Các biện pháp phát triển thị trường hàng xuất khẩu ở Việt Nam

Lời nói đầu Trong xu thế toàn cầu hoá của đời sống kinh tế thế giới bước vào thế kỷ 21, chủ động tham gia hội nhập có kết quả và nhanh chóng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế là vấn đề mà đang được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm; trong dự thảo báo cáo chính trị Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế” và “Nâng cao rõ rệt chất lượng sức cạnh tranh và hiệu quả phát triển kinh tế”

doc47 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1566 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các biện pháp phát triển thị trường hàng xuất khẩu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Với định hướng mà Đảng đã đề ra, để nâng cao hiệu quả của hội nhập và “chất lượng sức cạnh tranh”, Việt Nam cần thực hiện những biện pháp hữu hiệu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt thực hiện những giải pháp mở rộng thị trường ngoài nước nhằm tăng cường xuất khẩu, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế của cả nước. Với mục tiêu quan trọng trên, chúng tôi thấy cần thiết phải nghiên cứu chuyên đề “Các biện pháp phát triển thị trường hàng xuất khẩu ở Việt Nam”. Mục tiêu của chuyên đề “Các biện pháp phát triển thị trường hàng xuất khẩu ở Việt Nam” là: đưa ra các giải pháp nhằm mở rộng thị trường, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, chủ yếu tập trung vào việc đẩy mạnh xuất khẩu; những vấn đề bức xúc hiện nay và những khó khăn, tồn tại trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam bao gồm các vấn đề về cơ chế chính sách, mặt hàng, thị trường xuất khẩu, những ách tắc trong quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu cũng như xác định và định hướng những mặt hàng xuất khẩu trọng điểm, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là thực trạng hoạt động thương mại, kim ngạch, mặt hàng, thị trường xuất nhập khẩu (tập trung chủ yếu về xuất khẩu) của Việt Nam giai đoạn 1999 - 2003, các cơ chế, chính sách sau khi ban hành Luật Thương mại nhằm mở rộng thị trường trong và ngoài nước, tăng cường các hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương: Chương I : Thương mại quốc tế và chính sách thúc đẩy xuất khẩu. Chương II : Một số chính sách thúc đẩy xuất khẩu và tác động của nó tới hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam Chương III : Một số biện pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy xuất khẩu ở Việt nam. Chương I Thương mại quốc tế và chính sách thúc đẩy xuất khẩu i. thương mại quốc tế và vai trò của nó đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. 1- ý nghĩa của thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của mỗi quốc gia . Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ cách biệt với thế giới xung quanh.Thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì một lí do cơ bản là ngoại thương mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất tiêu dùng trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán. Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội.Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật phạm vi chuyên môn hoá ngày một tăng. Số sản phẩm cùng dịch vụ để thoả mãn nhu cầu con người ngày một dồi dào, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng. Thương mại quốc tế xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản xuất những mặt hàng cụ thể và xuất khẩu những hàng hoá của mình để nhập khẩu những hàng hoá cần thiết từ nước khác. Sự khác nhau về điều kiện sản xuất cũng giải thích được một số việc buôn bán giữa các nước, buôn bán các mặt hàng như dầu lửa, lương thực, dịch vụ, du lịch... Song như chúng ta được biết phần lớn số lượng thương mại quốc tế thuộc những mặt hàng không xuất phát từ những điều kiện vốn có của sản xuất như: Mỹ đã sản xuất được ô tô sao lại nhập ô tô của Nhật, cộng hoà liên bang Đức, Nam Triều Tiên... Để có thể giải thích những lí do này người ta đã xây dựng nhiều lý thuyết nhằm giải thích tại sao các quốc gia lại trao đổi với nhau. 2. Vai trò của thương mại quốc tế đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Thương mại quốc tế có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, không chỉ do nó cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia mà nó còn giúp quốc gia đó phát triển. Bên cạnh đó có nhiều lý do khác khiến thương mại quốc tế trở nên vô cùng quan trọng. Thương mại quốc tế cần thiết cho việc thực hiện chuyên môn hoá sâu để có hiệu quả kinh tế trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại. Chuyên môn hoá quy mô lớn làm cho chi phí sản xuất giảm và hiệu quả kinh tế theo quy mô sẽ được thực hiện ở từng nước trong các nước khác nhau. Sự khác nhau về sở thích hay mức cầu cũng là một nguyên nhân khác để có thể buôn bán. Ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt đối trong hai nơi giống hệt nhau, buôn bán vẫn có thể diễn ra do khác nhau về sở thích. Có thể nói nhu cầu trao đổi xuất hiện từ thời cổ đại nhưng chỉ từ khi ra đời của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mới phá vỡ tính chất đóng kín của từng đơn vị kinh tế trong từng quốc gia và của từng nước. Thực tế chứng minh rằng không một quốc gia nào có thể bằng chính sách đóng cửa với nước ngoài lại phát triển nhanh và có hiệu quả kinh tế cao được. Muốn phát triển nhanh, mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng có hiệu quả tất cả các thành tựu kinh tế, khoa học kỹ thuật của nhân loại đã đạt được. Nền kinh tế mở cửa sẽ mở ra những tiềm năng sẵn có của một nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất. Mở rộng thương mại quốc tế và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại là vận dụng một trong những bài học kinh nghiệm quý báu rút ra từ thực tiễn nước ta trong những năm qua. Đại hội VIII Đảng ta khẳng định: “ chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt thể chế chính trị, xã hội trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình ”. Cho đến nay dù thành tựu đã đạt được xong chưa có thể giúp chúng ta thoát khỏi vị trí là một trong những nước nghèo trên thế giới nhưng cũng có những kết quả đáng mừng từ chính sách mở rộng thương mại, giao lưu kinh tế với bên ngoài. Nước ta đang từng bước chuyển mình với nhịp độ sản xuất mới bằng những công nghệ khoa học tiên tiến. Tin tưởng rằng, với những hướng đi đúng dắn, với những ưu thế của mình và sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Việt nam sẽ trở thành một mắt xích quan trọng trong nền kinh tế thế giới. II. Vị trí, vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển của một quốc gia. 1. Vị trí của xuất khẩu hàng hoá. Xuất khẩu hàng hoá là những việc mua bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ của một nước này với các nước khác và dùng ngoại tệ làm phương tiện trao đổi. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trong nền kinh tế có thương mại quốc tế mở rộng bao gồm cả việc bán sản phẩm hàng hoá ra nước ngoài và nhập khẩu sản phẩm từ nước khác. Kinh doanh xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán thuộc phạm vi quốc tế và là hoạt động kinh tế thương mại rất phức tạp. Do đó nó không chỉ là một hành vi bán riêng lẻ mà là cả một quá trình kinh doanh phức tạp bao gồm nhiều khâu khác nhau. Trong thời đại ngày nay, thời đại của cùng tồn tại hoà bình, cùng vươn tới ấm no hạnh phúc và cũng là thời đại của việc vươn tới mở cửa và mở rộng giao lưu kinh tế. Do đó xu hướng phát triển của nhiều nước trong những năm gần đây là thay đổi chiến lược kinh tế từ “đóng cửa” sang “mở cửa” và từ “thay thế nhập khẩu” sang “hướng vào xuất khẩu”. Có thể nói đây là con đường đúng đắn cho sự phát triển vượt bậc giúp cho nền kinh tế của mỗi quốc gia ngày càng phát triển. Đối với những nước mà nền kinh tế chưa phát triển cao như nước ta thì những nhân tố thuộc về tiềm năng như lao động và tài nguyên thiên nhiên là rất lớn trong khi các nhân tố như vốn, kỹ thuật - công nghệ, và kinh nghiệm quản lý còn thiếu. Vì vậy, chiến lược hướng vào xuất khẩu thực chất là giải pháp “mở cửa ” nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài kết hợp với những tiềm năng bên trong về lao động và tài nguyên thiên nhiên sẽ giúp cho nền kinh tế Việt nam tăng trưởng nhanh, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo. Mặt khác, Việt nam cũng phải ra sức phát triển sản xuất, xuất khẩu hàng hoá, nhập khẩu những công nghệ mới tiên tiến nhằm thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế đã đặt ra. Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Ngoài ra, xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài cho phép chúng ta khai thác được tiềm năng, thế mạnh về sức lao động và tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, nền sản xuất xã hội phát triển như thế nào trong giai đoạn hiện nay phụ thuộc rất lớn vào hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu không những được thừa nhận là hoạt động cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại mà nó còn là một phương tiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do vậy, các Chính phủ ở các quốc gia trong chiến lược phát triển kinh tế của mình đều coi hoạt động xuất khẩu là một hoạt động trọng tâm để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. 2. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với nền kinh tế quốc dân. Trên thực tế ta thấy, bất cứ một ngành sản xuất hay kinh doanh nào muốn thu hút được kết quả cao đều phải biết khai thác và phát huy triệt để những lợi thế sẵn có ở bên trong cũng như bên ngoài một cách đúng đắn và hợp lý. Đối với hoạt động xuất khẩu của Việt nam cần phải tận dụng các nguồn tiềm năng để mang lại hiệu quả ngày càng cao. Chúng tá có những điều kiện thuận lợi: nước ta là một nước Đông nam á nằm ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương - khu vực được coi là phát triển “năng động”, có tầm chiến lược ngày càng quan trọng trên bản đồ chính trị và kinh tế thế giới. Vị trí của Việt nam nằm trên tuyến đường giao lưu hàng hải quốc tế từ các nước SNG, Trung Quốc, Nhật bản, Nam Triều Tiên sang các nước Nam á, Trung Đông, và Châu phi. Với một vị trí thuận lợi như vậy tạo điều kiện cho Việt nam tham gia vào phân công lao động quốc tế và trong sự hợp tác với các nước trong khối ASEAN, trong khu vực, và các nước trên thế giới một cách dễ dàng. Mặt khác, nó cũng góp phần đẩy mạnh hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Không những thế, Việt nam còn có biển chạy dọc theo chiều dài đất nước, nhất là từ Phan Thiết trở vào còn có cảng nước sâu, khí hậu tốt, không có sương mù, tàu bè nước ngoài có thể cập bến an toàn quanh năm. Điều này rất thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán giữa các nước. Mặt khác, về vận tải hàng không, tuy chúng ta chưa có nhiều sân bay nhưng chúng ta có sân bay Tân Sơn Nhất nằm ở vị trí lý tưởng cách đều thủ đô các thành phố quan trọng trong vùng như Băng cốc (Tháilan), Giacacta (Indonexia), Mamila (Philipin). Thông qua đó cho phép chúng ta mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại cũng như hoạt động xuất nhập khẩu. Cùng với vị trí địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên ở nước ta cũng là một trong những nguồn tiềm năng góp phần vào việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Hơn nữa nước ta lại có hệ thống sông ngòi dày đặc giúp cho việc phát triển hệ thống giao thông đường thuỷ tạo điều kiện phát huy thế mạnh cho việc vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu của nước ta với các nước trên thế giới được dễ dàng thuận lợi hơn và chi phí thấp hơn so với các phương tiện khác. Về nguồn nhân lực Việt nam có lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ. Việt nam là thị trường đáng kể và là đối tượng được quan tâm của giới kinh doanh quốc tế. Thêm vào đó, việt nam có tình hình chính trị - xã hội tương đối ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế mấy năm qua đạt tỷ lệ cao so với các nước trong khu vực. Chúng ta có sự cải thiện liên tục tình hình kinh tế, pháp luật và chính sách thương mại. Đó là những nhân tố tạo niềm tin và sức hấp dẫn cho các đối tượng nước ngoài. Bên cạnh những cơ hội, chúng ta cũng còn gặp rất nhiều khó khăn trong sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Vì xuất phát điểm của chúng ta quá thấp. Thách thức gay gắt nhất là nguy cơ “tụt hậu ” xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vục và trên thế giới. Mỹ và phương tây tiếp tục mưu toan thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”. Gây áp lực đối với chúng ta về vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, đa nguyên đa đảng. Nguy cơ đi chệch hướng XHCN. Nền kinh tế trong nước còn nhiều yếu kém. Vẫn hiện trạng tham ô, tham nhũng nhiều. Bộ máy quản lý còn quan liêu, thủ tục hành chính còn dườm dà. Đội ngũ cán bộ vừa thiếu lại vừa yếu, đặc biệt đối với cán bộ thuộc lĩnh vực ngoại thương. Nhận thức rõ những điều kiện thuận lợi và khó khăn trên Đảng và Nhà nước ta đã đề ra phương hướng chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Đáp ứng tốt nhu cầu của sản xuất và đời sống. Hướng mạnh vào xuất khẩu, thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả. Mở rộng quan hệ kinh tế đối với các nước, các tổ chức quốc tế, các công ty và các tư nhân nước ngoài, trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy đẩy mạnh xuất khẩu có vị trí, vai trò quan trọng trong đổi mới cơ cấu kinh tế, thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vai trò của xuất khẩu được thể hiện ở các mặt sau: 2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. ở nước ta, để thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước trong thời gian ngắn, đòi hỏi chúng ta phải có nguồn vốn lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn sau: đầu tư nước ngoài, vay nợ hoặc viện trợ, ngoại tệ thu được từ các nguồn khác. Trong các nguồn trên thì các nguồn như vay nợ và đầu tư nước ngoài tuy quan trọng nhưng cũng phải trả sau này. Và việc sử dụng chúng một cách thái quá sẽ gây hậu quả cho việc trả nợ về sau. Vì vậy, nguồn từ xuất khẩu là nguồn thu ngoại tệ quan trọng phục vụ cho quá trình nhập khẩu, phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng nên nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng của việc xuất khẩu bởi xuất khẩu - nguồn vốn duy nhất để trả nợ. 2.2 Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta . Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa.Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản là chưa đủ cho nhu cầu tiêu dùng nếu chỉ thụ động chờ sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Sản xuất và thay thế cơ cấu kinh tế cũng sẽ rất chậm chạp. Hai là, coi thị trường đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điển thứ hai chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này nên sản xuất thể hiện ở các mặt sau: Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành có cơ hội phát triển thuận lợi. Ví dụ khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội đầy đủ cho việc phát triển các ngành sản xuất nguyên liệu như bông, vải sợi... Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu gạo, chè, cà phê... sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất nông nghiệp và các ngành chế biến có liên quan. Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển ổn định. Khi sản xuất bắt đầu lớn mạnh thị trường trong nước không đủ khả năng làm cho sản xuất phát triển mạnh được, chỉ có thị trường rộng lớn ở bên ngoài mới có thể đảm bảo cho sự phát triển mạnh mẽ và không ngừng của các ngành nghề trong nước và đảm bảo sản xuất phát triển ổn định. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn, kỹ thuật và công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước tạo ra một năng lực sản xuất mới. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất hình thành cơ cấu sản xuất thích nghi với thị trường. Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và không ngừng phát triển trong hoạt động kinh doanh của mình để có thể đứng vững trong cạnh tranh trên thị trường thế giới. 2.3 Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống của nhân dân bao gồm rất nhiều mặt: Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi tiêu thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập không nhỏ. Hơn nữa, xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu các vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân hiện nay. 2.4 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước. Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh trế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là hoạt động kinh tế đôi ngoại, khi xuất khẩu phát triển nó cũng thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển theo như quan hệ về chính trị và ngoại giao. Mặt khác các quan hệ chính tri, kinh tế, ngoại giao phát triển mạnh lại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển. III. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu. 1. Vì sao phải có chính sách thúc đẩy xuất khẩu. Khác với hoạt động thương mại trong nước, xuất khẩu thuộc phạm vi của thương mại quốc tế, do vậy nó chịu sự chi phối và điều khiển của các quy luật vượt ra khỏi phạm vi biên giới của một quốc gia. Chính vì thế mà hoạt động xuất khẩu thường phức tạp hơn nhiều so với các hoạt động thương mại trong nước. Nếu để hoạt động xuất khẩu tự do không có các biện pháp điều chỉnh và thúc đẩy thì hoạt động xuất khẩu sẽ không hiệu quả và gặp nhiều khó khăn bởi các lý do sau đây: 1.1 Những khó khăn của hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu phụ thuộc vào rất nhiều các điều kiện khác nhau, đồng thời trong quá trình tiến hành hoạt động xuất khẩu cũng nảy sinh nhiều vấn đề có tính chất đặc thù của loại hình này. Một trong những điều kiện để có được các sản phẩm có khả năng cạnh tranh quốc tế là sự tồn tại của một hệ thống các điều kiện khung về chính sách thích hợp cho sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm thích hợp cho xuất khẩu.Các điều kiện khung này bao gồm các điều kiện về pháp lý, thuế và các thủ tục hành chính. Ngoài ra còn phải kể đến các điều kiện để tiến hành hoạt động nhập khẩu cũng như triển khai đầu tư trực tiếp của nước ngoài để tận dụng các khả năng chuyển giao công nghệ. Nhân tố thứ hai gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu là vấn đề về thông tin của thị trường xuất khẩu. Các thông tin này thường khó thu nhận hơn là các thông tin ở thị trường trong nước. Các thông tin này bao gồm cả thông tin về thị trường như: khả năng tiêu thụ, yêu cầu chất lượng, tình hình cạnh tranh, các quy định về hạn chế nhập khẩu, những hiểu biết riêng về khách hàng và độ tin cậy của khách hàng. Do tính năng động của thị trường mà ngoài những hiểu biết riêng, cơ bản còn cần phải tiếp tục theo dõi diễn biến của thị trường để có thể phản ứng linh hoạt trước những thay đổi của tình hình. Khi đã có những thông tin cần thiết, cần triển khai các hoạt động xúc tiến xuất khẩu và marketing xuất khẩu. Do sự xa cách về mặt địa lý với các thị trường xuất khẩu và sự hiểu biết thường là ít ỏi về các thị trường này nên công việc tiến hành các hoạt động này khó hơn đối với thị trường trong nước. Những công việc xúc tiến ở đây là giới thiệu sản phẩm, lựa chọn và áp dụng các phương pháp tiếp thị thích hợp, hỗ trợ tiêu thụ và trong trường hợp cần thiết xây dựng hệ thống dịch vụ và các hệ thống kho phân phối. Yếu tố thứ tư gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu là hoạt động này đòi hỏi những kiến thức và kinh nghiệm. Các thủ tục cần thiết trong xuất khẩu bao gồm cả các quy định cần chú ý và việc sử dụng các loại hồ sơ và giấy tờ khác nhau và điều này thì khác rất nhiều với kinh doanh trong nước. Để duy trì các mối quan hệ với nước ngoài lại cần các chuyến đi ra nước ngoài hết sức tốn kém hoặc phải xây dựng và đảm bảo kinh phí cho các cơ sở đại diện ở nước ngoài. Thứ năm là việc đảm bảo tài chính cho xuất khẩu: một hoạt động mà ở đó thường áp dụng các thời hạn thanh toán dài hơn và các thủ tục đặc biệt đòi hỏi phải có sự phối phợp với các tổ chức tài chính chuyên môn. Cần đặc biệt lưu ý ở đây là các rủi ro trong thanh toán cũng như rủi do tín dụng thông thường là các rủi do đặc thù của mỗi quốc gia hoặc các rủi do kinh tế luôn đi kèm với các hoạt động kinh doanh với nước ngoài. Những điều khác nhau về hệ thống pháp luật, quan niệm về pháp luật cũng như những khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình ở nước ngoài cũng rất quan trọng và cần phải được đặc biệt lưu ý. Tất cả những khó khăn trên làm cho hoạt động xuất khẩu cần có sự hỗ trợ và thúc đẩy để nó có thể tiến hành được rễ dàng. 1.2 Những yêu cầu đặt ra cho hoạt động xuất khẩu. Để tránh nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta cần phải xây dựng những chính sách về kinh tế cho phù hợp, đặc biệt chính sách xuất khẩu. Tuy nhiên, để có thể có được những chính sách phát triển xuất khẩu đúng đắn, có hiệu quả, đòi hỏi chúng ta cần phải nghiên cứu về những yêu cầu mà xuất khẩu cần phải đáp ứng những đòi hỏi của nền kinh tế Việt nam. 1.2.1 Xuất khẩu phải ra sức khai thác có hiệu quả nguồn lực của đất nước. Thế mạnh lớn nhất của Việt nam là có lực lượng lao động dồi dào. Lực lượng lao động của Việt nam được đánh giá là có khả năng tiếp thu kỹ thuật cộng nghệ nhanh lại cần cù, siêng năng, có nhiều ngành nghề truyền thống, nhạy cảm với cái mới, hơn nữa giá nhân công lại rẻ. Xuất khẩu phát triển có nghĩa là chúng ta đã giải quyết được việc làm cho một số lượng lớn người lao động. Ngoài ra, Việt nam còn có một quỹ tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng như đất, rừng, biển, khoáng sản, thuỷ sản.... Yêu cầu đặt ra là phải khai thác được nguồn lực trong nước, thúc đẩy xuất khẩu có hiệu quả. 1.2.2 Xuất khẩu phải mở rộng thị trường, nguồn hàng và đối tác kinh doanh xuất khẩu nhằm tạo thành cao trào xuất khẩu, coi xuất khẩu là mũi nhọn đột phá cho sự giàu có. Xuất khẩu phải mạnh và có hiệu quả để tạo thế đứng cho nước ta trên thương trường quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, muốn gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế thì nước ta phải có được các quan hệ kinh tế bền vững với các trung tâm kinh tế chủ yếu của thế giới như Mỹ, Nhật bản và Châu âu. Chính những mối quan hệ này là giá đỡ cho một quốc gia có thể tham gia có hiệu quả váo các khối kinh tế khu vực. Xuất khẩu muốn hiệu quả trước tiên ta phải nghiên cứu nhu cầu trên thị trường đồng thời đánh giá khả năng sản xuất của ta. Từ đó, tìm các đối tác liên doanh, liên kết tạo nguồn hàng xuất khẩu. 1.2.3 Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, xuất khẩu của ta còn manh mún, thường xuất khẩu với khối lượng nhỏ. Trong xu thế khu vực hoá ngày nay đòi hỏi năng lực xuất khẩu của nước ta phải được nâng cao để thu ngoại tệ về cho đất nước đồng thời vươn lên chiếm lĩnh ngày càng nhiều thị trường xuất khẩu. 1.2.4 Tạo ra những mặt hàng xuất khẩu chủ lực đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng, với chất lượng cao khối lượng lớn và có khả năng cạnh tranh cao. Nước ta có cơ cấu hàng xuất khẩu tương đối giống với các nước trong khối ASEAN. Do kỹ thuật sản xuất những mặt hàng này của ta hiện còn lạc hậu, chất lượng chưa cao, số lượng chưa lớn nên hàng hoá của ta có sức cạnh tranh kém hơn so với các nước trong khu vực. Để có thể phát triển kinh tế dựa vào xuất khẩu đòi hỏi phải có sự thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu sang những mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao, chế biến sâu, tương đối mới và có nhu cầu lớn trên thị trường như dịch vụ phần mềm máy tính, hàng nông sản tinh chế... Những lý do khác. + Vì lý do bảo hộ cần khuyến khích xuất khẩu để mở rộng cơ hội tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp trong nước, đặc biệt của các doanh nghiệp Việt nam trên trường quốc tế. + Khuyến khích xuất khẩu để lập lại thế cân bằng trong cạnh tranh cho các nhà sản xuất trong nước, tránh việc hộ bị thiệt thòi do chính sách khuyến khích xuất khẩu của các nước khác gây ra. + Cuối cùng do những nguyên nhân về cán cân thanh toán cần thiết phải áp dụng các biện pháp khuyến khích xuất khẩu để thông qua tăng xuất khẩu mà giảm thâm hụt trong cán cân thanh toán. 1.3 Những nhân tố quốc tế và khu vực. Thế giới ngày nay đang có những thay đổi nhanh chóng và sâu sắc trên nhiều mặt. Một trật tự thế giới mới đang từng bước được hình thành theo hướng tạo nên một sự cân bằng mới về lực lượng giữa các quốc gia. Ngày nay các nước đều dành ưu tiên cao cho phát triển kinh tế, lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm chuẩn. Hơn nữa cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ làm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước diễn ra nhanh hơn. Xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đã trở thành xu thế tất yếu. Những cơ hội chủ yếu mà Việt nam có được khi gia nhập hiệp hội các nước thực hiện ưu đãi mậu dịch sẽ là: Tạo lập quan hệ mậu dịch mới giữa các nước thành viên, mở rộng hơn nữa khả năng nhập khẩu hàng hoá từ những nước trong liên minh với các nước và khu vực khác trên thế giới. Cũng trong điều kiện này, tiềm năng kinh tế của nước ta sẽ được khai thác có hiệu quả hơn. Chính việc tham gia mậu dịch tự do khu vực đã làm tăng lên phúc lợi thông qua việc thay thế các ngành, trước hết là các ngành công nghiệp mà nước ta sản xuất với chi phí cao bằng những ngành có chi phí thấp hơn. Cũng trong điều kiện này lợi ích của người tiêu dùng cũng được tăng lên nhờ hàng hoá của các nước thành viên đưa vào nước ta luôn nhận được sự ưu đãi. Khi đó, giá bán hàng hoá sẽ hạ tạo điều kiện cho người dân có thể mua hàng với khối lượng lớn hơn, chi phí thấp hơn. Như vậy khả năng tiêu dùng của xã hội sẽ tăng lên. Hội nhập khu vực góp phần chuyển hướng mậu dịch, điều kiện buôn bán giữa các nước thành viên trong liên minh sẽ trở nên thuận lợi và hấp dẫn hơn trước. Ngay cả trong trường hợp nước ta tiến hành nhập khẩu những sản phẩm của quốc gia ngoài liên minh với giá thấp hơn, nhưng được thay thế bằng sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong liên minh mà giá cả lại cao hơn( do ảnh hưởng của chính sách ưu đãi thuế quan) chính những ưu đãi này giữa các nước thành viên trong liên minh đã đưa tới sự chuyển hướng mậu dịch nói trên. Hội nhập vào khu vực hiện đang tự do hoá thương mại tạo điều kiện cho mỗi quốc gia thành viên có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ, trình độ quản lý...từ các quốc gia khác trong liên minh.Về lâu dài, tự do hoá thương mại góp phần tăng năng xuất lao động, tăng trưởng kinh tế. Tự do hoá thương mại góp phần tăng trưởng kinh tế bằng 2 cách: tăng xuất khẩu và tăng năng xuất cận biên của hai yếu tố sản xuất là vốn và lao động. Tự do hoá thương mại làm tăng xuất khẩu góp phần tăng hiệu quả sản xuất và tăng tiềm năng về kinh tế của từng quốc gia. Điều này được thể hiện: Thực hiện tự do hoá thương mại gây ra áp lực lớn với mọi quốc gia trong liên minh ở các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, buộc các ngành này phải phấn đấu giảm giá hoặc giữ giá thành ở mức tương đối thấp. Muốn vậy các ngành này phải nhanh chóng thay đổi công nghệ, áp dụng các kinh nghiệm quản lý, những thành tựu mới và hiện đại của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Tự do hoá thương mại góp phần giải phóng năng lực sản xuất của khu vực tư nhân, giải phóng quyền tự chủ sản xuất của các doanh nghiệp của tư nhân và nhà nước. Điều này cho phép sản xuất đạt hiệu quả cao hơn. Tham gia tự do hoá thương mại buộc Chính phủ phải đưa ra những chính sách hợp lý hơn để phát triển kinh tế. Hội nhập khu vực và thế giới góp phần đẩy mạnh xuất khẩu và tăng đầu tư từ nước ngoài. Trong điều kiện hội nhập các quốc gia thành viên có xu hướng tập trung đầu tư vào phát triển các ngành hàng sản xuất, hàng xuất khẩu hiệu quả nhất, phát huy tối ưu nguồn lực của mình. Như vậy, chúng ta không thể phủ nhận những tác động tích cực mà xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đem lại cho chúng ta trong quá trình hội nhập. Hơn nữa, chúng ta còn có những bước thay đổi lớn, quan trọng trong quan hệ chính trị, ngoại giao. Cụ thể là đầu năm 1997 mối quan hệ giữa Việt nam và Mỹ đã được bình thường hoá. Có thể nói điều này đã mở ra cho Việt nam những bước tiến mới trong hoạt động xuất nhập khẩu. Từ đây, Việt nam đã có cơ hội bắt tay và tiếp xúc được với nhiều nước khác trên thế giới. Hàng hoá xuất khẩu của Việt nam đã xuất hiện ở nhiều thị trường với số lượng ngày càng lớn. Tiếp theo đó là một sự kiện đặc biệt quan trọng đối với Việt nam đó là việc gia nhập vào hiệp hội các quốc gia Đông nam á ASEAN vào tháng 7/1995. Có thể nói đây thực sự là cái mốc rất lớn đánh dấu sự hội nhập thực sự của nền kinh tế Việt nam vào khu vực và thế giới. Tháng 11/1998 Việt nam chính thức gia nhập APEC. Chúng ta cũng đang chuẩn bị các cuộc đối thoại đàm phán chuẩn bị gia nhập WTO. Khi chúng ta gia nhập vào các tổ chức này, chúng ta phải tuân thủ theo những quy định của các tổ chức này. Trong đó quan trọng nhất là những quy định về hàng rào thuế quan giữa các nước. Chúng ta phải đối phó với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, chịu ảnh hưởng của xu thế “tự do hoá thương mại ”, biến động giá cả quốc tế, lãi suất tình hình cung cầu hàng hoá và vốn đầu tư, nhu cầu đa dạng của thị trường. Kể từ đầu tháng 7/1997 khủng khoàng tài chính tiền tệ khu vực với tâm điểm là Thái lan đã lan rộng sang các nước Đông nam á khiến đồng tiền của các nước cũng bị giảm giá theo, ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh tế chính trị trong khu vực. Khủng khoảng tác động đến Việt nam theo tất cả các kênh. Nguy cơ lớn nhất mà cuộc khủng khoảng đặt ra cho chúng ta là._.: nếu không nhận thức đầy đủ những thách thức trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, hội nhập và bắt kịp với trình độ khu vực... thì khoảng cách chênh lệch, sự tụt hậu giữa Việt nam và các nước ngày cáng đậm nét. 2. Mục tiêu của chính sách thúc đẩy xuất khẩu. Để thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội, chính sách thúc đẩy xuất khẩu nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp, từ công nghiệp chế biến dựa trên lao động thủ công, kỹ thuật giản đơn đến công nghiệp chế tạo dựa trên vốn cao và kỹ thuật hiện đại. Theo đó sự chuyển dịch cơ cấu hàng chế tạo và tỷ lệ hàng chế tạo xuất khẩu có xu hướng tăng nhanh. Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu không phải là mục đích tự thân mà nó là phạm trù lịch sử cho nên mục tiêu trực tiếp cụ thể không thể nào khác là nhằm phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững, có hiệu quả. Phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào thế kỷ 21. Thực hiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu nhằm đặt nền kinh tế quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường quốc tế nhằm phát huy lợi thế so sánh, buộc sản xuất trong nước phải luôn đổi mới công nghệ, không thể tồn tại với năng suất thấp kém, mau chóng nâng cao khả năng mở rộng thị trường và xúc tiến thương mại. Đích cuối cùng là làm thoả mãn nhu cầu của thị trường, kể cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Thúc đẩy xuất khẩu không có nghĩa là xem nhẹ nhu cầu trong nước, không chú ý thay thế nhập khẩu. Chính sách thúc đẩy xuất khẩu nhằm: + Đảm bảo kim ngạch nhập khẩu phục vụ cho quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. + Gắn sản xuất vì nền kinh tế trong nước với các hoạt động của nền kinh tế thế giới, nối kết các nền kinh tế với nhau và tạo ra một không gian kinh tế rộng lớn hơn nhờ hiệu quả và buôn bán quốc tế. + Tăng kim ngạch xuất khẩu nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu. Khai thác có hiệu quả lợi thế tuyệt đối và tương đối của đất nước kích thích các ngành kinh tế phát triển. + Góp phần tăng tích luỹ và sử dụng vốn trong nước tạo dựng được nguồn vốn của nước ngoài có tính đến kinh nghiệm của các nước đi trước. + Năng cao sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước. + Thúc đẩy quan hệ đối ngoại giữa các nước, nâng cao uy tín của Việt nam trên thị trường quốc tế và khu vực. 3. Kinh nghiệm của các nước khi áp dụng một số chính sách thúc đẩy xuất khẩu. 3.1 Tạo các điều kiện khung kinh tế thích hợp. Các biện pháp khuyến khích gián tiếp nhằm vào mục tiêu tạo ra các điều kiện khung kinh tế thích hợp bằng một chính sách chọn địa bàn thích hợp Trong bối cảnh của sự toàn cầu hoá các thị trường hiện nay, chính sách kinh tế của nhà nước về cơ bản là chính sách chọn địa bàn. Mục tiêu của chính sách này là đảm bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế quốc dân. Qua đó cải thiện các điều kiện phát triển sản xuất và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, đảm bảo việc làm và nâng cao mức sống của nhân dân. Việc tác động vào hoạt động xuất khẩu không phải là mục tiêu trực tiếp mà chỉ là một tác động phụ đi kèm. Do vậy, có thể nói xuất khẩu được khuyến khích một cách gián tiếp thông qua chính sách này, có được chính sách chọn địa bàn thành công sẽ mang lại lợi ích cho tất cả các tầng lớp trong một quốc gia. Những thuận lợi do chính sách chọn địa bàn đem lại bao gồm: - Điều kiện sản xuất thuận lợi giúp cho các doanh nghiệp giảm chi phí và nâng cao khả năng đổi mới, qua đó tăng khả năng cạnh tranh quốc tế và khả năng xuất khẩu. - Người lao động được lợi ở chỗ có thêm các chỗ làm việc ổn định có điều kiện tốt hơn để tăng lương và cải thiện mức sống. - Người tiêu dùng được cung cấp hàng hoá phong phú hơn và rẻ hơn. - Nhà nước được lợi ở chỗ tăng thu từ thuế và trước mắt giảm chi cho các phúc lợi xã hội ( chẳng hạn cho người thất nghiệp ). Các yếu tố cải thiện điều kiện khung: Cải thiện điều kiện khung kinh tế bao gồm nội dung của một chính sách kinh tế hướng vào các mục tiêu ổn định, mỗi chính sách xã hội thích ứng và một chính sách ngoại thương tự do. Cụ thể gồm các yếu tố: - Các yếu tố về đường lối chính sách chung: + Hoàn thiện hệ thống pháp luật đủ năng lực, bao gồm một hệ thống luật thành văn phù hợp, một hệ thống tài phán độc lập và thực thi pháp luật bởi các cơ quan thích hợp. + Trên cơ sở có sự tham gia của tất cả các tầng lớp xã hội, xây dựng và hoàn thiện một hệ thống đảm bảo xã hội thích hợp và một chính sách phân phối phù hợp. + Có được một chính sách môi trường thích hợp sẽ góp phần tạo ra sự phát triển lâu bền, ngăn ngừa các nguy cơ phát sinh các chi phí giải quyết hậu quả trong tương lai. + Xây dựng một bộ máy hành chính hoạt động hiệu quả là tiền đề có thể thực thi các chính sách một cách hữu hiệu và tiết kiệm. - Các yếu tố về chính sách kinh tế chung: + Đề ra một kế hoạch khung kinh tế với các mục tiêu định hướng sẽ cho ta tầm nhìn và phương hướng. + Vận dụng một chính sách cạnh tranh thích hợp với nội dung ngăn ngừa các thoả thuận và hoạt động hạn chế cạnh tranh, đẩy mạnh định hướng vào thị trường. + Không ngừng cải thiện hệ thống thuế theo hướng quan tâm tới khía cạnh công bằng lẫn khía cạnh năng lực sẽ khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh và góp phần nâng cao khả năng xuất khẩu. + Tự do thị trường vốn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của các cơ cấu ngân hàng có năng lực, khuyến khích cạnh tranh về tiền gửi và tín dụng, tăng khối lượng tiền gửi tiết kiệm trong cả nước và tạo điều kiện thuận lợi cho sự xuất hiện của lãi suất hướng theo thị trường. + Một chính sách kinh tế đối ngoại nhằm mục tiêu khuyến khích tự do thương mại, cụ thể là xoá bỏ các hàng rào thương mại sẽ tạo điều kiện và tiền đề cho việc dễ dàng tiếp cận với các thị trường tiêu thụ và nguyên liệu. + Và cuối cùng một chính sách hoà nhập triệt để, như trong trường hợp của ASEAN cũng khuyến khích thiết lập các điều kiện khung thuận lợi cho cạnh tranh, qua đó góp phần tạo cơ hội xuất khẩu cho các doanh nghiệp trong nước. - Các yếu tố về chính sách kinh tế trong từng giai đoạn. + Có được cơ sở hạ tầng thích hợp, đủ năng lực sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các quá trình điều chỉnh cơ cấu và tăng trưởng. + Việc khuyến khích hỗ trợ cho các dự án nghiên cứu và phát triển thông qua một chính sách công nghệ thích hợp, bao gồm cả việc khuyến khích và hỗ trợ có chủ đích các dự án đầu tư của nước ngoài sẽ góp phần nâng cao cơ sở tri thức của xã hội. + Một chính sách quản lý hợp lý của Nhà nước với các nội dung chính như: giảm can thiệp, tư nhân hoá và mềm dẻo sẽ giúp cải thiện các điều kiện sản xuất. + Một chính sách tiền tệ hợp lý, vừa có khả năng hạn chế có hiệu quả các xu hướng tăng giá, vừa có khả năng thiết lập một mức lãi suất thấp, thống nhất hoặc phân biệt theo hướng ưu tiên xuất khẩu sẽ góp phần làm giảm các chi phí đầu tư và sản xuất nói chung và đặc biệt là các chi phí tái cấp vốn. + Chính sách ngoại hối tác động đồng thời các điều kiện xuất khẩu và nhập khẩu. Do vậy, cần phải cân nhắc cẩn trọng khi ra các quyết định về nâng hoặc giảm tỷ giá hối đoái. 3.2 Chính sách công nghiệp và chính sách phát triển ngành. Bên cạnh việc tạo môi trường kinh tế thích hợp cho các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua cải thiện các điều kiện khung kinh tế, các doanh nghiệp này cũng có thể được hỗ trợ và khyến khích bởi một chính sách phát triển ngành có chủ đích. Chính sách phát triển ngành không chỉ bao gồm nội dung hẹp là hỗ trợ xuất khẩu mà được hiểu rộng hơn, đó là sự cải thiện điều kện sản xuất ở những ngành có tỷ trọng xuất khẩu cao, qua đó gián tiếp góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế. Sau đây là một số công cụ được áp dụng ở nhiều nước: - Bao cấp dưới hình thức hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế vùng ( như chính sách hỗ trợ phát triển các vùng ven ở Đức, hỗ trợ phát triển kinh tế ở đông Đức hoặc hỗ trợ từ quỹ khu vực của liên minh Châu âu). Chính sách bao cấp này có thể nhằm vào các mục tiêu như đảm bảo việc làm hoặc đẩy nhanh phát triển công nghệ. Tuy nhiên, chúng cũng đồng thời giúp mở rộng cơ hội xuất khẩu dưới dạng bù lỗ đóng một vai trò quan trọng. - Thông qua các chính sách thuế có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động nghiên cứu thị trường xuất khẩu. - Việc phát triển các đơn hàng của Nhà nước cho các công ty trong nước thực hiện góp phần củng cố khả năng đáp ứng về vốn tự có và bảo đảm việc làm, ngoài ra còn bao hàm cả các yếu tố về chính sách công nghệ ( như Pháp và Mỹ). - Trong khuôn khổ chính sách cạnh tranh của quốc gia có thể có những quy định ngoại lệ nhằm nâng cao năng lực nền công nghệ trong nước. Có thể cho phép lập ra các hiệp hội xuất khẩu để giảm nhẹ rủi ro xuất khẩu cho từng cá nhân và từng doanh nghiệp ( Pháp, Mỹ, Nhật ). -Trong khuôn khổ chính sách tín dụng và lãi suất áp dụng phân biệt đối với các đối tượng khác nhau, có thể cấp tín dụng, đảm nhận bảo lãnh của nhà nước hoặc giảm chi phí tái cấp vốn để khuyến khích sự phát triển của một số lĩnh vực kinh tế nhất định ( Pháp, Nhật ). - Bằng việc áp dụng một chính sách nhập khẩu phục vụ cho mục đích thực thi chính sách công nghiệp, có thể áp dụng hàng rào thương mại một cách có chủ đích để bảo hộ một số ngành và đồng thời xây dựng một số ngành mới có khả năng cạnh tranh ( EU, Mỹ, Nhật ). 3.3 Khu kinh tế đặc biệt. Những nội dung cơ bản của chính sách công nghiệp trong giai đoạn đầu có thể dựa vào áp dụng thử trong những khu kinh tế đặc biệt ( Khu chế xuất - Export Processing Zone). Các khu kinh tế đặc biệt (KTĐB) được lập ra nhằm mục đích thu hút đầu tư nước ngoài và công nghệ hiện đại, tạo việc làm và cơ sở đào tạo mới, đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá nền kinh tế và thúc đẩy sản xuất hàng xuất khẩu. ở các khu KTĐB người ta thường áp dụng các chính sách kinh tế sau: ưu đãi nhập khẩu, ưu đãi thuế đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nước ngoài, cung cấp cơ sở hạ tầng đặc biệt, giảm tối đa các thủ tục hành chính có liên quan đến cấp giấy phép. ở Trung Quốc các chính sách ưu đãi thường áp dụng là thuế công ty thấp ( đồng loạt là 15%, trong khi đó mức thuế này đối với các doanh nghiệp nhà nước là 35% - 55% miễn thuế cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đến 5 năm, miễn thủ tục hải quan và các khoản thuế gián tiếp đối với hàng nhập khẩu cần cho xuất khẩu hoặc để bán trong các khu kinh tế đặc biệt. 3.4 Tham gia thiết lập các điều kiện khung quốc tế. Ngoài khuôn khổ quốc gia, các nước còn có thể hỗ trợ ngoại thương của mình thông qua việc tham gia thiết lập các điều kiện khung quốc tế. Điều này được thực hiện bởi việc ký kết các hiệp định xong phương hoặc đa phương, gia nhập các hiệp hội khu vực như ASEAN, EU hoặc các tổ chức quốc tế như WTO, OECD hoặc UNCTAD. Các hiệp định quốc tế tác động hết sức cơ bản tới các điều kiện khung của buôn bán quốc tế. Chương II Một số chính sách thúc đẩy xuất khẩu và tác động của nó tới hoạt động xuất khẩu ở Việt nam Để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, hoạt động xuất khẩu Việt nam phải có những bước tiến dài và vững chắc. Muốn hoạt động xuất khẩu của Việt nam phát triển không ngừng điều đầu tiên chúng ta phải có một định hướng đúng đắn cho xuất khẩu. Dựa trên định hướng này, Chính phủ sẽ đưa ra các chính sách thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Từ Đại hội Đảng VII, Đảng ta đã xác định chiến lược đưa nền kinh tế hướng về xuất khẩu và nhấn mạnh chiến lược hướng mạnh vào xuất khẩu tại kỳ họp thứ 4 Đại hội Đảng VIII. Sau mấy năm thực hiện, thực tế đã chứng minh đây là một quyết định đúng đắn. Để thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu. Chính phủ đã ban hành nhiều đạo luật, nghị định có tác động khuyến khích đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Các biện pháp này đã góp phần không nhỏ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, tăng trưởng không ngừng trong những năm vừa qua. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét đánh giá về những mặt làm được cũng như những mặt chưa làm được của những chính sách này. I. Chính sách khuyến khích đầu tư. Văn kiện Đại hội Đảng VIII đã chỉ rõ “ Cần huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng ”. 1. Nội dung của chính sách khuyến khích đầu tư. 1.1 Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước. Nhằm mục đích khuyến khích đầu tư trong nước vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, Chính phủ đã quy định nhiều ưu đãi dành cho đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu thuộc danh mục các dự án đầu tư được hưởng ưu đãi. - Về thuế: Ngoài các chế độ ưu đãi được quy định trong các pháp lệnh về thuế hiện hành, các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu còn được hưởng thêm các ưu đãi sau: + Cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành lập được giảm 50% thuế lợi tức thêm từ 1 đến 2 năm. Riêng đầu tư vào các vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn khác được miễn thuế lợi tức từ 1 đến 2 năm và giảm 50% thuế doanh thu thêm từ 1 đến 5 năm. + Cơ sở sản xuất kinh doanh bỏ thêm vốn đầu tư hoặc sử dụng lợi nhuận còn lại để tái đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ được miễn thuế lợi tức cho phần lợi nhuận tăng thêm của năm tiếp theo do phần đầu tư mới mang lại. + Các dự án cần đặc biệt khuyến khích đầu tư được Chính phủ cho phép miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị máy móc, phụ tùng mà chủ đầu tư trực tiếp hoặc chủ đầu tư uỷ thác nhập khẩu để xây dựng cơ sở sản xuất. - Về tín dụng: Cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu thuộc diện ưu tiên phát triển được bảo lãnh tín dụng và cấp tín dụng xuất khẩu. “ Cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu thuộc diện ưu tiên phát triển đã ký kết hợp đồng xuất khẩu hoặc bán hàng ra nước ngoài được ngân hàng thương mại quốc doanh ưu tiên về mức vốn cho vay để sản xuất thu mua hàng xuất khẩu. Trong trường hợp ngân hàng thương mại không đủ vốn để cho vay thì ngân hàng nhà nước có trách nhiệm bổ sung thêm vốn tín dụng cho ngân hàng thương mại quốc doanh trong khuôn khổ quy định hiện hành ”. Ngoài ra, đối với một số mặt hàng xuất khẩu thuộc diện ưu tiên phát triển, khi giá thị trường thế giới xuống thấp hoặc giá thị trường trong nước đối với các nguyên liệu vật tư để sản xuất hàng xuất khẩu tăng giá, nhà nước sẽ xem xét hỗ trợ thông qua quỹ bình ổn giá để giảm một phần lãi suất tín dụng. - Về tiền thuê đất: Các doanh nghiệp có dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu nếu được giao đất thì không phải trả tiền thuê đất, nếu thuê đất thì được miễn tiền thuế đất trong 5 năm đầu và giảm 50% tiền thuê đất trong 5 năm tiếp theo kể từ khi ký hợp đồng thuê đất. Nếu doanh nghiệp có dự án đầu tư vào sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao được giảm 50% tiền thuê mặt bằng theo nguyên giá mà nhà nước cho thuê không bao gồm giá trị các công trình hạ tầng của các công ty phát triển hạ tầng trong nước trong thời hạn 5 năm kể từ khi ký hợp đồng thuê. 1.2 Luật đầu tư nước ngoài. Cũng như luật khuyến khích đầu tư trong nước nhằm khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, Nhà nước ta cũng đem lại nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này. Sản xuất hàng xuất khẩu là lĩnh vực thuộc diện ưu tiên số một. Trong trường hợp các dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu thuế lợi tức đánh ở mức thấp. Trong hoàn cảnh cụ thể nước ta hiện nay, thủ tục xin cấp đất khó khăn đã làm cho nhiều doanh nghiệp không thể mở rộng mặt bằng sản xuất như mong muốn thì việc phát triển các khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung có ý nghĩa hết sức quan trọng. Các KCN và KCX tập trung được xây với cơ sở hạ tầng đầy đủ sẽ là tác nhân kích thích các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư vào sản xuất. Để khuyến khích đầu tư nước ngoài vào KCN và KCX, ngoài các ưu đãi về thuế đã nêu ở trên doanh nghiệp chế xuất được miễn thuế xuất khẩu, nhập khẩu đối với các hàng hoá từ KCX xuất khẩu ra nước ngoài và từ nước ngoài nhập khẩu vào khu chế xuất. Bên cạnh đó, Nhà nước ta còn toạ điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp chế xuất được mua nguyên vật liệu hàng hoá từ thị trường nội địa vào KCX theo thủ tục đơn giản do Chính phủ quy định. Hơn nữa, để phát huy được các lợi ích của KCN & KCX, chúng ta phải cung cấp cơ sở hạ tầng thông qua cho thuê hoặc bán các thành phẩm như cung cấp điện, nước, điện thoại và các dịch vụ khác.. Tổ chức các trung tâm giao dịch thương mại, dịch vụ ngân hàng, tín dụng, tổ chức hoạt động quảng cáo, tổ chức và cung ứng tốt các dịch vụ như khách sạn, đi lại, du lịch, giải trí.. cho người nước ngoài tại KCN, KCX. 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tác động của nó đến hoạt động xuất khẩu. Chủ trương hợp tác đầu tư với nước ngoài nhằm tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường thế giới phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được xác định và cụ thể hoá trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng thời kỳ đổi mới. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam ban hành năm 1997 đánh dấu sự khởi đầu của quá trình mở cửa nền kinh tế. Những đóng góp của nguồn vốn FDI đối với nền kinh tế. - Luồng vốn FDI đẫ bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển nhằm thực hiện mục tiêu đưa đất nước ra khỏi khủng khoảng, ổn định và phát triển kinh tế góp phần khai thác nội lực về vốn, đất đai, tài nguyên, lao động của đất nước. - Luồng vốn FDI bổ sung đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hình thành những cân đối lớn của nền kinh tế. Hoạt động của khu vực FDI đã làm tăng khả năng cung ứng hàng hoá trên thị trường, giảm nhu cầu nhập khẩu các hàng hoá thiết yếu, qua đó làm cho quan hệ cung cầu trên thị trường ổn định cân đối, tạo khả năng giảm giá và tỷ lệ lạm phát, nâng cao mức sống xã hội. Hoạt động của khu vực FDI cũng có những tác động tích cực đến cân đối chung của nền kinh tế. Cùng với quá trình phát triển của khu vực FDI và mức đóng góp của chúng vào nguồn thu ngân sách ngày một gia tăng, tạo khả năng chủ động hơn trong cân đối ngân sách, giảm mức bội chi ngân sách. Nguồn vốn FDI vào Việt nam là của tư nhân và ngay cả các khoản vay đều do tư nhân nước ngoài bảo lãnh, do phía nước ngoài tự cân đối ngoại tệ là chính nên không ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc gia. Mặt khác, thế mạnh của FD0I trong xuất khẩu cộng với đóng góp tiềm năng của FDI vào lĩnh vực thu ngoại tệ khác như khách sạn, du lịch đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán vãng lai. Ngoài ra, trong thời kỳ đầu tuy nhập khẩu trong hoạt động FDI lớn hơn xuất khẩu nhưng mặt nhập khẩu này mang tính tích cực vì nó tạo ra tài sản cố định và công nghệ cho sự phát triển bền vững. Khi hoạt động FDI được định hướng tốt hơn và ổn định thì cánh kéo xuất nhập khẩu trong khu vực này sẽ được thu hẹp lại và về lâu dài FDI sẽ có tác động tích cực đến cán cân thương mại quốc tế. - Nguồn vốn FDI góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hưóng CNH - HĐH đất nước. - Nguồn vốn FDI đã có đóng góp tích cực và ngày càng lớn vào việc duy trì nhịp độ tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng nguồn thu ngân sách. - Khu vực có FDI đã góp phần giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực, nâng cao sức mua trong nước. Kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đến hết năm 2001 có 2580 dự án được cấp giấy phép đầu tư với số vốn đăng ký đạt 35290,6 triệu USD. Năm 2001 có 133 dự án mở rộng quy mô với số vốn tăng thêm là 769 triệu USD doanh thu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3000 triệu USD. Tỷ lệ đóng góp vào GDP năm 2001 là khoảng 9,5%. Xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 2001 đạt 2003 triệu USD tăng hơn 11,7% so với năm 2000 ( năm 2000 đạt 1790 triệu USD ). Năm 2001 đầu tư vào KCN - KCX là 54 dự án, tổng số vốn đạt 266,2 triệu USD, giảm 17,76% so với năm 2000. Ta có thể có nhận xét sau về tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: - Nhịp độ thu hút FDI vào Việt Nam tăng nhanh so với các nước trong khu vực, nhất là thời kỳ 1994-1999. Quy mô vốn đầu tư cấp giấy phép năm 1999 bằng 6,6 lần năm 1994, là năm đầu tư trực tiếp nước ngoài bắt đầu ổn định và phát triển. Nguồn vốn FDI vào Việt Nam tăng nhanh vì Việt Nam là thị trường đầu tư mới có môi trường kinh tế vĩ mô tương đối ổn định và đang xúc tiến quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư, các quy định của luật đầu tư hấp dẫn và thông thoáng hơn. Tuy nhiên tương tự Trung Quốc và các nước ASEAN, vốn FDI vào Việt Nam từ năm 2000 đến nay chững lại và giảm sút do ảnh hưởng của cạnh tranh quốc tế và khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực. - Cơ cấu thu hút vốn FDI thay đổi theo chiều hướng phù hợp hơn với yêu cầu dịch chuyển cơ cấu kinh tế của đất nước. Những năm đầu, vốn FDI tập trung phần lớn vào thăm dò, khai thác dầu khí và xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê. Nhưng trong những năm gần đây, đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất ( nhất là công nghiệp ) tăng nhanh, hiện chiếm khoảng 76,5% số dự án và 53,5% vốn đầu tư trong đó 2/3 số dự án là đầu tư chiều sâu để nâng cấp, mở rộng cơ sở kinh tế hiện có. Cơ cấu ngành nghề được điều chỉnh hợp lý hơn, hướng mạnh vào sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng và cơ cấu sản xuất công nghiệp, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, sử dụng hiệu quả tài nguyên và nguồn lao động, ứng dụng được công nghệ cao và kỹ thuật hiện đại. Tuy nhiên vốn FDI trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn rất hạn chế, hiện mới có khoảng 297 dự án ( chiếm 12,5% ) với số vốn đăng ký là 1287 triệu USD (chỉ tương khoảng 4% tổng số vốn FDI ). Tỷ trọng đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ khá cao (chiếm 46,5%) tuy số dự án không nhiều (23,5% ): trong đó riêng lĩnh vực khách sạn, du lịch, văn phòng, căn hộ cho thuê còn chiếm tới 34,74% số vốn đăng ký, tuy số dự án chỉ chiếm 12,3%. Ưu tiên nghành của FDI còn tuỳ thuộc vào các nhà đầu tư của các nước. Các công ty quốc gia của các nước công nghiệp phát triển như Nhật, Tây Âu, Mỹ hướng vào các dự án khai thác dầu khí lớn, công nghiệp sản xuất ô tô, viễn thông, hoá chất... Ngược lại, các nhà đầu tư các nước NICs, Đông á, ASEAN lại tập trung nhiều hơn vào công nghiệp nhẹ, chế biến lương thực, thực phẩm, xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê. Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ cũng có chuyển biến: hiện có 61 tỉnh, thành phố có dự án FDI. Những năm đầu, vốn FDI chủ yếu tập trung vào khu vực phía nam, các tỉnh phía bắc chỉ chiếm khoảng 25% dự án và 20% vốn đăng ký. Đến nay, các tỷ lệ này đã tăng lên 28,5% và 39%. Về cơ cấu vùng lãnh thổ, nhìn chung, nguồn vốn FDI năm 2001 vào hầu hết các địa phương nằm trong các vùng kinh tế trọng điểm đều giảm mạnh, đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, Quảng Ninh... - Đối tác hợp tác đầu tư nước ngoài của Việt Nam ngày càng mở rộng, trong đó nguồn vốn FDI vào Việt Nam chủ yếu từ các nước trong khu vực. Hiện nay đã có hàng ngàn công ty nước ngoài thuộc 62 nước và vùng lãnh thổ có dự án FDI tại Việt Nam, trong đó ngày càng xuất hiện nhiều tập đoàn công ty xuyên quốc gia lớn có năng lực về tài chính, công nghệ. Bên cạnh đó, chúng ta cũng chú trọng thu hút vốn FDI của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước ngoài vì đó là các doanh nghiệp năng động, thích ứng nhanh với những biến động của thương trường, phù hợp với đối tác Việt Nam về khả năng góp vốn, năng lực tiếp thu công nghệ và có điều kiện tạo ra nhiều việc làm mới. Tuy nhiên khoảng 68% vốn đầu tư nước ngoài là từ các nước trong khu vực như các nước NICs, Đông á, ASEAN và Nhật Bản đã chiếm 60% vốn FDI. Các nước ASEAN chiếm 24,8% trong đó Singapore chiếm 17,14%, các nước ASEAN còn lại chỉ chiếm 7,67%. Nhóm G7 đã có 24,4% số dự án và 22,1% vốn FDI đăng ký tại Việt Nam, trong đó Nhật Bản chiếm 12% dự án và 10,2% vốn FDI, các nước G7 còn lại chỉ chiếm 12,4% dự án và 11,9% vốn FDI. Trong giai đoạn đầu, đầu tư nước ngoài chủ yếu bao gồm các dự án vừa và nhỏ của Đài Loan, Hồng Kông nhưng sau chuyển sang các dự án có quy mô lớn hơn của các công ty đa quốc như Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ và Tây Âu. - Các hình thức đầu tư ngày càng đa dạng hơn, việc khuyến khích đầu tư theo hình thức BOT, BTO, BT và đầu tư vào các khu công nghiệp và các khu chế xuất đã mở rộng khả năng thu hút các nguồn vốn FDI mới. Hình thức đầu chủ yếu hiện nay là doanh nghiệp liên doanh, chiếm 61% số dự án và 70% vốn đầu tư. Do chính sách của Việt nam là đối xử công bằng giữa doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh và kèm theo là việc tin tưởng vào môi trường đầu tư ở Việt nam nên những năm gần đây đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài tăng lên . Nếu tính theo vốn đầu tư thì tính đến cuối tháng 6 năm 2001 các dự án liên doanh chiếm 70%, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 20%, 10% còn lại là các hợp đồng hợp tác kinh doanh. Nhận thức được vai trò ngày càng quan trọng của các khu chế xuất, khu công nghiệp trong việc khuyến khích đầu tư trong nước và ngoài nước, phục vụ CNH - HĐH và khuyến khích xuất khẩu. Chính phủ đã ban hành nghị quyết 36/CP ngày 24/4/1997 về quy chế KCX, KCN và khu công nghệ cao. Đến cuối tháng 7 năm 2001,Việt nam đã có 54 KCN - KCX trong đó 48 KCN - KCX đã đi vào hoạt động, phân bố rộng khắp nơi từ bắc vào nam. Trong số 54 KCN ( không kể KCN Dung Quất thuộc dạng đặc biệt ) có 20 KCN mới hiện đại, trong đó có 13 KCN hợp tác với nước ngoài để phát triển hạ tầng, 34 KCN thành lập trên cơ sở đã có một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động. Đến hết tháng 6/2001 trên các KCN đã có 609 doanh nghiệp hoạt động vốn đầu tư khoảng 5,8 tỷ USD, vốn thực hiện 3,5 tỷ USD, thu hút 120 nghìn lao động, 6 tháng đầu năm 2001 các KCN đã đạt giá trị sản xuất công nghiệp 890 triệu USD, xuất khẩu 552 triệu USD. Bên cạnh các kết quả đạt được, đầu tư nước ngoài tại Việt nam còn có những mặt hạn chế và những vấn đề mới nảy sinh. Một là : cơ cấu đầu tư nước ngoài tại Việt nam chưa hợp lý, 10 năm qua, các dự án ĐTNN tại Việt nam mới tập trung vào một số địa bàn và những ngành có khả năng thu hồi vốn nhanh, ít rủi ro và cơ sở hạ tầng khá. Hai là: hiệu quả đầu tư chưa cao và không đồng đều, một số dự án đã đi vào hoạt động 3 - 4 năm nhưng vẫn bị thua lỗ. Nguyên nhân lỗ vốn có nhiều, song có yếu tố đáng cảnh báo là chi phí vật chất và khấu hao TSCĐ quá lớn do định giá máy móc thiết bị nước ngoài đưa vào liên doanh quá cao so với thực tế. Ba là: khu vực có vốn FDI chưa phát huy được tiềm năng và thế mạnh về xuất khẩu, tỷ lệ đóng góp vào ngân sách còn hạn chế. Tuy khối lượng xuất khẩu của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu có tăng dần qua các năm nhưng vẫn nhỏ hơn nhiều so với tỷ trọng nhập khẩu của khu vực này so với tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước dẫn đến thâm hụt thương mại kéo dài. Bốn là: mô hình KCN, KCX tuy có nhiều ưu điểm, nhưng sự phát triển trong 10 năm qua, mô hình này ở Việt nam cũng xuất hiên nhiều những yếu tố hạn chế. Trước hết, đó là xu hướng phát triển tràn lan không theo quy hoạch chạy theo số lượng mà không tính đến hiêụ quả. Năm là: luồng vốn FDI vào Việt nam tăng qua các năm nhưng từ năm 2000 đến nay suy giảm rõ rệt do tác động của khủng hoảng kinh tế trong khu vực. ii. các chính sách tài chính tín dụng. Đi kèm với các biện pháp thúc đẩy đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu Chính phủ cũng khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động sản xuất và kinh doanh xuất khẩu bằng các biện pháp tài chính và tín dụng. Thuế: Hàng hoá xuất khẩu là hàng hoá thuộc diện ưu đãi về thuế (luật thuế xuất khẩu). Các hàng hoá là vật tư nguyên liệu gia công cho nước ngoài rồi xuất khẩu theo hợp đồng thì không phải chịu thuế nhập khẩu hoặc phải chịu thuế rất thấp. Nhập khẩu thiết bị máy móc phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế. Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được hoàn lại thuế doanh thu trả cho nguyên phụ liệu và bán thành phẩm đầu vào. Các cơ sở sản xuất nếu xuất khẩu trên 50% sản phẩm hoặc có doanh thu xuất khẩu chiếm trên 50% tổng doanh thu được miễn thuế lợi tức bổ sung. Thuế xuất khẩu gạo, cao su, than đá, thuỷ sản, được hạ xuống 0% từ ngày 1/1/2001. Thời hạn nộp thuế nhập khẩu vật tư, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu được điều chỉnh từ 3 tháng lên 9 tháng. Quỹ thưởng xuất khẩu đã được thành lập và đi vào hoạt động theo quyết định số 764/QĐ-TTg ngày 24/8/1998 của thủ tướng Chính phủ. Đợt xét thưởng đầu tiên vào quý II năm 2002. Đối tượng xét thưởng bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để khuyến khích họ tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của ta. Về tiêu chuẩn thưởng bộ Thương mại đã chú trọng đến việc nâng cao tỷ lệ hàng hoá có tỷ lệ chế biến và hàm lượng nội địa cao. Chính phủ đã giao Bộ Tài chính dự thảo phương án thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu, giao ngân hàng nhà nước dự thảo đề án thành lập quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu và giao Bộ Kế hoạch và đầu tư chủ trì xây dựng cơ chế để các doanh nghiệp Việt nam thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh hoặc mạng lưới tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài. Các ngân hàng nước ta hiện nay cũng đang làm 2 nhiệm vụ quan trọng nhằm bảo đảm cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhanh chóng có vốn, thiết bị để sản xuất đó là: + Bảo lãnh chứng từ thương mại là việc doanh nghiệp có thể đổi chứng từ lấy tiền mặt tại ngân hàng, thông báo L/C ngay sau khi giao hàng mà không phải đợi chuyển tiền. Việc này giúp cho các doanh nghiệp nhanh chóng có tiền để tiếp tục đầu tư vào sản xuất kinh doanh tránh tình trạng để ngưng trệ vì thiếu vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh. + Bảo lãnh tiền vay máy móc vật tư phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là việc làm hữu hiệu tạo ra điều kiện cho các doanh nghiệp có thể nhanh chóng có được máy móc thiết bị để đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Để giảm bớt tác động do sự thay đổi tỷ giá các đồng tiền trong khu vực, Ngân hàng nhà nước Việt nam thay đổi tỷ giá chính thức xấp xỉ với tỷ giá hiện hành trên thị trường tự do và tương ứng với tỷ giá thực. Việc điều chỉnh tỷ giá này có tác dụng làm tăng thêm sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam trên thị trường thế giới III. Chính sách tự do hoá thương mại. Tự do hoá thương mại là một điều kiện cần thiết mà các nước muốn tham gia hội nhập kinh tế đều phải th._.hơn trong luật khuyến khích đầu tư trong nước theo nguyên tắc “sản xuất hàng xuất khẩu phải được đặt ở vị trí ưu tiên số một, các hình thức ưu đãi cao nhất phải được dành cho sản xuất hàng xuất khẩu ”. Do vậy, cần đưa đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu về nhóm ưu tiên một. Bên cạnh đó cũng cần xem xét tới sự phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Ví dụ doanh nghiệp trong nước phải chịu thuế lợi tức 25 - 35 - 45%, trong khi doanh nghiệp nước ngoài chỉ chịu tối đa 25%. một doanh nghiệp may của Việt nam xuất khẩu 100% sản phẩm hiện nay phải chịu thuế lợi tức 32%, trong khi xí nghiệp may liên doanh sản phẩm xuất khẩu đạt 80% trở lên chỉ phải nộp có 15%. Do vậy, cần xem xét việc dành ưu đãi cho các doanh nghiệp trong nước phải bằng hoặc cao hơn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà cụ thể là nên điều chỉnh những ưu đãi dành cho doanh nghiệp trong sản xuất hàng xuất khẩu và tiến tới hợp nhất luật đầu tư nước ngoài và luật khuyến khích đầu tư trong nước thành luật đầu tư. Nhằm mục đích khuyến khích mạnh mẽ việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu và thay đổi tỷ trọng hàng chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu, xin kiến nghị việc sửa đổi luật khuyến khích đầu tư trong nước làm cho tính định hướng xuất khẩu rõ nét hơn và khuyến khích việc xuất khẩu hơn, có tỷ trọng chế biến cao. 1. 2 Các biện pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.2.1 Đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn nước ngoài. Nghiên cứu để đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài với các điều kiện thích hợp nhằm mở thêm các kênh mới thu hút vốn nước ngoài. + Thí điểm việc cho các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các doanh nghiệp trong nước hoặc cùng với doanh nghiệp trong nước thành lập công ty cổ phần với tỷ lệ khống chế nhất định. + Nghiên cứu và sửa đổi cơ chế cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát hành cổ phiếu, trái phiếu để thu hút vốn và mở rộng quy mô đầu tư. + Cần cân nhắc việc tham gia thị trường trái phiếu quốc tế để cải thiện tình hình nợ của đất nước, khuyến khích từng bước như đầu tư chứng khoán ở thị trường chứng khoán trong nước với mức độ bảo hiểm nhất định để tránh đổ vỡ tiềm tàng. + Sớm ban hành các quy chế về cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để đẩy nhanh việc giải ngân vốn vay của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có quy định cụ thể về hoạt động của các quỹ đầu tư. 1.2.2 Tiếp tục ban hành các cơ chế, chính sách nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư. a. Tạo cơ sở pháp lý cho việc tiến tới xây dựng một luật đầu tư chung: - Hoàn chỉnh hệ thống pháp lý chung về kinh tế, tạo lập môi trường kinh doanh hoàn thiện, sớm ban hành các luật về ngân hàng, hải quan, chống độc quyền, luật kinh doanh bất động sản.. - Nghiên cứu xoá bỏ dần sự phân biệt về chính sách đầu tư có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Tiến tới thực hiện chính sách thống nhất đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.Trước mắt rà soát tất cả các loại giá dịch vụ, lệ phí.. để có sự điều chỉnh hợp lý nhằm thu hẹp khoảng cách giữa giá trong nước với giá cả các nước trong khu vực, giá giữa các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. b. Nghiên cứu sửa đổi, bổ xung luật pháp, chính sách và thủ tục, tạo thận lợi cho hoạt động FDI. - Nghiên cứu ban hành các văn bản pháp luật cho phép khu vực dân doanh được góp vốn liên doanh trong những khu vực không cấm khu vực tư nhân đầu tư. - Nghiên cứu xem xét việc điều chỉnh các quy định về thuế như: thuế thu nhập cao, thuế chuyển lợi nhuận về nước, xây dựng chính sách thuế khuyến khích nội địa hoá và đẩy mạnh sản xuất phụ tùng ở Việt nam. - Rà soát và hệ thống hoá toàn bộ các văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư nước ngoài làm cơ sở cho việc hướng dẫn, tuyên truyền luật pháp, chính sách sâu rộng, trong các doanh nghiệp và các địa bàn vận động đầu tư. Bên cạnh đó, kịp thời phát hiện các mâu thuẫn, chồng chéo trong các văn bản để điều chỉnh kịp thời, bãi bỏ những quy định không cần thiết gây ra các thủ tục phiền hà, cản trở hoạt động đầu tư. 1.2.3 Nâng cao hiệu quả và năng lực điều hành hoạt động FDI. 1.2.3.1 Đổi mới công tác vận động và xúc tiến đầu tư. - Đẩy mạnh vận động đầu tư một cách chủ động theo các chương trình, dự án trọng điểm, hướng mạnh vào các đối tác Châu âu, Bắc mỹ, Mỹ.. Chú trọng các tập đoàn có tiềm lực về vốn và công nghệ. - Phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Thương mại để thường xuyên trao đổi thông tin, tiến hành hoạt động xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại từ bên ngoài thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại ở nước ngoài để nâng cao hiệu quả và đảm bảo tiết kiệm. Tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau với các tổ chức xúc tiến đầu tư quốc tế. Trước hết là hợp tác trong khuôn khổ của ASEAN, APEC, hợp tác ASEAN và Châu âu, hợp tác với các cơ quan của Nhật, Mỹ, các nước EU và các tổ chức quốc tế khác. - Tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các hiệp hội hoặc câu lạc bộ các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt nam. Tăng cương phối hợp chặt chẽ với các cơ quan xúc tiến đầu tư thương mại của các nước ở Việt nam để giới thiệu chính sách, luật pháp, quảng bá các chương trình, dự án đầu tư. Tổ chức định kỳ các cuộc gặp gỡ cộng đồng đầu tư nước ngoài tại Việt nam để tìm hiểu tình hình, tháo gỡ khó khăn và hỗ trọ cho các doanh nghiệp có FDI đang đầu tư tại Việt nam. 1.2.3.2 Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch liên quan đến công tác FDI. - Xây dựng quy hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu để xác định rõ phạm vi về hoạt động của FDI và của đầu tư trong nước làm cơ sở cho việc định kỳ công bố danh mục các dự án kêu gọi đầu tư, đặc biệt là các ngành như điện tử, xi măng, sắt thép, rượu bia.. - Nghiên cứu đánh giá để có quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc khu kinh tế mang tính khả thi phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội địa phương và vùng lãnh thổ. Trước mắt, cần tập trung vào các giải pháp xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thật - xã hội và thu hút vốn đầu tư để lấp đầy các khu công nghiệp, khu chế xuất đã phê duyệt. Đồng thời, để nâng cao hơn nữa sự hấp dẫn của khu vực này, Chính phủ nên cho phép áp dụng thí điểm cơ chế “ thủ tục và dịch vụ một cửa ” cho KCN -KCX. 1.2.3.3 Xử lý kịp thời các vướng mắc của các nhà đầu tư để thúc đẩy nhanh quá trình xem xét cấp giấy phép đầu tư và triển khai dự án. - Nghiên cứu xác lập các chủ trương rõ ràng về các vấn đề có tính chất nguyên tắc làm cơ sở cho việc xử lý đúng đắn các trường hợp cụ thể như các vấn đề: bảo hộ sản xuất trong nước, về tư nhân hoá, hợp tác với nước ngoài, về nợ của khu vực FDI, về máy móc thiết bị đã qua sử dụng, về hình thức 100% vốn nước ngoài và tỷ lệ góp vốn của Việt nam trong liên doanh. - Rà soát lại tất cả các danh mục các dự án đang chuẩn bị đầu tư để xử lý các vướng mắc, thúc đẩy dự án sớm hoàn thiện hỗ trợ để cấp phép. - Rà soát củng cố lại các công cụ tài chính kế toán để tăng cường giám sát kiểm tra hoạt động tài chính doanh nghiệp FDI nhằm khắc phục các cơ sở gây thiệt hại đến lợi ích Việt nam. 1.2.3.4 Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI. - Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI trên cơ sở tổ chức hợp lý hoá từ Trung ương tới địa phương, mạnh dạn phân cấp, uỷ quyền cho các địa phương trong việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI trên địa bàn để đơn giản hoá thủ tục, xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh. - Rà soát và cải tiến mạnh mẽ hơn nữa tất cả các thủ tục liên quan đến đầu tư nước ngoài theo hướng tinh giảm đầu mối, công khai quy định thời hạn và người có trách nhiệm xử lý. 2. Các biện pháp về tài chính tín dụng. 2.1 Khuyến khích các vệ tinh của các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu qua thuế. Hiện nay việc khuyến khích xuất khẩu trực tiếp và khuyến khích đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu mới chỉ nhìn đến các doanh nghiệp có sản xuất trực tiếp hàng xuất khẩu và doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Trong thực tế có rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ làm nhiệm vụ cung ứng nguyên liệu đầu vào hoặc bán thành phẩm cho các cơ sở trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu. Họ cũng có quyền được hưởng ưu đãi. Vì lí do đó, nên mở rộng định nghĩa về “ cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu ” trong luật thuế doanh thu. Cụ thể, các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu cũng có thể được coi là cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu và cũng được miễn thuế doanh thu. Nhiều nước đã dành ưu đãi cho các xí nghiệp vệ tinh này, thậm chí còn đi sâu hơn, ưu đãi cả xí nghiệp đã cung cấp sợi để dệt vải cho may áo xuất khẩu. Đối với nước ta, chúng ta chưa đủ khả năng miễn thuế nhiều tầng thì có thể áp dụng cho các tầng thứ nhất hay các xí nghiệp có liên quan trực tiếp đến sản xuất hàng xuất khẩu. Như trong ví dụ trên là các xí nghiệp dệt, xí nghiệp sản xuất cúc, bao bì... Nếu làm như vậy, thì sự phát triển của một ngành hàng xuất khẩu nào đó sẽ kéo theo sự phát triển của nhiều ngành khác, tất cả đều hướng về xuất khẩu. Điều này dẫn tới việc vừa đẩy mạnh xuất khẩu giá trị gia tăng ( không phải nhập nguyên liệu và nhập thành phẩm theo kiểu gia công), vừa tạo điều kiện thu hút được các nguồn nhân lực và vật lực của đất nước vào lĩnh vực kinh tế có hiệu quả. 2.2 Giảm thuế để khuyến khích xuất khẩu dịch vụ. Xuất khẩu dịch vụ và xuất khẩu sản phẩm trí tuệ còn là việc mới, nhưng trên thực tế kim ngạch xuất khẩu của loại hình này theo những con số không chính thức ngày càng tăng. Các chuyên gia của bộ thương mại đã tính toán và dự đoán khả năng phát triển loại hình này trong tương lai là hiện thực, dự đoán lượng ngoại tệ thu được từ xuất khẩu dịch vụ và sản phẩm trí tuệ vào năm 2003 có thể lên tới 1,5 tỷ USD nếu như Việt nam có các biện pháp tích cực thúc đẩy hoạt động này ngay từ bây giờ. Do vậy, cần có các văn bản cụ thể được công bố và giao cho các bộ cùng các cơ quan có chức năng thực hiện chính sách phát triển và khuyến khích đúng đắn để khả năng này trở thành hiện thực. Trước mắt cần có sự thay đổi về thuế để khuyến khích phát triển công nghiệp gia công, sản xuất phần mềm tin học. Những bất hợp lý trong lĩnh vực này có thể nhìn thấy rất rõ như: thuế doanh thu phần mềm là 2% ( thuế dịch vụ) trong khi thuế doanh thu buôn bán phần cứng chỉ là 1%, hoặc thuế lợi tức phần mềm lên tới 45%. Đây là những bất hợp lý mà nên được điều chỉnh sớm. Các loại hình dịch vụ và các sản phẩm trí tuệ khác, nếu xuất khẩu thu được ngoại tệ thì cũng nên xem xét cho miễn giảm các loại thuế như đối với hàng hoá thông thường. 2.3 Quỹ bảo hiểm ( hay quỹ phòng ngừa rủi do). Nhà nước khuyến khích các hiệp hội ngày hàng tự nguyện thành lập các quỹ bảo hiểm ( phòng ngừa rủi do) cho ngành mình, nhất là trong những ngành quan trọng có khối lượng xuất khẩu tương đối lớn như gạo, cà phê, cao su. Các quỹ này sẽ không lấy nguồn từ ngân sách Nhà nước để tránh các quy định không thuận lợi của WTO về vấn đề trợ giá. Quỹ bảo hiểm có trách nhiệm giúp đỡ các thành viên của hiệp hội khi giá cả của thị trường biến động thất thường, cơ chế hoạt động sẽ do từng hiệp hội tự xác định, nhưng nhìn chung nên đặt ra một mức giá bảo hiểm cho người sản xuất thu hồi được vốn đầu tư, trang trải được chi phí và có lợi nhuận thoả đáng. Khi thị trường thế giới thuận lợi, có thể xuất khẩu với giá cao hơn mức giá bảo hiểm thì hiệp hội sẽ áp dụng biện pháp thu một phần chênh lệch đưa vào quỹ bảo hiểm ( chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá bảo hiểm). Ngược lại khi thị trường thế giới không thuận lợi, giá xuất khẩu xuống thấp hơn giá bảo hiểm thì quỹ sẽ trích tiền ra hỗ trợ lại cho các thành viên. Về hình thức, có thể các thành viên hiệp hội thống nhất thành lập một pháp nhân được Nhà nước cho hưởng quy chế kinh doanh như các quỹ tín dụng thông thường nhằm mục đích phát triển nguồn vốn. Hoặc đơn thuần chỉ góp tiền về quỹ và giao cho một nhân hàng điều hành và kinh doanh quỹ này theo quy định của hiệp hội. 2.4 Các ưu đãi về tín dụng. Mặc dù Ngân hàng nhà nước Việt nam đã ra thông tư về việc các ngân hàng thương mại quốc doanh có trách nhiệm ưu tiên về mức vốn cho vay đối với các đơn vị sản xuất và thu mua hàng xuất khẩu. Tuy nhiên thông tư lại không quy định rõ ràng và cụ thể chỉ nói chung chung “ khuyến khích tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn ”. Do vậy, việc cần làm là phải quy định cụ thể một tỷ trọng vốn vay dài hạn và trung hạn trên tổng dư nợ và một khung lãi suất cố định theo từng thời kỳ nhằm làm việc tiếp cận nguồn vốn tí dụng ngân hàng của các cơ sở sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu dễ dàng hơn, tránh gây mập mờ dễ gây tiêu cực. 2.5 Thành lập quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu. Thành lập quỹ này để cấp tín dụng ưu đãi và bảo lãnh tín dụng cho hoạt động xuất khẩu. Do nguồn vốn hạn hẹp, để có thể đẩy nhanh tiến độ hình thành quỹ, tránh chồng chéo. 2.6 Nhà nước nên thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu Việt nam. Để đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu thì ngoài việc có chiến lược xuất khẩu, có chính sách trợ giá, tạo lợi nhuận khuyến khích các nhà sản xuất có sự “ đầu cơ ”, bảo trợ của Nhà nước cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, cần phải có một đường lối chính sách đúng đắn về ngân hàng sao cho các Ngân hàng Việt nam phát huy được vai trò “bà đỡ” cho nền kinh tế. Hiện nay chúng ta đã có ngân hàng ngoại thương Việt nam, ngân hàng thương mại, ngân hàng thương mại cổ phần XNK EXIMBANK, song các ngân hàng này còn bị hạn chế về vốn, trình độ công nghệ, nghiệp vụ, chưa phục vụ đắc lực được cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt nam. Trong tương lai gần, Việt nam chúng ta cũng nên thành lập một ngân hàng chuyên doanh mang tên là ngân hàng XNK Việt nam. Có như vậy chúng ta mới đi được trên đôi chân của mình, thực hiện được sự bảo hộ cho các ngân hàng nội địa, phục vụ sự nghiệp CNH hướng về xuất khẩu phát huy được lợi thế so sánh, đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. 2.7 Về hỗ trợ tài chính. Để giảm nhẹ gánh nặng hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước thông qua trợ cấp, trợ giá Chính phủ nên tăng cường sử dụng các biện pháp hỗ trợ tài chính gián tiếp. 2.8 Chính sách tỷ giá hối đoái. Một nước có nhiều bạn hàng buôn bán cho nên đưa chỉ số giá cả nước ngoài vào tính toán tỷ giá hối đoái cần phải cân nhắc kỹ, đặc biệt đối với những bạn hàng thương mại quan trọng. Cách định giá tỷ giá hối đoái rất quan trọng đối với nền kinh tế. Vừa qua, cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ Đông nam á xảy ra cũng một phần do Chính phủ các nước này áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái cố định. Khi tỷ giá hối đoái trên thị trường thay đổi trong khi tỷ giá hối đoái do nước đó định ra vẫn giữ mức cố định thì sẽ gây ra một số ảnh hưởng sau. Hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn so với sản phẩm nội địa mà chúng phải chịu chi phí tăng do lạm phát. Các nhà xuất khẩu các sản phẩm sơ chế bán ra theo mức giá cả quốc tế nằm ngoài tầm kiểm soát của họ sẽ bị thiệt. Họ phải chịu chi phí cao hơn do lạm phát trong nước. Hàng xuất khẩu của họ trở nên kém sinh lợi do ngoại tệ thu được phải bán lại với tỷ giá hối đoái cố định, không được tăng nên để đền bù lại chi phí sản xuất cao hơn. Các nhà xuất khẩu các sản phẩm chế tạo có thể tăng giá cả chế tạo có thể tăng giá cả xuất khẩu của họ để bù lại chi phí sản xuất nội địa cao hơn, nhưng kết quả khả năng chiếm lĩnh thị trường sẽ giảm. Họ cũng có thể giữ nguyên mức giá nhưng lợi nhuận sẽ thấp đi. Kết quả chung là nhập khẩu tăng lên và xuất khẩu giảm đi. Như vậy, nên duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái như thế nào để vừa hạn chế nhập khẩu vừa thúc đẩy xuất khẩu. Rất khó để đưa ra một câu trả lời chính xác nhưng chắc chắn chúng ta nên áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường trong nước và trên thế giới. 2.9 Chính sách đa lãi suất. Để khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu những mặt hàng chưa thiết yếu, có thể áp dụng lãi suất đối với vốn vay cho xuất khẩu bắng 50% mức lãi suất vốn vay để nhập khẩu ( việc này cả Hàn Quốc và Đài Loan đều đã làm trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế ). 2.10 Chính sách bán ngoại tệ. Mọi ngoại tệ thu được tử xuất khẩu đếu phải bán cho ngân hàng. Sau khi bán, doanh nghiệp sẽ được cấp một hoá đơn đặc biệt xác nhận lượng ngoại tệ đã bán. Nếu doanh nghiệp cần mua ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá thì có thể xuất trình hoá đơn này để mua lượng ngoại tệ tương ứng với tỷ giá ưu đãi. Tất cả các doanh nghiệp không có hoá đơn này đều phải mua với tỷ giá cao hơn. Nếu doanh nghiệp có hoá đơn không có nhu cầu nhập khẩu thì có thể chuyển nhượng tự do hoá đơn này cho người khác. Biện pháp này không những khuyến khích xuất khẩu mà còn hạn chế những khoản nhập khẩu bằng tiền không rõ nguồn gốc xuất khẩu, giúp giảm dần nhập siêu. Như vậy, sẽ có ba mức tỷ giá: tỷ giá mua vào, tỷ giá bán ra cho các đối tượng có hoá đơn và tỷ giá bán ra cao hơn cho các đối tượng không có hoá đơn. 3. Biện pháp đa dạng hoá chủ thể kinh doanh. Tính năng động và tính hiệu quả của nền kinh tế là yếu tố hết sức quan trọng gần như mang tính quyết định tới sự thành công của quá trình hội nhập trong xu thế tự do hoá thương mại. Hai đặc tính này sẽ được tăng cường nếu ta khai thác được hết sức mạnh của chính sách kinh tế nhiều thành phần. Kinh tế nhà nước sẽ tập trung vào một số lĩnh vực then chốt như năng lượng khai khoáng, viễn thông, lương thực.. còn các thành phần kinh tế khác sẽ khuyến khích các lĩnh vực khác nhau. Việc đa dạng hoá chủ thể tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu hoàn toàn không trái với chủ trương của Đảng. Chủ trương đa dạng hoá chủ thể kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu có thể được thực hiện bước đầu tiên thông qua biện pháp bãi bỏ giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Hiện nay, các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh XNK đã được xuất khẩu hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu cả những mặt hàng nằm ngoài ngành hàng đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh, trừ những mặt hàng quản lý theo cơ chế riêng. Đề nghị Chính phủ bãi bỏ giấy phép kinh doanh xuất khẩu đối với những mặt hàng mà nhà nước không cần phải quản lý. Khi đó tất cả các doanh nghiệp được thành lập hợp pháp, thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền trực tiếp xuất khẩu các mặt hàng này bất kể là hàng do doanh nghiệp sản xuất hay mua trên thị trường miễn là đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Về lâu dài, khi hoạt động của các Tổng công ty lớn đã thực sự ổn định có thể điều tiết được thị trường thì nên nghiên cứu cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nếu đáp ứng được điều kiện do Nhà nước quản lý hay độc quyền kinh doanh. Việc cho phép như vậy cũng sẽ tạo ra động lực phát triển xuất khẩu do việc giảm chi phí. Bên cạnh đó, cũng đề nghị Chính phủ cho phép Bộ Thương mại được mở rộng thêm phạm vi được phép kinh doanh xuất khẩu cho khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 4. Các vấn đề chất lượng, thị trường và xúc tiến thương mại. 4.1 Nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu. Một yếu tố quyết định tới việc liệu hàng hoá Việt nam có thâm nhập được vào thị trường nước ngoài hay không đó là yếu tố chất lượng. Chất lượng hàng xuất khẩu có thể được nâng cao, tạo uy tín và sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt nam bằng cách kiểm tra bắt buộc về chất lượng của một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như hàng dệt - may, đồ điện tử, đồ điện, thực phẩm chế biến, tạp hoá tiêu dùng. Trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới cũng như trong công cuộc xây dựng nền công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta, việc áp dụng thực hiện và được chứng nhận đạt hoặc phù hợp quản lý chất lượng ISO 9000 ( ISO 9000 là bộ tiêu chuẩn của tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế bao gồm các tiêu chuẩn quy định các chuẩn mực để đánh giá một hệ thống đảm bảo chất lượng của một tổ chức kể cả sản xuất, kinh doanh dịch vụ và các cơ quan đơn vị, trường, viện.. ISO 9000 đã được chấp nhận ở trên 100 nước trong đó có Việt nam ). ISO 9000 được coi như một điều kiện cơ bản và là giấy thông hành cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước thâm nhập vào thị trường quốc tế. Thực hiện quản lý chất lượng ISO 9000 là rũ bỏ được những lề lối cũ như trì trệ chậm phát triển, phong cách làm việc theo kiểu đơn giản hoá tất cả “ thành hay bại ” đều đổ vào đàu ban lãnh đạo. áp dụng ISO 9000 không những nâng cao vai trò quản lý chất lượng từ A đến Z, tức là tất cả mọi người từ ban giám đốc đến người sản xuất, người tiêu thụ sản phẩm đều hết mực quan tâm tới vấn đề chất lượng và cùng chịu trách nhiệm chính về mình, mà nó còn giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí bảo trì, tài chế, tăng lợi nhuận và các phương pháp thực hiện các quá trình chủ yếu thúc đẩy các hệ thống làm việc tốt hơn. ISO 9000 là một trong những công cụ quản lý chất lượng tốt nhất, nó có tác dụng thiết thực đến quyền lợi của con người, đồng thời giải đáp những hoài nghi, vướng mắc mà từ trước tới nay chúng ta hay vấp phải. ISO 9000 sẽ có tác dụng tạo đà cho các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Đối với những sản phẩm hàng hoá ở thị trường nhất định việc chứng nhận ISO 9000 là không phải là muốn hay không mà nó còn được coi là yêu cầu bắt buộc để làm công tác xuất nhập khẩu, mở rộng hợp tác liên doanh trên thương trường quốc tế. Thấy rõ lợi ích và tác dụng của việc thực hiện quản lý chất lượng theo ISO 9000. Khuyến khích các doanh nghiệp đăng ký áp dụng ISO 9000 là việc làm hết sức chính đáng, mang lại hiệu quả cao. Từ nay đến năm 2003, nước ta phấn đáu có hàng trăm doanh nghiệp sẽ thực hiện quản lý chất lượng theo ISO 9000, vì cho rằng chỉ có những doanh nghiệp có vốn lớn, công nghệ hiện đại mới phải quan tâm. Có một nguyên nhân làm cho một số đơn vị, doanh nghiệp chưa dám thực hiện quản lý chất lượng ISO 9000 vì còn gặp quá nhiều khó khăn thực tại đó là: năng lực, trình độ kỹ thuật kém, quy trình công nghệ còn lạc hậu, chưa đồng bộ, sản phẩm đạt chất lượng chưa cao... cùng với dự thiếu vắng của các tổ chức chứng nhận ISO 9000 trong nước mà phải thuê các tổ chức có tên tuổi ở nước ngoài. Các khâu tư vấn, các bước thực hiện cải tiến hệ thống quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm lại quá cao nên hầu như cac doanh nghiệp phải đắn đo cân nhắc. 4.2 Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại Việt nam. Một kinh nghiệm quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu là thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại. Đây là tổ chức phi lợi nhuận có chức năng cung cấp thông tin và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại, tiến hành nghiên cứu thị trường và tổ chức đưa hàng hoá Việt nam ra thị trường thế giới trong đó quan trọng nhất là giúp các doanh nghiệp Việt nam tham gia vào hệ thống phân phối hàng hoá ở các nước. Trung tâm này sẽ có một ngân hàng dữ liệu về các thị trường nước ngoài, về những nhà cung ứng và người mua hàng trong và ngoài nước. Việc thành lập tổ chức này cho phép mở rộng khả năng phối hợp giữa các bộ, ngành, giữa các cơ quan cũng như khả năng được cung cấp thông tin và khả năng tham gia vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt nam. Kinh nghiệm thành lập và vận hành tổ chức này chúng ta có thể học tập kinh nghiện từ Nhật bản với JETRO, Hàn Quốc với KOTRA và Đài Loan với CETRA. Hiện nay, đã có một số trung tâm xúc tiến thương mại của các nước có mặt tại Việt nam nhưng cộng tác phối hợp với các tổ chức này còn yếu. 4.3 Quỹ khen thưởng xuất khẩu. Quỹ khen thưởng xuất khẩu được thành lập nhằm kịp thời động viên khuyến khích các doanh nghiệp và người sản xuất hàng xuất khẩu. Hiện nay, một số nước khác trong khu vực cũng có những biện pháp thưởng xuất khẩu. Ví dụ ở Đài Loan hàng năm có giải thưởng cho 10 mặt hàng có chất lượng cao nhất sản xuất tại Đài loan, ngoài khoản vật chất nhất định, các sản phẩm này được phép sử dụng biểu tượng khi quảng cáo, các nhà sản xuất được gắn biểu tượng này khi bán hàng. ở thái lan việc lựa chọn công bố những “ top ten” cho một số mặt hàng xuất khẩu cũng được làm hàng năm, chế độ thưởng hạn ngạch đối với những mặt hàng này cũng đã được thực hiện từ nhiều năm nay. 4.4 Thương mại cân bằng qua thương lượng. Chính phủ phải có các phương án đàm phán với một số nước hiện đang xuất siêu vào Việt nam để đòi mở cửa thị trường cho hàng xuất khẩu Việt nam tương ứng với việc Việt nam nhập hàng của họ. 5. Cải cách thủ tục hành chính. 5.1 Khuyến khích đầu tư vào khu chế xuất, khu công nghiệp, bằng thủ tục và dịch vụ một cửa. Các khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung với lợi thế về công nghiệp và tài nguyên sẽ có điều kiện để phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng xuất khẩu. Do vậy, việc đơn giản hoá thủ tục hành chính sẽ giúp cho khu vực này có sức hấp dẫn hơn không chỉ nvowis đầu tư nước ngoài mà cả đối với đầu tư trong nước. Đề nghị Chính phủ cho phép áp dụng thí điểm cơ chế “ thủ tục và dịch vụ một cửa” cho một khu chế xuất hay một khu công nghiệp tập trung. Nếu thành công sẽ áp dụng cho các KCX, KCN khác. 5.2 Đơn giản hoá thủ tục gia công. Để khuyến khích việc gia công hàng xuất khẩu nên bãi bỏ việc hạn chế chủng loại, số lượng, mặt hàng gia công, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng gia công hàng dệt, may mặc, giầy dép, đồ chơi trẻ em.. xoá bỏ việc xét duyệt hợp đồng gia công và đơn giản hoá hơn nữa. Những trường hợp gia công theo phương thức mua đứt bán đoạn thì được coi như đầu tư chế biến sẽ được hưởng các chính sách đối với đầu tư chế biến. 5.3 Công khai hoá các văn bản pháp luật. Hiện nay, các doanh nghiệp rất thiếu thông tin về các quy định của Nhà nước có liên quan đến công việc kinh doanh của họ. Có nhiều trường hợp cả luật sư cũng không có được văn bản mới của nhà nước. Ngay cả các chuyên viên của Bộ Thương mại, nếu không chịu khó sưu tầm thì cũng khó có thể có được các quy định của các ngành khác về quản lý XNK. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định về việc đăng công báo mọi văn bản có liên quan đến quản lý của các cơ quan nhà nước ( trong vòng 15 ngày kể từ ngày ban hành). Đề nghị Chính phủ có chỉ thị nhắc nhở việc này và chỉ đạo các cơ quan hữu quan giúp văn phòng Chính phủ ra công báo nhanh hơn, cập nhật hơn. 5.4 Rà soát các thủ tục hành chính. Tiếp tục rà soát các thủ tục hành chính có liên quan đến việc thực hiện cấp giấy phép đầu tư, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh, thủ tục hưởng các chính sách ưu đãi.. mà luật đã quy định, thủ tục khai báo và kiểm hàng hoá xuất khẩu tại các cửa khẩu để bảo đảm thông thoáng, kịp thời, nhanh chóng... Xử lý nghiêm những trường hợp gây khó khăn phiền hà, chậm trễ đối với hoạt động kinh doanh, nghiên cứu áp dụng cơ chế bồi thường, bù đắp thiệt hại cho các doanh nghiệp nếu các cơ quan quản lý, kiểm tra, kiểm soát thi hành sai luật gây ra. 5.5 Quyền khiếu kiện. Đề nghị Chính phủ cho ban hành nghị định cho phép mọi công dân và tổ chức có quyền khiếu kiện các quyết định của tất cả các cơ quan tham gia quản lý xuất nhập khẩu trước toà hành chính ( hiện nay họ chỉ mới được quyền khiếu kiện các quyết định về thuế của Hải quan). Họ cũng được quyền khiếu kiện trong trường hợp bị gây phiền hà, chậm trễ, được quyền đòi bồi thường, bù đắp thiệt hại nếu chứng minh thiệt hại đó là do các cơ quan quản lý kiểm tra, kiểm soát sai luật gây ra. 5.6 Mã hàng hoá thuộc diện quản lý Hiện nay có sự bất đồng giữa cơ quan Hải quan và các doanh nghiệp về biểu thuế xuất nhập khẩu vì việc quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu không thống nhất theo tên gọi và mã số của chúng tại danh mục hàng hoá XNK Việt nam hoặc tên gọi và mã số trong biểu thuế xuất nhập khẩu. Việc không đồng nhất về mã số này đã được các cơ quan biết đến. Tuy nhiên, các cơ quan này thi hành việc giải quyết sự không đồng nhất này rất chậm trễ và sự phối hợp giữa các cơ quan không đồng bộ dẫn tới việc chưa giải quyết được vấn đề trên 5.7 Tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp. Tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu theo hướng thành lập các tổng công ty và các tập đoàn mạnh, từng bước tạo tên tuổi trên thị trường thế giới, tiến tới có những nhãn mác hàng hoá của Việt nam được thế giới biết đến và thừa nhận. Các công ty mạnh phải mở được chi nhánh ở nước ngoài để phục vụ công tác Marketing. Tóm lại với mục đích tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu với những chi phí thấp, tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam, các chính sách và biện pháp được kiến nghị trên sẽ giúp hàng hoá Việt nam chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Kết luận Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, xuất khẩu càng đóng góp vai trò quan trọng hơn đối với một nền kinh tế, nhất là đối với nền kinh tế của các nước đang phát triển. Việt nam là một nước đang trên con đường tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hoà nhập vào khu vực và thế giới. Vì vậy xuất khẩu được coi là một trong những công cụ quan trọng nhất để thực hiện thành công các mục tiêu trên. Nhằm phát huy hết các vai trò của xuất khẩu, Chính phủ Việt nam đã có những định hướng chính sách và biện pháp đúng đắn thúc đẩy xuất khẩu như thực hiện tự do hoá thương mại, chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng, chính sách thị trường, chính sách khuyến khích đầu tư.. Các chính sách này đã có tác động đáng kể tới hoạt động xuất khẩu của Việt nam trong những năm qua. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh, cơ cấu mặt hàng chuyển biến tích cực, số lượng mặt hàng xuất khẩu chủ lực ngày càng nhiều, ngoại tệ thu được về cho đất nước tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của Việt nam vẫn còn gặp nhiều trở ngại do các yếu tố khách quan và chủ quan gây nên. Vì vậy để giúp hoạt động xuất khẩu vượt qua những khó khăn, thách thức đòi hỏi chúng ta thực hiện các chính sách khuyến khích xuất khẩu của nhà nước phải được đi kèm với các nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu. Và cần thấy một điều quan trọng là các chính sách và biện pháp thúc đảy xuất khẩu của nhà nước muốn thực sự phát huy tác dụng thì phải được thực hiện nghiêm túc trong thực tế chứ không phải chỉ dừng lại ở giấy tờ. Hy vọng những tiềm lực như nhân lực và vật lực của Việt nam cùng với hệ thống chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu đúng dắn của nhà nước ta sẽ là những nhân tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt nam ngày một phát triển, xây dựng nước nhà ngày một phồn vinh. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0465.doc
Tài liệu liên quan