Lời nói đầu
Kể từ sau đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI (năm 1986) nền kinh tế nước ta đã có một bước ngoặt lớn, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước, mở rộng quan hệ với bên ngoài.
Mục tiêu của công cuộc đổi mới kinh tế này là nhằm đưa đất nước ta thoát khỏi sự trì trệ, nghèo nàn, lạc hậu, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế và tìm ra con đường ngắn nhất để phát triển nhanh nhất. Thực
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1542 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Du lịch và Thể thao Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện chủ trương đổi mới đó, các chủ doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau ở nước ta tích cực đổi mới phương thức hoạt động kinh doanh đặc biệt là việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để có thể tồn tại, đứng vững và phát triển thì một trong những giải pháp quan trọng hiện nay là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Nhận thức được ý nghĩa quan trọng này, qua thời gian thực tập tại công ty Du lịch- Thể thao Việt Nam, dưới sự hướng dẫn của cô giáo Nguyễn Thị Thu Hà cùng với sự giúp đỡ tận tình của phòng tài chính công ty Du lịch- Thể thao em đã hoàn thiện chuyên đề tốt nghiệp của mình với đề tài:
Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Du lịch và Thể thao Việt Nam.
Với vốn kiến thức lý luận và thực tiễn còn nhiều hạn chế, không tránh khỏi những thiếu sót, qua chuyên đề này em xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở công ty Du lịch - Thể thao. Em rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô và các cô chú ở phòng kế toán để chuyên đề của em được hoàn thiện tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Thu Hà cùng các thầy cô trong khoa TC- TT đã truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong thời gian em họ tập tại trường.
Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, phòng Tài chính Tổng hợp của công ty Du lịch - Thể thao đã tận tình giúp đỡ em trong thời gian thực tập tại công ty.
Chương 1.
vốn kinh doanh và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
1. vốn kinh doanh và nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1Vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
-doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh.
- Mục tiêu của doanh nghiệp : Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp mà có các mục tiêu khác nhau như: hoạt động công ích, hợp tác liên doanh giúp đỡ lẫn nhau… Song mục tiêu chung nhất và quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp hoạt động SXKD trong nền kinh tế thị trường đó là lợi nhuận.
1.1.1- Khái niệm về vốn:
- Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh.Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp phải luôn gắn liền với sự hoạt động của đồng vốn. Chủ thể kinh doanh không chỉ có vốn mà còn phảI biết vận động không ngừng phát triển đồng vốn đó. Nếu gạt bỏ nguồn gốc bóc lột của chủ nghĩa tư bản trong công thức T- H- SX…H’- T’ của C. Mac thì có thể xem đây là một công thức kinh doanh: chủ thể kinh doanh dùng vốn của mình dưới hình thức tiền tệ mua những tư liệu sản xuất để tiến hành quá trình sản xuất ra sản phẩm, hàng hoá theo nhu cầu của thị trường rồi đem nhữnh thành phẩm hàng hoá này bán cho khách hàng trên thị trường để thu được một lượng tiền tệ lớn hơn số ban đầu bỏ ra.
Như vậy, theo quan điểm của Mác, vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất. Định nghĩa này mang một tầm khái quát lớn, nhưng do bị hạn chế bởi những điều kiện khách quan lúc bấy giờ nên Mác đã quan niệm chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các nhà khoa học đại diện cho các trường phái khác nhau đã bổ sung các yếu tố mới cũng được coi là vốn. Nổi bật nhất là Paul. A.Samuelson- nhà kinh tế học theo trường phái “tân cổ điển” đã thừa kế các quan niệm của trường phái “cổ điển” về yếu tố sản xuất để phân chia các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất thành 3 bộ phận là đất đai, lao động và vốn. Theo ông vốn là các hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới. Sau đó David Begg đã bổ sung thêm cho định nghĩa vốn của Samuelson, theo ông vốn bao gồm có vốn hiện vật (các hàng hoá dự trữ, để sẩn xuất ra hàng hoá khác) và vốn tài chính (tiền, các giấy tờ có giá trị của doanh nghiệp). Nhìn chung cả Samuelson và Begg đều có một quan điểm chung thống nhất cơ bản là các vốn là một đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy vậy quan điểm này cho thấy vốn vẫn bị đồng nhất với tài sản của doanh nghiệp.
Thực chất vốn kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Như vậy, muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định. Trong nền kinh tế thị trường vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới mọi khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh là điều kiện để duy trì sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm và thu nhập cho người loa động. Từ đó, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng cường khả năng trên thị trường, mở rộng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Vai trò của vốn kinh doanh đã được C.Mác khẳng định: “tư bản đứng vị trí hàng đầu vì tư bản là tương lai”. Đồng thời C.Mác còn nhấn mạnh: “không một hệ thống nào có thể tồn tại nếu không vượt qua sự suy giảm về hiệu quả tư bản”.
1.1.2- Phân loại vốn kinh doanh.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ… hay hoạt động bất cứ ngành nghề gì các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định. Số vốn kinh doanh đó được biểu hiện dưới dạng tài sản. trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp, quản lý vốn kinh doanh và sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả là nội dung quan trọng nhất có tính chất quyết định đến mức độ tăng trưởng hay suy thoái của doanh nghiệp. Do vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ta cần phải lắm được vốn có những loại nào, đặc điểm vận động của nó ra sao… Có nhiều cách phân loại vốn kinh doanh nhưng ở đây chúng ta chỉ đi sâu vào cách phân loại vốn kinh doanh căn cứ vào vai trò đặc điểm chu chuyển của vốn khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Theo cách phân loại này vốn kinh doanh được chia thành 2 loại chính là vốn lưu động và vốn cố định.
1.1.2.1- Vốn cố định của doanh nghiệp:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động được gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó là TSCĐ. Vì vậy, khi nghiên cứu về vốn cố định trước hết phải dựa trên cơ sở tìm hiểu về tài sản cố định. Tư liệu sản xuất được chia thành 2 bộ phận là đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Đặc điểm của tư liệu lao động là chúng có thể tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó mặc dù tư liệu sản xuất bị hao mòn nhưnh chúng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Chỉ khi nào chúng bị hư hỏng hoàn toàn hoặc không còn lợi ích kinh tế thì khi đó chúng mới bị thay thế.
Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động có giá trị lớn tham gia một cách trực tiếp hay gián tiếp vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp qua nhiều chu kỳ sản xuất. Còn giá trị của nó được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất. Một tư liệu lao động để thoả mãn là tài sản cố định phải có đồng thời hai tiêu chuẩn cơ bản sau:
- Phải có thời gian sử dụng tối thiểu từ 1 năm trở lên.
- Phải đạt một mức tối thiểu nhất định nào đó về giá trị (tiêu chuẩn này thường xuyên được điều chỉnh cho phù hợp với từng thời kỳ). Hiện nay ở nước ta quy định là > 5 triệu đồng.
Nếu phân loại theo hình thái vật chất thì tài sản cố định có 2 loại là tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
+ TSCĐ hữu hình là nhữnh tài sản có hình thái biểu hiện là vật chất cụ thể như: nhà xưởng, máy móc, thiết bị, đấ đai, vật tư…
TSCĐ vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể như: Bằng phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ, bản quyền, chi phí sáng lập doanh nghiệp, lợi thế thương mại… Trong nền kinh tế thị trường để nâng cao khả năng cạnh tranh của việc đầu tư TSCĐ vô hình là rất quan trọng. Những chi phí đó cũng được quan niệm như giá trị của một số TSCĐ và phải được thu hồi dần để mua sắm TSCĐ mới.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của TSCĐ có những đặc điểm sau:
- Về mặt hiện vật: TSCĐ tham gia hoàn toàn và nhiều lần vào quá trình sản xuất kinh doanh và nó bị hao mòn dần, bao gồm cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Nói một cách khác, giá trị sử dụng sẽ giảm dần cho đến khi TSCĐ bị loại ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh.
- Về mặt giá trị: Giá trị của TSCĐ được chuyển dịch dàn từng phần vào giá trị sản phẩm mà nó tạo ra trong quá trình sản xuất.
Đặc diểm về mặt hiện vật và giá trị của TSCĐ đã quyết định đến đặc điểm chu chuyển của vốn cố định. Song quy mô của vốn cố định lại được quyết định bằng quy mô TSCĐ. Qua mối liên hệ đó ta có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong sản xuất kinh doanh như sau:
- Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Có đặc điểm này là do TSCĐ có thể phát huy trong nhiều kỳ sản xuất, vì vậy hình thái biểu hiện bằng tiền của nó cũng được tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất tương ứng.
- Vốn cố định luân chuyển dần dần, từng phần khi tham gia vào quá trình sản xuất, giá trị của tài sản giảm dần. Theo đó vốn cố định cũng tách thành 2 phần: Một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất sản phẩm(dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với giảm dần giá trị sử dụng của TSCĐ. Phần còn lại của bvốn cố định được “cố định” trong đó. Trong các chu kỳ sản xuất kế tiếp, nếu như phần vốn luân chuyển dần dần dược tăng lên thì phần vốn cố định giảm đi tương ứng với mức với mức suy giảm dần về giá trị sử dụng của TSCĐ. Kết thúc sự biến thiên nghịch chiều đó cũng là lúc TSCĐ hết thời gian sử dụng và vốn cố định cũng hoàn thành 1 vòng luân chuyển.
Để quản lý và sử dụng vốn cố định có hiệu quả ta phảI nghiên cứu các phương pháp phân loại và kết cấu của TSCĐ.
- Theo hình thái biểu hiện:
+ TSCĐ hữu hình: nhà xưởng, máy móc , thiết bị…
+ TSCĐ vô hình: Bằng phát minh sáng chế,…
- Theo nguồn hình thành:
+ TSCĐ tự có: Được đầu tư bằng vốn ngân sách cấp hoặc vốn CSH.
+ TSCĐ dầu tư bằng vốn vay, thuê ngoài…
- Theo công dụng kinh tế:
+ TSCĐ dùng cho sản xuất kinh doanh cơ bản
+ TSCĐ dùng ngoài sản xuất kinh doanh cơ bản.
- Theo tình hình sử dụng:
+ TSCĐ đang sử dụng:
+ TSCĐ chưa sử dụng.
+ TSCĐ không cần sử dụng.
Mỗi cách phân loại có ý nghĩa khác nhau giúp nhà quản trị đánh giáđượctình hình TSCĐ và từ đó có biện pháp tác động để sử dụng vốn cố định có hiệu quả hơn.
Vốn cố định được hình thành từ nhiều nhuồn vốn khác nhau như: nguồn ngân sách cấp, nguồn vốn tự bổ sung, nguồn vốn vay, liên doanh liên kết nguồn vốn khác.
1.1.2.2- Vốn lưu động của doanh nghiệp.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh bên cạnh TSCĐ, doanh nghiệp luôn có một khối lượng tài sản nhất định nằm rải rác trong các khâu của quá trình tái sản xuất: dụ trữ chuẩn bị sản xuất, phục vụ sản xuất, phân phối, tiêu thụ sản phẩm. Đây chính là tài sản lưu động của doanh nghiệp. TSCĐ chú ý nằm trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp là các đối tượng lao động. Đối tượng lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, bộ phận chú ý của đối tượng lao động sẽ thông qua quá trình sản xuất tạo lên thực thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao phí mất đi trong quá trình sản xuất. Đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất do đó toàn bộ giá trị của chúng được dịch chuyển 1 lần vào giá trị sản phẩm và được thực hiện khi sản phẩm trở thành hàng hoá.
Bên cạnh một số TSCĐ nằm trong quá trình lưu thông, thanh toán, sản xuất… thì doanh nghiệp còn có một số tư liệu khác như vật tư phục vụ quá trình tiêu thụ, các khoản hàng gửi bán, các khoản phải thu…
Từ đó, ta có thể rút ra, vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lao động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện một cách thường xuyên liên tục.
Như vậy, dưới góc độ tài sản thì vốn lưu động đựôc sử dụng để chỉ các TSLĐ. Vốn lưu động chịu sự chi phối bởi tính luân chuyển của TSLĐ, vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thái vật chất khác nhau và chuyển hoá phần lớn vào giá trị sản phẩm, phần còn lại chuyển hoá trong quá trình lưu thông. quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách thường xuyên liên tục lên vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng và mang tính chu kỳ. Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục thì yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp là phải có đủ vốn lưu động để đầu tư vào các tư liệu lao động khác nhau, đảm bảo cho các tư liệu lao động tồn tại một cách hợp lý, đồng bộ với nhau trong một cơ cấu. Do đặc điểm của vốn lưu động là trong quá trình sản xuất kinh doanh luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần, tuần hoàn liên tục đã quyết định sự vận động của vốn lưu động – tức hình thái giá trị của TSLĐ là:
+ Khởi đầu vòng tuần hoàn, vốn lưu động được dùng để mua sắm các đối tượng lao động trong khâu dự trữ sản xuất. ở giai đoạn này vốn đã thay đổi hình thái từ vốn tiền tệ sang vốn vật tư (T- H).
+ Tiếp theo là giai đoạn sản xuất, các vật tư được chế tạo thành bán thành phẩm, thành phẩm. ở giai đoạn này vốn vật tư chuyển hoá thành thành phẩm. (H- SX…- H’).
+ Kết thúc vòng tuần hoàn, sau khi sản phẩm được tiêu thụ vốn lưu động lại chuyển hoá sang hình thái vốn tiền tệ như điểm xuất phát ban đầu (H’- T’); (T’ > T).
trong thực tế, sự vận động của vốn lưu động không diễn ra một cách tuần tự như mô hình lý thuyết trên mà các giai đoạn vận động của vốn được đan xen vào nhau, các chu kỳ sản xuất được tiếp tục lặp lại, vốn lưu động được tiếp tục tuần hoàn và chu chuyển.
Trong doanh nghiệp, việc quản lý tốt vốn lưu động có vai trò rất quan trọng. Muốn quản lý tốt vốn lưu động các doanh nghiệp phải phan biệt được các bộ phận cấu thành của vốn lưu động để trên cơ sở đó đề ra được các biện pháp quản lý với từng loại. trên thực tế vốn lưu động của doanh nghiệp bao gồm những bộ phận sau:
+ tiền mặt và chứng khoán có thể bán được: tiền mặt bao gồm tiền trong quỹ của doanh nghiệp và các khoản tiền gửi không có lãi. Chứng khoán bán được thường là thương phiếu(kể cả thương phiếu nhắn hạn).
+ Các khoản phải thu: Trong nền kinh tế thị trường, việc nua bán chịu là không thể tránh khỏi, và đây cũng là một chiến lược trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Các hoá đơn chưa được trả tiền này thể hiện quan hệ tín dụng thương mại và hình thành lên các khoản phải thu. tín dụng thương mại có thể tạo lên uy tín, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường đồng thời cũng có thể dẫn tới rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Khoản dự trữ: Việc tồn tại vật tư, hàng hoá dự trữ, tồn kho là bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động thường xuyên cuả doanh nghiệp. Sự tồn tại này trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là hoàn toàn khách quan.
Để quản lý và sử dụng tốt vốn lưu động cần phải nghiên cứu các biện pháp phân loại vốn lưu động cũng như tỷ trọng của từng loại vốn trong tổng số vốn lưu động của doanh nghiệp.
Vốn lưu động được phân loại như sau: (các căn cứ để phân loại vốn lưu động trong doanh nghiệp).
- Căn cứ vào quá trình tuần hoàn vốn:
+ Vốn dự trữ sản xuất: nguyên vật liệu.
+ Vốn sản xuất: sản phẩm dở dang
+ Vốn lưu thông: tiền mặt thành phẩm.
- Căn cứ vào nguồn hình thành:
+ Vốn tự có ngân sách cấp
+ Vốn liên doanh liên kết
+ Vốn vay tín dụng, TDTM.
- Căn cứ vào hình thái biểu hiện:
+ Vốn phát hành chứng khoán
+ Vốn vật tư hàng hoá
+ Vốn tiền tệ
- Căn cứ vào phương pháp xác định:
+ Vốn lưu động định mức.
+ Vốn lưu động không định mức.
Tuỳ theo mỗi cách phân loại mà nhà quản trị sẽ đưa ra những quyết định cụ thể trong việc quản lý và sử dụng vốn lưu động một cách có hiệu quả nhất.
Từ nhữnh đặc điểm trên ta có thể phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa vốn lưu động và vốn cố định.
Tên vốn
Chức năng
Tính chất tham gia vào quá trình sản xuất
Hình thức chuyển hoá giá trị
Vốn cố định
Tư liệu lao động
Nhiều lần
Chuyển dần nhiều lần
Vốn lưu động
Đối tượng lao động
Một lần
Chuyển toàn bộ 1 lần
1.2- Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
1.2.1- Nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, muốn tiến hành sản xuất kinh doanh, điều trước tiên là phải có vốn; vốn đầu tư ban đầu và vốn đầu tư bổ xung để mở rộng sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, cơ bản là những nguồn sau:
+ Nguồn vốn do chủ kinh doanh đầu tư: đây là nguồn hình thành vốn ban đầu còn gọi là vốn điều lệ. Nguồn vốn này là cơ sở xác định quyền CSH đối vói doanh nghiệp. ở doanh nghiệp nhà nước vốn này là do nhà nước đầu tư được hình thành từ quỹ ngân sách nhà nước và được dùng vào mục đích phát triển kinh tế. ở các công ty cổ phần, nguồn vốn này được hình thành từ số cổ phần mà các cổ đông đóng góp.
+ Nguồn vốn tự bổ sung: là vốn được hình thành từ lợi nhuận để lại từ vốn vay sau khi đã trả hết nợ và lãi suất tiền vay, từ các quỹ của doanh nghiệp được bổ xunh vào vốn.
+ Nguồn vốn liên doanh, liên kết: là vốn do các đơn vị khác tham gia liên doanh liên kết với doanh nghiệp. vốn này được đóng góp theo tỷ lệ của các chủ đầu tư để cùng kinh doanh và cùng hưởng lợi nhuận.
+ Nguồn vốn tín dụng: là các khoản vốn mà doanh nghiệp vay dài hạn, ngắn hạn của ngân hàng, các khoản vay của các tổ chức: Công ty tính chất, công ty BH, NHTM, các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước, vay bằng phát hành chứng khoán..
1.2.2- Phân loại nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
- Căn cứ vào nguồn hình thành vốn của doanh nghiệp thì vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đưọc chia làm 2 loại.
+ Vốn CSH: là phần vốn thuộc quyền sở hữu của CSH boa gồm: Vốn điều lệ do CSH đầu tư, vốn tự bổ xung từ lợi nhuận và các quỹ của doanh nghiệp. vốn do nhà nước tài trợ (nếu có). Vốn CSH được xác định là phần vốn còn lại trong tài sản của doanh nghiệp sau khi đã trừ đI các khoản nợ phải trả.
+ Nợ phải trả: là khoản nợ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế như: nợ tiền vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, tiền vay từ phát hành chứng khoán, khoản phải trả cho nhà nước, cho người bán, cho công nhân viên.
Thông thường, một doanh nghiệp phải phối hợp cả 2 nguồn vốn: CSH và nợ phải trả để đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn, có thể chia nguồn vốn của doanh nghiệp thành 2 loại:
+ Nguồn vốn thường xuyên: là nguồn vốn có tính chất ổn định, dài hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Nguồn vốn này được dùng cho việc đầu tư mua sắm TSCĐ và một phần TSLĐ tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
+ Nguồn vốn tạm thời: là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ ngắn hạn khác.
Việc phân loại này giúp cho người quản lý xem xét huy động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời vốn cho sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
- Căn cứ vào phạm vi sử dụng, nguồn vốn của doanh nghiệp được chia làm 2 loại.
+ Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể huy động được bên trong doanh nghiệp từ các hoạt động của bản thân doanh nghiệp, bao gồm: Tiền khấu hao TSCĐ, lợi nhuận để lại, các khoản dự trữ, dự phòng.
+ Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: Là nguồn vốn huy động được từ bên ngoài như vay ngân hàng, vay các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, vay bằng phát hành chứng khoán, các khoản nhập vốn góp liên doanh liên kết, các khoản nợ phải trả cho người cung cấp, nợ khác.
- Thông qua việc nghiên cứu các phương pháp phân loại nguồn vốn kinh doanh cho thấy: Doanh nghiệp cần phải tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả các đồng vốn hiện có và đa dạng hoá các kênh huy động vốn.
2- Tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
2.1- Hiệu quả sử dụng vốn:
Trước đây, trong cơ chế quản lý hành chính bao cấp, quan hệ giữa nhà nước với doanh nghiệp dựa trên nguyên tắc thu đủ, chi đủ. Nhà nước giao kế hoạch mang tính pháp định về mặt hàng kinh doanh chú ý về nguồn cung cấp, tiêu thụ, doanh thu… Vì vậy các doanh nghiệp không có tính sáng tạo, chủ động trong sản xuất kinh doanh. Do đó, quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh được xác định dựu trên cơ sở: Mức độ thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh, sự tiết kiệm trong giá thành sản phẩm, khối lượng giá trị sử dụng mà doanh nghiệp cung cấp cho nền kinh tế. Đây chính là sự lẫn lộn giữa chỉ tiêu kết quả và chỉ tiêu hiệu quả. Điều này đã làm cho các nhà đầu tư, quản lý đánh giá sai về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Đây cũng là nguyên nhân làm cho tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp bị lãng phí, không hiệu quả dẫn đến tình trạng “mất” dần vốn và không còn khả năng duy trì sản xuất kinh doanh.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tuân theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh “đầu vào” và “đầu ra” được quyết định bởi thị trường. Xuất phát từ nhu cầu thị trường, từ lợi ích của doanh nghiệp do đó đòi hỏi doanh nghiệp luôn phải tính đến các yếu tố sản xuất caí gì, sản xuất cho ai? Và sản xuất như thế nào? Vì vậy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra ngày càng gay gắt để khẳng định được vị trí của mình trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, cấc doanh nghiệp đều lấy hiệu qủa kinh doanh làm thước đo cho mọi hoạt động. Hiệu quả là lợi ích kinh tế đạt được sau khi đã bù đắp hết các khoản chi phí bỏ ra cho hoạt động kinh doanh. Như vậy hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh mối quan hệ giữa kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh với chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó.
Thể hiện qua công thức:
Hiệu quả =
Qua công thức trên ta thấy hiệu quả chịu ảnh hưởng của 2 nhân tố đó là doanh thu và chi phí.
Hiệu quả tăng lên khi:
- Doanh thu tăng và chi phí không đổi.
- Chi phí giảm và doanh thu không đổi.
- Doanh thu và chi phí cùng tăng nhưng tốc độ của doanh thu lớn hơn tốc độ của chi phí.
Điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường là phải sử dụng vốn kinh doanh sao cho có hiệu quả.Sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả là phải bảo toàn và không ngừng phát triển vốn, tức là phải tạo ra được sức sinh lời của đồng vốn cành cao càng tốt.
Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tức là phải đi tìm các biện pháp làm sao cho chi phí về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ít nhất mà đem lại hiệu quả cao nhất.
Hiệu quả sử dụng vốn là chỉ tiêu biểu hiện một mặt về hiệu quả kinh doanh, phản ánh trình độ quản lý và sử dụng vốn kinh doanh trong việc tối đa hoá kết quả lợi ích và tối thiểu hoá lượng vốn và thời gian sử dụng theo các điều kiện vì nguồn lực xác định phù hợp với mục tiêu kinh doanh.
2.2- Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn hướng tới 3 mục tiêu cơ bản đó là:
- Lợi nhuận
- Tăng trưởng thế lực.
- Đảm bảo an toàn.
3 mục tiêu này phản ánh lại chính là hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. nếu doanh nghiệp sử dụng vốn không có hiệu quả, không bảo toàn được vốn, không làm cho nó sinh lời thì doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại được trong nền kinh tế thị trường.
Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là vấn đề cấp bách đặt ra cho các doanh nghiệp vì nó là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, nó quyết định yếu tố đầu ra, quyết định đến giá thành sản phẩm.
- Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn kinh doanh vận động liên tục và có những đặc điểm khác nhau giữa từng loại vốn. Sau mỗi quá trình, số vốn bỏ ra không được để hao hụt, mất mát mà phải sinh sôi nảy nở. Đồng vốn phải có khả năng sinh lời, đây là vấn đề cốt tử liên quan chặt chẽ đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy sử dụng vốn có hiệu quả là một yêu cầu khách quan đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều phải tính mục tiêu quan trọng nhất đó là lợi nhuận, lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp liên quan đến tất cả các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất mở rộng. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì điều kiện tiên quyết đó là doanh nghiệp phải tạo ra được lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh đem lại lợi nhuận cao hơn, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp.
Tóm lại, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là tất yếu trong điều kiện hiện nay. Nó góp phần nâng cao khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mở rộng quy mô hoạt động sản xuất, tăng nhanh tốc độ hoạt động và khả năng sinh lời của đồng vốn nhằm đem lại hiệu quả cao hơn cho doanh nghiệp và góp phần tăng trưởng, ổn định nền kinh tế xã hội.
2.3- Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổ chức và sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp người ta sử dụng một số chỉ tiêu sau:
- Vòng quay toàn bộ vốn: chỉ tiêu này cho biết vốn của doanh nghiệp trong một kỳ quay được bao nhiêu vòng.
Vòng quay toàn bộ vốn =
Đây là hệ số phản ánh hiệu suất sử dụng vốn hay tài sản của doanh nghiệp trong kỳ. Vòng quay càng lớn thể hiện hiệu suất sử dụng vốn càng cao.
- Doanh lợi tổng vốn:
Doanh lợi tổng vốn =
Đây là chỉ tiêu đo lường mức sinh lời của đồng vốn. Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn bình quân được sử dụng trong kỳ tạo ra mấy đồng lợi nhuận thuần.
Chỉ tiêu này rất quan trọng, nó cho thấy hiệu quả trong việc quản lý và sử dụng vốn sản xuất của doanh nghiệp.
Trên đây là một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nói chung mang tính chất tổng quát. Để đánh giá chính xác hơn người ta đI đánh giá hiệu quả sử dụng của từng loại vốn.
2.3.1- Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Để kiểm tra đánh giá tính hiệu quả về sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp người ta thường sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu gồm: Các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu phân tích.
Các chỉ tiêu tổng hợp.
- Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ.
Hiệu suất sử dụng vốn cố định =
Trong đó số vốn cố định bình quân được tính theo phương pháp bình quân số học giữa vốn cố định VCĐđk và VCĐck.
- Chỉ tiêu hàm lượng VCĐ: Là đại lượnh nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng VCĐ. Nó phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu hoặc doanh yhu thuần cần bao nhiêu đồng VCĐ.
Hàm lượng VCĐ =
- Chỉ tiêu TSLN vốn cố định: phản ánh 1 đồng VCĐ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế TNDN.
Tỷ suất lợi nhuận VCĐ =
Các chỉ tiêu phân tích:
- Hệ số hao mòn TSCĐ: Phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ tronh doanh nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu.
Hệ số hao mòn TSCĐ =
- Hiệu suất sử dụng TSCĐ: Phản ánh 1 đồng TSCĐ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần tuý.
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
- Hệ số trang bị TSCĐ cho 1 công nhân trực tiếp sản xuất: Phản ánh giá trị TSCĐ bình quân trang bị cho 1 công nhân trực tiếp sản xuất.
Hệ số trang bị TSCĐ =
- Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp : Phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa giá trị từng nhóm, hoặc TSCĐ trong tổng số TSCĐ của doanh nghiệp ở thời điểm đánh giá. Chỉ tiêu này giúp cho doanh nghiệp đánh giá được mức độ hợp lý trong cơ cấu TSCĐ được doanh nghiệp trang bị.
Qua một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ trên ta thấy rằng: Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ có nghĩa là khai thác triệt để khả năng hiện có của doanh nghiệp, phát huy hết công suất thiết kế máy móc thiết bị, tận dụng tối đa giờ máy… Để từ đó tạo ra được nhiều sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp làm cho kết quả thu được trên 1 đồng chi phí về TSCĐ(VCĐ) ngày càng cao.
2.3.2- Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ trong các doanh nghiệp có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau:
- Tốc độ luân chuyển VLĐ: Chỉ tiêu này cho biết tốc độ luân chuyển VLĐ trong kỳ nhanh hay chậm. Nó biểu hiện ở việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm VLĐ. VLĐ luân chuyển càng nhanh thì hiệu suất sử dụng VLĐ của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
Tốc độ luân chuyển VLĐ được đo bằng 2 chỉ tiêu là số lần luân chuyển (số vòng quay vốn) và kỳ luân chuyển vốn (số ngày của 1 vòng quay vốn).
+ Số lần luân chuyển VLĐ: Phản ánh số vốn được thực hiện trong một thời kỳ nhất định, thường tính là một năm. Ký hiệu là (L)
L =
+ Kỳ luân chuyển VLĐ: Phản ánh số ngày để thực hiện 1 vòng quay VLĐ. Ký hiệu là (K)
K =
Vòng quay vốn nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng được rút ngắn và chứng tỏ VLĐ càng được sử dụng có hiệu quả.
- Mức tiết kiệm VLĐ do tăng tốc độ luân chuyển: Được biểu hiện bằng 2 chỉ tiêu là mức tiết kiệm tuyệt đối và mức tiết kiệm tương đốí.
+ Mức tiết kiệm tuyệt đối: Với mức luân chuyển vốn không đổi song do tăng tốc độ luân chuyển nếu doanh nghiệp cần số vốn ít hơn.
Vtktđ =
Vtktđ: Vốn lưu động tiết kiệm tuyệt đối.
VLĐ1, VLĐ0: Là VLĐ bình quân kỳ báo cáo và kỳ kế hoạch
M0, M1: Tổng mức luân chuyển kỳ báo cáo và kỳ kế hoạch.
K1, K0: Kỳ luân chuyển VLĐ kỳ kế hoạch, và kỳ báo cáo.
+ Mức tiết kiệm tương đối: Là do tốc độ luân chuyển vốn nên doanh nghiệp có thể tăng thêm tổng mức luân chuyển vốn song không cần tăng thêm hoặc tăng không đáng kể về quy mô VLĐ.
VTKtgđ =
- Hiệu quả sử dụng VLĐ: Phản ánh 1 đồng VLĐ có thể làm ra được bao nhiêu đồng DT hoặc DTr
Hiệu quả sử dụng VLĐ =
- Hàm lượng VLĐ (mức đảm nhiệm VLĐ). Là số VLĐ cần có để đạt được 1 đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ.
Hàm lượng VLĐ =
- Tỷ suất lợi nhuận VLĐ (mức doanh lợi VLĐ): Phản ánh một đồng VLĐ trong kỳ có thể tạo ra b._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH344.DOC