận biết các nguy cơ, điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ cũng như các thủ tục cần thiết để yêu cầu áp dụng tự vệ và các nghĩa vụ cần phải làm để trợ giúp các cơ quan chức năng trong quá trình điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đó. Ngoài ra việc thông tin đầy đủ, tư vấn kịp thời cho các doanh nghiệp cũng sẽ góp phần làm cho các doanh nghiệp nâng cao nhận thức của mình về chính sách cơ chế tự vệ thương mại ở Việt Nam cũng như thực tiễn áp dụng trên thế giới để từ đó hoạt động có hiệu quả hơn, tận dụng được những cơ hội ưu đãi, trợ giúp đồng thời tránh được những thiệt hại đáng tiếc cho doanh nghiệp mình.
3.2.2.2 Đối với doanh nghiệp ( ở tầm vi mô)
3.2.2.2.1 Tham gia vào các Hiệp hội Doanh nghiệp để tăng cường sức mạnh trong tự vệ thương mại
Hiện nay ở Việt Nam, Hiệp hội các doanh nghiệp cùng ngành nghề đã ra đời. Việc thành lập này có ý nghĩa rất quan trọng khi xảy ra tranh chấp thương mại với các doanh nghiệp nước ngoài vì rằng các doanh nghiệp của chúng ta thường hoạt động một cách độc lập, không dựa trên cơ sở liên kết ngành nghề do đó việc tương trợ lẫn nhau khi xảy ra tranh chấp với bên nước ngoài là rất khó khăn. Thực trạng hiện nay là tuy các doanh nghiệp đã hợp tác với nhau trong các hoạt động thương mại quốc tế nhưng sự hợp tác này chỉ dựa trên mức độ nhất định, còn nặng về quản lý hành chính và mang tính “câu lạc bộ” chứ chưa thực sự là nơi các chủ doanh nghiệp có thể tin tưởng trao cho nó những thẩm quyền nhất định. Qua các vụ kiện về bán phá giá cá tra, cá ba
Canada.. chúng ta hơn lúc nào hết ý thức được rằng việc thành lập các Hiệp hội cùng ngành nghề hay Hiệp hội doanh nghiệp là rất cần thiết, trước là để cung cấp các thông tin pháp lý và tập quán thương mại của thị trường nước ngoài cho các doanh nghiệp trong nước để họ có được những điều chỉnh phù hợp, tránh được những tranh chấp thương mại bất lợi cho chúng ta, sau là tham gia bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam khi xảy ra tranh chấp với đối tác nước ngoài. Đặc biệt yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ thường do tập hợp các doanh nghiệp cùng ngành nghề yêu cầu nên cũng cần xây dựng các quy tắc pháp lý chặt chẽ để tránh trường hợp các doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở pháp luật để thủ tiêu cạnh tranh và gây ra cản trở thương mại, ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam.
3.2.2.2.2 Chủ động tiếp cận và chuẩn bị đầy đủ kiến thức về tự vệ thương mại
để sử dụng khi cần thiết tiến hành tự vệ
Việc tiếp cận và tự tranh bị cho mình những kiến thức về tự vệ thương mại ở các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự được quan tâm và chú trọng đúng mức. Thực tế ở Việt Nam trong thời gian qua cho thấy tuy chúng ta chưa thực sự tiến hành bất cứ biện pháp nào dưới danh nghĩa tự vệ thương mại nhưng đã có một số ngành nghề xuất khẩu của chúng ta bị phía nước ngoài áp dụng biện pháp tự vệ và gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu của ta, và chỉ trong doanh nghiệp xuất khẩu nào bị ảnh hưởng, tác động bất lợi bởi việc áp dụng biện pháp tự vệ của phía nước ngoài thì mới có nhu cầu tìm hiểu và trang bị cho mình những kiến thức về tự vệ thương mại. Đây thực sự là một nhược điểm của các doanh nghiệp Việt Nam cần sớm được khắc phục. Các doanh nghiệp nên sớm tạo cho mình thế chủ động trong mọi tình huống. Bên cạnh sự trợ giúp của các cơ quan nhà nước hay các Hiệp hội cùng ngành nghề thì các doanh nghiệp cũng cần phải tự tìm hiểu và tự chuẩn bị cho mình đầy đủ các thông tin kiến thức về chủ trương chính sách tự vệ thương mại của nước ta nói riêng và tình hình tự vệ thương mại của thế giới nói chung để trên cơ sở đã hiểu sâu bản chất, nắm bắt kịp thời vấn đề thì các doanh nghiệp có thể chủ động đối phó lại với những tình huống khi bị nước khác áp dụng biện pháp tự vệ
cũng như khi cần thiết phải yêu cầu Nhà nước ta sử dụng biện pháp tự vệ để bảo vệ quyền và lợi ích của doanh nghiệp nói riêng, của quốc gia nói chung.
3.2.2.2.3 Khẩn trương tìm hiểu, chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, bằng chứng để yêu cầu tiến hành áp dụng biện pháp tự vệ hay biện pháp trả đũa
Các doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ bởi vì đây là những đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp của việc hàng hoá nhập khẩu gia tăng hay chịu tác động bất lợi trực tiếp bởi việc áp dụng các biện pháp tự vệ của các nước khác. Doanh nghiệp là những nhân tố chính trong cuộc điều tra và đưa ra những bằng chứng trong quá trình điều tra, chính vì vậy các doanh nghiệp cần thiết phải có những hành động sau:
- Phải giám sát thường xuyên tác động của hàng nhập khẩu đối với ngành công nghiệp nội địa. Phải thông báo ngay lập tức khi có sự thiệt hại nghiêm trọng hay sự đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng xuất phát từ việc gia tăng của lượng hàng nhập khẩu. Các doanh nghiệp phải tiếp xúc với cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước mà cụ thể ở đây là Bộ Thương mại để đưa đơn kiến nghị và yêu cầu điều tra, áp dụng biện pháp tự vệ.
- Khi công việc điều tra bắt đầu các doanh nghiệp chịu trách nhiệm chính trước ngành sản xuất nội địa về việc khẩn trương tìm hiểu, chuẩn bị đầy đủ và cung cấp các bằng chứng liên quan đến thiệt hại nghiêm trọng và mối quan hệ nhân quả giữa việc gia tăng nhập khẩu và sự tổn hại nghiêm trọng cho Bộ Thương mại.
- Để đề phòng việc áp dụng biện pháp tự vệ của một nước khác, các doanh nghiệp cũng nên thiết lập một hệ thống thu thập, thống kê định kỳ về việc sản xuất và buôn bán các sản phẩm nhạy cảm ở các nước khác. Việc theo dõi những mặt hàng và thông tin đăng tải trên báo chí cũng rất hữu ích. Tất cả những thông tin đó có thể cảnh báo trước cho họ về một cuộc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ sắp được tiến hành.
- Khi công việc điều tra được tiến hành, các doanh nghiệp phải trình bày vấn đề trước các cơ quan có thẩm quyền cho nên họ cần chuẩn bị đầy đủ bằng chứng, chứng cứ, thông tin, ý kiến đóng góp…để sử dụng khi cần thiết.
Những thông tin thu thập được theo cách trên rất hữu ích trong trường hợp này.
3.2.2.3 Một số kiến nghị khác
Thứ nhất là Pháp lệnh về tự vệ trong việc nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam ra đời được hơn một năm nhưng vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ và cơ quan chuyên trách về lĩnh vực tự vệ thương mại chịu sự quản lý của Bộ Thương mại cũng chưa ra đời cho đến thời điểm hiện nay. Do đó việc sớm ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh sẽ cụ thể hoá được các quy định trong Pháp lệnh, tránh được việc áp dụng không đúng với tinh thần chung của pháp luật Việt Nam về tự vệ thương mại.
Thứ hai là để thực hiện tốt công tác tự vệ thương mại trong thời gian tới thì không chỉ Bộ Thương mại- là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm điều tra, áp dụng biện pháp tự vệ và các doanh nghiệp trong ngành sản xuất nội địa chịu tác động của việc gia tăng hàng nhập khẩu là có liên quan và có trách nhiệm thực hiện tốt vấn đề này mà các Bộ ban ngành khác có thẩm quyền đối với ngành sản xuất bị ảnh hưởng như: Bộ Tài Chính, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thônh, Bộ Thuỷ Sản…cũng có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ, tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ hay trực tiếp tham gia cùng với các cơ quan chức năng chuyên trách và các đối tượng chính của vụ việc.
Thứ ba là cơ chế tự vệ thương mại này chỉ nên sử dụng trong trường hợp thực sự cần thiết và chỉ nên áp dụng cho một số ngành nhạy cảm và quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đó phải là những ngành mà nếu bị thiệt hại thì sẽ gây ra những tác động xấu đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do đó khi thu nhận hồ sơ yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp tự vệ của một ngành sản xuất thì Bộ Thương mại phải suy xét và cân nhắc cẩn thận về việc có thật sự cần thiết phải tiến hành điều tra, áp dụng biện pháp tự vệ đối với ngành sản xuất đó không hay chỉ cần sử dụng một số hạn chế đơn giản hoặc chỉ cần đàm phán, sửa đổi một số cam kết… Bởi một khi đã tuyên bố áp dụng biện pháp tự vệ thì nguy cơ bị trả đũa thương mại là rất cao. Và
trong một số trường hợp thì thiệt hại do bị trả đũa thương mại khi áp dụng biện pháp tự vệ còn lớn hơn và nghiêm trọng hơn thiệt hại gây ra bởi việc gia tăng hàng nhập khẩu. Trong bối cảnh Việt Nam là một nước nhỏ bé, tiềm lực kinh tế chưa mạnh, lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường quốc tế là không đáng kể, lại mới tiến hành mở cửa được hơn 10 năm nay với vị thế trên trường quốc tế còn rất khiêm tốn thì vấn đề này lại càng phải được các cơ quan có thẩm quyền quan tâm, xem xét đến nhiều hơn.
KẾT LUẬN
Tổ chức thương mại thế giới đã quy định về các biện pháp tự vệ trong Điều XIX và hành động tự vệ khẩn cấp của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1994, được cụ thể hoá trong Hiệp định về các biện pháp tự vệ của Tổ chức thương mại thé giới. Hầu hết các nước trên thế giới đều đã có luật quy định về cơ chế tự vệ của nước mình, hay chấp nhận và thực thi Hiệp định về các biện pháp tự vệ của WTO. Ngay trong phạm vi các khu vực mậu dịch tự do mà AFTA là một ví dụ, cũng có quy định cho phép các nước thành viên áp dụng các biện pháp tự vệ khi có sự gia tăng nhập khẩu gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Như vậy có thể nói các biện pháp tự vệ giống như chiếc van an toàn, hợp pháp nhằm bảo vệ nền kinh tế ngay trong trường hợp thương mại diễn ra lành mạnh.
Còn đối với Việt Nam chúng ta, tuy đã có những thay đổi to lớn trong những năm vừa qua nhưng nếu so sánh với các nước khác trong khu vực thì trình phát triển của chúng ta vẫn còn thua họ một khoảng cách khá xa. Do vậy, cần có một sự bảo hộ nói chung và một cơ chế tự vệ nói riêng cho các ngành sản xuất trong nước vì tương lai của nền kinh tế quốc nội. Tuy nhiên, cần bảo hộ tự vệ một cách có điều kiện, không tràn lan, nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước phát triển nhưng không làm cho người sản xuất ỷ lại vào chính sách bảo hộ mậu dịch và tự vệ thương mại, dẫn tới thói quen cẩu thả lãng phí và mất đi khả năng thích ứng linh hoạt. Chính sách bảo hộ và tự vệ cũng cần phải giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa lợi ích của người sản xuất và lợi ích của người tiêu dùng.
Để việc bảo hộ nền sản xuất trong nước có hiệu quả thông qua các biện pháp tự vệ và để các doanh nghiệp trong nước thực sự phát triển và có đủ sức cạnh tranh trong điều kiện thị trường tự do sắp tới thì Nhà nước ta một mặt cần phải xây dựng và hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp lý về thương mại nói chung và tự vệ thương mại nói riêng, xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước chuyên trách trong lĩnh vực tự vệ thương mại, Mặt khác
cũng cần phải có những biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp thông qua các hình thức như thành lập các trung tâm xúc tiến mậu dịch với nhiệm vụ xúc tiến đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp thâm nhập thị trường và tìm kiếm bạn hàng mới.
Các quyền lợi riêng khi áp dụng biện pháp tự vệ sẽ tạo ra cho quốc gia đó một lợi thế nhất định, nhưng trong những điều kiện riêng biệt nó sẽ triệt tiêu cạnh tranh, đe doạ sự tiến bộ và phát triển của các ngành sản xuất, duy trì sự ỷ lại của nền kinh tế quốc nội. Do yêu cầu thương mại quốc tế hiện nay mà các nước cần phải từng bước hạn chế và dỡ bỏ dần sự bảo hộ đối với các doanh nghiệp của mình, tạo điều kiện cho giao lưu thương mại được phát triển.
Riêng đối với Việt Nam, đây cũng là một thách thức không nhỏ nhất là khi ở nước ta các doanh nghiệp vốn đã quen được bảo hộ, trợ cấp, nền kinh tế đang chuyển đổi còn chưa ổn định, sức cạnh tranh chưa cao. Khó khăn mà chúng ta gặp phải trong thời gian tới chắc chắn không phải là ít nhưng nếu vượt qua được những trở ngại đó thì chúng ta không những có thể trụ vững ở thị trường trong nước mà còn có thể có được chỗ đứng trên thị trường thế giới rộng lớn. Trong điều kiện như vậy việc duy trì mức độ bảo hộ hợp lý thông qua các biện pháp tự vệ và một số biện pháp khác vẫn là cần thiết cho sự phát triển bền vững về lâu dài của nền kinh tế xã hội nước ta.
Danh mục tài liệu tham khảo
VĂN BẢN PHÁP LUẬT
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại- GATT 1994
Hiệp định về các biện pháp tự vệ.
Hiệp định về việc thực thi Điều VI của Hiệp định GATT.
Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam
2002
Pháp lệnh về đối xử Tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại
quốc tế 2002.
Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 1998 quy định chi tiết thi hành luật thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài.
Điều khoản 201- Luật thương mại Hoa Kỳ 1974 (19 USC 2251 et sed.) Quy chế số 3285/94/EC- Quy chế về các biện pháp tự vệ của EU (Bản tiếng Pháp)
Quy tắc chung về tự vệ thương mại của Trung Quốc (Bản tiếng Pháp)
Quy tắc về những biện pháp khẩn cấp khi có sự gia tăng hàng nhập khẩu và Sắc lệnh liên bộ về thuế nhập khẩu đặc biệt áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu quá mức vào Nhật (Bản tiếng Pháp).
SÁCH VÀ TẠP CHÍ THAM KHẢO
Tổ chức thương mại thế giới (WTO)- Bộ Ngoại Giao, Vụ Hợp tác kinh tế đa phương, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2000
Hướng dẫn doanh nghiệp về hệ thống thương mại thế giới- Trung tâm thương mại quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2001
Việt Nam hội nhập trong xu thế toàn cầu hoá, vấn đề và giải pháp- Bộ
Ngoại Giao, Vụ Hợp tác Kinh tế đa phương, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
2002.
Những điều cần biết về Tổ chức thương mại thế giới và tiến trình gia nhập của Việt Nam- Bộ Thương mại, Viện nghiên cứu thương mại, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 1998.
Hỏi đáp về WTO- Trần Thanh Hải, Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế
quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2002
Chính sách thương mại trong điều kiện hội nhập- Hoàng Văn Thân, Đại học kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2001
Gia nhập WTO, cơ hội và thách thức- Mai Phương Hoa, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 2/2003.
Hàng rào phi thuế quan và yêu cầu của Hiệp định thương mại Việt
Nam- Hoa kỳ- Bùi thị Bích Liên, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 8/2003
Bán phá giá và biện pháp, chính sách chống bán phá giá hàng nhập khẩu,-Đoàn Văn Trường, Nhà xuất bản Thống kê 1998.
Tài liệu Hội thảo về Pháp lệnh đối xử Tối huệ quốc và đối xử quốc gia, Pháp lệnh về tự vệ trong thương mại quốc tế, Nhà Pháp luật Việt- Pháp 2001.
Giới thiệu nội dung hai Pháp lệnh: Pháp lệnh về đối xử Tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế và Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam- Tài liệu phục vụ họp báo ngày
11/6/2002, Phòng WTO- Bộ Thương mại
Hệ thống thương mại thế giới- Luật và chính sách về các quan hệ kinh tế quốc tế- Jonh. H. Jackson, Bản dịch của Phạm Viên Phương và Huỳnh Văn Thanh, Nhà xuất bản Thanh Niên 2001.
Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế- Trường Đại học Luật Hà nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân 2001.
Pháp luật kinh doanh theo Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa kỳ-
Phạm Minh, Nhà xuất bản Thống kê 2001
Phác thảo nền kinh tế Mỹ (Outline of the US economy)- Dịch giả Thế
Hoà, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2003.
Hướng dẫn tiếp cận thị trường Hoa Kỳ- Bộ Thương mại, Nhà xuất bản
Thống kê 2001
Mỹ điều chỉnh chính sách kinh tế- Trung tâm KHXH & Nhân văn Quốc gia- Trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ, Nhà xuất bản Khoa học xã hội 2003
Cẩm nang cho các doanh nghiệp thâm nhập thị trường Trung Quốc- Viện nghiên cứu thương mại, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2001
Chính sách ngoại thương Nhật Bản- Bùi Xuân Lưu và Trần Quang
Minh, Nhà xuất bản Giáo dục 2001
Kinh doanh với thị trường Nhật Bản- Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động 2001
Droit international économique- Patrick Juillard & Dominique Carreau. L.G.D.J, Paris 1998
L’organisation mondiale du Commerce- Droit institutionnel et subtantiel du GATT/ OMC- Thiébaut Flory, Bruyant Bruxelles 1999
Business Guide to the world trading system, Gary C. Hufbauer & Kimberly A. Elliot, 1996
Tạp chí Nghiên cứu Châu âu các số từ năm 2000 đến 2003
Thời Báo Kinh tế Việt Nam các số từ năm 2000 đến 2003 (www.vneconomy.com.vn)
Tạp chí Cộng sản năm 2002 (www.tapchicongsan.org.vn)
Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc các số từ năm 1998 đến 2003
Các Tài liệu, thông tin, số liệu tham khảo khác từ các trang Web sau:
www.wto.org www.europa.eu.int www.usitc.gov.com www.mot.gov.vn www.dei.gov.vn www.vcci.com.vn www.vietrade.gov.vn
www.mofa.gov.vn www.media.vcd.com www.smenet.com.vn
…vv
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8336.doc