Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ở chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình

lời nói đầu Trong nền kinh tế thị trường yếu tố cạnh tranh nổi lên rất gay gắt, mục tiêu cơ bản của các Ngân hàng thương mại là làm thế nào, tìm mọi cách sử dụng các phương tiện tài chính của mình đem lại hiệu quả cao nhất, lợi nhuận nhiều nhất. Muốn đạt được điều đó các Ngân hàng thương mại phải biết những điểm yếu và thế mạnh của mình tìm biện pháp để khắc phục, giữ gìn sự an toàn bền vững lành mạnh cho hoạt động kinh doanh ngày càng phát triển. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ở chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấp trước đây, việc phân tích hoạt động tài chính đã được đề cập nhiều, song từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đồng thời các tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam ngày càng gia tăng, nhất là từ khi căn bản đổi mới hoạt động Ngân hàng, hình thành hệ thống Ngân hàng hai cấp đã đặt ra những nội dung mới về đối tượng phạm vi, phương pháp phân tích hoạt động tài chính trong các tổ chức tín dụng. Việc phân tích tài chính hoạt động kinh doanh trong các Ngân hàng thương mại là một yêu cầu cấp bách, phán đoán được sự tồn vong của một Ngân hàng. Đối với các nhà quản lý Ngân hàng thì việc vận dụng các kiến thức phân tích tài chính hoạt động kinh doanh là rất cần thiết cho quá trình quyết định quản lý và hoạt động tài chính. Xuất phát từ tính quan trọng của phân tích tình hình hoạt động tài chính. Nên em đã mạnh dạn viết đề tài: “Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ở chi nhánh Ngân hàng công thương Ba Đình”. Chắc chắn đề tài này còn có nhiều thiếu sót. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên. Phần I. Phương pháp Phân tích hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại . I. Khái niệm và chức năng của Ngân hàng thương mại. 1. Thế nào là một Ngân hàng thương mại ?. Khi nghiên cứu về Ngân hàng thương mại, các nhà kinh tế học đều nhất trí với nhau về vị trí, chức năng của ngân hàng trong nền kinh tế; nhưng khi định nghĩa “ Thế nào là một Ngân hàng thương mại ?” thì lại không thống nhất. Có ý kiến cho rằng: “ Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cho vay”. Một số ý kiến khác lại nhận định: “ Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính có giấy phép kinh doanh của chính phủ để cho vay tiền và mở tài khoản tiền gửi kể cả các tài khoản tiền gửi có thể dùng séc”...Sở dĩ có nhiều định nghĩa là do hoạt động Ngân hàng thương mại rất đa dạng, các thao tác trong từng nghiệp vụ ngân hàng lại phức tạp và các vấn đề này lại luôn biến động theo sự thay đổi chung của nền kinh tế. Mặt khác, do tập quán, luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau đã dẫn đến quan niệm về Ngân hàng thương mại không đồng nhất giữa các khu vực trên thế giới. Theo pháp lệnh “ Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính” ban hành ngày 24 tháng 05 năm 1990: “ Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Như vậy, Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ thông qua các nghiệp vụ huy động các nguồn vốn để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác. Ngân hàng thương mại một khi được thành lập phải có đầy đủ các điều kiện sau: - Có nhu cầu dịch vụ ngân hàng, tài chính theo yêu cầu phát triển kinh tế; - Có nguồn vốn cần thiết và phương thức huy động nguồn vốn đó; - Có khả năng thu lợi nhuận; - Có trụ sở phù hợp với hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng; - Người điều hành có năng lực quản lý, kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn về tiền tệ, tín dụng; - Các hình thức hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng hợp pháp; Và hồ sơ xin cấp giấy phép hoạt động phải gửi đến Ngân Hàng Nhà Nước bao gồm: - Đơn xin cấp giấy phép hoạt động ngân hàng; - Phương án hoạt động nêu rõ lợi ích kinh tế - tài chính của hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng; - Điều lệ của tổ chức tín dụng; - Hồ sơ lý lịch và các văn bản chứng minh năng lực của các thành viên hội đồng quản trị và người điều hành; - Những tài liệu khác mà Ngân Hàng Nhà Nước yêu cầu làm rõ một số vấn đề liên quan đến các văn bản nói trên. Chức năng của Ngân hàng thương mại. Vai trò quan trọng của Ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế được thể hiện thông qua các chức năng sau: Chức năng trung gian tài chính. Trong nền kinh tế, chu chuyển tiền tệ của các cá nhân, các đơn vị sản xuất kinh doanh không giống nhau. Tại một thời điểm nào đó, có những doanh nghiệp thiếu vốn trong khi đó lại có những doanh nghiệp thừa vốn. Ngân hàng thương mại với tư cách là một trung gian tài chính sẽ là cầu nối giữa người có vốn tạm thời chưa sử dụng với chủ thể đang cần vốn để kinh doanh. Ngân hàng thương mại có thể thực hiện tốt chức năng trên thông qua các nghiệp vụ cơ bản sau: - Nghiệp vụ huy động vốn: Ngân hàng thương mại có thể thực hiện nghiệp vụ này với tất cả các khu vực của nền kinh tế bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền. Người ký thác sẽ nhận được một khoản tiền lời trên tổng số tiền gửi ở Ngân hàng thương mại với mức độ an toàn cao. - Nghiệp vụ tín dụng: Với nguồn vốn huy động được, Ngân hàng thương mại có thể cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, cá nhân nhằm mở rộng sản xuất hoặc chi tiêu. Khi cung cấp tín dụng, Ngân hàng sẽ nhận về một khoản tiền lời dưới dạng lãi cho vay nhằm bù đắp chi phí nguồn vốn, phí kinh doanh và tạo ra lợi nhuận cho Ngân hàng. - Ngân hàng thương mại còn làm trung gian giữa các đơn vị phát hành chứng khoán với người đầu tư chứng khoán; tức là ngân hàng cung cấp dịch vụ kinh kỷ cho khách hàng. Thông qua nghiệp vụ này ngân hàng tạo điều kiện cho khách hàng đầu tư trực tiếp trên thị trường tài chính. Chức năng tạo tiền. Ngân hàng thương mại có khả năng tạo và huỷ tiền. Chức năng này được thực hiện thông qua các hoạt động tín dụng và đầu tư của các Ngân hàng thương mại trong mối quan hệ với khối dự trữ bắt buộc của Ngân Hàng Nhà Nước. Khi Ngân hàng thương mại cung cấp vốn tín dụng cho khách hàng, lập tức số tiền này có thể chuyển thành tiền gửi của khách hàng khác (Mở tại một Ngân hàng thương mại bất kỳ.). Ngân hàng thương mại lại dùng nguồn vốn này cho đối tượng khác vay. Như vậy từ một đồng vốn ký thác ban đầu, hệ thống Ngân hàng thương mại có thể tạo ra một số vốn tín dụng lớn hơn rất nhiều lần. Đây chính là khả năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại . Để kiểm soát khả năng này, luật pháp cho phép Ngân Hàng Nhà Nước được quyền bắt buộc các Ngân hàng thương mại phải ký gửi tại Ngân Hàng Nhà Nước một phần của tổng số tiền huy động được từ nền kinh tế - gọi là dự trữ bắt buộc. Theo thuyết tạo tiền, khi khối lượng tiền gửi tăng lên, khả năng cho vay của toàn bộ hệ thống Ngân hàng thương mại sẽ tăng lên nhiều lần. Ngược lại, khi bớt đi một lượng tiền gửi, khả năng cho vay của toàn bộ hệ thống Ngân hàng thương mại sẽ giảm đi nhiều lần. Cụ thể: Khả năng mở rộng tiền gửi Số tiền gửi huy Hệ số nhân mở của Ngân hàng = động ban đầu x rộng tiền tệ Hệ số nhân mở rộng 1 tiền tệ = Tỷ lệ dự trữ bắt buộc Như vậy, nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% thì lượng tiền do toàn bộ hệ thống Ngân hàng có thể tạo ra gấp 10 lần so với số tiền ký thác ban đầu. c. Chức năng làm trung gian thanh toán Khi thực hiện chức năng làm trung gian thanh toán, Ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng của mình nhiều phương tiện thanh toán trong và ngoài nước phong phú như: Uỷ nhiệm thu, Uỷ nhiệm chi, séc thẻ tín dụng...Nhờ các phương tiện thanh toán này mà các nhu cầu tiền mặt cho chi trả ngày càng giảm, tiết kiệm được thời gian, chi phí cho xã hội. Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ thông tin, thì công tác thanh toán ngày được tiến hành một cách chính xác, hiệu quả và nhanh chóng. d. Tạo điều kiện để tài trợ ngoại thương. Ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng trong việc phát triển thương mại quốc tế. Bằng các nghiệp vụ như: Mở thư tín dụng (L/C), Chấp nhận thanh toán, Bảo lãnh xuất nhấp khẩu, Bảo lãnh dự thầu và đấu thầu quốc tế, Nghiệp vụ nhờ thu...Ngân hàng thương mại đã giúp cho quá trình giao dịch, ký kết thực hiện các hợp đồng trong ngoại thương một cách trôi chảy, an toàn và nhanh chóng hơn. e. Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác. Ngoài các chức năng chủ yếu trên, Ngân hàng thương mại còn tham gia vào nhiều dịch vụ khác như: Tư vấn cho khách hàng trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, dịch vụ uỷ thác, dịch vụ bảo quản an toàn các tài sản có giá, dịch vụ kinh doanh ngoại hối...nhằm hỗ trợ và mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại trong thị trường tài chính. II. PHÂN TíCH HOạT Động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. 1. Phân tích hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại là gì ? Phân tích hoạt động kinh tế là hệ thống hoá các kiến thức liên quan đến việc nghiên cứu các mối quan hệ bên trong và bên ngoài của các hoạt động kinh tế dựa trên các tài liệu thông tin kinh tế nhằm đánh giá khách quan tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch, vạch rõ xu hướng và quy luật của các hiện tượng, phát hiện những khả năng tiềm tàng chưa được sử dụng. Từ đó nêu ra các biện pháp tốt nhất cho kỳ thực hiện sau. Đối tượng của phân tích hoạt động kinh doanh của một Ngân hàng là kết quả kinh doanh của đơn vị đó được thể hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế. Đối tượng phân tích có thể là kết quả kinh doanh của từng lĩnh vực hoạt động như: Tình hình dự trữ, doanh số cho vay, số tiền huy động được hoặc là kết quả tổng hợp của quá trình kinh doanh như lợi nhuận. 2. Tính tất yếu của việc tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh Ngân hàng thương mại. a. Đối với bản thân Ngân hàng thương mại. Để quản lý tốt hoạt động kinh doanh, Ban giám đốc các Ngân hàng thương mại không những phải biết tổ chức quá trình hoạt động, nghiên cứu thị trường, hạch toán kế toán...mà cón phải thường xuyên phân tích hoạt động của Ngân hàng để phát hiện kịp thời mặt mạnh, chỗ yếu của đơn vị mình trên cơ sở đó có những biện pháp thích hợp trong việc sử dụng nguồn lực của đơn vị góp phần hạn chế rủi ro và nâng cao lợi nhuận thực cho Ngân hàng. Mặt khác, kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực hoạt động có nhiều rủi ro nhất. Trong quá trình mở rộng tín dụng, các Ngân hàng thương mại không tránh khỏi tình trạng đầu tư vào những đơn vị hoạt động yếu kém thiếu khả năng chi trả, thậm chí có thể phá sản. Việc phân tích cẩn thận các khoản tín dụng sẽ giúp Ngân hàng kịp thời nhận ra những yếu kém trong cho vay và có cách xử lý kịp thời. Kinh nghiệm cho biết rằng một Ngân hàng vững mạnh về trường vốn nhưng có khoảng trống giữa luồng tiền vào và luồng tiền ra cũng gặp phải tình trạng mất khả năng chi trả gây giảm uy tín và mất khả năng cạnh tranh. Nên các nhà quản trị Ngân hàng thường xuyên xem xét, phân tích các báo cáo tài chính để có những phản ứng hiệu quả, nhằm ổn định khả năng thanh toán của Ngân hàng. Phân tích, kiểm tra hoạt động Ngân hàng còn là khâu quan trọng trong công tác quản trị Ngân hàng. Phân tích kết quả kinh doanh là xem xét đo lường quá trình thực hiện chiến lược kinh doanh. Khi một chiến lược mới được đưa vào thực hiện, nhà quản trị cần phải kiểm tra, phân tích phát hiện những sai lệch so với kế hoạch, xác định nguyên nhân và đề ra biện pháp xử lý. Đối với nhà lãnh đạo Ngân hàng, việc phân tích đánh giá đúng năng lực hoạt động của Ngân hàng giúp họ kịp thời đưa ra những quyết định cần thiết, đúng lúc có hiệu quả. Một chiến lược kinh doanh đúng đắn tạo được chỗ đứng vững chãi cho Ngân hàng thương mại trên thị trường chỉ được xây dựng trên cơ sở phân tích chính xác, có căn cứ khoa học. Có thể nói quản trị Ngân hàng mà thiếu khâu kiểm tra, phân tích coi như Ngân hàng đó không có quản trị Ngân hàng. Mỗi Ngân hàng nên xây dựng cho mình một hệ thống phân tích dựa trên các luận cứ khoa học, toàn diện. b. Đối với Ngân Hàng Nhà Nước. Ngân hàng Nhà Nước là cơ quan quản lý vĩ mô trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Ngân Hàng Nhà Nước có nhiện vụ làm lành mạnh và ổn định nền tiền tệ quốc gia, tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng. Tại các quốc gia hoạt động theo cơ chế thị trường, kinh doanh tiền tệ là môi trường cạnh tranh quyết liệt nhất. Trong môi trường đó luôn có xu hướng hình thành những Ngân hàng cực mạnh, các Ngân hàng này chèn ép các Ngân hàng trung bình và nhỏ. Một vài Ngân hàng kết cấu với nhau tạo thành một thế lực lớn chi phối thị trường, vô hiệu hoá nguyên tắc cạnh tranh công bằng, lành mạnh. Hơn nữa, hoạt động Ngân hàng ngày càng được quốc tế hoá, bên cạnh những thuận lợi, thị trường tiền tệ quốc tế cũng mang vào thị trường tiền tệ trong nước nhiều áp lực bất lợi. Bằng con mắt quan sát của mình, Ngân Hàng Nhà Nước có thể kịp thời nhận biết các khó khăn và nhanh chóng ban hành những chính sách ứng phó. Trong thị trường liên Ngân hàng, các tổ chức tín dụng có mối quan hệ về vốn, tiền đan chéo với nhau rất đa dạng, phức tạp. Quan hệ này giống như một dây chuyền mà mỗi mắt xích là một tổ chức tín dụng. Nếu một mắt xích thì cả dây chuyền sẽ ngừng hoạt động. Một Ngân hàng lớn bị phá sản thường kéo theo sự sụp đổ của nhiều Ngân hàng nhỏ và làm suy yếu hàng loạt Ngân hàng khác gây thiệt hại to lớn cho hoạt động tài chính của khu vực, quốc gia. Với chức năng quản lý giám sát, Ngân Hàng Nhà Nước có thể phát hiện những mắt xích yếu nhất, cảnh giác cho cả dây chuyền và đưa ra những biện pháp nhằm khắc phục hoặc nếu không cứu vãn được thì ít ra cũng làm giảm tác hại lan truyền của nó. Trong trường hợp này, Ngân Hàng Nhà Nước là tấm lá chắn bảo vệ các Ngân hàng thương mại. Trong kinh doanh tiền tệ, các Ngân hàng thương mại nắm trong tay một bộ phận lớn của cải của xã hội dưới dạng tiền ký thác. Ngân hàng thương mại không có quyến sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng khối tài sản này với nhiều điều kiện ràng buộc. Vì vậy, ngoài việc xây dựng một hệ thống văn bản pháp quy để điều chỉnh, Ngân Hàng Nhà Nước cần phải thường xuyên giám sát, buộc các tổ chức tín dụng phải chịu trách nhiệm vật chất đối với những người ký gửi và phải sử dụng vốn đúng với các nguyên tắc về tín dụng, đầu tư. Ngân Hàng Nhà Nước có thể cung cấp một số thông tinn về tình hình hoạt động của từng Ngân hàng đến công chúng. Điều này sẽ gia tăng nhận thức của công chúng về thực trạng của từng Ngân hàng thương mại. Qua việc giám sát, kiểm soát hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, Ngân Hàng Nhà Nước đã góp phần tạo ra và giữ gìn “chữ tín” - sản phẩm vô giá - cho Ngân hàng thương mại. Mặt khác, trong hầu hết các nền kinh tế, Ngân hàng là cơ quan duy nhất có tư cách như những người taọ ra tiền; là nơi cất trữ các khoản tài chính tiết kiệm của xã hội; là nơi phân phối tín dụng chủ yếu và là người quản lý hệ thống thanh toán của đất nước. Do Ngân hàng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nên chính phủ luôn cố gắng áp đặt ảnh hưởng và sự kiểm soát đối với Ngân hàng thương mại bằng cách giao cho Ngân Hàng Nhà Nước quyền giám sát, kiểm tra thường xuyên hoạt động hoạt động của các Ngân hàng thương mại. ở hầu hết các nền kinh tế thị trường, việc giám sát của Ngân Hàng Nhà Nước nhằm đảm bảo tính an toàn và đúng đắn trong hoạt động của từng Ngân hàng thương mại. Sự quản lý yếu kém, sự gian lận và những cú sốc từ bên ngoài dễ dàng tạo ra các tai hoạ tài chính mà kết quả cuối cùng là Chính phủ và toàn xã hội phải gánh chịu qua việc tăng thân hụt ngân sách, tăng thuế hoặc lạm phát. Do đó, việc kiểm tra, phân tích, đánh giá hoạt động của từng Ngân hàng thương mại và toàn hệ thống Ngân hàng là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Ngân Hàng Nhà Nước. c. Đối với xã hội. Các Ngân hàng thương mại không thể tồn tại nếu không có các mối quan hệ với các tổ chức kinh tế và các tầng lớp dân cư trong xã hội. Mối quan hệ đó có thể là hợp tác kinh doanh hoặc có thể là quan hệ giữa khách hàng với người cung cấp vốn trong các nghiệp vụ cho vay, ký gửi. Khi đặt mối quan hệ với bất kỳ một Ngân hàng nào; các cá nhân, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu phân tích khả năng kinh doanh, uy tín, chất lượng dịch vụ... của Ngân hàng đó, có như vậy mối quan hệ giữa hai bên mới lâu bền và tốt đẹp. Tại các nước kinh tế ổn định và phát triển, các Ngân hàng thương mại buộc phải công khai các báo cáo tài chính đã được kiểm toán của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng như: sách báo, sở giao dịch chứng khoán... tạo điều kiện cho các thể nhân, pháp nhân có nhu cầu đầu tư tài chính, tìm hiểu đánh giá để “chọn mặt gửi vàng”, tránh tình trạng lừa đảo hoặc hiểu sai do thiếu thông tin hoặc nhận thông tin không chính xác. Tóm lại, phân tích hoạt động kinh doanh là một việc làm tất yếu đối với từng Ngân hàng thương mại và toàn xã hội. Phân tích giúp nhà quản trị nhận định được mặt yếu kém của mình để có những ứng phó kịp thời đồng thời phát hiện ra những lĩnh vực tốt có thể mang lại lợi nhuận cao mà rủi ro thấp. Phân tích chính xác, khoa học còn là cơ sở để xây dựng một chiến lược kinh doanh phù hợp với từng giai đoạn phát triển của Ngân hàng thương mại, giúp Ngân hàng củng cố được chỗ đứng của mình trên thị trường. Trong phạm vi vĩ mô, phân tích, đánh giá chính xác hoạt động của các Ngân hàng thương mại giúp Ngân Hàng Nhà Nước thực hiện tốt chính sách tiền tệ quốc gia tạo điều kiện ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế. 3. Mối quan hệ giữa phân tích với công tác kế toán, kiểm toán, hoạch định trong quản trị Ngân hàng. Mối quan hệ giữa các yếu tố trên có thể biểu diễn qua trình tự sau: (3) (4) (5) (1) Kế toán Kiểm toán Phân tích Hoạch định (2) Quá trình tổ chức, thực hiện Mối quan hệ của các yếu tố trên là các mối quan hệ giữa các thành phần trong quản trị Ngân hàng. Trong đó: Kế toán được xem là một ngôn ngữ. Mục đích của mọi ngôn ngữ là cung cấp thông tin. Thông tin kế toán được tập trung và phản ánh trên các báo cáo tài chính. Hay nói cách khác, kế toán là việc phản ánh chính xác, đầy đủ, kịp thời toàn bộ hoạt động của các Ngân hàng thương mại trên các báo cáo tài chính. Các số liệu kế toán là cơ sở quan trọng đặt nền móng ban đầu cho việc phân tích. Nếu bổn phận của kế toán là tập trung số liệu, thì nhiệm vụ chính của kiểm toán là kiểm tra tính chính xác, trung thực của các số liệu kế toán. Nó góp phần hoàn chỉnh công tác kế toán và giúp cho công việc quản trị Ngân hàng đạt chất lượng cao. Muốn tiến hành hoạt động phân tích, nhà quản trị phải có các số liệu kế toán đã được kiểm toán để nhận xét, đánh giá hoạt động Ngân hàng tìm nguyên nhân của những tồn tại và kiến nghị những biện pháp xử lý. Phân tích cũng là quá trình xem xét lại mục tiêu, chiến lược kinh doanh của Ngân hàng đã thực hiện như thế nào mà có những điều chỉnh, sửa đổi kịp thời. Hoạch định là chức năng quan trọng của quản trị, nó đề ra mục tiêu, chiến lược, đường lối chính sách, quy chế, chương trình hoạt động của Ngân hàng thương mại. Trước khi hoạch định nhà quản trị phải dựa vào kết quả phân tích để xem tính khả thi của kỳ hoạch định trước mà đề ra vấn đề mới phù hợp hơn, hiệu quả hơn, phù hợp với từng giai đoạn kinh doanh của Ngân hàng thương mại. 4. Mục tiêu của phân tích hoạt động kinh doanh. Kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực hoạt động có độ rủi ro lớn nhất. Rủi ro là vấn đề tất yếu không thể tránh khỏi trong hoạt động Ngân hàng. Các loại rủi ro chủ yếu là: rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi xuất, rủi ro tỷ giá hối đoái...Các loại rủi ro này bao trùm lên tất cả các hoạt động của Ngân hàng. Các nhà quản trị không thể loại bỏ được rủi ro mà chỉ có thể phát hiện kịp thời để có những biện pháp chủ động xử lý. Như vậy mục tiêu đầu tiên của phân tích là giúp Ngân hàng nhận biết và dự đoán trước các loại rủi ro và đưa ra các phương thuốc hữu hiệu phòng ngừa, chống đỡ tác hại của nó. Các nhà Ngân hàng tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh còn nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Họ không chỉ quan tâm đến lợi nhuận hiện tại mà còn để ý đến các khoản lợi nhuận trong tương lai. Vì lợi nhuận là kết quả tổng hợp của toàn bộ quá trình kinh doanh nên nó bị chi phối bởi rất nhiều các yếu tố. Hai yếu tố tác động trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp là các khoản thu nhập và chi phí kinh doanh. Việc phân tích chi tiết các yếu tố này là một trong các việc làm quan trọng góp phần nâng cao lợi nhuận của Ngân hàng. Tóm lại, hai mục tiêu chính của phân tích hoạt động kinh doanh là phát hiện các lĩnh vực kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận cao và hạn chế tối thiểu các rủi ro phát sinh trong quá trình kinh doanh tiền tệ. Lợi nhuận và rủi ro là hai yếu tố song hành. Lĩnh vực kinh doanh nào càng mang lợi nhuận cao thì càng gặp rủi ro lớn. Do đó, các nhà Ngân hàng phải luôn sáng suất, khách quan để lựa chọn một chiến lược kinh doanh phù hợp với khả năng của mình. 5. Phương pháp phân tích. a. Phương pháp luận. Phân tích hoạt động kinh doanh phải lấy phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở. Điều này được thể hiện qua các diểm sau đây: a.1. Phải nghiên cứu,xem xét các sự kiện kinh tế ở trạng thái vận động và phát triển. Bản thân số liệu kế toán trong một kỳ phân tích chưa chắc đã phản ánh đầy đủ chất lượng hoạt động, xu hướng phát triển của đơn vị. Vì vậy, khi phân tích ta phải nghiên cứu các sự kiện kinh tế qua nhiều thời kỳ để thấy được xu hướng phát triển và tính quy luật của hiện tượng. Trên cơ sở đó ta có thể đưa ra những nhận định đúng đắn, có căn cứ khoa học về sự kiện, hiện tượng đó. a.2. Khi phân tích hoạt động Ngân hàng các nhà quản trị phải nghiên cứu hiện tượng kinh tế trong mối quan hệ hữu cơ với các hiện tượng kinh tế khác. Một hiện tượng kinh tế thường chịu ảnh hưởng bởi nhiều hiện tượng kinh tế khác, các hiện tượng kinh tế này được gọi là các nhân tố ảnh hưởng. Mặt khác, hiện tượng kinh tế đang nghiên cứu cũng có thể ảnh hưởng đến các hiện tượng kinh tế khác. Như vậy, các hiện tượng luôn có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Do đó, muốn đánh giá đúng đắn hiện tượng kinh tế, chỉ đúng các nguyên nhân, xác định đúng mức tác động của các nhân tố ảnh hưởng cần phải xem xét toàn diện các mối quan hệ kinh tế của nó. Nói cách khác, khi phân tích hoạt động kinh tế các nhà quản trị không thể xem xét từng hiện tượng một cách riêng rẽ, cô lập mà phải đặt chúng trong mối quan hệ với các hiện tượng kinh tế khác. a.3. Các nhà quản trị cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi đánh giá các hiện tượng kinh tế. Mọi hiện tượng kinh tế đều có quá trình phát sinh, phát triển và biến đổi qua nhiều thời kỳ. Vì vậy, muốn đánh giá bản chất của hiện tượng, khi phân tích ta không chỉ nghiên cứu tình hình hiện tại mà còn phải quan tâm đến quá khứ tức là phải quán triệt quan điểm lịch sử. Tuy nhiên cần phải thấy rằng trong những thời gia khác nhau, hiện tượng kinh tế mang lại những biểu hiện, đặc điểm khác nhau. Cùng một hiện tượng, ở cùng một mức độ như nhau trong điều kiện này ta kết luận tốt nhưng trong điều kiện khác ta có thể nhận định là xấu. Vì vậy, để đánh giá đúng chất lượng công tác Ngân hàng, cần chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng lúc từng thời kỳ. a.4. Một nguyên tắc không thể thiếu khi tiến hành hoạt động phân tích là xem xét các hiện tượng kinh tế phải xuất phát từ thực tế khách quan. Phân tích hoạt động kinh tế là quá trình nhận thức và cải tạo hoạt động kinh doanh của Ngân hàng làm cho hoạt động của Ngân hàng phù hợp với từng điều kiện cụ thể và với yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan. Muốn nhận thức đúng thực trạng kinh doanh của Ngân hàng đòi hỏi phân tích phải xuất phát từ thực tiễn hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, sử dụng các phương pháp khoa học để phân tích, đánh giá. Báo cáo phân tích phải chính xác, trung thực, tránh chủ quan, phiến diện, thoát ly thực tế. a.5. Ngoài ra, khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế , các nhà quản trị phải chú ý phát hiện những mâu thuẫn, phân loại mâu thuẫn và đề ra các biện pháp giải quyết mâu thuẫn. Quá trình vận động và phát triển của các hoạt động kinh tế luôn tồn tại các mâu thuẫn. Chính mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn là động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế phát triển. Phân tích phải phát hiện được các mâu thuẫn chủ yếu. Có như vậy, nhà quản trị mới nhận biết được khả năng tiềm tàng của Ngân hàng và đề ra được biện pháp giải quyết mâu thuẫn hữu hiệu. a.6. Cuối cùng, người phân tích cần phải đi sâu vào từng bộ phận cấu thành chỉ tiêu phân tích Bởi vì, tất cả các kết quả kinh doanh được biểu hiện trên các chỉ tiêu phân tích đều bao gồm nhiều bộ phận cấu thành. Việc đi sâu nghiên cứu các bộ phận sẽ giúp ít nhiều trong công việc xác định nguyên nhân tăng giảm của các chỉ tiêu. b. Phương pháp phân tích hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Trong những thập kỷ gần đây, cộng đồng Ngân hàng thế giới đã đưa ra nhận định: Muốn duy trì tính lành mạnh và ổn định của một Ngân hàng thương mại cần phải có 5 yếu tố. Các yếu tố này được tiêu thức hoá thành phương pháp phân tích CAMEL. Đây là phương pháp phân tích được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. CAMEL là chữ viết tắt của các từ tiếng Anh sau: - C: { Capital }: Vốn của bản thân Ngân hàng. - A: { asset Quality }: Chất lượng tài sản có. - M: { Management Ability }: Năng lực quản lý. - E: { earnings }: Khả năng sinh lợi. - L: { Liquidity }: Khả năng thanh khoản. Đây là các yếu tố quan trọng mà nhà quản trị cần tập trung phân tích. b.1. Vốn của bản thân Ngân hàng. Vốn tự có là vốn riêng của Ngân hàng chủ yếu do các chủ sở hữu đóng góp và một phần được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận được giữ lại. Vốn tự có gồm hai phần: Vốn tự có cơ bản và vốn tự có bổ xung. - Vốn tự có cơ bản bao gồm: Vốn cổ phần thường (hay vốn điều lệ), vốn cổ phần ưu đãi vĩnh viễn, các quỹ dự trữ và dự phòng, lợi nhuận không chia và các khoản khác. -Vốn tự có bổ xung gồm có: Vốn cổ phần ưu đãi có thời hạn, tín phiếu vốn, trái phiếu được chuyển đổi...Tại Mỹ, Pháp vốn tự có bổ xung chỉ được tính tối đa là 50% so với vốn tự có cơ bản. Vốn tự có là điều kiện pháp lý cơ bản đồng thời là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong việc đảm bảo các khoản nợ đối với khách hàng. Chính vì vậy, quy mô vốn tự có là yếu tố quyết định quy mô huy động vốn và các quy mô thuộc tài sản có. Vốn tự có của Ngân hàng có chức năng sau: - Chức năng bảo vệ. - Chức năng hoạt động. - Chức năng điều chỉnh. Cụ thể, vốn tự có được các nhà Ngân hàng Việt nam sử dụng vào các mục đích sau: - Mua sắm tài sản cố định, trang thiết bị, nhà cửa... - Bù đắp tổn thất khi không còn nguồn trang trải. - Là thước đo giới hạn các hoạt động kinh doanh như: + Huy động vốn <= 20 lần vốn tự có + Cho vay một khách hàng <= 10% vốn tự có. + Hùn vốn liên doanh mua cổ phần < 50% vốn tự có. + Cho vay đối tượng nội bộ < 5% vốn tự có. Để đánh giá đúng và thực tế vốn của bản thân ngân hàng, các nhà quản trị thường sử dụng hai chỉ số sau : Vốn tự có Chỉ số 1: H1= --------------------------- Tổng số tiền huy động Chỉ số này xác định qui mô vốn của ngân hàng đồng thời tính toán khả năng huy động của một đồng vốn tự có. Vốn tự có Chỉ số 2: H2= --------------------------- Tổng giá trị tài sản có Chỉ số này xác định độ an toàn của vốn tự có đối với qui mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 5 x Lợi nhuận ròng 50 x Vốn điều lệ Chỉ số 3: Quỹ bảo toàn vốn = ------------------------ < ----------------------- 100 100 Nhằm bảo toàn vốn trong kinh doanh do chi phí cơ hội gây ra, do tốc độ lạm phát của nền kinh tế gây ra. 10 x Lợi nhuận ròng Chí số 4: Quỹ dự phòng rủi ro = --------------------------- 100 Nhằm dự phòng rủi ro trong kinh doanh. Quỹ này được lập cho đến khi bằng vốn điều lệ. b.2. Chất lượng tài sản có. Tài sản có là phần sử dụng nguồn vốn đưa vào kinh doanh và duy trì khả năng thanh toán của một Ngân hàng. Chất lượng tài sản có là chỉ tiêu tổng hợp nhất nói lên khả năng bền vững về mặt tài chính, khả năng sinh lợi và năng lực quản lý của một Ngân hàng. Tuyệt đại đa số rủi ro vốn có trong kinh doanh tiền tệ đều tập trung ở tài sản có. Tài sản có của Ngân hàng thương mại bao gồm: - Tiền mặt và tiền gửi ở Ngân Hàng Nhà Nước: phần này liên quan đến việc duy trì khả năng thanh toán của Ngân hàng. Gọi chung là nhóm ngân quỹ: {Tiền mặt trong két, đồng ngoại tệ, ngân phiếu thanh toán còn thời hạn sử dụng, tiền gửi ở Ngân Hàng Nhà Nước, tiền gửi ở các Ngân hàng khác, tiền gửi ở các Ngân hàng đại lý}. Đặc điểm của nhóm này là: + Tỷ lệ sinh lợi bằng không. + Chịu chi phí bảo quản cất trữ. + Chịu ảnh hưởng của dung lượng chi trả, công tác thanh toán không dùng tiền mặt, kho tiền mặt của Ngân Hàng Nhà Nước. + Khối lượng dự trữ là bao nhiêu. - Đầu tư và kinh doanh chứng khoán. - Cho vay các tổ chức kinh tế và tầng lớp dân cư: Phần này thường chiếm 70-80% tài sản có. Đây là bộ phận sinh lợi chủ yếu của Ngân hàng và cũng là nơi phát sinh nhiều rủi ro nhất. Có thể phân chia theo kỳ hạn cho vay: cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn hoặc phân chia theo lĩnh vực đầu tư như: cho vay công nghiệp, cho vay nông nghiệp, cho vay thương nghiệp. - Tài sản có khác. Để phân tích tài sản có một cách toàn diện, các nhà quản trị phải nghiên cứu từ việc xác định chính sách, chiến lược kinh doanh đến các thủ tục nghiệp vụ, khả năng kiểm soát nội bộ và an toàn về tài sản của Ngân hàng. Khi cung cấp tín dụng, các nhà Ngân hàng phải quan tâm đến nguyên tắc phân tán rủi ro: Không tập trung vốn quá quy định vào một khách hàng hoặc một ngành kinh tế. Khi phân tích tài sản có, công việc đầu tiên của người quản trị là phải phân loại các khoản nợ để quản lý một cách có hiệu quả các khoản nợ này. Nhìn chung nó được chia làm 5 loại: + Nợ lưu hành bình thường. + Nợ cần chú ý nhưng không sắp xếp. + Nợ kém tiêu chuẩn ( Sub-Standard Loans). + Nợ có dấu hiệu nghi ngờ ( Doubtful Loans). + Nợ khê đọng, không còn khả năng thu hồi ( Bad Loans). Ba loại sau được xem là nợ quá hạn, nợ bị xếp loại. Tỷ lệ nợ khê đọng cao, không chỉ báo động sẽ phát sinh khoản phải thanh lý lớn trong tương lai, mà còn thể hiện sự giảm sút thu nhập ở hiện tại do các khoản nợ này không còn đem lại lợi nhuận hoặc rất ít không đáng kể. Đối với các khoản nợ bị xếp loại, Ngân hàng thương mại bị buộc phải thành lập quỹ dự phòng. Nếu quỹ dự phòng không đủ bù đắp nổi tài sản bị rủi ro, thì phải lấy lợi nhuận, thậm chí vốn tự có của Ngân hàng để trang trải. Giải pháp này nhằm đảm bảo nguyên tắc: Ngân hàng phải lãnh chịu những rủi ro trong kinh doanh, Ngân hàng không được phép lấy nguồn tiền gửi của khách hàng để bù đắp tổn thất. Điều này giúp cho tình hình tài chính của Ngân hàng được lành mạnh hơn đồng thời buộc Ngân hàng phải thận trọng hơn khi cung cấp tín dụng. Đối với các tài sản có bằng ngoại tệ, nhà Ngân hàng cần phải phân tình thế ngoại hối t._.hành hai dạng: Tình thế trường ( Long Position ) và tình thế đoản ( Short Position) sao cho tình thế ngoại hối không gây nguy hiểm đến tình hình kinh doanh ngoại hối của Ngân hàng. Để đánh giá đúng chất lượng tài sản có. Các nhà quản trị ngân hàng thường phân tích tình hình dự trữ và phân tích quy mô chất lượng nghiệp vụ tín dụng. Chỉ số 1. Tính tổng số tiền phải dự trữ bắt buộc. Số dư bình quân tiền Số dư bình quân tiền H1= gửi không kỳ hạn x 13% + gửi có kỳ hạn và tiết kiệm x 8% Chỉ số này cho phép xác định số tiền phải dự trữ bắt buộc ở ngân hàng nhà nước, và cho phép các nhà quản trị ngân hàng so sánh và cân nhắc số lượng tiền gửi dự trữ bắt buộc tại ngân hàng nhà nước để tránh vi phạm chế độ và quy chế của ngân hàng cũng như giảm tối thiểu mức dự trữ ở ngân hàng nhà nước nâng cao khả năng sinh lợi. Tuy nhiên, mức dự trữ này phụ thuộc vào khả năng huy động và lưu lượng thanh toán cũng như việc ngân hàng mua các trái phiếu, tín phiếu của kho bạc nhà nước. Chỉ số 2. Tính toán tỷ trọng thực tế mà ngân hàng phải gửi ở ngân hàng nhà nước dưới dạng dự trữ bắt buộc. Số tiền gửi dự trữ bắt buộc thực tế H2= ------------------------------------------ x 100(%) Số tiền phải gửi dự trữ bắt buộc Chỉ số này giúp các nhà quản trị điều chỉnh lại số tiền gửi dự trữ bắt buộc ở Ngân hàng nhà nước cho phù hợp hơn. Chỉ số 3. Đôi khi các nhà quản trị ngân hàng phải quan tâm đến số tiền mua tín phiếu kho bạc cũng như tiền mặt và ngân phiếu thanh toán tồn quỹ. Người ta sử dụng chỉ số. Tổng số tiền mua tín phiếu kho bạc H3 = ---------------------------------------------- x 100(%) Số tiền dự trữ bắt buộc Tổng tiền mặt và ngân phiếu thanh toán H4 = --------------------------------------------------- x 100(%) Số tiền dự trữ bắt buộc Để có biện pháp điều chuyển tiền, các giấy tờ có giá vào dự trữ bắt buộc khi có yêu cầu của ngân hàng nhà nước về sự vi phạm chế độ dự trữ bắt buộc của ngân hàng một cách nhanh chóng kịp thời. Để đánh giá tốt qui mô nghiệp vụ tín dụng các nhà quản trị ngân hàng thường sử dụng các chỉ số sau: Tổng dư nợ tín dụng Chỉ số 4: H5 = ------------------------------ x 100(%) Tổng nguồn huy động Chỉ số này giúp các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của ngân hàng với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy động. Tổng dư nợ tín dụng Chỉ số 5: H6 = ----------------------------------- x 100(%) Tổng tài sản có Chỉ số này tính toán hiệu quả tín dụng của một đồng tài sản có và qui mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Dư nợ quá hạn Chỉ số 6: H7 = ------------------------------ x 100(%) Tổng dư nợ Chỉ số này giúp đánh giá được chất lượng công tác tín dụng nó cho biết cứ một đồng vốn cho vay thì có bao nhiêu đồng không thu hồi được dưới dạng nợ quá hạn. b.3. Khả năng thanh toán. Đánh giá khả năng thanh toán của một Ngân hàng là một lĩnh vực khó khăn. Về cơ bản, phân tích khả năng thanh toán của một Ngân hàng là khả năng giải quyết được vấn đề nguồn vốn vào lúc tương đối bức xúc. Khái niệm thanh khoản của tài sản có, chỉ trạng thái lỏng của tài sản có, đó là những tài sản có khả năng chuyển thành tiền mặt lớn. Đo lường thanh khoản là đo lường thanh khoản của tài sản có và đo lường khả năng thanh toán của nhà Ngân hàng. Việc duy trì khả năng thanh toán của Ngân hàng là điều tối quan trọng trong hoạt động Ngân hàng. Các nhà quản trị Ngân hàng thường sử dụng các chỉ số sau: Tài sản lưu hoạt Chỉ số 7: H8 = ------------------------------ x 100(%) Tổng tiền gửi Chỉ số này cho biết khả năng đáp ứng tiền cho khách hàng khi có một đồng tiền gửi của khách hàng rút ra khỏi ngân hàng. Tuy nhiên chỉ số này không đề cập đến các luồng tiền vào ra chỉ nói đến khả năng trả nợ. Tài sản lưu hoạt Chỉ số 8: H9 = ---------------------------- x 100(%) Tổng tài sản có Chỉ số này cho biết tỷ trọng đầu tư và kinh doanh của ngân hàng vào các tài sản lưu hoạt là nhiều hay ít. Nhưng nhược điểm của nó là không nói đến khả năng huy động vốn của ngân hàng. Tổng tài sản lưu hoạt Chỉ số 9: H10 = ----------------------------------- x100(%) Tổng tiền gửi không kỳ hạn ( Chỉ số thanh toán ngắn hạn ). Tỷ số này cho biết khả năng đáp ứng các khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng là cao hay thấp. Tài sản có động Chỉ số 10 : H11( Khả năng thanh toán tức thì) = ------------------------------ Tài sản nợ dễ biến động Chỉ số này cho biết khả năng đáp ứng của ngân hàng trong những khoản nợ dễ biến động. Trong đó: Tài sản có động = Tiền mặt tồn quỹ + Vàng bạc tồn kho + Tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng nhà nước + Tiền gửi không kỳ hạn ở các TCTD khác + Các hợp đồng cam kết được vay+ Tín phiếu kho bạc Tài sản nợ dễ biến động = Tiền gửi không kỳ hạn ở thị trường 1 + Tiền gửi không kỳ hạn ở thi trường 2 + Vay ngắn hạn các TCTD khác + Các cam kết cho vay. Khả năng thanh toán Chỉ số 11: Hệ số khả năng thanh toán(Hs) = ---------------------------- Nhu cầu thanh toán Trong đó: Khả năng thanh toán = Tiền gửi theo hợp đồng mới + Tín dụng đến hạn trả + Lãi nhận được... Nhu cầu thanh toán = Tiền gửi phải trả + Lãi phải trả + Các hợp đồng tín dụng... Nếu Hs >= 1 : Chứng tỏ ngân hàng có khả năng thanh toán và tình hình tài chính bình thường hoặc khả quan. Nếu Hs < 1: Ngân hàng gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Ngoài ra người ta cò dùng các chỉ số: Tỷ lệ các khoản phải thu Tổng số các khoản phải thu so với các khoản phải trả = ---------------------------------- x 100(%) Tổng số nợ phải trả Tỷ lệ này càng lớn thì chứng tỏ đơn vị bị chiếm dụng vốn ngày càng nhiều và ngược lại. Số vòng luân chuyển Tổng dư nợ tín dụng các khoản phải thu = --------------------------- Các khoản phải thu Chỉ tiêu này cho biết mức hợp lý của số dư các khoản phải thu và hiệu quả của việc đi thu hồi nợ. Nếu các khoản phải thu được thu hồi nhanh thì số vòng luân chuyển các khoản phải thu sẽ cao và Ngân hàng ít bị chiếm dụng vốn. Để quản lý được khả năng thanh toán của Ngân hàng thì cần phải làm những việc sau: - Xác định nhu cầu thanh khoản. Nhà quản trị phải lập bảng như sau: ( Đây là bảng ví dụ). Biểu 1: Phân tích tình hình thanh khoản Đơn vị: Tỷ VND Cuối tháng Tổng dư nợ tín dụng Tổng dư nợ tiền gửi Dự đoán nhu cầu thanh khoản Tháng 1 192,8 273 + 10,2 Tháng 2 194,2 278 + 6,6 Tháng 3 205 269 + 26,4 Tháng 4 223 263 + 50,4 Tháng 5 212 262 + 40,4 Tháng 6 198,4 264 + 24,8 Tháng 7 191,2 271 + 25 Tháng 8 199,8 273 + 31,6 Tháng 9 210,6 273 + 42,4 Tháng 10 214,2 273 + 46 Nhu cầu thanh khoản của nhà Ngân hàng được đo bằng: Tiền gửi phải trả + Lãi phải trả + Các hợp đồng tín dụng. Để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của nhà Ngân hàng có các loại sau: Tiền gửi theo hợp đồng mới + Tín dụng đến hạn trả + Lãi nhận được. Chênh lệch giữa nguồn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản và nhân tố tạo ra nhu cầu thanh khoản là khe hở thanh khoản. - Đo lường thanh khoản. Sử dụng các chỉ số sau: + Tỷ lệ giữa tín dụng và tiền gửi: phản ánh trạng thái tĩnh của nhà Ngân hàng, chưa phản ánh được cái gì phải trả. Tài sản lưu hoạt Phản ánh khả năng trả nợ Tiền gửi Không đề cập đến các luồng tiền vào ra Tài sản lưu hoạt Không bao gồm các tài sản lưu hoạt khác như trái phiếu kho bạc Tổng tài sản có Không nói đến khả năng huy động vốn + Phản ánh các luồng tiền vào ra. Tiền vay có thể huy động Các khoản tín dụng đến hạn Luồng tiền vào Các khoản lãi của tín dụng Các chứng khoán có thể bán Các khoản vay mượn có thể chiết khấu Phải trả khi đến hạn Luồng tiền ra Phải trả theo chu kỳ Các hợp đồng tín dụng Lãi phải trả Sau đó tính công thức sau: HS = { Luồng tiền vào - Luồng tiền ra } gọi là khe hở thanh khoản. Nếu HS > 0 : Khả năng thanh khoản cao. Nếu HS 0 rất nhiều, các nhà Ngân hàng có thể tăng lãi suất cho vay, để kích HS dần tới 0. Ngoài ra, các Ngân hàng thương mại cần phải thường xuyên duy trì nguồn tiền mặt, tiền gửi không kỳ hạn tại các tổ chức tín dụng khác và tài sản có có thể chuyển ngay thành tiền mặt ở mức đủ chi trả trong 3 ngày làm việc tiếp theo. b.4. Khả năng sinh lợi. Khả năng sinh lợi là kết quả cụ thể nhất của quá trình kinh doanh, mọi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường chỉ có thể tồn tại và đứng vững được bằng cách kinh doanh có lãi. Đánh giá thu nhập là khâu then chốt trong phân tích vì thu nhập tạo ra tăng trưởng nội bộ tác động đến khả năng huy động vốn bên ngoài và tạo hình ảnh tốt cho Ngân hàng trong thị trường tiền tệ. Để đánh giá đúng khả năng sinh lợi của Ngân hàng, khi phân tích phải tập hợp đúng các khoản thu nhập và chi phí trong kỳ, loại bỏ các khoản thu nhập không đúng chế độ và các khoản chi bất hợp lý ra khỏi công thức xác định lợi nhuận. Sắp xếp danh mục tài sản có như sau: Thanh khoản giảm dần Ngân quỹ Tài sản có sinh lợi Chứng khoán ngắn hạn Tài sản có không sinh lợi Tín dụng ngắn hạn Tỷ lệ sinh lợi của các tài sản có sinh lợi Tín dụng trung hạn Hiệu suất của tài sản có sinh lợi Tín dụng dài hạn Tối đa hoá lợi nhuận Chứng khoán dài hạn Phân tích tốc độ phát triển Đầu tư khác Tìm hiểu lãi suất bình quân Tài sản cố định - Cho thuê mua: sinh lợi - Trang thiết bị: Không sinh lợi Các nhà quản trị thường dùng các chỉ số sau đây để đánh giá lợi nhuận của ngân hàng thương mại. Thu nhập ròng ROE( Return on Equity) = ----------------------------- x 100 Vốn tự có ROE đo lường hiệu quả sử dụng một đồng vốn tự có, đo lường khả năng lành mạnh của ngân hàng. Nếu ROE quá lớn so với ROA chứng tỏ vốn tự có chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn, ngân hàng đã huy động nhiều vốn để cho vay. Thu nhập ròng ROA( Return on assets) = ------------------------------- x 100 Tổng tài sản có ROA cho chúng ta biết được khả năng bao quát của ngân hàng trong việc tạo ra thu nhập từ tài sản có. Nói cách khác, ROA giúp ta xác định hiệu quả kinh doanh của một đồng tài sản có. ROA cao khẳng định hiệu quả kinh doanh tốt của Ngân hàng có cơ cấu tài sản có hợp lý, có sự điều động linh hoạt giữa các hạng mục trên tài sản có trước những biến động của nền kinh tế. Nếu ROA quá cao sẽ làm cho Ngân hàng lo lắng vì rủi ro luôn song hành với lợi nhuận. Vì vậy, việc so sánh ROA giữa các kỳ hạch toán, đối chiếu với sự di chuyển các loại tài sản có, nhà phân tích có thể rút ra nguyên nhân thành công hoặc thất bại của ngân hàng. ROA còn phản ánh khả năng thích ứng của ban giám đốc trước những biến đổi của chính sách tiền tệ, tài chính của nhà nước và thay đổi chung của nền kinh tế Ngân hàng nhà nước sử dụng chỉ số : Thu nhập ròng Chỉ số = ---------------------------- x 100 Tổng thu nhập Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng thu nhập giúp ta xác định khả năng mang lại lợi nhuận của một đồng thu nhập. Theo yêu cầu của ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại nên duy trì tỷ lệ này ở mức > 10% Có thể lập bảng sau để quản lý: ( Bảng ví dụ).(Trang sau) Biểu 2. Bảng danh mục tài sản có sinh lợi. Đơn vị: Tỷ VND. Năm 199N. Thời gian Quý I Quý II Quý III Quý IV Danh mục Số dư Lãi suất Số dư Lãi suất Số dư Lãi suất Số dư Lãi suất Ngân quỹ 8 0 9 0 8.5 0 8.9 0 Chứng khoán ngắn hạn 1 15 0.8 15 0.7 16 0.6 18 0.7 Chứng khoán ngắn hạn 2 20 0.6 20 0.9 21 0.8 21 0.75 Tín dụng ngắn hạn 1 17 0.7 17 0.75 18 0.8 17 0.8 Tín dụng ngắn hạn 2 29 0.75 30 0.65 30 0.65 29 0.75 Tín dụng trung hạn 16 0.8 16 0.8 18 0.7 20 0.8 Tín dụng dài hạn 11 0.9 12 0.95 10 0.9 8 0.9 Tài sản có khác 7 0 7 0 9 0.1 8 0.1 b.5. Năng lực quản lý. Yếu tố con người và vấn đề quản trị lúc nào cũng là nhân tố quan trọng nhất trong quá trình tổ chức hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Năng lực quản lý của Ban giám đốc được biểu hiện qua các mặt chủ yếu sau: - Năng lực đề ra sách lược kinh doanh đủ sức mạnh cạnh tranh và đứng vững trên thị trường. - Vạch thảo được kế hoạch, triển khai công việc mạch lạc hợp lý. - Đề ra được các thủ tục quản lý nghiệp vụ, đảm bảo sự tuân thủ các thủ tục đó trong giao dịch, kinh doanh. - Có cơ cấu tổ chức hợp lý, hữu hiệu, phân quyền, phân nhiện rõ ràng. - Có chính sách nhân lực đúng đắn, khuyến khích mọi người làm việc tốt và duy trì được kỷ luật cơ quan. .... Năng lực quản lý của Ban lãnh đạo Ngân hàng thương mại được Ngân Hàng Nhà Nước quan tâm ngay từ lúc duyệt, cấp giấy phép kinh doanh. Ngân hàng thương mại phải không ngừng nâng cao khả năng quản trị để có thể tồn tại và phát triển trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. III. Phân tích hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại qua các báo cáo tài chính Các báo cáo tài chính chủ yếu được các nhà quản trị sử dụng khi phân tích hoạt động kinh doanh của Ngân hàng là Bảng tổng kết tài sản, Báo cáo thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh. A. Bảng tổng kết tài sản( Balance sheet). 1. Khái niệm Bảng tổng kết tài sản( hay bảng cân đối tài sản) là một báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tổng quát toàn bộ tài sản hiện có và nguồn hình hành tài sản đó của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Bảng tổng kết tài sản có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác quản lý. Dựa vào bảng tổng kết tài sản ta có thể biết được tài sản hiện có, hình thái vật chất, cơ cấu tài sản, nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Thông qua đó có thể đánh giá khái quát tình hình tài chính, kết quả kinh doanh, chất lượng kinh doanh cũng như triển vọng khả năng kinh tế của doanh nghiệp. 2. Kết cấu của bảng tổng kết tài sản. Bảng tổng kết tài sản được chia làm hai phần: - Tài sản có hoặc tiêu sản (ASSET). - Tài sản nợ hoặc tích sản ( Liability and Equity) Sao cho: Tổng tài sản có = Tổng tài sản nợ. Dưới đây là bảng tổng kết tài sản phân theo danh mục lớn. Tài sản có Tài sản nợ 1. Cho vay, đầu tư khách hàng không phải ngân hàng. 1. Tiền gửi của khách hàng không phải ngân hàng. 2. Tiền gửi, cho vay thị trường liên ngân hàng. 2. Tiền gửi, tiền vay của thị trường liên ngân hàng. 3. Tài sản, trang thiết bị. 3. Vốn của bản thân ngân hàng. 4. Ngân quỹ. 4. Tài sản nợ khác. 5. Tài sản có khác. 5. Thu nhập > Chi phí. 6. Chi phí > Thu nhập. 3. Nội dung bảng tổng kết tài sản. a. Phần nội bảng. a.1. Tài sản nợ. Tài sản nợ hoặc nguồn vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng huy động, vay và tạo lập được, dùng để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ khác trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Tài sản nợ bao gồm các thành phần sau: + Vốn huy động. Vốn huy động là những phương tiện tiền tệ do Ngân hàng thu nhận được từ nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ ký thác và các nghiệp vụ khác để làm vốn kinh doanh. Đặc điểm cơ bản của nguồn vốn này là Ngân hàng chỉ được quyền sử dụng nó, quyền sở hữu tài sản này thuộc về những người ký thác. Mặt khác, vì đây là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng nên nó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn và luôn biến động. Vì vậy, khi sử dụng nguồn này các ngân hàng phải luôn dự trữ một tỷ lệ an toàn nhằm đảm bảo khả năng chi trả cho các nhu cầu của khách hàng. Dựa vào tính khả dụng của vốn huy động người ta phân nó thành các loại sau: - Tiền gửi không kỳ hạn. - Tiền gửi có kỳ hạn. - Tiền gửi tiết kiệm. - Nguồn vốn huy động khác. Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi hoàn toàn theo nguyên tắc khả dụng. Người gửi có thể rút tiền bất cứ khi nào họ muốn và Ngân hàng phải đảm bảo cho các khoản rút của khách hàng. Tiền gửi có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và Ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm: là một bộ phận thu nhập bằng tiền của cá nhân tạm thời nhàn rỗi, được gửi vào Ngân hàng nhằm mục đích kinh doanh. Nguồn vốn huy động khác: Ngoài việc huy động dưới dạng tiền gửi. Ngân hàng còn thu hút tiền gửi từ nền kinh tế bằng các hình thức phát hành các chứng chỉ tiền gửi (CDs: Certificates of Deposits), trái phiếu, kỳ phiếu.... + Vốn vay. Trong thị trường liên Ngân hàng, các Ngân hàng thương mại có thể vay mượn lẫn nhau nhằm giải quyết khó khăn về tài chính. Nếu thị trường liên Ngân hàng không cung cấp đủ vốn, Ngân hàng thương mại có thể xin vay ở Ngân Hàng Nhà Nước - Ngân hàng của các Ngân hàng thương mại. + Vốn tự có. Vốn tự có của các Ngân hàng thương mại bao gồm hai phần chính: Vốn điều lệ và các quỹ. Vốn điều lệ của các Ngân hàng thương mại là vốn mà khi Ngân hàng được thành lập và được ghi vào điều lệ. Pháp lệnh: “ Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính” buộc các Ngân hàng thương mại phải có đủ vốn điều lệ để tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và về các nghiệp vụ cung cấp cho khách hàng và về khả năng tài chính của mình. Các quỹ của Ngân hàng thương mại : Ngân hàng thương mại có hai loại quỹ dự trữ: - Quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ, được trích từ lợi nhuận. - Quỹ dự trữ đặc biệt: đây là quỹ dự phòng nhằm bù đắp rủi ro trong kinh doanh. Quỹ này được trích từ lợi nhuận. Ngoài ra, Ngân hàng thương mại còn có các loại vốn sau: Lợi nhuận chưa chia, quỹ phát triển kỹ thuật Ngân hàng, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ khấu hao tài sản cố định và các quỹ khác. a.2. Tài sản có - Tích sản ( ASSET). Tài sản có là kết quả sử dụng vốn của Ngân hàng. Các tài sản có sinh lợi là phần tạo ra lợi nhuận cho Ngân hàng. Các thành phần của tài sản có bao gồm. - Tiền dự trữ Tiền dự trữ bao gồm: dự trữ bắt buộc và dự trữ dư thừa. Tiền dự trữ là phần tiền Ngân hàng thương mại gửi ở Ngân Hàng Nhà Nước, các tổ chức tín dụng, các khoản tiền mặt tồn quỹ ngân hàng, các khoản ngân phiếu thanh toán chưa đến hạn và các khoản khác. Tiền dự trữ là tài sản có không sinh lợi nhưng Ngân hàng thương mại buộc phải giữ lại vì hai lý do: Trước hết vì đó là khoản dự trữ bắt buộc theo luật định, sau nữa đây là các tài sản lưu hoạt nhất có thể đáp ứng tức khắc các nhu cầu rút tiền của người ký thác. - Các khoản đầu tư chứng khoán. Chứng khoán là những chứng từ có giá xác nhận một quyền về tài sản của người sở hữu chứng khoán. Có hai loại chứng khoán. + Chứng khoán nợ gọi chung là trái phiếu. + Chứng khoán vốn gọi chung là cổ phiếu. Hoạt động kinh doanh chứng khoán mang lại cho Ngân hàng thương mại một khoản lợi nhuận tương đối lớn. Trong trường hợp chưa tìm ra khách hàng đáng tin cậy để cho vay thì đầu tư chứng khoán là nơi giải quyết nguồn vốn hữu hiệu cho Ngân hàng. Song, đầu tư chứng khoán là nghiệp vụ mang nhiều rủi ro. Do đó, Ngân hàng cần phải phân tích kỹ trước khi lựa chọn một loại chứng khoán để đầu tư. - Nghiệp vụ tín dụng. Tín dụng là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng luôn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu nghiệp vụ Ngân hàng. Tuy nhiên, tín dụng là lĩnh vực có nhiều rủi ro và phức tạp nhất. Rủi ro tín dụng rất đa dạng có thể do thiên nhiên gây ra như: Hoả hoạn, lụt lội, động đất...Cũng có thể do Ngân hàng thiếu cân nhắc khi cho vay, cho vay sai nguyên tắc...Tín dụng liên quan chặt chẽ với tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế từ tiêu dùng đến sản xuất kinh doanh. Do vậy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các hình thức tín dụng ngày càng đa dạng nhằm thoả mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, thu hút nhiều khách hàng và tạo điều kiện tăng lợi nhuận cho Ngân hàng thương mại. Hiện nay, Ngân hàng thương mại có các hình thức tín dụng sau: + Nghiệp vụ chiết khấu: là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng để nhận một khoản tiền bằng mệnh giá của thương phiếu sau khi trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí. + Tín dụng chấp nhận: Liên quan đến thương phiếu nhưng nó khác với nghiệp vụ chiết khấu ở chỗ Ngân hàng chính là người chi trả thương phiếu. Trong loại tín dụng này, Ngân hàng chấp nhận thương phiếu do khách hàng lập cho mình, với điều kiện khách hàng phải hoàn trả tiền vay khi thương phiếu đến hạn chi trả. Người phát hành thương phiếu sau khi được Ngân hàng chấp nhận có thể sử dụng thương phiếu đó để thanh toán tiền hàng hoá hoặc chiết khấu ở Ngân hàng khác, Ngân hàng có thể thực hiện hai nghiệp vụ nối tiếp nhau là chấp nhận và chiết khấu thương phiếu. + Tín dụng ngân quỹ: Đây là loại tín dụng mà ngân hàng cho doanh nghiệp vay nhằm cân đối ngân quỹ ngân hàng. Tín dụng ngân quỹ được thực hiện dưới hai dạng chủ yếu: +1. Tín dụng ứng trước trên tài khoản: là nghiệp vụ tín dụng thực hiên trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó khách hàng được sử dụng một mức cho vay trong một thời gian nhất định. Tín dụng ứng trước có hai loại: +1.1. Tín dụng ứng trước có bảo đảm: là loại tín dụng được cấp phát trên cơ sở tài sản thế chấp, cầm cố.... +1.2. Tín dụng ứng trước không có bảo đảm : là việc cấp tín dụng dựa trên cơ sở uy tín của khách hàng, được ngân hàng đánh giá qua hàng loại chỉ tiêu như mức vốn lợi nhuận hàng năm, uy tín của sản phẩm trên thị trường, khả năng tiêu thụ, năng lực và phẩm chất của guồng máy quản lý... +2. Tín dụng thấu chi ( Over Draft): Là loại tín dụng cho phép khách hàng có số dư trên tài khoản vãng lai ở một hạn mức thấu chi nhất định. + Tín dụng bằng chữ ký(dấu) bảo lãnh của Ngân hàng Tín dụng bằng chữ ký hay tín dụng cam kết bảo lãnh khác với các loại tín dụng khác ở chỗ: khi cấp tín dụng, Ngân hàng không phải xuất quỹ cho khách hàng mà Ngân hàng chỉ đưa ra một cam kết thanh toán có điều kiện, tức là cam kết bảo lãnh cho con nợ. Chỉ khi nào con nợ không trả được nợ thì người bảo lãnh mới phải thanh toán hộ. Ngân hàng cung cấp cho khách hàng các loại bảo lãnh sau: +1. Bảo lãnh cho một khoản tín dụng Ngân hàng. +2. Bảo lãnh cho một khoản tín dụng thương mại. +3. Bảo lãnh cho việc nộp tiền cọc.... + Tín dụng tiêu dùng: Đây là loại tín dụng cung cấp cho các cá nhân, hộ gia đình để phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng của họ. + Tín dụng uỷ nhiệm thu - Bao thanh toán ( Factoring). Cho vay uỷ nhiệm thu được xem như việc thực hiện hợp đồng mà doanh nghiệp ( được gọi là Factor) mua đứt toàn bộ trái quyền ( các phiếu nợ, hoá đơn chưa thu tiền...) người cung cấp đang nắm giữ. Đây là trường hợp Ngân hàng mua chứng từ để đi đòi nợ. Factor chịu trách nhiệm về việc thu tiền và đảm bảo thực hiện tốt việc này ngay trong trường hợp con nợ mất khả năng thanh toán toàn bộ hoặc một phần trái quyền. + Tín dụng thuê mua ( Leasing). Tín dụng thuê mua là nghiệp vụ tài trợ, trong đó người chủ tài sản (Người cho thuê) cho phép người cần tài sản giữ và sử dụng tài sản đó cho những mục đích nhất định trong một khoảng thời gian dài. Người đi thuê có quyền sử dụng tài sản và phải có trách nhiệm thanh toán tiền thuê theo định kỳ. Có các loại thuê mua sau: +1. Thuê mua thuần ( Net Finance Lease) +2. Thuê mua hợp tác ( Leveraged Lease). +3. Thuê lại sau khi bán. +4. Thuê mua giáp lưng ( Under Lease)... Ngoài các nghiệp vụ trên, Ngân hàng thương mại còn cung cấp cho khách hàng các nghiệp vụ khác như: Tín dụng chứng từ, tài trợ ngoại thương... - Tài sản có khác. + Tài sản cố định và trang thiết bị. Tài sản cố định và trang thiết bị là những tư liệu lao động có giá trị lớn, thời gia sử dụng dài và thoả mãn các quy định về chế độ quản lý tài sản cố định của nhà nước. + Các khoản phải thu tài sản thiếu hụt mất mát... So với bảng tổng kết tài sản của các doanh nghiệp phi tài chính, bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng thương mại có cơ cấu khác biệt. Sự khác biệt về thành phần tích sản giữa Ngân hàng thương mại với các loại doanh nghiệp khác xuất phát từ sự khác biệt về bản chất tiêu sản và đặc điểm hoạt động sinh lợi mà các đơn vị thực hiện. Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh phần lớn lợi nhuận tạo ra từ hoạt động sản xuất, buôn bán, do đó họ cần nhiều máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, hàng hoá tồn kho...Ngược lại, lợi tức của Ngân hàng thương mại có được từ việc cho vay và đầu tư. Cho nên Ngân hàng thương mại nắm giữ nhiều trái phiếu và các công cụ tài chính làm cơ sở cho các khoản tiền sẽ được thanh toán trong tương lai. b. Phần ngoại bảng Ngoài các giao dịch được phản ánh trong nội bản, các ngân hàng còn tham gia vào các hoạt động chưa được thừa nhận là tài sản nợ, hoặc tài sản có các hoạt động này hiện đang được theo dõi ở các tài khoản ngoại bảng. Một số dạng chủ yếu của ngoại bảng chẳng hạn: bảo lãnh công nợ, bảo lãnh ngân hàng, các hợp đồng có liên quan đến lãi suất, các giao dịch về ngoại hối như giao dịch Swap, options, future, các chứng từ có giá, những cam kết mua bán không hạch toán nội bảng. Mặc dù sự biến động của các giao dịch ngoại bảng không làm thay đổi kết cấu, cân số bản tổng kết tài sản, nhưng vì nó cũnglà một hiện tượng kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh nên độ rủi ro của nó cũng tác động mạnh mẽ đến độ an toàn của ngân hàng. Rủi ro ngoại bảng phát sinh khi ngân hàng nhận cam kết thực hiện các nghiệp vụ ngoại bản, chẳng hạn cam kết cho vay. Bởi vì, khách hàng có thể yêu cầu ngân hàng thực hiện cam kết ngay thời điểm ngân hàng gặp khó khăn về vốn hoặc tình trạng của khách hàng có thể xấu đi trong giai đoạn từ khi ngân hàng ký cam kết đến khi thực hiện cam kết. Do đó, khi phân tích hoạt động ngân hàng thương mại, bên cạnh việc nghiên cứu các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản, các nhà quản trị cần phải quan tâm đến mức độ và diễn biến các họat động ngoại bảng vì độ rủi ro của các hoạt động này cũng làm ảnh hưởng không ít đến kết quả chung của ngân hàng thương mại. Bảng tổng kết tài sản của chi nhánh ngân hàng công thương Ba đình Quý I Năm 2002 Đơn vị: Triệu VNĐ Tài sản có (sử dụng vốn) Số dư Tài sản nợ (nguồn vốn) Số dư A. Phương tiện kinh doanh. 18.124 A. Nghiệp vụ tiền gửi và huy động vốn khác. 1.138.083 1. Quỹ đảm bảo thanh toán. 18.124 1. Nghiệp vụ tiền gửi. 1.122.149 B. Các khoản cho vay và đầu tư kinh doanh khác. 606.884 - Tiền gửi quản lý và giữ hộ 524 1. Cho vay 574.362 - Tiền gửi bảo đảm thanh toán 27.496 - Ngắn hạn. 470.821 - Tiền gửi của doanh nghiệp 357.028 - Trung và dài hạn 87.083 - Tiền gửi tiết kiệm. 597.577 - Vốn đặc biệt 100 - Tiền phát hành kỳ phiếu 141.522 - Thanh toán công nợ. 313 2. Các huy động vốn khác 15.934 - Tài trợ quỹ khác. 16.044 - Ngoại tệ kinh doanh 15.934 Nợ quá hạn. 19.655 B. Nguồn vốn đi vay 413 2. Đầu tư kinh doanh khác 32.521 - Vay ngân hàng nhà nước 413 - Mua cổ phần 16.631 C. Thanh toán bốn nội bộ. 67.932 - Kinh doanh ngoại tệ 15.889 1. Thanh toán với TCDT khác. 0 C. Thanh toán vốn nội bộ 584.429 2. Tài khoản điều chuyển vốn. 44.708 1. Thanh toán với TCTD # 0 3. Thanh toán khác 23.223 2. Điều chuyển vốn. 561.576 D. Tài sản nợ khác. 57,.269 3. Thanh toán khác. 22.852 1. Vốn và các quỹ 3.878 D. Tài sản có khác. 54.260 2. Các khoản phải trả. 509 1. Tài sản cố định 6.825 3. Thu nhập 19.226 2. Giá trị tồn kho kim loại, đá quý. 182 4. Lãi 30.235 3. Các khoản phải thu. 26.253 5. Tài sản nợ khác 3.419 4. Chi phí 17.362 5. Tài sản có khác 3.636 Tổng cộng: 1.263.698 Tổng cộng: 1.263.698 B. Báo cáo thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh. Báo cáo thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh là kiểu tổng hợp tình hình hoạt động của ngân hàng. Báo cáo này giúp các nhà lãnh đạo ngân hàng biết được tình hình cân đối thu chi, mức độ lỗ lãi để kịp thời nghiên cứu và đề ra kế hoạch chỉ đạo công việc kinh doanh. Phân tích các khoản mục chi phí và thu nhập nhằm hạn chế các khoản chi bất hợp lý, có biện pháp tăng cường các khoản thu nhằm đạt được mức lợi nhuận cần thiết. Ngoài hai báo cáo chủ yếu là bảng tổng kết tài sản và bảng báo cáo chi nhập, chi phí và kết quả kinh doanh, khi phân tích tình hình hoạt động của ngân hàng thương mại các nhà quản trị cần xem xét các báo cáo kế toán khác như: Bản phân tổ nguồn vốn và sử dụng vốn, báo cáo về tình hình tín dụng.. và các báo cáo kế toán khác, có như vậy thì kết quả phân tích mới toàn diện có ý nghĩa thực tiễn và khoa học. Báo cáo thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh quý I năm 2002 của chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình Đơn vị: VNĐ I. Thu nhập 26.949.026.393 1. Thu về hoạt động kinh doanh 26.949.005.019 - Thu lãi cho vay. 15.029.860.664 - Thu lãi điều chuyển vốn 10.591.038.575 - Thu lãi tiền gửi 16.773.237 - Thu kinh doanh vàng, đá quý 2.899.500 - Thu về dịch vụ ngân hang 1.245.000.043 - Thu khác về hoạt động kinh doanh 63.433.000 2. Thu khác 21.374 II. Chi phí 21.154.773.263 1. Chi về hoạt động kinh doanh 18.990.492.752 - Trả lãi tiền gửi 5.639.932.551 - Trả lãi tiền gửi tiết kiệm 10.689.512.080 - Trả lãi điều chuyển vốn 215.000.000 - Trả lãi tiền vay 18.003.823 - Trả lãi phát hành kỳ phiếu 2.383.486.535 - Chi phí khác về HĐKD 44.557.763 2. Chi nộp thuế 83.935.504 3. Chi phí cho nhân viên 885.318.609 4. Chi khác 1.195.026.398 II. Kết quả kinh doanh 5.794.253.130 Phần II Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh ở chi nhánh ngân hàng công thương ba đình. A. Thực trạng hoạt động kinh doanh. I. Vài nét về chi nhánh ngân hàng công thương Ba đình. 1. Sơ lược về lịch sử Chi nhánh Ngân hàng . Chi nhánh ngân hàng công thương Ba Đình có trụ sở tại 126- Đội cấn Quận Ba Đình - Hà Nội. Tiền thân của chi nhánh Ngân hàng là một chi điếm ngân hàng, được thành lập năm 1959, mới đầu chỉ có trên 10 cán bộ công nhân viên, được Ngân hàng Nhà nước phân công làm việc theo kế hoạch tập trung: kế hoạch tín dụng, kế hoạch tiền mặt. Từ năm 1986 Chi điếm ngân hàng này đã trở thành một ngân hàng chuyên doanh theo Nghị định 53 của Chính phủ. Lúc này Ngân hàng công thương Ba đình là một đơn vị trực thuộc của Ngân hàng Công thương Hà Nội. Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước đã ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng; đó là: - Pháp lệnh ngân hàng Nhà nước Việt Nam. - Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính, để nhằm mục đích hoàn thiện hệ thống ngân hàng cho thích ứng với cơ chế thị trường. Việc chuyển đổi hệ thống ngân hàng từ một cấp sang hai cấp cho phép ngân hàng Công thương Ba Đình chuyên sâu vào kinh doanh tiền tệ và làm cho ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong hoạt động, tổ chức bộ máy, huy động, địa bàn và phạm vi hoạt động. Tháng 9/1993, ngân hàng Công thương Ba Đình được nâng cấp lên thành chi nhánh của Ngân hàng Công t._. ´ 100 Tài sản có Ngân hàng Nhà nước sử dụng chỉ số Thu nhập ròng Chỉ số = ´ 100 Tổng thu nhập ROA cho chúng ta biết được khả năng bao quát của ngân hàng trong việc tạo ra thu nhập từ tài sản có. Nói cách khác, ROA giúp ta xác định hiệu quả kinh doanh của một đồng tài sản có. ROA cao khảng đinh hiệu quả kinh doanh tốt của ngân hàng có cơ cấu tài sản có hợp lý, có sự điều động linh hoạt giữa các hạng mục trên tài sản có trước nhưng biến độ của nền kinh tế. Nếu ROA quá cao sẽ làm cho nhà ngân hàng lo lắng vì rủi ro luôn song hành với lợi nhuận. Vì vậy, việc so sánh ROA giữa các kỳ hạch toán, đối chiếu với sự di chuyển các loại tài sản có, nhà phân tích có thể rút ra nguyên nhân thành công hoặc thất bại của Ngân hàng ROA còn phản ánh khả năng thích ứng của Ban giám đốc trước những biến đổi của các chính sách tiền tệ, tài chính của nhà nước và thay đổi chung của nền kinh tế. ROE đo lường hiệu quả sử dụng một đồng vốn tự có Đo lường khả năng lành mạnh của ngân hàng. Nếu ROE quá lớn so với ROA chứng tỏ vốn tự có chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn, Ngân hàng đã huy động nhiều vốn để cho vay. Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng thu nhập giúp ta xác định khả năng mang lại lợi nhuận của một đồng thu nhập . Theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại nên duy trì tỷ lệ này ở mức > 10% Khảo sát ở chi nhánh. Bảng phân tích khả năng sinh lợi của Chi Nhánh Đơn vị: Triệu VNĐ Chỉ tiêu 30/6/00 31/12/00 30/6/01 31/12/01 Quý I/02 1. Tài sản có 916.366 1.001.561 1.079.150 1.183.136 1.263.698 2.Vốn tự có 320 333 570 639 3.878 3. Thu nhập ròng 13.391 14.730 17.234 13.001 5.794 4. Tổng thu nhập 49.491 54.935 62.077 46.830 26.949 5. Hệ số ROA (%) 1,46 1,47 1,59 1,09 0,45 6. Hệ số ROA (%) 4.184,7 4.423,4 3.023,5 2.034,6 149,4 7. Thu nhập ròng trên tổng thu nhập (%) 27,05 26,81 27,76 27,76 21,49 ROE 8. ROA 2866 3009 1.901,6 1.866,6 332 9. Nợ quá hạn/tổng dự nợ ròng(%) 2,41 2,64 2,47 2,36 3,42 đồ thị biểu hiện tỷ lệ ROA đồ thị thể hiện thu nhập ròng và tổng thu nhập Hệ số qúa cao đã chứng minh khả năng không an toàn của ngân hàng và khả năng huy động vốn của ngân hàng. Nhìn vào số liệu và so sánh giữa hệ số ROA và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ thì thấy rằng Ngân hàng đã chấp nhận một mức độ rủi ro nhất định, và đặc biệt ở quý I/2002 thì thấy rằng Ngân hàng có độ rủi ro cao. Số liệu thực tế cho thấy nợ quá hạn trong Quý I năm 2002 tăng 50,1% so với 31/12/01, tức là tăng 6.561 triệu. Nhìn chung trong các năm 2000, 2001 hệ số ROA của chi nhánh tương đối cao, đó là kết quả của việc quản lý tài sản có hiệu quả. Càng cho thấy ngân hàng kinh doanh có lãi. Song, từ đầu năm tới nay hệ số ROA giảm mạnh, và nợ quá hạn tăng cao, chứng tỏ ngân hàng bị động trong việc quản lý đầu ra, nhất là nguồn vốn bị ứ đọng. Thực tế cho thấy, trong Quý I/2002, Ngân hàng phải huy động với lãi suất đầu vào cao. Biểu: Lãi suất bình quân tháng Quý I/02 đơn vị :% tháng Thời gian thực hiện Loại không kỳ hạn Loại 3 tháng loại 6 tháng loại 12 tháng 05-12-01 0,4 0,7 0,75 16-01-02 0,4 0,7 0,8 21-01-02 0,5 0,8 0,9 01-03-02 0,5 0,8 1,0 23-03-02 0,5 0,8 0,9 13-04-02 0,5 0,75 0,85 0,9 Trong khi đó lãi suất cho vay là: Ngắn hạn 1,15%, trung và dài hạn 1,2%, cho vay ưu đãi 0,85%. Vì vậy, mà thu nhập ròng của Ngân hàng bị giảm sút. Phản ứng cho thấy, đến 13/4/02 thì Ngân hàng phải hạ thấp lãi suất huy động xuống còn 0,75% đối với kỳ hạn 3 tháng và 0,85 đối với kỳ hạn 6 tháng. Một nguyên nhân gây giảm sút thu nhập ròng của chi nhánh là tỷ lệ huy động tiền gửi không kỳ hạn thấp: 26,1% - 30/6/00; 28,5% - 31/12/00; 22,8,8% - 30/6/01; 25,1% - 31/12/01 và 20% Quý I/02 và lãi cho vay điều chuyển vốn thấp (Lãi suất huy động + 0,1% tháng). B. Những tồn tại và ưu điểm. Qua tất cả các mặt phân tích trên ta thấy chi nhánh Ngân hàng công thương Ba Đình đang tồn tại một số mặt mạnh và điểm yếu tổng quát như sau: 1. Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình đã huy động được một lượng tiền lớn trong dân cư, góp phần làm giảm độ căng thẳng về tiền mặt và kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên trong kết cấu nguồn vốn huy động tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng thấp, nguồn vốn huy động chủ yếu của chi nhánh Ngân hàng còn lại là loại tiền gửi có lãi cao như: Tiền gửi kỳ phiếu, tiền gửi tiết kiệm... Điều này đã làm cho lãi xuất bình quân đầu vào, gây khó khăn lớn trong việc giải quyết đầu ra của đồng vốn. 2. Khả năng huy động vốn so với vốn tự có chi nhánh Ngân hàng nhìn chung khá cao. Trong khi đó, trong hệ thống ngân hàng công thương Việt nam một số chi nhánh đã gặp khó khăn nhiều trong công tác huy động vốn mà nhu cầu về vốn cho vay cao. Điều này làm cho vai trò của chi nhánh càng cao khi cung cấp vốn điều chuyển cho các ngân hàng khác trong hệ thống và ngoài hệ thống. 3. Vốn tự có và các quỹ của Ngân hàng rất thấp. một phần Ngân hàng là đơn vị trực thuộc hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam nên tất các các quỹ đều tập trung ở Ngân hàng mẹ để phân bổ và sử dụng . Tuy nhiên, cần thấy rõ một vấn đề, chi nhánh Ngân hàng là đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập và tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình. Nên, viêc tăng vốn tự có và thiết lập các quỹ là điều cần thiết. Bởi vì có các quỹ này và nguồn vốn tự có lớn là điều cơ bản để phòng chống các rủi ro và tổn thất trong kinh doanh, đảm bảo an toàn trong kinh doanh. 4. Trong các giai đoạn nghiên cứu, ngân hàng có tỷ lệ dự trữ trên tổng tài sản có thấp, điều này đã chứng minh khả năng sinh lời của chi nhánh. Trong các năm 1999, 2000,2001 kinh doanh đều có lãi. Chi nhánh có tỷ lệ dữ trữ bắt buộc trong tổng dự trữ bắt buộc chiếm tỷ trọng thấp, chi nhánh thường xuyên vi phạm chính sách dự trữ bắt buộc của ngân hàng Nhà nước. Việc tỷ lệ này có tỷ trọng thấp là do uy tín của Ngân hàng được củng cố qua các năm tài chính. Mặt khác, giảm tối đa tỷ trọng cho phép đã cho phép ngân hàng tận dụng để đầu tư vào các tài sản có sinh lợi. 5. Về lĩnh vực tín dụng, nghiệp vụ cơ bản là cho vay. Chi nhánh chưa tìm được nghiệm vụ mới như: Tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu dùng, cho vay trả góp, tư vấn kinh tế... Các hình thức kinh doanh chưa được đa dạng hóa. Phân lớn rủi ro tập trung ở lĩnh vực cho vay. Đối tượng phục vụ của chi nhánh ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh và các doanh nghiệp ngoại quốc mà nguồn cho vay này chiếm tỷ trọng thấp trong nguồn huy động chứng tỏ chi nhánh ngân hàng chưa tìm được nhiều khách hàng, mối quan hệ với khách hàng còn hạn chế. 6. Hoạt động dự báo và ngăn ngừa rủi ro ở chi nhánh rất thấp. Hầu hết chỉ nhận định được rủi ro nhất thời và sử lý theo kiểu "Rủi ro đến đâu, giải quyết đến đo" Quỹ dự phòng đặc biệt để bù đắp rủi ro quá thấp so với tài sản rủi ro. Việc phân tài sản có rủi ro còn theo chủ quan, chưa khách quan. Thậm chí, sai nguyên tắc. Đôi khi các món cho vay đến hạn trả, chinh nhánh còn đảo nợ, khoanh nợ, gia hạn nợ và phân thành nhiều loại nợ quá hạn. 7. Chi nhánh Ngân hàng có hiện tượng vi phạm pháp lệnh, quy chế, chế độ .. của Nhà nước về tiền tệ tín dụng, ngân hàng như: Chính sách dự trũ bắt buộc, việc trích lập các quỹ... Tất cả tồn tại trên của Ngân hàng đã làm cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng đến đầu năm nay gặp nhiều khó khăn, điền hình là tỷ lệ lợi nhuận thực của Ngân hàng rất thấp. Lợi nhuận thực = lợi nhuận danh nghĩa - Tổn thất trong kinh doanh. Nêu tính rõ ràng thì tổng Quý I/2002 ngân hàng đã lỗ trên 1 tỷ đồng. 8. Tuy ngân hàng đã cố gắng mở rộng địa bàn hoạt động và tăng địa điểm giao dịch. Song cơ cấu tổ chức các phòng Ban vẫn chưa hợp lý. Cửa hàng kinh doanh vàng, bạc của Ngân hàng là 1 ví dụ, trong Quý I.2002 chỉ thu lãi được gần 3 triệu VNĐ trong khi đó số cán bộ nhân viên là 4 người, chứng tỏ chi phí nhân viên và các chi phí khác sẽ lớn hơn 3 triệu VNĐ. Ngân hàng cần tổ chức sắp xếp hợp lý các Phòng, Ban, đào tạo cán bộ nâng cao trình độ nghiệp vụ và tinh giảm bộ máy quản lý hành chính không thiết thực. Nâng cao hiệu quả của một cán bộ và nhân viên... Phần III các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ở chi nhánh ngân hàng công thương ba đình I. Các biện pháp mang tính kỹ thuật phân tích. Kĩ thuật phân tích không làm thay đổi được tình hình kinh doanh của các ngân hàng thương mại.Tuy nhiên với phương pháp phân tích đúng đắn,có căn cứ khoa học...có thể giúp nhà quản trị đánh giá đúng thực trạng kinh doanh của đơn vị mình, nhận diện đươc mặt mạnh, điểm yếu của tổ chức để có những biện pháp đúng đắn, kịp thời, hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng công tác quản trị ngân hàng. 1. Xếp loại tài sản có và lập quỹ dự phòng tổn thất trong kinh doanh. Sức bền của một ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng tài sản có và tình hình lập quỹ dự phòng rủi ro của ngân hàng đó. Tài sản có của ngân hàng phần lớn là các khoản cho vayvà ứng trước. Do đó, việc đánh giá chất lượng tín dụng và xem xét tác động của nó đối với các yếu tố tài chính là việc làm quan trọng.Kinh nghiệm cho thấy một trong những nguyên nhân cơ bản đưa đến sự thất bại của ngân hàng xuất phát từ tài sản có gặp khó khăn khi thu hồi. Các ngân hàng hoạt động yếu thường không ước tính được các tổn thất có thể sảy ra và không lập quỹ phòng ngừa cho các rủi ro này. Chính vì vậy nên xếp loại chúng: a. Xếp loại tài sản có. Xếp loại tài sản có là việc phân chia tài sản có thành nhiều loại tương xứng với độ rủi ro có thể xảy ra trong tương lai của tài sản có. Xếp loại tài sản có nên áp dụng cho tất cả các khoản tín dụng trực tiếp, gián tiếp như:các khoản cho vay, đầu tư, hùn vốn liên doanh, khoản phải thu, khoản tạm ứng ... * Tiêu chuẩn xếp loại tài sản có. Để tiến hành xếp loại tài sản có, các nhà ngân hàng thường áp dụng các tiêu chuẩn sau: - Thời gian quá hạn của khoản nợ: Nợ quá hạn là một trong những dấu hiệu đầu tiên đối với các khoản nợ. Tuy nhiên, trong thực tế có những khoản nợ dù chưa đến hạn nhưng có các dấu hiệu báo hiệu về sự khó khăn khi thu hồi, các nhà quản trị cũng nên quan tâm và có biện pháp đối phó. Ngược lại, ngoại lệ cũng có những khoản nợ quá hạn song vẫn hiệu quả, cán bộ tín dụng nên có cách sử lý khéo léo như: gia hạn nợ, đảo nợ ... để giúp khách hàng giải quyết khó khăn vế tài chính đồng thời giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. - Khả năng trả nợ của người vay. Đây là yếu tố quan trọng khi xét cho vay. Trong quá trình sử dụng vốn vay, khả năng thanh toán của người vay luôn thay đổi theo hai chiều hướng. Tạo thuận lợi hoặc gây khó khăn cho việc thu hồi vốn của ngân hàng. Chính vì vậy, trong qua trình cho vay, cán bộ tín dụng luôn theo dõi, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay và tình hình tài chính của doanh nghiệp để kịp thời phát hiện các khó khăn mà có biện pháp đối phó. Đối với các khách hàng bị thua lỗ, phá sản, chết, bỏ trốn... thì các khoản tín dụng cấp cho họ là những khoản nợ có độ tổn thất rất cao. - Tình trạng thế chấp của người vay. Một yếu tố không thể thiếu khi xếp loại các khoản cho vay là tình trạng của tài sản thế chấp. Đối vơí các khoản vay có tài sản thế chấp đang bị tranh chấp không đủ trang trải khoản nợ, khoản vay không có tài sản thế chấp...là các tài sản đang gặp khó khăn để đánh giá chất lượng tài sản có một cách chính xác, hiệu quả... nhà quản trị ngân hàng cần áp dụng sáng tạo, linh hoạt các tiêu chuẩn trên đồng thời quan tâm đến yếu tố khác, chẳng hạn: Tính nghiêm minh của hệ thống pháp luật, sự tăng trưởng của nền kinh tế, khả năng trình độ của cán bộ ngân hàng... ∙ Phân loại tài sản có. - Tài sản đủ tiêu chuẩn: Các tài sản trong loại này là các tài sản được đảm bảo an toàn về gốc lẫn lãi như các chứng chỉ tiền gửi (CDs), trái phiếu Chính phủ... - Tài sản kém tiêu chuẩn: là loại tài sản không đảm bảo đủ giá trị hiện hành hoặc khả năng thanh toán của người vay không đủ chi trả những khoản nợ đúng hạn, khoản vay được bù đắp cho những khoản thiếu vốn... Nói chung nguồn trả nợ chính của người vay không đảm bảo, buộc ngân hàng phải trông chờ vào nguồn chi trả thứ hai là tài sản thế chấp. Tài sản kém tiêu chuẩn bộc lộ nhược điểm về mặt tín dụng . Tài sản này có độ rủi ro cao hơn tài sản bình thường. Các tài sản bị xếp loại này thường có nợ quá hạn hơn 90 ngày. - Tài sản có nghi ngờ: Loại tài sản này có đầy đủ nhược điểm của tài sản kém tiêu chuẩn, nhưng nó còn có thêm đặc trưng quan trọng là tài sản thế chấp không đủ trả nợ. Nhược điểm này làm cho việc thu hồi nợ trở lên có vấn đề và khó thực hiện, khả năng bị tổn thất tài sản ở mức độ cao. Tuy nhiên, vì loại này còn có khả năng khắc phục nên chưa được xếp vào loại tài sản bi mất trắng. Thông thường tài sản bị xếp vào loại này khi nó quá hạn hơn 180 ngày và món nợ phải được xử lý bằng pháp luật, hoặc bằng tài sản thế chấp hoặc bằng cam kết nào đó. - Tài sản bị mất trắng: Tài sản bị xếp vào loại này được xem là không còn khả năng thu nợ, không còn giá trị và không được xem là tài sản của ngân hàng. Ngân hàng nên tích cực thanh lý món nợ này nhằm hạn chế tác hại của nó. Một vấn đề cần quan tâm khi xếp loại tài sản có là tiền lãi của các khoản nợ nghi ngờ và mất trắng. Bởi vì, các loại tài sản đó là các tài sản đọng, do đó, phần lãi của nó không được tính vào lãi gộp, mà phải ghi vào tài sản lãi treo. Nếu sau này, ngân hàng thu hồi được các khoản nợ, số tiền nhận được phải trừ vào gốc, phần còn lại mới ghi vào lãi. Ngân hàng không nên cho vay nợ mới để trả nợ cũ đã quá hạn vì việc làm này có thể làm ngân hàng sa lầy, dính chặt vào khó khăn khách hàng và chịu sự rủi ro cao. Khi tiến hành sắp xếp loại tài sản có, các nhà quản trị nên quan tâm các yếu tố khác như: mức tăng tưởng tín dụng; kinh nghiệm tổn thất của kỳ trước; khả năng thu nợ, chất lượng quản lý món nợ; tính hợp lý của chính sách, thủ tục tín dụng và các biến động của nền kinh tế. b. Lập quỹ dự phòng các tổn thất cho vay. ∙ Quỹ dự phòng. Hoạt động tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh có nhiều rủi ro nhất. Do đó, việc dự phòng không những tổn thất có thể xẩy ra nhằm bảo vệ người gửi tiền, người cho vay, giữ lòng tin của công chúng là việc làm cần thiết của mỗi ngân hàng thương mại. Dự phòng còn giúp ngân hàng thương mại bảo toàn vốn kinh doanh, tạo nền tảng vững mạnh cho ngân hàng trong lĩnh vực tiền tệ. Luật pháp mỗi nước đều quy định một mức vốn tối thiểu, phải có cho các ngân hàng thương mại. Về cơ bản, mức vốn tối thiếu được xem như định mức ban đầu, làm điểm tự để tính lượng vốn cần thiết cho ngân hàng. Ngân hàng có rủi ro cao, khả năng bị tổn thất lớn buộc phải lập quỹ dự phòng nhiều và ngược lại yếu tố quan trọng trong việc quyết định rủi ro đó có trở thành khoản tổn thất thật sự hay không ? Các ngân hàng có Ban giám đốc thiếu kinh nghiệm trong việc theo dõi, kiểm soát rủi ro phải duy trì mức vốn cao hơn ngân hàng có Ban quản lý giỏi. Như vậy, Ngân hàng là yếu tố quyết định quỹ dự phòng của từng ngân hàng. Nếu quỹ dự phòng không đủ chứng tỏ vốn của ngân hàng đỡ bị thiếu hụt. Mục đích sử dụng quỹ dự phòng là bù đắp các rủi ro phát sinh trong kinh doanh tiền tệ. Bởi vì rủi ro, tổn thất tài sản là điều khó tránh khỏi trên con đường tìm kiếm lợi nhuận ở các ngành sản xuất kinh doanh như nông, công, thương, ngư nghiệp... các tổn thất này được tính vào chi phí kinh doanh. Tiền tệ là ngành kinh doanh có độ rủi ro cao nhất, lẽ nào lại bị loại khỏi quy luật trên ? Ngân hàng Nhà nước cũng với Bộ Tài chính nên cho phép các ngân hàng thương mại . Các khoản rủi ro trung hạn mức sẽ được tính vào chi phí, khoản vượt hạn mức sẽ được bù đắp từ lợi nhuận để lại. Việc làm này sẽ mang lại nhiều lợi ích cụ thể. - Do được tính khoản tổn thất trong kinh doanh vào chi phí, Ban giám đốc ngân hàng thương mại sẽ yên tâm và trung thực hơn khi hạch toán rủi ro, kiểm soát rủi ro và do đó có các biện pháp xử lý kịp thời đối với các khoản nợ có vấn đề. Đồng thời, trên cơ sở nhận diện các tài sản rủi ro, ngân hàng tính toán và lập quỹ dự phòng đẩy đủ tạo điều kiện bảo toàn vốn ngân hàng, tránh tình trạng lãi giả lỗ thật. - Việc xem rủi ro là một tất yếu không thể tránh khỏi được trong kinh doanh, cho phép ngân hàng tính khoản này vào chi phí giúp ngân hàng nhà nước có cơ sở kiểm tra rủi ro thực ở ngân hàng, đánh giá thực trạng tài chính của ngân hàng. Giúp ngân hàng tự giác hơn trong việc bảo toàn vốn của mình. Ngoài ra, ngân hàng còn nhận được sự cạnh tranh công bằng. Bởi vì, khi tính rủi ro vào chi phí kinh doanh, thì nâng cao được tỷ xuất lợi nhuận làm tăng độ an toàn của vốn ngân hàng. Do đó, chấp nhận rủi ro để quản lý, kiểm soát nó là việc làm sáng suốt và có khoa học của những người lãnh đạo ngân hàng. ∙ Cách tính quỹ dự phòng. Theo pháp lệnh, quỹ dự trữ đặc biệt nhằm bù đăp rủi ro, do đó, quy mô của nó phải được quyết định bởi mức rủi ro của tài sản và khả năng quản lý rủi ro của Ban giám đốc. Tại các nước có hệ thống pháp luật chưa phát triển như nước ta, việc thu hồi nợ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Do đó, việc trích dự phòng cũng cao hơn, chẳng hạn. Quỹ dự phòng = Dự phòng 10 - 20% đối với tài sản có kém tiêu chuẩn. + Dự phòng 50% đối với tài sản có nghi ngờ. + Dự phòng 100% đối với các khoản cho vay mất trắng. + Và dự phòng 1% đối với các khoản cho vay bình thường. Việc lựa chọn quỹ dự phòng lớn hay nhỏ phụ thuộc vào mức độ rủi ro thấp hay cao. Về phương tiện kế toán, định kỳ kế toán kết hợp với bộ phận tín dụng tính toán quỹ dự phòng cần lập, đồng thời hạch toán. Nợ: Tài khoản theo dõi chi phí dự phòng. Có : Tài khoản quỹ dự phòng. Cuối kỳ, chi phí này sẽ kết hợp với các chi phí khác để xác định kết quả kinh doanh trong kỳ. Khi phát sinh khoản tổn thất cần xử lý, kế toán ghi: Nợ: Tài khoản quỹ dự phòng. Có: Tài sản quản lý tài sản bị rủi ro. Sau khi loại bỏ khoản thất thoát ra khỏi tài sản có, kế toán phải tiếp tục theo dõi nó ở phần ngoài bảng. Nếu sau này ngân hàng thu hồi lại được khoản nợ đã mất, kế toán sẽ ghi phần tuy thu lớn này vào khoản thu khác của ngân hàng. Cuối năm tài chính nếu tồn quỹ dự phòng, kế toán sẽ hoàn nhập dự phòng vào khoản thu nhập của ngân hàng bằng bút toán. Nợ: Tài khoản quỹ dự phòng Có: Tài khoản thu nhập 2. Lập quỹ bảo toàn vốn. Quỹ bảo toàn vốn giúp ngân hàng bù đắp các nguồn vốn thiếu hụt do tỷ lệ lạm phát tăng lên. Thực vậy, nghiên cứu công thức chu chuyển vốn của ngành ngân hàng ta có T - TÂ: TÂ = T + DT, trong điều kiện kinh doanh bình thường, DT phải trang trải được chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh, lãi và quan trọng nhất là phải bù đắp được tỷ lệ mất giá của đồng tiền. Trong điều kiện hiện nay, nếu ngân hàng có tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có nhỏ hơn chỉ số lạm phát xem như ngân hàng bị lỗ. Việc nộp thuế trong trường hợp này là hiện tượng "ăn vào vốn" của ngân hàng. Để tránh trình trạng này, ngân hàng nến trích quỹ bảo toàn vốn từ phần lợi nhuận để lại. Mặt khác, ngân hàng được phép lập quỹ bảo bảo toàn vốn trên phần lợi nhuận trước thuế, điều này làm giảm lợi tức chịu thuế. 3. Tính hệ số an toàn vốn của ngân hàng. ã Công thức tính Hệ số được xác định theo công thức sau: S Vốn tự có H = ´ 100 S Giá trị quy đổi của tài sản có rủi ro Trong đó: Tổng giá trị quy đổi của tài sản rủi ro = S (Tài sản rủi ro nội bảng ´ Hệ số rủi ro) + S (Tài sản rủi ro ngoại bảng ´ Hệ số rủi ro) Theo những số liệu nghiên cứu gần đây, nếu 5% Ê H Ê 8% thì ngân hàng đạt mức an toàn. *Vốn tự có. Vốn tự có của ngân hàng bao gồm cơ bản và vốn bổ sung, - Vốn cơ bản: Trọng tâm của vốn cơ bản là vốn cổ phần và các quỹ dự trữ công khai. Đây là yếu tố cơ bản quyết định sự tồn tại của ngân hàng. Nó có vai trò trong việc tạo ra lợi nhuận ròng với khả năng cạnh tranh cho ngân hàng. Vốn cơ bản có mối quan hệ chặt chẽ với chất lượng của tổng nguồn vốn. Đây là vốn cấp một. Các yếu tố khác bổ sung là vốn cấp hai. - Vốn bổ sung: Vốn này bao gồm. + Vốn do đánh giá lại tài sản cố định. Quy chế kế toán cho phép ngân hàng được quyền đánh giá lại tài sản nhằm điều chỉnh tăng vốn ngân hàng khi có sự chênh lệnh giữa giá trị hiện tại với nguyên giá tài sản cố định. + Các khoản khác như : quỹ dự trữ không công khai, khoản nợ được xem như vốn... các khoản này ở các nước không thống nhất với nhau, do nó phụ thuộc vào chế độ tài chính kế toán của từng nước. ở nước ta, ngân hàng nhà nước không cho phép các ngân hàng thương mại tính các yếu tố này vào vốn tự có. * Tài sản có rủi ro. Đây là những khoản mục tài sản có được phản ánh trong và ngoài bảng tổng kế tài sản có thể bị tổn thất trong quá trình kinh doanh như cho vay không thu hồi được nợ, ngân hàng phải trả tiền cho khách hàng được bảo lãnh, giá trị chứng khoản giảm, công ty được ngân hàng hùn vốn liên doanh thua lỗ... Ngân hàng nên dựa vào tính chất của tài sản có rủi ro, hình thức quản lý tài sản có rủi ro để phân chia. - Dựa vào tính chất tài sản có rủi ro thì phân thành. + Các khoản tín dụng bị rủi ro. + Các khoản đầu tư bị rủi ro. + Các khoản bảo lãnh bị rủi ro... - Dựa vào hình thức quản lý tài sản có rủi ro thì phân thành + Tài sản có rủi ro nội bảng. + Tài sản có rủi ro ngoại bảng. Ngoại trừ các tài sản được xem như không có rủi ro như: Tiền mặt, tiền gửi ngân hàng nhà nước, tín phiếu kho bạc nhỏ hơn 90 ngày ... mỗi tài sản đều có độ rủi ro được chia thành mức0%, 20%, 50%, 100% tương ứng với cánh xếp loại tài sản có: Tài sản có bình thường, tài sản có kém tiêu chuẩn, tài sản có nghi ngờ, tài sản có bị mất trắng. Ngân hàng nên tuân theo quy tắc : Các hoạt động ngoại bảng phải nằm trong khuôn khổ quy định bảo toàn vốn. Tất cả các cam kết ngoại bảng phải được chuyển thành, lượng tín dụng tương đương bằng cách nhân lượng vốn gốc danh nghĩa với hệ số chuyển đổi tín dụng. Hệ số chuyển đổi tín dụng được tính cho từng công cụ vốn hay các giao dịch ngoại bảng khác nhau. Chúng được rút ra từ việc ước tính khả năng rủi ro tín dụng có thể xẩy ra đối với từng giao dịch ngoại bảng. Do đó hệ số chuyển đổi tín dụng có thể được xem là hệ số rủi ro của tài sản ngoại bảng. Tuy theo tính chất của các công cụ đó trên thị truờng tiền tệ, mà ngân hàng có thể lựa chọn hệ số chuyển đổi tín dụng phù hợp đối với từng công cụ vốn. Đối với các giao dịch ngoại bảng, ngân hàng không những chịu rủi ro tín dụng mà còn bị tác động rất lớn bởi sự biến động của ngoại hối và tỷ lệ lãi suất. Mặc dù công cụ vốn trên thị trường có nhiều loại , song cơ sở lý thuyết của việc đánh giá rủi ro là như nhau. Đánh giá này bao gồm việc phân tích sự phản ứng của các chuyển đổi vốn gốc khi có sự biến động. Bởi vì, các hợp đồng ngoại hối thường có sự chuyển đổi vốn gốc khi đến hạn và chịu trách ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, do đó, các công cụ vốn chịu rủi ro ngoại hối nên áp dụng hệ số chuyển đổi tín dụng cao hơn. Các hợp đồng tỷ giá ngoại hối bao gồm: Hợp đồng trao đổi Swap, lãi suất chéo giữa các đồng tiền, hợp đồng ngoại hối trao chậm, hợp đồng tiền tệ tương lai, hợp đồng lựa chọn mua tiền tệ, và các công cụ vốn... Các hợp đồng lãi xuất bao gồm: Các hợp đồng chuyển đổi tỷ lệ lãi suất của một loại tiền tệ, các thoả thuận lãi suất trao chậm, các hợp đồng lựa chọn mua tỷ lệ lãi suất, hợp đồng tương lai về tỷ lệ lãi suất. Biện pháp tốt nhất để đánh giá rủi ro tín dụng của các hợp đồng này là ngân hàng có thể xác định khả năng rủi ro hiện có thể xẩy ra trong tương lai được tính dựa trên tổng giá trị còn lại của hợp đồng nhàn rỗi hệ số ruỉ ro tương lai. Bảng ví dụ: Thời hạn còn lại của hợp đồng Hợp đồng tỷ lệ lãi suất Hợp đồng tỷ giá hối đoái Dưới 1 năm 0,5% 2% Từ 1-2 năm 1% 5% Đối với mỗi năm tăng thêm hạn 1% 3% Đó là các biện pháp mà ngân hàng nên áp dụng. Bởi vì + Hệ số đã xác định các rủi ro cả ngoại bảng và nội bảng. + Hệ số còn góp phần vào việc tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng giữa ngân hàng với các ngân hàng khác. + Dự phòng được và đánh giá thực trạng hoạt động ngân hàng... 4. Phân tích điểm hoà vốn để đưa ra các quyết định. Điểm hoà vốn là điểm biểu thị mức cho vay hoặc thu nhập mà tại đó doanh số của ngân hàng dủ trang trải toàn bộ chi phí bao gồm định phí và biến phí ở mức không lãi không lỗ. Công thức như sau: S định phí Thu nhập hoà vốn = S Biến phí 1 - Tổng thu nhập Tổng thu nhập hoà vốn Điểm hoà vốn (%) = ´ 100 Tổng thu nhập Dư nợ hoà vốn = Dư nợ thực tế ´ điểm hoà vốn Định phí của ngân hàng bao gồm - Tiền lương phải trả cho công nhân viên - Bảo hiểm xã hội và các chi phí khác - Chi phí khấu hao tài sản cố định của ngân hàng. - Chi phí cho các công cụ lao động - Chi phí bảo dưỡng và sửa chữa TSCĐ - Chi phí về vật liệu giấy tờ in - Chi phí về kho quỹ - Các chi phí cố định khác. Các chi phí này thường cố định trong một kỳ hạch toán, nó không bị ảnh hưởng bởi quy mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Biến phí của ngân hàng bao gồm - Chi trả lãi tiền gửi - Chi trả lãi tiền vay - Chi trả lãi phát hành trái phiếu - Chi về kinh doanh ngoại tệ - Chi về mua bán chứng khoản - Chi khác về hoạt động kinh doanh Các chi phí này luôn biến động theo mức độ kinh doanh của ngân hàng. Khi quy mô kinh doanh mở ngân hàng tăng lên, chi phí này cũng tăng lên và ngược lại khi phạm vi hoạt động của ngân hàng thu hẹp, chi phí này cũng giảm sút. Chỉ số dư nợ hoà vốn giúp Ban giám đốc xác định hướng tín dụng cần cung cấp cho thị trường ở mức hoà vốn kinh doanh. Trong trường hợp ngân hàng cung cấp nhiều loại sản phẩm dịch vụ cho khách hàng, chỉ số thu nhập hoà vốn sẽ cung cấp cho nhà quản trị số doanh thu cần thiêt để bù đắp các khoản chi phí ở mức không lãi, không lời. Thu nhập Thu nhập Tổng phí Thu nhập Biến phí hoà vốn Định phí 0 Dự nợ tín dụng a. Xác định các nhân tố tác động đến điểm hoà vốn. Điểm hòa vốn phụ thuộc các yếu tố: Lãi suất cho vay bình quân, biến phí và định phí. + Tăng, giảm lãi suất cho vay. Lãi suất là một loại giá cả nó nên có sự chi phối bởi quy luật cung cầu trên thị trường . Trong môi trường cạnh tranh ngân hàng khó giữa được lãi suất cho vay cố định. Do đó khi có nhu cầu tăng hoặc giảm lãi suất cho vay, ngân hàng nên tính toán để xác định mức tăng hoặc giảm quy mô tín dụng tương ứng để có thể đạt được mức lãi mong muốn. Khi mức lãi suất tăng lên dư nợ hoà vốn giảm và ngược lại khi giảm lãi suất cho vay, quy mô tín dụng phải tăng lên. + Trường hợp thay đổi chi phí. Việc tăng hay giảm biến phí và định phí đã ảnh hưởng lớn đến điểm hoà vốn của ngân hàng. Khi tăng các khoản chi phí, dư nợ hoà vốn và thu nhập hoà vốn cũng tăng lên và ngược lại. Giám đốc ngân hàng cần quan tâm là mức độ ảnh hưởng của sự biến động biến phí và định phí đến sự thay đổi của điểm hoà vốn khác nhau và phải cân nhắc, lựa chon giữa việc tăng các phí mở rộng mạng lưới chi nhánh, tuyển thêm nhân viên... (định phí) với việc tăng mối quan hệ vay mượn ở thị trường liên hàng, huy động tiền gửi với lãi suất cao... (biến phí) hoặc kết hợp cả hai để có thể đạt được điểm hoà vốn tối ưu. Vì vậy các giải pháp là: - Tiết kiệm chi phí quản trị, giảm chi phí thuê mướn, tổ chức văn phòng làm việc khoa học hơn... - Tìm cách nâng cao doanh số, chẳng hạn cung cấp thêm nhiều dịch vụ mới, mở rộng thị trường kinh doanh... - Tìm được mối quan hệ tương hỗ giữa ba yếu tố: Thu , chi phí, và lợi nhuận. - So sánh doanh thu, chi phí và lợi tức với kế hoạch ban đầu. - Tính toán được mức tăng tín dụng cần thiết trong trường hợp phải giảm lãi suất cho vay. 5. Phân tích lợi nhuận phải kết hợp với việc phân tích các rủi ro chính. Lợi nhuận và rủi ro là hai yếu tố song hành trong quá trình kinh doanh tiền tệ. Lĩnh vực hoạt động nào có khả năng mang lại lợi nhuận cao, ở đó rủi ro có thể xẩy ra cũng bất lợi. Vì vậy, ngân hàng phải kết hợp nghiên cứu rủi ro với lợi nhuận để có thể có những quyết định tốt nhất trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh. Ngoài các hệ số ROA (Return on Asset) , ROE (Return on Equity) Ngân hàng nên quan tâm đến các chỉ số sau: Tài sản nợ Số nhân đòn cân nợ = Vốn tự có Tổng thu nhập ròng Danh lợi cổ phần thường = Vốn cổ phần thường Thu nhập lãi - chi phí lãi Chênh lệch lãi = Tài sản có sinh lời Các chỉ số lợi nhuận trên phải được kết hợp với các chỉ số phản ánh các rủi ro chính. Tài sản có động Rủi ro về thanh khoản = ´ 100 Tài sản nợ dễ biến động Tài sản có độ nhạy cao với lãi xuất Rủi ro về lãi suất = ´ 100 Khoản nợ có độ nhạy cao với lãi suất Nợ quá hạn Rủi ro về tín dụng = ´ 100 Tài sản có rủi ro Các chỉ số lợi nhuận và rủi ro chính của ngân hàng được các nhà quản trị so sánh với các chỉ số tương tự ở các kỳ hạch toán trước để xác định tính quy luật, xu hướng phát triển của ngân hàng, số liệu này còn được so sánh với các chỉ số tương tự ở các ngân hàng có cùng quy mô hoạt động, cùng kinh doanh trong những thị trường có thể so sáng được để giúp nhà lãnh đạo ngân hàng, nhận diện được mặt mạnh, điểm yếu của cơ quan mình. Nhà quản trị còn dùng các chỉ số trên để so sánh với mục tiêu hoặc mục đích của các chiến lược đã được hoạch định từ trước. Qua đó, Ban giám đốc có thể lựa chọn được các chiến lược phù hợp với độ rủi ro nhất định nhằm đạt được mức lợi nhuận cần thiết. II. Các biện pháp về phía chủ quan của chi nhánh ngân hàng 1. Sắp xếp các Phòng, Ban, đơn vị kinh doanh hợp lý. Tổ chức cán bộ và nhân viên đúng chức năng. Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao và tinh giảm bộ máy quản lý. Nâng cao hiệu quả của cán bộ và công nhân viên. 2. Tổ chức và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ kinh doanh nhằm thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của khách hàng để tạo lập mối quan hệ khách hànglâu dài. 3. Thực hiện chính sách và chế dộ khoán cho cán bộ tín dụng, cán bộ tín dụng phải chịu trách nhiệm về các quyết định của mình, nâng cao mối quan hệ với khách hàng, xem xét phân tích kỹ khả năng của khách hàng trước khi có quyết định cho vay. Các tài liệu tham khảo --------------------------------- Phân tích hoạt động kinh doanh Ngân hàng thương mại - Tài liệu do Ngân hàng Nhà nước soạn. Quản trị tài chính doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại. Quản lý tài chính doanh nghiệp. Phân tích hoạt động kinh doanh. Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại . Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại. Kế toán ngân hàng. Lý thuyết về lãi suất, tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính. Tài liệu tập huấn cho cán bộ thanh tra Ngân Hàng Nhà Nước. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0305.doc
Tài liệu liên quan