Lời mở đầu
Bước sang thiên niên kỷ mới, trong xu thế luôn vận động và đi lên không ngừng của toàn xã hội, với cơ chế thị trường rộng mở có sự quản lý cuả Nhà nước theo định hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước ta lựa chọn, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu khởi sắc đáng mừng.
Trong cơ chế thị trường, để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi, giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển đòi hỏi bản thân doanh nghiệp phải tự đổi mới cho phù hợp với sự phát triển chung của toàn xã hội, phải vươn lên
54 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1459 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cổ phần thương mại Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tự khẳng định mình, chỉ có những doanh nghiệp tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh của mình một cách có hiệu quả thì mới có thể tồn tại và phát triển.
Để nâng cao hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp nói riêng và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế của mỗi quốc gia nói chung, thương mại đã và đang trở thành một trong những lĩnh vực, một kênh phân phối, không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Cũng như bất kỳ các loại hình doanh nghiệp kinh doanh khác vấn đề huy động và sử dụng vốn luôn luôn được đặt lên hàng đầu. Vốn thể hiện giá trị toàn bộ tài sản và các nguồn lực của doanh nghiệp, không có vốn thì không thể tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào. Vì vậy, vốn kinh doanh có vai trò quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp thương mại cũng phải luôn tìm kiếm, khai thác các nguồn tài chính thích hợp, đồng thời phải tính toán, lựa chọn việc sử dụng các nguồn vốn tạo được sao cho có hiệu quả nhất. “ Buôn tài không bằng dài vốn”. Vốn ít thì chỉ có thể buôn bán nhỏ, vốn dài mới có thể buôn bán lớn và buôn bán xa. Mặt khác, do đặc thù của hoạt động kinh doanh, vốn của các doanh nghiệp thương mại chủ yếu là vốn lưu động, chiếm khoảng 70 – 80% vốn kinh doanh nên việc huy động các nguồn vốn cho các doanh nghiệp này đóng vai trò rất quan trọng.
Chính vì tầm quan trọng trên của vốn đã đưa em đến quyết định chọn đề tài: “Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cổ phần thương mại Bắc Giang ”. Đề tài của em gồm có 3 chương:
Chương I : Lý luận chung về vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp thương mại.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cổ phần thương mại Bắc Giang.
Chương III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty cổ phần thương mại Bắc Giang.
Do thời gian, và trình độ có hạn, nhất là tài liệu tham khảo hạn hẹp nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiền của các thầy, cô giáo để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Nội dung
Chương I : Lý luận chung về vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp thương mại.
1. Doanh nghiệp thương mại:
1.1. Khái niệm:
Doanh nghiệp thương mại là một tổ chức kinh tế xã hội dùng tiền của, công sức, tài năng … vào việc mua hàng hóa để bán (buôn bán hàng hóa) nhằm mục đích kiếm lợi.
Doanh nghiệp thương mại có hoạt động kinh doanh một loại hình kinh doanh dich vụ, là một dạng của lĩnh vực đầu tư tiền, của, công sức, tài năng… để thực hiện dịch vụ lưu thông hàng hóa từ nơi sản xuất hoặc nhập khẩu đến nơi tiêu dùng nhằm mục đích sinh lợi.
1.2. Đặc điểm
Doanh nghiệp thương mại có vốn kinh doanh là các khoản vốn bằng tiền, vàng, bạc, ngoại tệ, đá quý… và bằng các tài sản khác như nhà cửa, kho tàng, cửa hàng…Có thể vốn lúc đầu là khoản tích lũy, vốn góp, vốn huy động, vốn vay hoặc thuê.
Doanh nghiệp thương mại đòi hỏi phải thực hiện hành vi mua để bán (buôn bán). Xét trên toàn bộ các hoạt độngvà cả quá trình hoạt động thì doanh nghiệp phải thục hiện hành vi mua hàng, nhưng mua hàng không phải để mình dùng mà mua hàng để bán cho người khác. Mua nơi này bán ở nơi khác, mua thời gian này bán thời gian khác. Đó là hoạt động buôn bán.
Doanh nghiệp thương mại phải hiểu hàng hóa và quản lý hàng hóa, mặc dù doanh nghiệp kinh doanh không phải là người sản xuất ra hàng hóa, nhưng việc lưu thông hàng hóa đến đúng nơi có nhu cầu, đúng thời gian và đúng khách hàng có nhu cầu, cũng như việc dự trữ, bảo quản tốt hàng hóa… là các hoạt động dịc vụ cần thiết cho sản xuất và đời sống xã hội.
Doanh nghiệp thương mại dùng vốn vào hoạt động kinh doanh sau mỗi chu kì kinh doanh phải bảo toàn được vốn và có lãi.Vì vậy, doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường, môi trường kinh doanh, cung, cầu, giá cả, phải chú ý đến luật pháp, cơ chế quản lý, rủi ro có thể xảy ra…Có lợi nhuận mới có thể mở rộng và phát triển doanh nghiệp. Ngược lại, chi phí cao, rủi ro có thể dẫn đến doanh nghiệp thu nhỏ quy mô, phá sản.
2.Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp thương mại.
2.1. Khái niệm
Quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên các lĩnh vực sản xuất, lưu thông , dịch vụ.... thể hiện sự khác biệt đáng kể về quy trình công nghệ và tính chất sản xuất kinh doanh, sự khác biệt đó phần lớn là do đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của từng doanh nghiệp quyết định. Cho dù sự khác biệt này thể hiện đến đâu chăng nữa thì theo ngôn ngữ kinh tế học người ta thường gọi nó là đầu vào và đầu ra.
Một đầu vào hay một nhân tố sản xuất là một hàng hoá hay một dịch vụ mà các doanh nghiệp sử dụng trong quá trình sản xuất của họ. Các đầu vào được kết hợp với nhau để sản xuất ra các đầu ra, còn đầu ra bao gồm hàng loạt các hàng hoá hay dịch vụ có ích được tiêu dùng hay được sử dụng trong quá trình sản xuất khác.
Để có các yếu tố đầu vào, trước hết nhà doanh nghiệp phải huy động trong tay mình được một lượng tiền nhất định. Số tiền này được được dùng vào việc xây dựng nhà xưởng, nhà kho, mua sắm các thiết bị, phương tiện và trả lương cho công nhân viên. Dó có sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động, hàng hoá dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trên thị trường. Để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm phải đảm bảo bù đắp toàn bộ các chi phí bỏ ra và có lãi.
Trong các doanh nghiệp thương mại vốn kinh doanh được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản và các nguồn lực mà doanh nghiệp sử dụng trong hoạt động kinh doanh bao gồm:
Tài sản hiện vật như nhà kho, cửa hàng, hàng hóa dự trữ.
Tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng và đá quý.
Bản quyền sở hữu trí tuệ và các tài sản vô hình khác.
2.2. Đặc điểm của vốn kinh doanh.
Do nhiệm vụ của doanh nghiệp thương mại là thực hiện lưu chuyển hàng hóa và thực hiện các hoạt động dịch vụ, vì vậy cơ cấu và tính chất lưu chuyển của vốn khác hẳn so với các đơn vị sản xuất. Trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp thương mại, vốn lưu động chiếm tỷ lệ lớn hơn so với vốn cố định và lưu chuyển nhanh hơn. Vốn lưu động chiếm 70 – 80% vốn kinh doanh, trong vốn lưu động bộ phận dữ trữ hàng hóa chiếm tỷ lệ cao. Như vậy, đối với doanh nghiệp thương mại nói đến quản lý vốn trước hết phải chú ý tới tổ chức điều khiển bộ phận dự trữ hàng hóa để vừa đảm bảo bán hàng liên tục đều đặn thường xuyên cho khách hàng lại vừa tránh được ứ đọng vốn.
Trong thành phần cơ cấu vốn cố định bộ phận tài sản cố định dùng trong kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn hơn. Ngày nay các doanh nghiệp thương mại thường đầu tư vốn cố định vào xây dựng nhà làm việc, cửa hàng ở những đầu mối giao thông để tiện liên hệ với khách hàng và những tài sản cố định như thiết bị văn phòng được chú ý đầu tư nhằm thu hút và phục vụ khách hàng tốt hơn.
Tuỳ từng doanh nghiệp tuỳ thuộc phương thức và lĩnh vực kinh doanh mà vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại sẽ trải qua các thời kỳ chu chuyển khác nhau. Ví dụ vốn của doanh nghiệp thương mại có sản xuất gia công chế biến, khác với đơn vị bán buôn, đơn vị chuyên bán qua kho sẽ khác với đơn vị chỉ bán hàng chuyển thẳng.
Trong tình hình hiện nay ở Việt Nam, Các doanh nghiệp thương mại thường có nguồn vốn của chủ sở hữu nhỏ hơn so với phần vốn vay và vốn liên doanh liên kết, tình trạng này bất lợi trong việc giảm chi phí kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
2.3. Vai trò của vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại có vai trò quyết định trong việc thành lập, hoạt động, phát triển của từng loại hình doanh nghiệp theo luật định. Nó là điều kiện quyết định và quan trọng nhất cho sự ra đời, tồn tại phát triển của các doanh nghiệp. Tuỳ theo nguồn của vốn kinh doanh, cũng như phương thức huy động vốn mà doanh nghiệp có tên là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh…
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại lớn hay nhỏ là một trong những điều kiện quan trọng để xếp doanh nghiệp đó vào loại quy mô lớn, trung bình hay nhỏ, đồng thời cũng là một trong những điều kiện để sử dụng các nguồn tiềm năng hiện có và sẽ có trong tương lai về sức lao động, nguồn hàng hóa, mở rộng và phát triển thị trường, mở rộng lưu thông hàng hóa, là điều kiện để phát triển kinh doanh.
Vốn kinh doanh thực chất là nguồn của cải của xã hội được tích luỹ lại, tập trung lại. Nó chỉ là một điều kiện, một nguồn khả năng để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên nó chỉ phát huy tác dụng khi biết quản lý, sử dụng chúng một cách đúng hướng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả.
Trong sự cạnh tranh gay gắt của thị trường, huy động được vốn mới chỉ là bước khởi đầu, quan trọng hơn và quyết định hơn là nghệ thuật phân bố, sử dụng số vốn với hiệu quả cao nhất, điều đó có ảnh hưởng đến vị thế của doanh nghiệp trên thương trường bởi vậy cần phải có chiến lược bảo toàn và sử dụng có hiệu quả vốn kinh doanh.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là yếu tố về giá trị. Nó chỉ phát huy tác dụng khi bảo toàn được và tăng lên được sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Nếu vốn không được bảo toàn và tăng lên trong mỗi chu kỳ kinh doanh thì đồng vốn đó đã bị thiệt hại, hay nói cách khác đó là hiện tượng mất vốn. Nếu sự thiệt hại này là lớn sẽ dẫn đến doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và lâm vào tình trạng bị phá sản. Đây chính là nguyên nhân của việc sử dụng một cách lãng phí, không có hiệu quả các đồng vốn huy động được.
2.4. Phân loại vốn kinh doanh.
Vốn kinh doanh của doanh ngiệp thương mại có thể được xem xét, phân loại theo các tiêu thức và góc độ sau:
- Theo quy định pháp luật chia thành:
+ Vốn pháp định: Là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do pháp luật quy định đối với từng ngành, nghề, và từng loại hình sở hữu doanh nghiệp. Dưới mức vốn pháp định thì không thể đủ điều kiện để thành lập doanh nghiệp.
+ Vốn điều lệ: là số vốn do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều lệ của doanh nghiệp. Tuỳ theo ngành , nghề và loại hình doanh nghiệp nhưng vốn điều lệ không được nhỏ hơn vốn pháp định
- Theo góc độ hình thành vốn kinh doanh, có:
+ Vốn đầu tư ban đầu: Là số vốn phải có khi thành lập doanh nghiệp, tức là số vốn cần thiết để đăng ký kinh doanh, hoặc số vốn góp của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân hoặc vốn do nhà nước giao.
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn: gồm vốn đóng góp của tất cả các thành viên phải được đóng góp ngay khi thành lập công ty.
Đối với công ty cổ phần : Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phàn bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần được gọi là mệnh giá cổ phiếu.
+ Vốn bổ sung: Là số vốn tăng thêm do bổ sung từ lợi nhuận, do nhà nước bổ sung bằng phân phối hoặc phân phối lại nguồn vốn, do sự đóng góp của các thành viên, do bán trái phiếu.
+ Vốn do liên doanh: Là số vốn đóng góp do các bên cùng cam kết liên doanh với nhau để hoạt động thương mại hoặc dịch vụ.
+ Vốn đi vay: Trong hoạt động kinh doanh ngoài số vốn tự có và coi như tự có, doanh nghiệp còn sử dụng một khoản vốn đi vay khá lớn của ngân hàng. Ngoài ra, còn có khoản chiếm dụng lẫn nhau của các đơn vị nguồn hàng khách hàng và bạn hàng.
- Trên góc độ chu chuyển vốn kinh doanh :
Trong hoạt động kinh doanh, vốn kinh doanh vận động khác nhau. Xét trên góc độ luân chuyển của vốn, người ta chia toàn bộ vốn của DNTM thành hai loại là vốn lưu động và vốn cố định.
2.5. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại.
2.5.1 Vốn cố định.
2.5.1.1 Khái niệm.
Để tiến hành hoạt động kinh doanh, trước hết doanh nghiệp phải mua sắm xây dựng và lắp đặt những tư liệu cần thiết cho hoạt động của mình. Thông thường thì những tư liệu đó gồm: Các văn phòng, nhà kho, phương tiện vận chuyển ...
Những tư liệu lao động này có thể tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh, chúng bị hao mòn đi một phần những vẫn giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu và do đó, giá trị của chúng được chuyển dần từng phần vào giá trị sản phẩm. Để đơn giản hoá công tác hạch toán và tăng cường hiệu quả của công tác quản lý, tư liệu lao động được chia thành hai loại.
- Tài sản cố định là những tư liệu lao động có đủ hai điều kiện sau:
+ Thời gian sử dụng trên một năm.
+ Giá trị đạt đến một mức độ nhất định tuỳ theo sự quyết định của từng thời kỳ (thường tính từ một năm trở lên).
- Công cụ lao động nhỏ là những tư liệu lao động bị thiếu một hoặc cả hai điều trên.
Hình thái của vốn cố định được biểu hiện dưới hai góc độ:
- Hiện vật: Đó là toàn bộ tài sản cố định dùng trong kinh doanh của các doanh nghiệp bao gồm: nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc và thiết bị, công cụ, thiết bị đo lường thí nghiệm, phương tiện vận tải, bốc dỡ hàng hóa…
- Tiền tệ: Đó là giá tài sản cố định chưa khấu hao và vốn khấu hao khi chưa được sử dụng để sản xuất tài sản cố định, là bộ phận vốn cố định đã hoàn thành vòng luân chuyển và trở về hình thái tiền tệ ban đầu. Vốn của toàn bộ các loại tài sản cố định khác nhau chính là thành phần của nó.
2.5.1.2. Đặc điểm của tài sản cố định.
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của tài sản cố định là chúng luôn luôn bị hao mòn trong cả khi sử dụng lẫn khi không sử dụng. Hao mòn của tài sản cố định gắn liền với quá trình sử dụng và sự tác động của các yếu tố tự nhiên gọi là hao mòn hữu hình, mức hao mòn hữu hình tỷ lệ thuận với thời gian và cường độ sử dụng tài sản. Ngoài hao mòn hữu hình tài sản cố định còn có hao mòn vô hình, đó là sự hao mòn do giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản cố định mà nguyên nhân trực tiếp của nó là do sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật.
Một bộ phận giá trị của tài sản cố định tương ứng với mức hao mòn đó được dịch chuyển dần dần vào giá trị sản phẩm gọi là khấu hao tài sản cố định. Sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ số tiền khấu hao được trích lại và tích luỹ tành quỹ gọi là quỹ khấu hao tài sản cố định. Quỹ khấu hao dùng để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định nên người ta thường gọi là quỹ khấu hao cơ bản.
Thời gian sử dụng tài sản cố định là tương đối dài và tiền khấu hao được trích lập hàng năm, doanh nghiệp có thể dùng nó để mua thêm các tài sản cố định khác phục vụ cho hoạt động kinh doanh nếu cần thiết, gọi là tái sản xuất tài sản cố định.
2.5.1.3. Phân loại vốn cố định.
- Theo công dụng, tài sản cố định của doanh nghiệp thương mại được chia thành:
Nhà làm việc hành chính, nhà kho, nhà cửa hàng, nhà để sửa chữa, để sản xuất năng lượng (máy nổ hoặc máy điện), nhà để xe, phòng thí nghiệm…
+ Các công trình xây dựng và vật kiến trúc để tạo điều kiện để cần thiết cho thực hiện các hoạt động nghiệp vụ trong kinh doanh thương mại như: cầu để bốc dỡ vật tư hàng hóa, đường ô tô đi vào và ra, đường dây tải điện…
+ Các công cụ, máy móc, thiết bị, phương tiện cân đo, bảo quản, chưa đựng dùng trong kinh doanh như các loại cân, các giá để chứa hàng, cần trục, cần cẩu, máy chuyển tải (băng chuyền), phương tiện tính toán, báo động cứu hoả…
+ Các dụng cụ đồ nghề chuyên dùng để đóng gói hàng hóa, tháo mở bao bì, phân loại, chuẩn bị hàng hóa…
+ Các loại phương tiện vận chuyển như ô tô tải, ô tô chuyên dùng, rơ móc, xe chuyển hàng kéo tay, chạy điện…
+ Các loại tài sản cố định khác không ở các nhóm kể trên ngư bao bì tài sản, côngtenơ..
- Theo mục đích sử dụng, các tài sản cố định được phân thành các nhóm sau:
+ Tài sản cố định dùng trong kinh doanh là những tài sản đang dùng trong kinh doanh, sản xuất và dịch vụ của doanh nghiệp
+ Tài sản cố định hành chính sự nghiệp: là những tài sản dùng làm việc hành chính, sự nghiệp như nhà làm việc hành chính, nhà tiếp khách, cơ quan của các đoàn thể, nhà của y tế, văn hóa, thể dục thẻ thao…
+ Tài sản cố định phúc lợi: là những tài sản dùng cho nhu cầu phúc lợi công cộng của doanh nghiệp như nhà điều dưỡng nghỉ mát, nhà ở của công nhân viên của doanh nghiệp do doanh nghiệp tự xây dựng, các phương tiện vận chuyển của doanh nghiệp đưa đón công nhân đi làm và về nhà…
+ Tài sản cố định chờ xử lý: là những tài sản không cần dùng, chưa cần dùng hoặc hư hỏng đang chờ giải quyết để thanh lý.
Trong các doanh nghiệp thương mại không phải lúc nào, ở doanh nghiệp nào cũng có đủ các thành phần nói trên của tài sản cố định. Lúc đầu, tài sản cố định thường chỉ có một vài loại như nơi làm việc, nhà kho hoặc cửa hàng hay vừa làm nơi ở cho những người độc thân. Tài sản cố định được tăng thêm nhờ xây dựng, cải tạo, mở rộng hoặc mua sắm mới. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các loại tài sản cố định mới như các máy móc, thiết bị, công cụ cân, đo, đong, xuất, nhập mới làm cho thành phần của tài sản cố định ngày càng phong phú. Điều đó chứng tỏ cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp ngày càng hiện đại.
Tài sản cố định giữ nguyên hình thái vật chất của nó trong thời gian dài. Tài sản cố định chỉ tăng lên khi có xây dựng cơ bản mới hoặc mua sắm. Tài sản cố định hao mòn dần. Hao mòn có hai loại: hao mòn hữu hình (hao mòn kinh tế) và hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình chủ yếu do tiến bộ khoa học công nghệ mới và năng suất lao động xã hội tăng lên quyết định. Hao mòn hữu hình phụ thuộc vào mức độ sử dụng khẩn trương tài sản cố định và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến độ bền lâu dài của tài sản cố định như:
+ Hình thức và chất lượng của tài sản cố định.
+ Chế độ quản lý, sử dụng tài sản cố định.
+ Chế độ bảo vệ, bảo dưỡng, sửa chữa thay thế thường xuyên, định kỳ đối với tài sản cố định.
+ Trình độ kỹ thuật, tinh thần trách nhiệm của người sử dụng và sự quan tâm của cấp lãnh đạo.
+ Các điều kiện tự nhiên và môi trường…
Hiện nay, vốn cố định của doanh nghiệp thương mại chiếm khoảng 1/3 toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ theo tính chất, đặc điểm của từng loại vật tư hàng hóa và sự cần thiết đáp ứng nhu cầu khách hàng, các doanh nghiệp thương mại có tỷ lệ vốn cố định ít nhiều khác nhau, từ 10% đến 50%… Tuy nhiên một số doanh nghiệp tài sản cố định còn thiếu, lại quản lý sử dụng không tốt, lãng phí, có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả của kinh doanh.
Cơ cấu tài sản cố định của các doanh nghiệp thương mại thường được tính bằng các loại, số lượng tài sản cố định và tỷ trọng của mỗi loại so với toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp. Cơ cấu đó và sự thay đổi của nó là những chỉ tiêu quan trọng nói lên trình độ kỹ thuật và khả năng phát triển hoạt động kinh doanh của ngành lưu thông hàng hóa. Nó phản ánh đặc điểm hoạt động của từng doanh nghiệp và giúp cho việc xác định phương hướng tái sản xuất mở rộng tài sản cố định.
2.5.2. Vốn lưu động.
2.5.2.1. Khái niệm.
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu thông. Vốn lưu động luôn luôn biến đổi hình thái từ tiền sang hàng và từ hàng sang tiền. Vốn lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn cố định. Vốn lưu động bao gồm: Vốn dự trữ hàng hóa, vốn bằng tiền và các tài sản có khác.
Trong doanh nghiệp thương mại, vốn lưu động là khoản vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất có khi tới 80 đến 90% trong tổng số vốn. Đó là đặc điểm khác biệt của doanh nghiệp thương mại đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác. ở một thời điểm nhất định, vốn của doanh nghiệp thương mại thường thể hiện ở các hình thái khác nhau như hàng hóa dự trữ, vật tư nội bộ, tiền gửi ngân hàng, tiền mặt tồn quỹ, các khoản phải thu và các khoản phải trả. Cơ cấu của chúng phụ thuộc rất lớn vào phương thức thanh toán.
Vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại khi chu chuyển phải qua 2 giai đoạn:
- Mua hàng hóa (T-H), tức là biến tiền tệ thành hàng hóa.
- Bán hàng hóa (H’-T’), tức là biến hàng hóa thành tiền tệ.
( T’ =T +DT).
Đầu tiên vốn lưu động biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và khi kết thúc cũng lại bằng hình thức tiền tệ (T-H-T’). Điều đó có nghĩa là: hàng hóa được mua vào không phải để doanh nghiệp sử dụng mà để bán ra. Hàng hóa bán ra được tức là được khách hàng chấp nhận và doanh nghiệp nhận được tiền doanh thu bán hàng và dịch vụ. Toàn bộ vòng chu chuyển của vốn lưu động thể hiện bằng công thức chung T-H-T’, trong đó : T’ =T +DT.
Sự vận động của vốn lưu động trong hoạt dộng kinh doanh thương mại luôn luôn trái với vận động của hàng hóa. Khi hàng hóa mua về doanh nghiệp thì phải trả tiền, khi xuất hàng ra khỏi doanh nghiệp thì được nhận tiền. Kết quả của quá trình vận động tiền tệ lại phản ánh đúng kết quả của hoạt động kinh doanh: Kinh doanh lãi hay lỗ, mức độ lãi, lỗ.
2.5.2.2. Đặc điểm của vốn lưu động.
Khác với vốn cố định, vốn lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện, ở trong các doanh nghiệp thương mại giá trị của nó được chuyển hầu hết vào hàng hoá doanh nghiệp thu mua.
Tiếp đó hàng hoá được bán ra dưới nhiều hình thức, từ đó kết thúc vòng tuần hoàn, hàng hoá sau khi tiêu thụ lại được chuyển sang vốn bằng tiền như điểm xuất phát.
Trong thức tế, sự vận động của vốn lưu động không phải diễn ra một cách tuần tự theo mô hình lý thuyết trên, mà các giai đoạn vận động của vốn lưu động được tiến hành đan xen với nhau, trong khi một bộ phận vốn lưu động được chi cho hoạt động thu mua hàng thì một bộ phận khác lại đang trong quá trình chuyển từ hàng hoá thành tiền. Cứ như vậy chu kỳ kinh doanh tiếp tục lặp đi lặp lại, vốn lưu động được liên tục tuần hoàn chu chuyển.
Trong các doanh nghiệp thương mại vốn lưu động có vai trò hết sức quan trọng, có khi nó chiếm tới 80-90% trong tổng số vốn của doanh nghiệp vì vậy để quá trình tái mở rộng hoạt động kinh doanh của mình đòi hỏi doanh nghiệp phải có dư vốn lưu động để đầu tư vào các hình thái khác nhau từ đó tạo cho chúng có được mức tồn tại hợp lý và đồng bộ.
2.5.2.3. Phân loại vốn lưu động.
- Theo công dụng của vốn lưu động, ta có:
+ Vốn nguyên vật liệu chính.
+ Vốn nguyên vật liệu phụ.
+ Vốn nhiên liệu.
+ Vốn tiền tệ và tài sản có quyết toán.
Vốn lưu động của đơn vị sản xuất phụ thuộc phải trải qua ba giai đoạn.
Biến tiền tệ thành dự trữ nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu, phụ tùng...
Biến nguyên nhiên vật liệu chính, phụ thành thành phẩm hàng hóa nhờ kết hợp sức lao động và công cụ lao động (máy móc, thiết bị...).
Biến thành phẩm hàng hóa thành tiền tệ. Vốn lưu động phục vụ cho hai giai đoạn trên là vốn sản xuất. Vốn lưu động ở giai đoạn thứ ba là vốn lưu thông.
Như vậy vốn lưu động của đơn vị sản xuất phụ thuộc gồm có:
Vốn lưu động
của đơn vị = Vốn lưu động sản xuất + Vốn lưu thông.
sản xuất
- Xét về mặt kế hoạch hóa, vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại được chia thành vốn lưu động định mức và vốn lưu động không định mức.
+ Vốn lưu động định mức là vốn lưu động tối thiểu cần thiết để hoàn thành kế hoạch lưu chuyển hàng hóa và kế hoạch sản xuất, dịch vụ phụ thuộc. Vốn lưu động định mức gồm có vốn dự trữ hàng hóa và vốn phi hàng hóa.
Vốn dự trữ hàng hóa là số tiền dự trữ hàng hóa ở các kho, trạm, cửa hàng, trị giá hàng hóa trên đường vận chuyển và trị giá hàng hóa thanh toán bằng chứng từ. Nó nhằm bảo đảm lượng hàng hóa bán bình thường cho các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Vốn dự trữ hàng hóa chiếm 80- 90% vốn lưu động định mức và 50- 70% trong toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại.
Vốn phi hàng hóa là số tiền định mức của vốn bằng tiền, bao gồm vốn bằng tiền và các tài sản khác.
+ Vốn lưu động không định mức là số vốn lưu động thường phát sinh trong quá trình kinh doanh và trong sản xuất, dịch vụ phụ thuộc nhưng không đủ căn cứ để tính toán được. Vốn lưu động không định mức gồm có vốn bằng tiền ( tiền mua hàng và giao cho nhân viên đi mua hàng), tiền gửi vào ngân hàng, tài sản có kết toán (các khoản nợ nhờ ngân hàng thu, các khoản nợ phải đòi khách hàng, tiền ứng trước để mua hàng,…), các phế liệu thu nhặt trong ngoài vốn, tài sản chờ thanh lý…
- Theo nguồn hình thành, vốn lưu động được phân thành.
+ Nguồn vốn pháp định: Nguồn vốn này có thể do nhà nước cấp, do xã viên hay cán bộ công nhân viên trong công ty cấp.
+ Nguồn vốn tự bổ sung: Đây là nguồn vốn do doanh nghiệp tự bổ sung, chủ yếu lấy một phần từ lợi nhuận để lại.
+ Nguồn vốn liên doanh liên kết.
+ Nguồn vốn đi vay.
2.5.2.4. Vai trò của vốn lưu động trong các doanh nghiệp thương mại.
- Để tiến hành hoạt động kinh doanh, ngoài các tài sản cố định như máy móc, kho bãi... doanh ngiệp còn phải bỏ ra một lượng tiền lớn để mua sắm hàng hoá, nguyên vật liệu.... phục vụ cho quá trình kinh doanh của mình.
- Ngoài ra, vốn lưu động còn đảm bảo cho quá trình tái mở rộng hoạt động kinh doanh của công ty được tiến hành thường xuyên và liên tục. Lượng vốn lưu động có hợp lý, đồng bộ thì mới không làm gián đoạn quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
- Vốn lưu động còn là phản ánh và đánh giá quá trình vận động của hàng hoá cũng như đánh giá hoạt động kiểm tra, giám sát việc mua sắm, vận chuyển, nhập kho và bảo quả hàng hóa an toàn...
- Vốn lưu động còn có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trườngdoanh nghiệp hoàn toàn tự chủ trong việc sử dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô doanh nghiệp cần phải huy động một lượng vốn nhất định để đầu tư thêm chủng loại hàng hoá. Vốn lưu động còn giúp doanh nghiệp chớp được thời cơ kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh cho mình.
2.6. Nguồn vốn chủ sở hữu.
Đối với một doanh nghiệp, tổng số tài sản lớn hay nhỏ thể hiện quy mô hoạt động là rất quan trọng. Song trong nền kinh tế thị trường, điều quan trọng hơn là khối lượng tài sản do doanh nghiệp đang nắm giữ và sử dụng được hình thành từ các nguồn nào. Nguồn vốn của doanh nghiệp thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với từng loại tài sản của doanh nghiệp.
Nguồn vốn chủ sỡ hữu biểu hiện quyền sỡ hữu của người chủ về các tài sản hiện có ở doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp có thể có một hoặc nhiều chủ sở hữu. Đối với doanh nghiệp nhà nước chủ sở hữu doanh nghiệp là nhà nước. Đối với xí nghiệp liên doanh hay công ty liên doanh thì chủ sở hữu là các thành viên tham gia góp vốn. Đối với công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn thì chủ sở hữu là các cổ đông. Đối với doanh nghiệp tư nhân cá thể thì chủ sỡ hữu là một cá nhân - người đứng tên thành lập doanh nghiệp.
Vốn chủ sỡ hữu được tạo từ các nguồn:
- Số tiền đống góp của các nhà đầu tư - người chủ sỡ hữu doanh nghiệp, cụ thể:
+ Đối với doanh nghiệp nhà nước: do nhà nước (hay ngân sách nhà nước) cấp phát nên được gọi là vốn ngân sách nhà nước.
+ Đối với doanh nghiệp tư nhân: nguồn vốn này do chủ đầu tư hay các hội viên liên kết cùng nhau bỏ ra để đầu tư hình thành doanh nghiệp kinh doanh nên được gọi là vốn tự do.
+ Đối với doanh nghiệp liên doanh: nguồn này được biểu hiện dưới hình thức vốn liên doanh, vốn này được hình thành do sự đóng góp giữa các chủ đầu tư hoặc các doanh nghiệp để hình thành một doanh nghiệp mới.
+ Đối với công ty cổ phần: được biểu hiện dưới hình thứcvốn cổ phần, vốn này do những người sánh lập công ty cổ phần phát hành cổ phiếu để huy động thông qua việc bán những cổ phiếu đó.
- Nguồn vốn chủ sỡ hữu còn do tổng số tiền được tạo ra từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, số này gọi là lãi lưu giữ hoặc lãi chưa phân phối.
- Ngoài ra, vốn chủ sở hữu còn bao gồm chênh lệch đánh giá lại tài sản, quỹ phát triển sản xuất kinh doanh, quỹ dự trữ, chênh lệch tỷ giá, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí sự nghiệp.
2.7. Nguồn vốn vay.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hầu như không một doanh nghiệp nào chỉ hoạt động kinh doanh bằng nguồn vốn tự có mà phải hoạt động bằng nhiều nghuồn vốn, trong đó nguồn vốn vay chiếm tỷ lệ đáng kể.
Vốn vay có ý nghĩa quan trọng không chỉ ở khả năng tài trợ các nhu cầu bổ sung cho việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh của công ty mà còn tạo điều kiện linh hoạt trong việc thu hẹp quy mô kinh doanh bằng việc hoàn trả các khoản nợ đến hạn và giảm số lượng vốn vay.
Nguồn vốn vay được thực hiện dưới các phương thức chủ yếu sau:
- Tín dụng ngân hàng: là các khoản mà doanh nghiệp vay của các ngân hàng thương mại hoặc của các tổ chức tín dụng khác. Tín dụng ngân hàng có nhiều dạng, song có các dạng quan trọng nhất là:
+ Tín dụng ứng trước: là một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó doanh nghiệp (khách hàng) được sử dụng một mức cho vay trong một thời hạn nhất định.
+ Thấu chi (tín dụng hạn mức) là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó doanh nghiệp được phép sử dụng dư nợ trong một giới hạn và thời hạn nhất định trên tài khoản vãng lai.
Thấu chi chỉ được áp dụng đối với doanh nghiệp (khách hàng) có uy tín và có khả năng tài chính lành mạnh.
+ Chiết khấu thương phiếu: Là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó doanh nghiệp chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí.
+ Tín dụng thuê mua: Là hình thức tín dụng trung, dài hạn được thực hiện thông qua việc cho thuê máy móc- thiết bị, các động sản và bất động sản khác.
- Phát hành trái phiếu công ty: Chỉ có các doanh nghiệp thương mại nhà nước, các công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu mới có quyền vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu. Trái phiếu thực chất là một tờ phiếu mà công ty phát hành phát hành để vay vốn và là vốn dài hạn.
- Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp đựơc thể hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Tín dụng thương mại xuất hiện trên cơ sở sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm do đặc điểm thời vụ trong sản xuất và mua bán sản phẩm, do vậy xảy ra hiện tượng một số doanh nghiệp có hàng hóa muốn bán trong đó có một số doanh nghiệp khác muốn mua nhưng không có tiền. Trong điều kiện này, doanh nghiệp với tư cách là người bán muốn thực hịên được sản phẩm của mình, họ có thể bán chịu hàng hóa cho người mua.
- Vốn đầu tư nước ngoài: Bao gồm vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp
Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các chính phủ, tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ thực hiện dưói dạng viện trợ, vốn cho vay ưu đãi với thời gian dài, lãi suất thấp của các tổ chức tài chính quốc tế, vốn vay tín dụng từ các ngân hàng thương mại nước ngoài, vốn do phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra nước ngoài. Vốn này thường có quy mô lớn nên có tác động nhanh và mạnh đối với việc giải quyết các nhu cầu phát triển của nước nhà nhưng cũng gắn với các điều kiện chính trị và tình trạng vay nợ chồng chất nếu chúng ta không biết sử dụng chúng có hiệu quả.
Vốn đầu tư trực tiếp là vốn của các doanh nghiệp hoặc các cá nhân người nước ngo._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7902.doc