Các biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần hóa chất và vật tư khoa học kỹ thuật CEMACO

Tài liệu Các biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần hóa chất và vật tư khoa học kỹ thuật CEMACO: ... Ebook Các biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần hóa chất và vật tư khoa học kỹ thuật CEMACO

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần hóa chất và vật tư khoa học kỹ thuật CEMACO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tr­êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n khoa khoa häc qu¶n lý š&› Chuyªn ®Ò thùc tËp §Ò tµi: CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ VỐN KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN HOÁ CHẤT VÀ VẬT TƯ KHOA HỌC KỸ THUẬT CEMACO Gi¸o viªn h­íng dÉn : PGS.TS. Phan Kim ChiÕn Sinh viªn thùc hiÖn : Kh­¬ng Xu©n Lîi Líp : QLKT 46A Kho¸ : 46 Hµ Néi, 5 - 2008 Lời nói đầu Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang chuyển mình mạnh mẽ sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong quá trình chuyển đổi này đã có những ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển của nền kinh tế nước nhà nói chung và hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng. Cùng với sự hội nhập toàn cầu hóa, trong cơ chế mở của thị trường các doanh nghiệp đều được tự do cạnh tranh và bình đẳng trong môi trường pháp lý. Nó đặt ra cho mỗi doanh nghiệp những cơ hội và thách thức lớn trong quá trình hình thành và tạo thế đứng vững chắc trong nền kinh tế thị trường. Công ty cổ phần hóa chất và vật tư khoa học kỹ thuật được thành lập trong xu hướng phát triển chung của toàn xã hội. Cổ phần hóa trong công ty đã tạo ra tính hiệu quả và sức cạnh tranh cao cho công ty trong nền kinh tế thị trường, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động, sáng tạo, với quá trình hoạt động thu được lợi nhuận tối đa, tăng cổ tức, đảm bảo lợi ích của các cổ đông, góp phần vào mục tiêu kinh tế xã hội và định hướng phát triển của công ty. Cổ phần hóa đã làm cho việc huy động, giám sát, sử dụng nguồn vốn của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước phục vụ vào hoạt động sản xuât, kinh doanh, dịch vụ ngành hàng hóa chất vật tư khoa học kỹ thuật có hiệu quả cao. Để đạt được những yêu cầu đặt ra các doanh nghiệp phải giải quyết một vấn đề rất quan trọng đó chính là: Làm sao để quản lý vốn tốt và sử dụng vốn có hiệu quả nhất. Trong quá trình thực tập tại công ty cổ phần hóa chất và vật tư khoa học kỹ thuật, tôi đã tìm hiểu tình hình sản xuất kinh doanh, qua những hoạt động cụ thể của công ty, kết hợp với kiến thức trên nghế nhà trường đã đúc rút cho tôi được rất nhiều kinh nghiệm quý báu trong khi tôi thực tập tốt nghiệp tại công ty và cho bản thân sau này. Với mong muốn được đóng góp kiến thức của mình vào sự phát triển chung của toàn công ty, được sự giúp đỡ rất tận tình của thầy giáo hướng dẫn: PGS.TS Phan Kim Chiến và các cô chú, anh chị, trong phòng ban kế toán tài chính và phòng kinh doanh. Tôi đã hoàn thành đợt thực tập và tôi đã chọn được đề tài mang tên: “Các biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn kinh doanh tại công ty cổ phần hóa chất và vật tư khoa học kỹ thuật CEMACO” Kết cấu của chuyên đề gồm: Phần mở đầu Phần nội dung được chia thành: Chương I: Lý luận chung về hiệu quả quản lý vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Chương II:Thực trạng quản lý vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại công ty CEMACO. Chương III: Tổng kết công tác hoạt động của công ty trong năm 2007 phương hướng nhiệm vụ công tác trong năm 2008 và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vốn tại công ty. Phần kết luận. Tài liệu tham khảo. Tuy nhiên do thời gian và kinh nghiệm còn hạn chế nên chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu xót, tôi rất mong sự đóng góp của thầy giáo hướng dẫn và các cô chú, anh chị trong công ty để chuyên đề của tôi được hoàn thiện hơn. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn: PGS.TS.Phan Kim Chiến, ban lãnh đạo công ty các cô chú, anh chị, trong phòng tài chính kế toán và phòng kinh doanh của công ty đã giúp đỡ tận tình để tôi hoàn thành tốt đợt thực tập. Tôi xin chân thành cảm ơn! Chương I: Lý luận chung về hiệu quả quản lý vốn kinh doanh của doanh nghiệp I.Tổng quan về hiệu quả và hiệu quả kinh tế 1. Khái niệm và ý nghĩa của hiệu quả 1.1. Khái niệm Hiệu quả là thuật ngữ chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định. Nếu ký hiệu: K: là kết quả nhận được theo hướng mục tiêu đo bằng các đơn vị khác nhau C: là chi phí bỏ ra được đo bằng các đơn vị khác nhau E: là hiệu quả Ta có công thức hiệu quả chung là: E =K-C (1) Hiệu quả tuyệt đối E= K/C (2) Hiệu quả tương đối Một cách chung nhất, kết quả (K) mà chủ thể nhận được theo hướng múc tiêu trong hoạt động của minh càng lớn hơn chi phí (C) bỏ ra bao nhiêu thì càng có lợi bấy nhiêu. 1.2. Ý nghĩa Hiệu quả là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá và lựa chọn các phương án hành động. 1.3. Các khái niệm hiệu quả Hiệu quả được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau vì vậy hình thành nhiều khái niệm khác nhau. Hiệu quả tổng hợp: Là hiệu quả chung phản ánh kết quả thực hiện mọi mục tiêu mà chủ thể đặt ra trong một giai đoạn nhất định trong quan hệ với chi phí để có được những kết quả đó. Hiệu quả tổng hợp bao gồm: Hiệu qủa kinh tế: Là hiệu quả nếu chỉ xét vể khía cạnh kinh tế của vấn đề, là một nội dung đặc biệt của hiệu quả tổng hợp có ý nghĩa quyết định trong hoạt động kinh tế của các chủ thể khác nhau. Hiệu quả kinh tế mô tẩ mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà chủ thể nhận được lợi ích kinh tế đó. Biểu hiện của lợi ích và chi phí khinh tế phụ thuộc vào chủ thể và muc tiêu mà chủ thể đặt ra. Đối với chủ thể doanh nghiệp, đó có thể là doanh thu bán hàng và những chi phi gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp để có được doanh thu bán hàng đó. Đối với nhà nước, lợi ích kinh tế không chỉ bó hẹp trong một doanh nghiệp mà được xem xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế Hiệu quả chính trị xã hội: Là hiệu quả mà chủ thể nhận được trong việc thực hiện các mục tiệ kinh tế xã hội. Chẳng hạn, giải quyết công ăn việc làm, công bằng xã hội, môi trường Hiệu quả trực tiếp: Là hiệu quả được xem xét trong phạm vi chỉ một dự án, mỗi doanh nghiệp (một đối tượng). Hiệu quả gián tiếp là hiệu quả mà một đối tượng nào đó tạo ra cho một đối tượng khác: Việc xây dựng một dự án này có thể kéo theo việc xây dựng hàng loạt dự án khác – Hiệu quả của dự án đang xem xét là hiệu quả trực tiếp còn hiệu quả các dự án khác là hiệu quả gián tiếp. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối: là hai hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa kết quả chi phí. Trong đó, hiệu quả tuyệt đối được đo bằng hiệu số giữa kết quả chi phí, còn hiệu quả tương đối được đo bằng tỉ số giữa kết quả và chi phí. Lợi nhuận ròng hàng năm được xem như là hình thức của hiệu quả tuyệt đối, tỉ suất lợi nhuận là hình thức của hiệu quả tương đối. 1.4. Hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân Xét theo góc độ chủ thể nhận được kết quả (lợi ích) và bỏ chi phí để có được kết quả đó, có khái niệm hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân. Hiệu quả tài chính Hiệu quả tài chính còn được gọi là hiệu quả sản xuất – kinh doanh hay hiệu quả doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế xét trong phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu quả tài chính phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi ích kinh tế. Hiệu quả tài chính là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp, những nhà đầu tư. Hiệu quả tài chính chỉ liên quan đến thu, chi có liên quan trực tiếp. Hiệu quả kinh tế quốc dân Hiệu quả kinh tế quốc dân còn được gọi là hiệu quả kinh tế xã hội là hiệu quả tổng hợp được xem xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Chủ thể được hưởng hiệu quả kinh tế quốc dân là toàn bộ xã hội mà người đại diện cho nó là nhà nước, vì vậy những lợi ích và chi phí được xem xét trong hiệu quả kinh tế xã hội xuất phát từ quan điểm toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế quốc dân là hiệu quả kinh tế xét theo quan điểm toàn bộ nền kinh tế. Quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân Hiệu quả tài chính là mối quan hệ của các doanh nghiệp hoặc của những nhà đầu tư. Hiệu quả kinh tế quốc dân là mối quan tâm của toàn xã hội mà đại diện là nhà nước. Hiệu quả tài chính được xem xét theo quan điểm của doanh nghiệp, còn hiệu quả kinh tế quốc dân được xem xét theo quan điểm của toàn xã hội. Hiệu quả tài chính xét theo quan điểm bộ phận, còn hiệu quả kinh tế quốc dân xét theo quan điểm toàn thể. Quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân là quan hệ giữa lợi ích bộ phận và lợi ích tổng thể, giữa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội. Đó là mối quan hệ thống nhất có mâu thuẫn. 1.5. Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài Căn cứ vào lợi ích nhận được trong khoảng thời gian dài hay ngắn hình thành khái niệm hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài. Hiệu quả trước mắt là hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian ngắn. Lợi ích được xem xét trong loại hiệu quả này là lợi ích trước mắt, mang tính tạm thời. Việc nhập những thiết bị cũ, công nghệ kém tiên tiến, rẻ tiển có thể mạng lại hiệu quả trước mắt nhưng về lâu dài không hẳn là như vậy. Hiệu quả lâu dài là hiệu quả được xem xét trong thời gian dài. Việc bỏ tiền mua bảo hiểm có thể lợi ích trước mắt bị vi phạm nhưng nó tạo ra một thế ổn định lâu dài, nó cho phép san bớt những rủi ra cho các nhà bảo hiểm. 2.Tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp hay nền kinh tế quốc dân được đánh giá thông qua một hoặc một số chỉ tiêu hiệu quả nhất định. Về phần mình, những chỉ tiêu hiệu quả này phụ thuộc chặt chẽ vào mục tiêu hoạt động của mỗi cấp (mục tiêu của chủ thể hiệu quả). Bởi vậy, phân tích hiệu quả của các phương án cần xác định rõ chiến lược phát triển cũng như mục tiêu của mỗi chủ thể trong từng giai đoạn phát triển. 2.1. Tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả tài chính là lợi nhuận cao nhất và ổn định Trong hoạt động của mình, chủ doanh nghiệp thường đặt ra những mục tiêu sau đây: Thu lợi nhuận cao nhất. Theo mục tiêu này lợi nhuận được coi là tiêu chuẩn để thiết lập các chỉ tiêu hiệu quả. Chi phí nhỏ nhất. Theo mục tiêu này tiêu chuẩn hiệu quả là chi phí nhỏ nhất. Chiếm lĩnh thị trường hoặc đạt được lượng hoàng hóa bán ra lớn nhất. Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp, tránh bị phá sản. Đạt sự ổn định nội bộ. Đạt được mức độ nào đó về lợi nhuận… Tại một thời điểm nhất định, một doanh nghiệp có thể có một hay nhiều mục tiêu. Các nục tiêu này thay đổi theo thời gian, cùng với sự thay đổi mục tiêu là sự thay đổi trong quan niệm hiêu quả. Các mục tiêu trên có thể quy tụ thành mục tiêu cơ bản, quyết định hoạt động của doanh nghiệp là lợi nhuận và sự ổn định. Với mục tiêu này tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả tài chình là lợi nhuận ổn định. Mục tiêu lợi nhuận tối đa thường gắn liền với rủi ro tối đa và mạo hiểm tối đa. Kinh doanh gắn liền với mạo hiểm nhưng không có nghĩa là liều lĩnh. Người biết kinh doanh là người biết hạn chế bớt những rủi ro có thể gặp phải. Điều đó cũng có nghĩa một phương án hành động có thể mang lại lợi nhuận lớn nhât nhưng trong điều kiện rủi ro lớn nhất, và phương án khác có lợi nhuận ít hơn nhưng những rủi ro không có hoặc ít hơn thì phương án có ít lợi nhuận và ổn định hơn là phương án có hiệu quả cao hơn theo nghĩa kết hợp giữa lợi nhuận tối đa và sự an toàn, ổn định của doanh nghiệp. Phân tích hiệu quả doanh nghiệp không thể tách rời phân tích rủi ro, đặc biệt trong điều kiện kinh doanh hiện nay, có nhiều nhân tố dẫn đến biến động lớn. Chiếm lĩnh thị trường hoặc đạt được lườn hàng hóa bán ra lớn nhất suy cho cùng là để đạt mục đích lợi nhuận. Không có thị trường, hàng không bán được, quá trình sản xuất sẽ ách tắc không thể có lợi nhuận. Chiếm lĩnh thị trường và đạt lợi nhuận có liên quan chặt chẽ với nhau gần như tỷ lệ thuận. Những mục tiêu khác trong hoạt động doanh nghiệp mà doanh nghiệp quan tâm có liên quan đến lợi nhuận. Vì vậy, lợi nhuận ổn định là mục tiêu bao chùm nhất, tổng quát nhất. Cho đến nay, các tác giả đều nhất trí dùng lợi nhuận làm tiêu chuẩn cơ bản để phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh. 2.2. Tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả kinh tế quốc dân là giá trị gia tăng quốc gia Trong hoạt động kinh tế của mình, xã hội thường đặt ra những mục tiêu sau đây: Tăng thu nhập quốc dân. Tạo công ăn việc làm. Công bằng xã hội. Bảo vệ môi sinh. Bảo đảm chủ quyền đất nước… Như vậy, quá trình phát triển kinh tế là một quá trình đa mục tiêu: Kinh tế, chính trị, xã hội và sinh thái. Các mục tiêu này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ qua lại đó rất phức tạp, nhiều khi có mâu thuẫn. Bản chất của chúng khác nhau theo từng nước, theo từng thời điểm. Nét đặc chưng của những mục tiêu này là tình động, tính hài hòa, tính xung khắc và tính bổ xung lẫn nhau. Những mục tiêu này thường được thể hiện rõ ràng trong kế hoạch phát triển kinh tế đất nước hoặc dưới dạng khác của các văn bản chính thức của Nhà nước về đường lối phát triển. Các mục tiêu quốc gia (xã hội) được thực hiện thông qua từng doanh nghiệp, từng ngành, từng địa phường cụ thể. Nền kinh tế quốc dân là một hệ thồng, các doanh nghiệp, các ngành, các địa phương là những phần tử, những phân hệ tạo thành hệ thống kinh tế quốc dân. Mục tiêu của doanh nghiệp là mục tiêu bộ phận, mục tiêu quốc gia là mục tiêu toàn thể. Mục tiêu quốc gia xét ở cấp doanh nghiệp người ta thường gọi là mục tiêu xã hội, thực ra mục tiêu này không hoàn toàn mang tính chất xã hội mà quan trọng và chủ yếu mang tính chất kinh tế được xem xét là những đóng góp của doanh nghiệp và việc thực hiện các mục tiêu mà xã hội đặt ra. Sự đóng góp của doanh nghiệp và việc thực hiện các mục tiêu xã hội hình thành khái niệm hiệu quả kinh tế xã hội, hiệu quả kinh tế quốc dân. Như vậy, cùng, cùng một phương án hoạt động của doanh nghiệp, được xem xét theo hai cấp hiệu quả khác nhau. Hiệu quả tài chính trong đó chủ thể là doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế quốc dân trong đó chủ thể là xã hội mà đại diện là Nhà nước. Đối với doanh nghiệp hay chủ đầu tư, lợi nhuận cao và ổn định là tiêu chuẩn cơ bản, là mục tiêu bao chùm, nhưng đối với xã hội, lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được chưa phản ánh đầy đủ lợi ích của nó. Trước hết, lợi nhuận chỉ bao hàm một phần giá trị mới sáng tạo ra trong doanh nghiêpk mà xã hội thì quan tâm đến toàn bộ giá trị đó. Giá trị mới sáng tạo ra trong doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị thặng dư xã hội và tiền lương. Phần giá trị này được gọi là giá trị gia tăng. Giá trị gia tăng là biểu hiện thu nhập quốc dân trong doanh nghiệp. Thông qua giá trị gia tăng để đánh giá sự đóng góp của doanh nghiệp và việc thực hiện mục tiêu tăng thu nhập quốc dân của toàn xã hội. Sau nữa, lợi nhuận được xem như là chỉ tiêu hiệu quả trực tiếp; còn xã hội không chỉ quan tâm đến hiệu quả trực tiếp mà còn quan tâm đến hiệu quả gián tiếp do doanh nghiệp tạo ra. Những vẫn đề về môi trường, phân phối thu nhập, công ăn viêc làm...Không được phân tích khi xác định hiệu quả tài chính, chúng lại rất quan trọng khi phân tích hiệu quả kinh tế quốc dân. Mục tiêu chiến lược có tính chất nền tảng của đường lối phát triển quốc gia của bất kỳ nước nào là nâng cao mức sống hiện tại của nhân dân và cấp vốn đầu tư nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thông qua đó tăng tiêu dùng trong tương lai. Thu nhập quốc dân là nguồn duy nhất để tăng cả tiêu dùng và tích lũy (tiêu dùng tương lai). Đó là hình thức đo định lượng cơ bản của trình độ và tốc độ tăng phuc lợi quốc dân. Mức thu nhập quốc dân được coi là biểu trung cho phúc lợi xã hội, nó phản ánh cả nguồn lực của đất nước và mức độ thỏa mãn các nhu cầu và nguyện vọng cơ bản của nhân dân. Do vậy, mục tiêu cơ bản cuối cùng của các hoạt động kinh tế trong một quốc gia chính là đóng góp càng nhiều càng tốt vào thu nhập quốc dân. Vì vậy, tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động doanh nghiệp là giá trị gia tăng. Giá trị gia tăng bao gồm hai bộ phận chính: Lương và các khoản thặng dư xã hội. Theo quan điểm của doanh nghiệp, lương là đầu vào, là chi phí, nhưng theo quan điểm xã hội, lương là một bộ phận của thu nhập quốc dân. Lương càng nhiều (càng bố trí được nhiều việc làm) thu nhập lao động của người càng cao. Lương càng cao (so với hàng hóa cần thiết) có nghĩa là sức mua của người dân càng cao, nói cách khác, phúc lợi quốc dân càng cao. Thặng dư xã hội là phần giá trị gia tăng được phân phối thông qua các kênh các kênh khác nhau của cơ chế phân phối quốc gia. Thuế đưa vào kho bạc nhà nước; lợi nhuận thuần túy để lại cho doanh nghiệp; lãi vay vốn trả cho các cơ quan và tổ chức tài chính. Thông qua cả một mạng lưới của quá trình phân phối và phân phối lại phức tạp, một bộ phận của thặng dư xã hội được sử dụng cho tiêu dùng cá nhân và xã hội. Về nguyên tắc, giá trị gia tăng là biểu hiện của phúc lợi quốc gia, nhưng trong thực tiễn có thể hoặc đang xảy ra là một doanh nghiệp tạo ra một lượng giá trị gia tăng đáng kể, nhưng phần lớn giá trị gia tăng đó được chuyển ra nước ngoài như: Tiền lương trả cho người lao động nước ngoài, lãi vay của các tổ chức tài chính quốc tế, lợi tức cổ phần của các cổ đông nước ngoài ... Trong trường hợp này, giá trị gia tăng được tạo ra không còn là thước đo về sự đóng góp của doanh nghiệp vào phúc lợi quốc gia. Để khắc phụ hiện tượng này, người ta đưa ra khái niệm giá trị gia tăng quốc gia. Giá trị gia tăng quốc gia là phần còn lại của giá trị gia tăng sẵn có sau khi trừ đi các khoản chuyể ra nước ngoài. Giá trị gia tăng quốc gia phản ánh phúc lợi quốc gia. Đây chính là giá trị mới được tạo ra để tích lũy và tiêu dùng trong nước. Giá trị gia tăng quốc gia là tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả kinh tế xã hội. Giữa giá trị gia tăng quốc gia và lợi nhuận có quan hệ chặt chẽ với nhau. Lợi nhuận là một bộ phậ của giá trị gia tăng quốc gia, là mục tiêu, động lực doanh nghiệp. Giá trị gia tăng ngoài lợi nhuận còn tiền lương, lợi tức, lãi vay và thuế. Lợi nhuận của doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng của giá trị thặng dư xã hội mà còn chịu ảnh hưởng của chính sách phân phối của nhà nước. Nhà nước có thể giảm lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua việc đánh thếu cao và ngược lại. Giá trị gia tăng quốc gia chỉ chịu ảnh hưởng của bản thân giá trị thặng dư và tiền lương. Một phương án nào đó có thể có ưu thế rất lớn theo tiêu chuẩn giá trị gia tăng, nhưng lại không có ưu thế theo tiêu chuẩn lợi nhuận. Trong tình huống này, doanh nghiệp cần một khoản trợ cấp. Trên thực tế cho thấy, nếu là lãi hoặc lỗ đối với một bộ phận của nền kinh tế - tức là đối với một doanh nghiệp thì không nên đồng nhất đối vơi lãi với lãi của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Phân tích hiệu quả kinh tế quốc dân giải quyết vấn đề lỗ, lãi của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Phân tích hai loại hiệu quả này giúp cho chủ doanh nghiệp và Nhà nước thấy được lợi ích của mình để có sự kết hợp lợi ích cho thỏa đáng, tạo ra động lực phát triển của nền kinh tế nói chung. Trong phân tích và lựa chọn phương án hoạt động của doanh nghiệp không được xem nhẹ một loại hiệu quả nào, dù đó là hiệu quả tài chính hay hiệu quả kinh tế quốc dân. Trong thực tiễn những năm qua, hiệu quả chưa được chú ý một cách đầy đủ trong phân tích và lựa chọn dự án, đặc biệt là hiệu quả kinh tế quốc dân. Dù doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức nào thì phân tích hiệu quả các phương án hoạt động của nó đều phải xem xét theo góc độ hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân. Là doanh nghiệp nhà nước, điều đó không có nghĩa không cần phân tích hiệu quả tài chính, mà nó cũng cần thiết như phân tích hiệu quả kinh tế quốc dân. Có như vậy mới tránh khỏi tình trạng thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nước và củng cố chế độ hạch toán kinh tế của nó. Đối với doanh nghiệp tư nhân, Phân tích hiệu quả tài chính được chủ doanh nghiệp đặc biệt quan tâm trong phương án hoạt động. Điều đó không có nghĩa, hiệu quả kinh tế quốc dân không được xem xét tới, mà trái lại , các cơ quan nhà nước phải phân tích hiệu quả kinh tế quốc dân của nó để những lợi ích của xã hội không bị vi phạm và lợi ích của cá nhân không bị thiệt thòi. 2.3.Nguyên tắc xác định hiệu quả Để đánh giá chính xác hiệu quả của một phương án nào đó cần tuân thủ các nguyên tắc sau: 2.3.1. Nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả Theo nguyên tắc này, tiêu chuẩn hiệu quả được định ra trên cơ sở mục tiêu. Mục tiêu khác nhau, tiêu chuẩn hiệu quả khác nhau, mục tiêu thay đổi, tiêu chuẩn hiệu quả thay đổi. Tiêu chuẩn hiệu quả được xem như là thước đo để thực hiện các mục tiêu. Phân tích hiệu quả của một phương án nào đó luôn luôn dựa trên phân tích mục tiêu. Phương án có hiệu quả cao nhất khi nó đóng góp nhiều nhất cho việc thực hiện các mục tiêu đặt ra với chi phí thấp nhất. 2.3.2. Nguyên tắc về sự thống nhất lợi ích Theo nguyên tắc, một phương án được xem là có hiệu quả khi nó kết hợp trong đó các loại lợi ích. Bao gồm lợi ích của chủ doanh nghiệp và lợi ích của xã hội, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội. Về lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của xã hội được xem xét trong phân tích hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân. Theo nguyên tắc “lợi ích”, hiệu quả tài chính không thể thay thế cho hiệu quả kinh tế quốc dân và ngược lại trong việc giải quyết định cho ra đời một phương án hành động của doanh nghiệp. Về lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài: Không thể hy sinh lợi ích lâu dài để lấy lợi ích trước mắt. Kết hợp đúng đắn giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài là phương án được coi là có hiệu quả. Trong quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích lâu dài là cơ bản. Về kết hợp lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội cũng như lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần: Việc phân tích hiệu quả kinh tế các phương án cần đặt trong mối quan hệ với phân tích các lợi ích khác mà phương án mang lại. Bất kỳ một sự hy sinh lợi ích nào đều giảm hiệu quả chung của phương án đó. Trong đại bộ phận các trường hợp, lợi ích xã hội đóng vai trò quyết định. 2.3.3. Nguyên tắc về tình chính xác, tính khoa học Để đánh giá hiệu quả các phương án cần phải dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu có thể lượng hóa được và không lượng hóa được, tức là phải kết hợp phân tích định lượng hiệu quả với phân tích định tính. Không thể thay thế phân tích định lượng bằng phân tích định tính khi phân tích định lượng chưa đủ đảm bảo tính chính xác, chưa cho phép phản ánh được mọi lợi ích cũng như mọi chi phí mà chủ thể quan tâm. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi những căn cứ tính toán hiệu quả phải được xác định chính xác, tránh chủ quan tùy tiện. 2.3.4.Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế Theo nguyên tắc này, những phương pháp tính toán hiệu quả và hiệu quả kinh tế phải được dựa trên cơ sở các số liệu thông tin thực tế, đơn giản và dễ hiểu. Không nên sử dụng những phương pháp quá phức tạp khi chưa có đầy đủ các thông tin cần thiết hoặc những thông tin không đảm bảo độ chính xác. 3.Các định mức hiệu quả kinh tế 3.1. Khái niệm Các định mức hiệu quả kinh tế là biểu thị bằng số của giới hạn có thể chấp nhận được của chủ thể hiệu quả (thời gian hoàn vốn tối thiểu có thể chấp nhận được) hoặc là số đo định lượng về giá trị mà chủ thể hiệu quả ấn định cho các nhân tố chủ yếu nhất mà chúng có quan hệ trực tiếp trong khi đánh giá và lựa chọn phương án (tỷ suất chiết khấu, tỷ giá hối đoái...). Các định mức hiệu quả được các chủ thể hiệu quả lập ra nhằm phân tích và đánh giá phương án theo quan điểm của mình. Những phương án được coi là đáng giá khi chúng thỏa mãn tiêu chuẩn hiệu quả trên cơ sở sử dụng các định mức hiệu quả mà chủ thể đã định ra. 3.2. Một số định mức hiệu quả Phương pháp luận về hiệu quả và hiệu quả kinh tế đòi hỏi phải xác định rõ, chính xác các định mức hiệu quả theo quan điểm của các chủ thể khác nhau. Phần này trình bày quan điểm xem xét một số định mức hiệu quả quốc gia. Hệ số hiệu quả định mức quốc gia. Để đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội, các nhà hoạch định chính xác phải lập ra hệ số hiệu quả này. Hệ số hiệu quả định mức quốc gia trong những trường hợp cụ thể còn được gọi là suất thu lợi quốc gia, tỷ suất chiết khấu xã hội. Hệ số hiệu quả quốc gia ( Iam) là mức hạn định của Nhà nước về hệ số hiệu quả. Nó được xem như là mức lãi suất mà Nhà nước dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế vốn đầu tư của mình. Hệ số hiệu quả quốc gia như là một công cụ để xem xét và đánh giá hiệu quả kinh tế trong việc sử dụng vốn của nhà nước. Chức năng kinh tế chủ yếu của hệ số hiệu quả quốc gia là hỗ trợ cho việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư của nhà nước vào các mục tiêu chủ yếu của xã hội. Nếu hệ số này được xác định quá thấp sẽ làm cho nhu cầu vốn đầu tư của Nhà nước vượt quá khả năng cung cấp vì rất nhiều những phương án đạt hiệu quả kinh tế, ngược lại hệ số này xác định quá cao làm cho rất nhiều phương án đạt được mức hiệu quả cần thiểt. Các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp sẽ xác định cho mình một hệ sô hiệu quả thích hợp để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của mình. Hệ số hiệu quả xét theo quan điểm của các nhà đầu tư được gọi là lãi suất tính toán tối thiểu hoặc suất thu lợi tối thiểu. Suất thu lợi tối thiểu của các nhà đầu tư phụ thuộc vào quan điểm của họ, nó sẽ khác nhau giữa các nhà đầu tư khác nhau, tuy rằng họ cùng hoạt động trong một ngành kinh doanh. Còn hệ sô hiệu quả xã hội sẽ được xác định như thế nào cho các doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau. Vấn đề này có nhiều quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng nhà nước nên áp dụng thống nhất một hệ số chung cho toàng bộ nền kinh tế quốc dân. (Hệ số đó hoặc là Iam = 0,20 hoặc Iam = 0,166). Lập luận của những người theo quan điểm này là bất kỳ một đống vốn nào bỏ ra đều có giá trị như nhau không kể bỏ vào một ngành cụ thể nào cho nên đều phải cân nhắc trên quan điểm hiệu quả nền kinh tế quốc dân. Cơ sở để có quan điểm này là sự phát triển khá cao của nên kinh tế kỹ thuật trong nước mà nhờ đó đã san bằng về cơ bản các khoảng cách giữa các ngành và các vùng kinh tế trong nước. Nền kinh tế đã được khai thác tốt về chiều rộng và đang chuyển sang khai thác chủ yếu về chiều sâu. Quan điểm thứ hai bao gồm nhiều nước (chủ yếu là các nước XHCN) cho rằng cần có các hệ số hiệu quả quốc gia khác nhau cho các nhóm ngành kinh tế khác nhau. Chẳng hạn trong phương pháp mẫu đãnh giá hiệu quả kinh tế vốn đầu tư cơ bản của Liên Xô (cũ) ban hành lần thứ hai ngày 16/6/1979 đã quy định hệ số hiệu quả quốc gia như sau: Tính chung cho toàn nên kinh tế quốc dân: Iam = 0,14 Trong công nghiệp : Iam = 0,16 Trong nông nghiệp : Iam = 0,07 Trong giao thông bưu điện : Iam = 0,05 Trong xây dựng cơ bản : Iam = 0,22 Trong thương nghiệp chế biến cung ứng Vật tư kỹ thuật và trong các ngành khác : Iam = 0,25 Cơ sở lập luận của các nước theo quan điểm thứ hai là trong điều kiện cón tồn tại sự chênh lệch lớn về sự phát triển giữa các ngành kinh tế, giữa các lãnh thổ trong nước thì không thể áp dụng thống nhất một hệ số hiệu quả quốc gia, bởi vì các vùng kém phát triển không bao giờ được chọn để bỏ vốn đầu tư vì hiệu quả là thấp kém, chẳng hạn các vùng nông thôn, miền núi, hẻo lánh, hải đảo, … Luôn luôn bị gạt bỏ khi đêm so sánh hiệu quả vốn đầu tư. Quan điểm thứ ba: Thực chất là kết hợp giữa quan điểm thứ nhất và quan điể thứ hai. Theo quan điểm này, hệ số hiệu quả quốc gia nên được tính toán thống nhất cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân nhằm mục đích nâng cao hiệu quả đồng vốn của nhà nước, đồng thời trong một số ngành hoặc khu vực đặc biệt phù hợp với đường lối phát triển kinh tế trong mỗi thời kỳ, nên áp dụng một hệ số mang tính chất khuyến khích. Hệ số này bằng hệ số hiệu quả chung trừ đi một mức độ khuyến khích nào đó. Cơ sở của lập luận này là sự kết hợp giứa phát triển kinh tế và chính sách xã hội của nhà nước. Các chuyện gia về lĩnh vực lập và đánh giá dự án thiên về quan điểm thứ ba này. Các định mức hiệu quả khác Việc tính toán hiệu quả của một phương án nào đo chịu ảnh hưởng của rất nhiều thông số khác ngoài hệ sô hiệu quả định mức (Iam) như đã xem xét ở trên. Có thể kể đến những nhóm thông số đó là: Hệ số định mức kinh tế - kỹ thuật: Chừng nào hệ thống này chưa được nhà nước ban bạn hành chính thức, thống nhất, khoa học, hợp lý, tiên tiến trong phạm vi toàn quốc thì chừng đó chưa có đủ tiền đề tối thiểu để đánh giá hiệu quả của một phương án này hay phương án khác. Muốn có hiệu quả, người xây dựng dự án chỉ cần tăng hoặc giảm các định mức kinh tế kỹ thuật là đủ, nhà nước không có cơ sở kiểm tra. Hệ thống định mứcc kinh tê – kỹ thuật được nhà nước quan tâm, đặc biệt nhà nước XHCN. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, ý nghĩa của hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật trong việc tính toán hiệu quả kinh tế vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt đối với khu vực kinh tế nhà nước. Hệ thống giá cả: Kết quả và chi phí trong tính toán hiệu quả không thể chỉ bằng đơn vị hiện vật mà chủ yếu bằng đơn vị giá trị. Muốn vậy phải thông qua giá cả. Hệ thống giá cả chính xác là nhân tố quyết định trong tính toán hiệu quả kinh tế của các phương án, đặc biệt trong tính toán hiệu quả kinh tế quốc dân nhằm xác định chính xác giá trị xã hội của các dự án đầu tư. Tỷ giá hối đoái: Đây cũng là phạm trù nằm trong hệ thống giá cả nhưng có ỹ nghĩa đặc biệt trong tính toán hiệu quả kinh tế các dự án đầu tư có liên quan đến các hoạt động kinh tê đối ngoại. Giá cả thường được tính toán theo đồng tiền trong nước, nhưng trong hoạt động kinh tế đối ngoại, giá cả được tính toán theo đồng tiền nước ngoài (ngoại tệ). Nhiệm vụ đặt ra là phải quy đổi tiền ngoại tệ thành tiền trong nước và ngược lại. Việc quy đổi này thông qua tỷ giá hối đoái. Thực chất của tỷ giá hối đoái là giá cả của ngoại tệ hoặc đồng tiền trong nước. Tỷ giá hối đoái được dùng trong tính toán hiệu quả kinh tế doanh nghiệp là tỷ giá hối đoái chính thức (theo thị trường) còn trong tính toán hiệu quả kinh tế quốc dân là tỷ giá hối đoái xã hội (giá cả xã hội). Tỷ giá này không chỉ phản ánh tỷ giá thị trường mà còn phản ánh tình hình cán cân thanh toán và chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Tỷ giá hối đoái xã hội với nghĩa là một trong những định mức hiệu quả kinh tế quốc dân là hạn mực tỷ giá hối đoái do Nhà nước đặt ra nhằm tính toán hiệu quả kinh tế quốc dân. Tỷ giá hối đoái xã hội là công cụ quan trọng trong tay nhà nước để thực hiện chính sách kinh tê xã hội trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định tỷ giá hối đoái với nghĩa là định mức hiệu quả kinh tế quốc dân. II.Vốn kinh doanh và vai trò của vốn kinh doanh 1.Vốn và nguồn vốn kinh doanh 1.1.Khái niệm về vốn Vốn là phạm trù kinh tế, là điều kiện tiêm quyết cho bất cứ loại hình nào của doanh nghiệp, ngành nghề kinh tế kỹ thuật nào. Vậy vốn là gì? Có rất nhiều quan điểm khác nhau về vốn, mỗi quan điểm đều có cách tiếp cận riêng. Theo quan điểm của Marx: Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất. Các nhà kinh tế học đại diện cho trường phái kinh tế khác nhau cũng có quan điểm khác nhau về vốn. Theo quan điểm Psammuelson: Vốn là những hàng hóa được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho hoạt động ._.sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Trong cuốn sách”Kinh tế học” của D.Begg tác giả đã đưa ra hai định nghĩa về vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hóa đã sản xuất ra để sản xuất các hàng hóa khác, vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá của doanh nghiệp. Các quan điểm về vốn ở trên tuy thể hiện được vai trò tác dụng trong những điều kiện lịch sử cụ thể với các yêu cầu, mục đích nghiên cứu cụ thể nhưng vẫn bị hạn chế bởi sự đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp. Thực chất vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Vốn là tài sản, là hai mặt giá trị và hiện vật của một bộ phận nguồn lực sản xuất mà doanh nghiệp huy động vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được quan niệm là một lượng tiền nào đó đã được đưa vào sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh hay quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội với tư cách là phương tiện tạo ra giá trị tăng thêm cho cá nhân và xã hội. Khái niệm này không những chỉ ra vốn là yếu tố đầu vào của sản xuất mà còn đề cập đến sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong một quá trình sản xuất riêng biệt, chia cắt mà trong toàn bộ mọi quá trình sản xuất và tái sản xuất lên tục trong xuốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải đòi hỏi có một lượng vốn nhất định nhằm thực hiện các khoản đầu tư cần thiết ban đầu như: Chí phí thành lập doanh nghiệp, chi phí mua nguyên vật liệu, trả tiền công, lãi vay, chi phí tiền thuê mặt bằng sản xuất…Đồng thời đầu tư công nghệ mua sắm máy móc thiệt bị để tái sản xuất mở rộng, phát triển doanh nghiệp. Do vậy vốn đưa vào sản xuất kinh doanh có nhiều hình tái vật chất khác nhau để từ đó tạo ra hàng hóa dịch vụ nhằm tiêu thụ trên thị trường. Số tiền doanh nghiệp thu về sau quá trình tiêu thụ phải bù đắp được các chi phí bỏ ra và có lãi. Khi đó, số tiền vốn ban đầu thu được tăng thêm nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh và có lãi. Quá trình này diễn ra liên tục đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Như vậy vốn là yếu tố có tính chất quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phả quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả để bảo toàn và phát triển vốn đảm bảo cho doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh. Việc nhận thức đầy đủ hơn về vốn cũng như đặc trưng của vốn giúp doanh nghiệp hiểu rõ tầm quan trọng và giá trị của đồng vốn để sử dụng nó một cách hiệu quả. Sau đây là các đặc trưng cơ bản của vốn: Vốn phải được đại diện cho một lượng tài sản nhất định, có nghĩa là vốn phải được biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp. Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Vốn có giá trị về mặt thời gian điều này có ý nghĩa lớn khi bỏ vốn vào đầu tư và tính hiệu quả sản xuất sử dụng của đồng vốn. Vốn phải được gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn vô chủ và không có ai quản lý. Vốn được quan niệm như hàng hóa và là một hàng hóa đặc biệt có thể mua bán quyền sử dụng vốn trên thị trường, tạo lên sự giao lưu sôi động trên thị trường, vốn thị trường tài chính. Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của các tài sản hữu hình mà còn được biểu hiện bằng tiền của những tài sản vô hình. Trong doanh nghiệp vốn là biểu hiện bằng tiền của tất cả các tài sản dùng trong sản xuất kinh doanh. Thông thường,trong các doanh nghiệp có hai loại tài sản: Tài sản lưu động và tài sản cố định. Do đó, kết cấu của tài sản cố định cũng chính là kết cấu của vốn cố định và kết cấu của tài sản lưu động cũng chính là kết cấu của vốn lưu động. Đồng thời quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn cũng chính là quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của doanh nghiệp. 1.2.Nguồn vốn Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Tuy nhiên mỗi loại hình doanh nghiệp cũng chỉ có thể khai thác, huy động vốn trên một số nguồn nhất định. Vì thế người ta có thể căn cứ vào nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp để nhận biết doanh nghiệp đó thuộc loại nào, như doanh nghiệp có vốn kinh doanh chủ yếu thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước thì đó là doanh nghiệp nhà nước, hoặc một số doanh nghiệp khác có vốn kinh doanh từ nguồn vốn kinh doanh tự có hay cổ phần thì đó là doanh nghiệp tư nhân hay một công ty cổ phần. Như vậy qua trên cho ta thấy: Để tiến hành bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng đều phải có một lượng vốn nhất định có sẵn. Khác với thời kỳ bao cấp, trong nền kinh tế thị trường lượng vốn đó không phải là có sẵn mà trong đó các doanh nghiệp phải chủ động khai thác, thu hút vốn trên thị trường tài chính. Mục đích vận động của vốn là để sinh lời. Trong quá trình vận động đồng vốn có thể thay đổI hình thái biểu hiện, nhưng điểm xuất phát và điểm cuốI cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị, là tiền. Vì vậy khi đồng tiền không luân chuyển được, vật tư thiết bị chậm luân chuyển thì chỉ là “vốn chết”. Mặt khác tiền có vận động nhưng lại bị thất tán, không quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn thì đồng vốn bỏ ra không được bảo toàn, chu kỳ vận động tiếp theo sẽ bị ảnh hưởng. 2.Phân loại vốn kinh doanh của doanh nghiệp Để nhận biết được đúng đắn và đầy đủ về những hình thức tồn tại của vốn kinh doanh, người ta phải tiến hành phân loại vốn kinh doanh theo những tiêu thức khác nhau, để từ đó có thể quản lý và khai thác triệt để vốn, cũng như việc phát triển tiềm năng về vốn. 2.1.Phân loại vốn theo nguồn hình thành Theo cách phân loại này thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp gồm có: Nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn vay, các nguồn vốn khác. Nguồn vốn chủ sở hữu: Là nguồn vốn kinh doanh được đầu tư từ các chủ doanh nghiệp. Nguồn vốn này doanh nghiệp hoàn tòan có quyền chủ động sử dụng vào mục đích kinh doanh. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì vốn chủ sở hữu được hình thành từ ngân sách và một phần đựợc trích từ lợi nhuận của doanh nghiệp, công ty cổ phần thì do các cổ đông đóng góp, còn doanh nghiệp tư nhân thì có chủ doanh nghiệp bỏ ra… Nguồn vốn vay: Là vốn mà doanh nghiệp được khai thác trên cơ sở chế độ, chính sách của nhà nước như: Vay ngân hàng, vay của các tổ chức tín dụng…Và phải trả lãi suất theo quy định của ngân hàng hoặc theo thỏa thuận với chủ nợ. Các khoản vốn này các doanh nghiệp tạm thời sử dụng trong thời gian nhất định. Ngoài ra việc phát hành trái phiếu cũng là hình thức vay vốn, cho phép các doanh nghiệp có thể thu hút rộng rãi số tiền nhàn rỗi để mở rộng hoạt động kinh doanh sản xuất của minh. Các nguồn vốn khác bao gồm các loại vốn được hình thành như: Liên doanh, bán cổ phần… Việc phân loại này giúp cho nhà quản lý biết được khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp, biết được đặc điểm tính chất của từng nguồn vốn. Từ đó để khai thác và huy động vốn cho phù hợp. 2.2.Phân loại theo đặc điểm chu chuyển 2.2.1.Vốn cố định a.Khái niệm và đặc điểm của vốn cố định. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của vốn cố định được gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó là tài sản. Vì vậy việc nghiên cứu về vốn cố định trước hết phải dựa trên cơ sở về tài sản cố định. Tài sản cố định: Là những tư liệu lao động có giá trị lớn, được tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình đó, giá trị của tài sản cố định không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử dụng đầu tiên mà nó được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá trị sản phẩm của các chu kỳ sản xuất tiếp theo. Để nhận biết tài sản cố định ta có tiêu chuẩn: Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ tài sản này. Phải xác định rõ ràng nguyên giá của tài sản này. Có thời gian sử dụng một năm trở lên. Phải đạt giá trị tối thiểu ở một mức quy định(Việt Nam là 10 triệu VNĐ). Vậy vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định, mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng. Trong nền sản xuất hàng hóa, để mua sắm, xây dựng tài sản cố định trước hết phải có một số vốn ứng trước, là khoản vốn ứng trước về tài sản cố định, quy mô của vốn cố định sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định. Song đặc điểm vận động của tài sản cố định lại quyết định đến đặc điểm tuần hoàn của chu chuyển vốn cố định. Vốn cố định vận động trong sản xuất kinh doanh đựơc khái quát: Tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, được luân chuyển dần dần từng phần, sau thời gian dài vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển vốn. Qua đó có thể thấy được thời gian chu chuyển vốn cố định rất dài. Vì vậy, doanh nghiệp vừa phải quản lý giá trị tài sản cố định, vừa phải quản lý thời gian sử dụng chúng sao cho hợp lý. Ta thấy một điều rõ rằng tài sản cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, nhìn chung không bị thay đổi về hình thái hiện vật, trong quá trình đó giá trị của tài sản cố định không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử dụng đầu tiên mà nó được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá thành sản phẩm của chu kỳ tiếp theo. Có hiện tượng đó là do quá trình tham gia vào sản xuất tài sản cố định đã bị hao mòn. Có hai loại hao mòn: Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình: Là sự giảm tuyệt đối cả về mặt giá trị của tài sản cố định và giá trị sử dụng do quá trình phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và do sự tác động của yếu tố tự nhiên. Hao mòn vô hình: Là sự giảm tương đối cả về mặt giá trị của tài sản cố định do phát triển khoa học kỹ thuật và sự hoàn thiện đạt được trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Tóm lại, vốn cố định là cơ sở vật chất cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không thể bắt đầu quá trình sản xuất kinh doanh nếu không có đầy đủ trang thiết bị cần thiết. Kết hợp với trình độ, khả năng quản lý, vốn cố định quyết định năng lực sản xuất của doanh nghiệp và góp phần chính trong việc xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Không những nó có ý nghĩa cho quá trình sản xuất hiện tại,vốn cố định còn thể hiện khả năng hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. b.Phân loại vốn cố định Phân loại vốn cố định là việc phân chia toàn bộ tài sản cố định hiện có của doanh nghiệp theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho những yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. b.1.Phân loại tài sản cố định theo hình thái biểu hiện: Có tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình. Tài sản cố định hữu hình là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất cụ thể, có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái giá trị vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị. Tài sản cố định vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trị lớn đã đầu tư có liên quan và phát huy tác dụng trong nhiều kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như: Chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí về phát minh sáng chế, bản quyền tác giả, chi phi sử dụng đất. Ngoài hai loại tài sản cố định trên còn có tài sản cố định vô hình khác như: Quyền doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp, quền, độc quyền. Vì vậy tài sản cố định vô hình có thể tăng lên theo thời gian và cũng có thể mất đi trong chốc lát. Trong nền kinh tế thị trường, do sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường và để nâng cao khả năng cạnh tranh thì các doanh nghiệp phải đầu tư những khoản chi phí lớn cho phần tài sản vô hình, những chi phí này phải quản lý thu hồi dần như những chi phí khác để tái đầu tư tài sản cố định mới. Việc phân loại tài sản cố định theo tiêu thức kể trên sẽ giúp doanh nghiệp thấy được cơ cấu vốn đầu tư vào tài sản cố định theo hình thái biểu hiện. Từ đó có thể đưa ra các quyết định đầu tư, sử dụng tài sản cố định hay điều chỉnh cơ cấu này sao cho phù hợp và có hiệu quả nhất. b.2.Phân loại theo mục đích sử dụng Tài sản cố định sử dụng cho mục đích kinh doanh: Là các tài sản do doanh nghiệp sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau nhưng nhằm mục đích kinh doanh. Tài sản cố định sử dụng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng. Tài sản cố định bảo quản hộ, giữ hộ. Việc phân loại như trên giúp cho doanh nghiệp biết được kết cấu tài sản cố định theo mục đích sử dụng, từ đó có biện pháp quản lý, sử dụng và trích khấu hao thích hợp và có hiệu quả nhất. b.3.Căn cứ vào công dụng kinh tế: Tài sản cố định chia thành các loại sau: Nhà cửa, vật kiến trúc. Máy móc, thiết bị. Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn. Thiết bị dụng cụ quản lý. Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc. b.4.Căn cứ vào tình hình sử dụng. Tài sản cố định đang sử dụng tại doanh nghiệp. Tài sản cố định cho thuê. Tài sản cố định chưa cần dùng. Tài sản cố định không cần dùng chờ nhượng bán, thanh lý. b.5.Căn cứ vào quyền sở hữu Tài sản cố định thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp: Là những tài sản cố định được đầu tư bằng nguồn vốn của doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền sở hữu và sử dụng chúng. Tài sản cố định không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp: Là những tài sản cố định của đơn vị khác nhưng doanh nghiệp được quyền quản lý, sử dụng theo những điều kiện ràng buộc nhất định như: Tài sản cố định nhận của đối tác liên doanh, tài sản cố định thuê ngoài, tài sản cố định nhận giữ hộ,quản lý hộ. Cách phân loại này sẽ giúp cho doanh nghiệp lắm bắt được tình hình và cơ cấu tài sản cố định theo quyền sở hữu, từ đó có thể đưa ra các biện pháp quản lý, sử dụng và trích khấu hao thích hợp. 2.2.2.Vốn lưu động Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, ngoài sức lao động, tư liệu lao động, doanh nghiệp còn cần phải có đối tượng lao động. Đối tượng lao động khác với tư liệu lao động là khi tham gia vào quá trình sản xuất nó không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ thông qua quá trình sản xuất tạo thành thực thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao phí mất đi trong quá trình sản xuất. Đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất do đó toàn bộ giá trị của chúng được dịch chuyển một lần vào sản phẩm và được thực hiện khi sản phẩm đó trở thành hàng hóa. Bất kỳ hoạt động nào cũng cần cố đối tượng lao động và như chúng ta đã biết đối tượng lao động chính là tài sản lưu động trong doanh nghiệp. Từ đặc điểm trên của đối tượng lao động ta có thể rút ra khái niệm về tài sản lưu động. Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh, tính chất ngắn hạn ở đây chúng ta có thể hiểu là tài sản lưu động có thể nhanh chóng chuyển thành tiền trong thời gian ngắn thường là một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Tài sản lưu động có đặc trưng là luôn luôn thay đổi hình thái sử dụng biểu hiện trong quá trình luân chuyển với tốc độ cao. Nó được chia thành hai bộ phận chính: Một là những vật dự trữ để đảm bảo cho quá trình sản xuất liên tục, một bộ phận là vật tư đang trong quá trình chế biến( sản phẩm dở dang, bán thành phẩm…) cùng với các công cụ dụng cụ phụ tùng thay thế được dự trữ hoặc sử dụng, chúng tạo thành tài sản lưu động nằm trong khâu lưu thông, thanh toán đó là vật tư phục vụ quá trình tiêu thụ, các khoản hàng gửi bán, các khoản phải thu. Vậy vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền, là số tiền ứng trước về tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành một cách thường xuyên liên tục. Vốn lưu động được chuyển hóa qua nhiều hình thái vật chất khác nhau và bị chuyển dịch toàn bộ giá trị sản xuất ( trừ phần vốn lưu thông ). Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra không ngừng nên vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng mang tính chu kỳ và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất. Sự vận động của vốn lưu động được thể hiện bằng sơ đồ sau: T – H – SX - … - H … - T … Giai đoạn 1: Doanh nghiệp dùng tiền để mua nguyên vật liệu, công cụ lao động, vật tư hàng hóa, sức lao động để đưa vào quá trình sản xuất, giai đoạn này vốn chuyển từ hình thái tiền tệ sang hình thái hiện vật. Từ hình thái vốn bằng tiền chuyển sang hình thái vốn vật tư dự trữ. Giai đoạn 2: Doanh nghiệp tiến hành đưa các vật tư dự trữ vào sản xuất, giai đoạn này là cả một quá trình kết hợp các yếu tố của sản xuất để tạo ra sản phẩm hoặc bán sản phẩm. Từ vốn vật tư dự trữ chuyển thành vốn sản phẩm dở dang, vốn thành phẩm. Giai đoạn 3: Thành phẩm qua khâu kiểm nghiệm nhận nhập kho, tiêu thụ và thu tiền về. Giai đoạn này vốn lưu động chuyển hóa từ hình thái hiện vật trở về hình thái tiền tệ ban đầu. Trong doanh nghiệp dịch vụ thuần túy với đặc điểm ngành nghề kinh doanh cụ thể, sự vận động của vốn cũng theo trình tự như trên nhưng không đầy đủ như các giai đoạn trên. Nói tóm lại, vốn lưu động là điều kiện tiền đề vật chất không thể thiếu được trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó đảm bảo cho sự thường xuyên liên tục cho quá trình sản xuất kinh doanh từ các khâu mua nguyên vật liệu, tiến hành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong quản lý cần xác định đúng đắn nhu cầu cần thiết của vốn lưu động và nguồn bù đắp, bên cạnh đó phải thu hồi vốn nhanh và bảo toàn nó. Cần tăng nhanh vòng vốn quay, tránh ứ đọng lãng phí vốn vì vốn lưu động chu chuyển tuần hoàn không ngừng. Vốn lưu động còn quyết định sự tồn tại, tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp. Phân loại vốn lưu động Xác định kết cấu vốn lưu động góp phần vào việc sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả vốn lưu động, đảm bảo yêu cầu vốn lưu động cho từng khâu, từng bộ phận từ đó đáp ứng đuợc yêu cầu sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Căn cứ vào sự vận động của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh: Vốn lưu động trong khâu dự trữ: Vốn này để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể tiến hành được thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động trong khâu sản xuất: Nhằm đảm bảo cho việc sản xuất được liên tục. Trong doanh nghiệp thương mại thuần túy thì không có bộ phận vốn ở khâu này. Vốn lưu động trong khâu lưu thông: Bao gồm vốn thành phẩm, vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán…Nhằm đảm bảo cho việc tiêu thụ hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng được thường xuyên. Căn cứ vào hình thái biểu hiện của vốn Vốn hàng hóa: Là vốn về hàng hóa dự trữ ở các khâu và địa điểm của quá trình kinh doanh. Vốn phi hàng hóa: Là số vốn ứng trước về công cụ, dụng cụ, bao bì, vật đóng gói… Vốn trong thanh toán: Là số tiền ứng trước nằm trong quá trình thanh toán do các phương thức thanh toán được áp dụng trong quá trình tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp. Căn cứ vào nguồn hình thành Vốn lưu động khai thác từ nội bộ doanh nghiệp: Bao gồm vốn ban đầu của chủ sở hữu và vốn doanh nghiệp tự bổ sung. Vốn lưu động khai thác từ bên ngoài doanh nghiệp: Bao gồm vốn vay ngắn hạn của ngân hàng, vốn vay dưới hình thức phát hành trái phiếu và các khoản vốn vay của các đối tượng khác. Căn cứ vào nội dung kinh tế Hàng hóa: Là bộ phận tài sản lưu động chiếm tỷ trọng lớn nhất bao gồm hàng hóa dự trữ trong kho, quầy, hàng mua đang đi đường, hàng gửi bán. Vốn bằng tiền: Là tài sảm lưu động tồn tại dưới hình thái giá trị bao gồm tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền tạm ứng. Công cụ lao động: Là những tư liệu lao động không đủ điều kiện xếp vào loại tài sản lưu động. Bao bì, vật đóng gói: Là những bao bì, vật đóng gói mà giá trị của chúng được tính riêng ra khỏI giá trị hàng hóa. Chi phí trả trước: Là những khoản chi phí phát sinh một lần tương đối lớn nhưng có tác dụng phục vụ cho nhiều chu kỳ kinh doanh khác nhau nên người ta không phân bổ hết vào một lần vào chi phí kinh doanh mà phân bổ dần nhiều kỳ kinh doanh như chi phí thuê nhà, thuê công cụ, trả trước theo hợp đồng… 2.2.3.Nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp Trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hiện nay, cơ cấu hình thành các nguồn vốn của doanh nghiệp rất phong phú đa dạng. Ta có thể chia thành hai nguồn hình thành đó chính là: Nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn đi vay. Nguồn vốn chủ sở hữu: Là nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp, đó là những khoản vốn mà doanh nghiệp có quyền sử dụng lâu dài trong suốt thời gian hoạt động. Đây là nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách được cấp cho đối với doanh nghiệp nhà nước như: Chênh lệch giá và các khoản phải nộp nhưng đựơc ngân sách để lại, trích từ quỹ đầu tư phát triển để bổ xung cho vốn kinh doanh, còn đối với các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần thì nguồn vốn chủ sở hữu là một bộ phận vốn do xã viên, cổ đông đóng góp vốn hoặc do chủ doanh nghiệp tư nhân tự bỏ ra , hoặc chích lợi nhuận bổ xung cho nguồn này. Nguồn vốn đi vay: Đây là nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp sử dụng để đáp ứng nhu cầu về vốn thường xuyên cần thiết trong kinh doanh. Tùy theo những điều kiện cụ thể mà doanh nghiệp có thể vay vốn ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác, vay vốn của các đơn vị, cá nhân trong và ngoài nước. Mặt khác, việc phát hành trái phiếu và hình thức vay vốn cho phép các doanh nghiệp có thể thu hút rộng rãi số tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. 3.Vai trò của vốn kinh doanh đối với các doanh nghiệp Tất cả các hoạt động kinh doanh dù bất kỳ quy mô nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định, đó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp. Về mặt pháp lý: Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu tiên doanh nghiệp phải có lượng vốn nhất định. Khi đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác lập, nếu trong quá trình hoạt động kinh doanh vốn của doanh nghiệp mà không đạt được điều kiện mà pháp luật quy định thì doanh nghiệp sẽ bị tuyên bố chấm dứt hoạt động như: Phá sản, giải thể…Như vậy, vốn có thể xem như là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho sự tồn tại tư cách pháp nhân của doanh nghiệp trước pháp luật. Về mặt kinh tế: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, để thấy được vai trò của vốn ta xem xét quá trình sản xuất kinh doanh và các loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp sản xuất: T-H-H’-T’ Doanh nghiệp thương mại: T-H-T’ Các ngân hàng: T-T’ Vốn cũng là yếu tố quan trọng quyết định năng lực sản xuất kinh doanh và xác lập vị thế kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Điều này càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự canh tranh ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư hiện đạI hóa công nghệ…Tất cả những yếu tố này muốn thực hiện được phải có lượng vốn khá lớn. Vốn là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi họat động của doanh nghiệp. Để tiến hành sản xuất và tái đầu tư mở rộng thì sau một chu kỳ kinh doanh vốn doanh nghiệp phải được bảo toàn và phát triển. Có vốn giúp doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, thâm nhập thị trường mới, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Như vậy, bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào thì khởi điểm của quá trình sản xuất kinh doanh đều cần phải có một lượng vốn (T) nhất định. Vốn là yếu tố quyết định trong việc thành lập, hoạt động và phát triển của mọi loại hình doanh nghiệp, nhưng nó chỉ phát huy tác dụng khi doanh nghiệp biết quản lý, sử dụng vốn đó hợp lý và có hiệu quả. III.Hiệu quả quản lý sử dụng vốn kinh doanh 1.Quan điểm về hiệu quả quản lý và sử dụng vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, mục tiêu lâu dài mà mọi doanh nghiệp quan tâm tới là phát triển doanh nghiệp. Vì thế việc sử dụng vốn có hiệu quả là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển doanh nghiệp, nhân tố này thể hiện trực tiếp tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì nếu đạt yêu cầu kinh doanh chứng tỏ việc sử dụng vốn có hiệu quả và ngược lại nếu không đạt hiệu quả kinh doanh thì chứng tỏ việc sử dụng vốn là không hợp lý. Bởi vậy ta có thể xem xét hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp dựa trên hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế phản ánh đồng thời các mặt của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: Kết quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn, trình độ sản xuất và trình độ quản lý…Đồng thời nó đòi hỏi sự phát triển doanh nghiệp theo chiều sâu. Vì thế, hiệu quả kinh doanh là thước đo ngày càng trở lên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Bởi đối với các doanh nghiệp, hiệu quả sử dụng vốn chính là nhằm tăng uy tín thế lực của các doanh nghiệp trên thương trường. Bên cạnh đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn còn tạo ra nhiều lợi nhuận, là cơ sở để mở rộng sản xuất kinh doanh nâng cao đời sống cho nhân viên. Do vậy, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua các thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối quan hệ giữa kết quả thu được với chi phí bở ra để thực hiện nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Ta có chỉ tiêu tổng quát như sau: Hv= Trong đó: Hv: Là hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh Kq: Kết quả của sản xuất kinh doanh(giá trị sản xuất, doanh thu, lợi nhuận trước thuế) : Vốn sản xuất bình quân trong kỳ, trong đó = Vsxđ: Vốn sản xuất đầu kỳ. Vsxc: Vốn sản xuất cuối kỳ. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tỷ lệ thuận với kết quả kinh doanh và tỷ lệ nghịch với vốn kinh doanh. Kết quả thu lại được ngày càng cao so với chi phí bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn ngày càng cao. Doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt còn hạn chế và phát huy những ưu điểm của doanh nghiệp trong quản lý và sử dụng vốn. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính bắt buộc và thường xuyên đối với doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp huy động nguồn tài chính dễ dàng hơn, khả năng thanh toán được đảm bảo và có đủ tiềm lực khắc phục những rủi ro trong kinh doanh. Để đáp ứng yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm…Doanh nghiệp phải có vốn, trong khi đó vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là cần thiết. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá trị của tài sản chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như: Nâng cao uy tín sản phẩm trên thị trường, nâng cao sức sống của người lao động…Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản cho ngân sách nhà nước. Như vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không những đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và ngừơi lao động mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của cả nền kinh tế xã hội. Do đó, các nhà doanh nghiệp phải luôn tìm kiếm các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. 2.Các tiêu chí về công việc quản lý hiệu quả và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh Các chỉ tiêu đánh giá hiêu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp được rút ra trên cơ sở so sánh tương đối kết quả đạt được với lượng vốn kinh doanh bỏ ra trong kỳ. Hầu hết các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp sẽ được xây dựng dựa vào nguyên tắc trên với việc cụ thể hóa kết quả và vốn kinh doanh bằng các chỉ tiêu sát thực. Điểm mấu chốt trong phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là kết quả thu được từ việc tính toán các chỉ tiêu, nó được biểu hiện bằng các con số hết sức cụ thể, có thể nói tới đây kết quả đã được số hóa. Chỉ có thể đánh giá được kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bằng con số cụ thể, bằng các biện pháp chuyên môn, nghiệp vụ phân tích so sánh… Rồi rút ra kết luận hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Từ việc đánh giá hiệu quả kinh doanh xem xét mối quan hệ giữa các đại lượng từ đó tìm ra biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp. Từ việc đánh giá hiệu quả kinh doanh xem xét mối quan hệ giữa các đại lượng từ đó tìm ra các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp. Cụ thể là làm sao để sử dụng một cách hợp lý các nguồn lực để tao ra kết quả cao nhất đồng thời với các biện pháp tiết kiệm và sử dụng hợp lý vốn kinh doanh. Chỉ có sử dụng hệ thống chỉ tiêu ta mới có thể có được những con số cần thiết cho việc phân tích và đánh giá, giúp ta rút ra những kết luận cụ thể từ đó đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định trong doanh nghiệp trong doanh nghiệp thương mại, vốn cố định chiếm tỷ trọng không lớn, song việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định cũng không kém phần quan trọng so với vốn lưu động. Chu kỳ vận động của vốn cố định thường dài hơn rất nhiều so với vốn lưu động. Trong quá trình vận động đó vốn cố định luôn chịu tác động các yếu tố khác nhau như: Lạm phát, hao mòn vô hình…Do vậy cần thiết phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định để từ đó đề ra các biện pháp bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định cũng được xây dựng dựa vào chỉ tiêu tổng quát về hiệu quả. a.Hệ số phục vụ vốn cố định Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định theo mức luân chuyển hàng hóa. Chỉ tiêu này xác định trên cơ sở so sánh tương đối giữa mức luân chuyển hàng hóa trong kỳ với vốn cố định bình quân trong kỳ của doanh nghiệp. Hệ số phục vụ vốn cố định = Doanh thu tiêu thụ trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ Nếu theo phương pháp giản đơn giản: Vốn cố định bình quân = Vốn cố định đầu kỳ+vốn cố định cuối kỳ 2 Theo phương pháp bình quân gia quyền: Vốn cố định bình quân = Trong đó : V1, V2,…Vn là vốn cố định tại thời điểm được xác định trong kỳ phân tích n: là số thời điểm trong kỳ phân tích Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn cố định tham gia tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thực hiện trong kỳ. Đây là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó đựơc sử dụng để so sánh giữa kỳ này với kỳ trước, giữa doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác có cùng điều kiện trên cơ sở đánh giá phân tích tình hình sử dụng toàn bộ vốn cố định của doanh nghiệp. Tỷ số này càng cao phản ánh tình hình hoạt động của doanh nghiệp là rất tốt đã tạo ra mức doanh thu ti._. tư nầng cấp đảm bảo được tiến độ và chất lượng tốt để đưa vào khai thác sử dụng. Công tác tổ chức cán bộ và lao động tiền lương: Đã hoàn thành, xây dựng, quy hoạch cán bộ chủ chốt năm năm 2007 – 2012 thông qua đảng uỷ, hội đồng quản trị công ty. Căn cứ vào quy hoạch trong năm 2007 công ty đã bổ nhiệm và đề bạt chức danh: Kế toàn trưởng và một số cán bộ chủ chốt văn phòng. Tiến hành phân công nhiệm vụ các thành viên hội đồng quản trị, ban tổng giám đốc. Công tác tuyển dụng bước đầu được chú ý quan tâm: năm 2007, công ty đã ký tuyển dụng hợp đồng lao động có thời hạn hai năm tổng số 17 lao động. Việc giải quyết chế độ chính sách, chuyển ngạch, nâng lương cho cán bộ công nhân viên đảm bảo đúng thời gian, tiêu chuẩn và quy chế của công ty. Các mặt công tác khác như xuất nhập bảo quản Vật tư hang hoá, bảo vệ tài sản trang thiết bị, phương tiện, cơ sở vật chất kỹ thuật, an toàn lao động, phòng chống cháy nổ, bão lụt, giữ gìn vệ sinh môi trường, tăng cường các biện pháp để không xảy ra sự cố. Bên cạnh kết quả đạt được, công tác quản lý và điều hành còn một số tồn tại cần được đánh giá, rút kinh nghiệm trong năm như sau: Tiến độ triền khai dự án 265 Cầu Giấy chậm và không đạt yêu cầu đề ra một phần do công tác chỉ đạo, điều hành lúng túng, tiến độ triển khai chậm. Công tác quản lý khai thác và hạch toán nguồn thu từ kinh doanh cho thuê tài sản chưa có sự thống nhất quản lý đồng bộ từ công ty đến các đơn vị trực thuộc nên hiệu quả chung chưa được cao. Công tác tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực đối với các văn phòng khu vực phía Bắc còn hạn chế. Lãnh đạo của một số đơn vị chưa được năng đông, sáng tạo. Do vậy việc triển khai thực hiện một số chủ trương, ý kiển chỉ đạo công ty chưa được kịp thời đảm bảo nhiệm vụ yêu cầu đã giao. 2. Phương hướng nhiệm vụ công tác trong năm 2008 Năm 2008 là năm bản lề của kế hoạch năm năm 2008 – 2012, nền kinh tế dự báo sẽ tiếp tục có sự tăng trưởng coa hơn năm 2007 đồng thời phải tiếp tục đối mặt và giải quyết nhiều thách thức với áp lực mạnh như lạm phát, giá cả, kiểm soát dòng vốn đầu tư, sự có mặt tham gia cạnh tranh thị trường trong nước của nhiều công ty nước ngoài, cải thiện và nâng cao mức thu nhập, đời sống của người lao động … Căn cứ vào tình hình chung kết quả thực hiện và một số mặt tồn tại của năm 2007 làm cơ sở định hướng chiến lược thời kỳ 2008 – 2012 đã được thảo luận, phân tích đánh gía của hội đồng quản trị và ban lãnh đạo công ty, phương hướng đặt ra năm 2008 của toàn công ty là tập chung chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động xây dựng, sản xuất dịch vụ, tăng cường xúc tiến đầu tư khai thác cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng cường về mọi mặt quản lý phát triển nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu, phấn đấu đạt và vượt từ 8 – 10% các chỉ tiêu kế hoạch của năm 2008. 2. 1.Chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu năm 2008 Tổng doanh thu: 406.500 triệu đồng, trong đó: Doanh thu thương mại: 403.000 triệu đồng. Doanh thu cho thuê tài sản: 3.500 triệu đồng – 4.000 triệu đồng. Ngành hàng hoá chất công nghiệp: 156.500 triệu đồng. Ngành hàng vật tư khoa học kỹ thuật: 240.000 triệu đồng. Hàng hoá khác: 6.500 triệu đồng (gồm xuất khẩu 6.000 triệu đồng). Lợi nhuận trước thuế: 3000 triệu – 3.800 triệu đồng. Nộp ngân sách: 17.980 triệu – 18.100 triệu đồng. Lao động bình quân: 220 – 230 người. Thu nhập bình quân: 3.100 – 3.200 đồng. Tiết kiệm chi phí: từ 3% - 5%. Tỷ suất cố tức: 14%. 2.2. Một số biện pháp chủ yếu để triển khai thực hiện 2.2.1.Công tác xây dựng Nắm chắc nhu cầu, diễn biến thị trường – giá cả trong nước và quốc tế. Lấy thị trường trong nước, nhu cầu chấp nhận của khách hàng làm cơ sở để tổ chức. Nhập khẩu và thu mua nội địa. Mở rộng quy mô kinh doanh, phát triển mặt hang có sự tính toán nhưng trước hết cần giữ và phát triển được các mặt hang truyền thống và đạt được mức tăng trưởng cần thiết cũng là một biện pháp tăng khả năng cạnh tranh, giữ cân bằng trong quá trình hội nhập, đảm bảo thị phần của công ty không bị thu hẹp và bị các doanh nghiệp khác cạnh tranh lấn sâu. Tăng năng lực tổ chức khai thác nguồn hàng trong nước để đáp ứng nhu cầu bao gồm cả nhóm máy móc, thiết bị linh kiện vật tư khoa học kỹ thuật, một số mặt hàng hoá chất công nghiệp, hoá chất VTKHKT thông dụng, dụng cụ thuỷ tinh để chủ động hơn về giá cả, vận chuyển, thanh toán và giảm chi phí kinh doanh. Tập chung chỉ đạo, đầu tư để tạo được những đột phá trong hoạt động kinh doanh trong đó việc tổ chức tham gia các dự án đối với ngành hàng VTKHKT có ý nghĩa đối với sự tăng trưởng của nhóm ngành hàng này và chung của công ty. Năm 2008 cố gắng giữ vững và tổ chức thực hiện một sô dự án chuyển tiếp của năm 2007 trong đó có dự án 107 tỷ đầu tư phòng thí nghiệm khu công nghệ cao của Thành Phố Hồ Chí Minh … Đồng thời tích cực tìm kiếm, ký hợp đồng các dự án khác đảm bảo sự chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ thống nhất trong công ty theo quy trình chung. 2.2.2. Công tác đầu tư khai thác cơ sở vật chất kỹ thuật. Đánh giá lại toàn bộ hiện trạng cơ sở vật chất kỹ thuật, các hợp đồng, đối tác, giá cả kinh doanh cho thuê tài sản để có hướng đầu tư, nâng cấp, cải tạo sữa chữa và thồng nhất hình thức quản lý và hoạch toán tập trung, đồng thời có sự phân cấp trong tổ chức thực hiện nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Từng bước đưa loại hình kinh doanh, khai thác cơ sở vật chất kỹ thuật thành một ngành kinh doanh quan trọng tạo doanh thu và lợi nhuận ổn định cho toàn công ty. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, phương án thiết kế và đầu tư tổng thể trung tâm thương mại 265 Cầu Giấy thông qua đại hội cổ đông làm cơ sở để triển khai các bước tiếp theo. Phấn đấu đến năm 2009 có thể tổ chức thi công dự án. Hoàn thiện thủ tục hồ sơ pháp lý chuyển quyền và mục đích sử dụng đối với khu 6000m2 – Áp Bình Mỹ - Củ Chi và phương án đầu tư xưởng sản xuất hoá chất thực nghiệm của chi nhánh Thành Phố Hồ Chí Minh. Hoàn thành việc cấp sổ đỏ khu vực kho Sài Đồng trong quý I/2008. 2.2.3. Công tác nhân sự Tiếp tục có sự đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ chủ chốt và cán bộ thuộc diện quy hoạch để sẵn sang bổ sung khi cần thiết. Đổi mới phương thức tuyển dụng, đào tạo lao động, có chính sách trả lương và đãi ngộ khuyến khích đối với lao động có trình độ, chuyên môn, tay nghề phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của công ty kể cả sắp sếp và các vị trí cán bộ chủ chốt. 2.2.4. Công tác quản lý điều hành. Rà soát, hệ thống hoá, bổ sung điều chỉnh những nội dung cần thiết các văn bản quy chế, quy định của công ty trên cơ sở điều lệ công ty và luật doanh nghiệp của nhà nước. Áp dụng hình thức quản lý hai cấp có sự linh hoạt để tạo tính năng động hiệu quả. Tăng cường về mọi mặt quản lý thường xuyên và định kỳ tiến hành công tác kiểm tra và tự kiểm tra, phân tích tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh để kịp thời uốn nắn thiếu sót, chấn chỉnh công tác hoạch toán, ghi chép sổ sách, chứng từ, đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt luật kế toán, luật thuế và các chế độ quy định của nhà nước. Chuẩn bị hồ sơ và các điều kiện để đăng ký, lưu ký chứng khoán tập trung và tham gia thị trường chứng khoán tạo kênh huy động vốn cho công tác đầu tư và phát triển kinh doanh của công ty. Có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác lãnh đạo, quản lý điều hành và vận động công nhân viên chức hoàn thành nhiệm vụ được giao giữa các cấp Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể trong công ty, tạo nên sự chuyển biến về số lượng cũng như về chất lượng các mục tiêu đã đề ra trong năm 2008. II.Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Qua công tác hoạt động của công ty trong năm 2007 và phương hướng trong năm 2008. Tôi xin đưa ra một số giải pháp để nhằm nâng cao công tác sử dụng vốn kinh doanh của công ty. 1.Tìm kiếm thị trường ổn định,đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm Công ty CEMACO chuyên kinh doanh về ngành hóa chất, vật liệu điện, và vật tư khoa học kỹ thuật, do đó công ty phải nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường trong và ngoài nước để cải tiến và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao chất lượng hàng hóa, chất lượng kinh doanh, đổi mới và hiện đại hóa công nghệ và phương thức quản lý. Với thị trường cung cấp công ty cân tổ chức tìm kiếm những nhà cung cấp ổn định, có khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu cho công ty nhưng phải đảm bảo về giá cả và chất lượng. Với thị trường tiêu thụ công ty nên tăng cường mạng lưới tiêu thụ, kinh doanh các ngành hàng đúng theo đăng ký, chịu trách nhiệm trước xã hội, trước pháp luật về sản phẩm, dịch vụ do công ty thực hiện…Và những công việc mà công ty có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. 2.Về tổ chức đào tạo Thứ nhất: Công ty tổ chức, bố trí lại lao động cho phù hợp, sắp xếp cho phù hợp với khả năng của từng cán bộ cũng như từng người lao động để họ phát huy đuợc khả năng sáng tạo của mình. Góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, tăng năng xuất lao động, giảm chi phí sản xuất và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Thứ hai: Tiến hành có những mức đánh giá tiêu chuẩn các vị trí chức danh công tác, thực hiên chương trình đào tạo nâng cao và bổ xung cán bộ cho các nhánh mới của công ty, tiến hành đào tạo và đào tạo lại cho những người lao động để họ nâng cao được tay nghề. Góp phần vào sự phát triển của công ty cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm, giúp họ thích nghi nhanh với các công nghệ máy móc tiên tiến khi đưa vào sản xuất. Căn cứ vào số lượng hàng năm theo định mức và định ra những quỹ lương sao cho thật phù hợp với khả năng của họ. 3.Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định Vốn cố định của công ty đa số được đầu tư vào mua sắm tài sản cố định dùng cho các hoạt động kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định không chỉ để bảo tồn mà còn phát triển nguồn vốn sau mỗi kỳ kinh doanh. Như vậy có thể thấy để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định cần có những biện pháp bảo tồn và phát triển trên cơ sở cả hai mặt hiện vật và giá trị. Biện pháp đưa ra cho công ty tham khảo như sau: Phân loại tài sản cố định và phân cấp tài sản cố định đến từng đơn vị trực thuộc, cửa hàng, hoặc đến tay người lao động. Bởi vì việc phân cấp quản lý tài sản cố định nhằm nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc bảo quản giữ gìn tài sản cố định. Lựa chọn phương pháp khấu hao và xác định mức khấu hao thích hợp, không để mất và hạn chế tối đa ảnh hưởng của hao mòn vô hình. Sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao tài sản cố định nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Chú trọng đổi mới trang thiết bị, phương pháp, kịp thời thanh lý các tài sản cố định không cần dùng đến hoặc hư hỏng. Không dự trữ quá nhiều các tài sản cố định chưa cần dùng đến để giảm tồn đọng vốn. Thực hiện chế độ sửa chữa, bảo dưỡng thường xuyên toàn bộ các tài sản cố định, không để xảy ra tình trạng tài sản cố định hư hỏng trước thời hạn, gây ra những biến động bất thường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cần chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh để bớt tổn thất vốn cố định như lập quỹ dự phòng… 4.Quản lý tốt các khoản phải thu khoản phải thu là một bộ phận của vốn lưu động và có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Nếu quản lý tốt các khoản phải thu công ty sẽ tăng nhanh vòng quay vốn tạo điều kiện mở rộng quy mô kinh doanh tăng doanh suất, tăng lợi nhuận. Chính nhờ vào quản lý. Ngoài ra mục đích quản lý tốt các khoản phải thu còn nhằm: Xác định thời hạn tín dụng thích hợp trên cơ sở cân đối khả năng tài chính của công ty và khách hàng. Tăng doanh số bán ra trên cơ sở kích thích đúng tâm lý bạn hàng và khả năng thanh toán của họ. Tạo nên một uy tín và thế đứng vững vàng cho công ty trên cơ sở thành lập mối quan hệ tốt đẹp với bạn hàng. Đẩy mạnh tốc độ di chuyển vốn, hạn chế tới mức thấp nhất có thể khoản vốn bị chiếm dụng khi đó phải đưa ra các biện pháp giải quyết kịp thời các khoản nợ đọng dây dưa khó đòi. Để đạt được mục đích trên tức là quản lý tốt các khoản phải thu xong cũng phải đảm bảo phù hợp với lợi ích giữa các bên. Đối với công ty cần phải đảm bảo một số yêu cầu sau: Vận dụng linh hoạt việc thu nợ tính chất của sản phẩm cung cấp cho khách hàng. Tùy từng sản phẩm khác nhau mà đề ra các thời hạn tín dụng khác nhau. Đối với các mặt hàng ít có biến động về giá cả mà công ty có khả năng cung ứng tốt cho khách hàng thì nên nới rộng thời hạn tín dụng. Đối với các mặt hàng khó tiêu thụ công ty cũng nên áp dụng như vậy, còn dưới các mặt hàng không ổn định giá cả thường xuyên mà nhu cầu khả năng đột biến thì nên thu hồi càng nhanh càng tốt. Dựa trên cơ số khả năng mua chịu của các nhà cung cấp, trong kinh doanh thì một việc làm đem lại lợi ích rõ rệt là khả năng xoay sở làm sao để mình có thể mua chịu càng nhiều càng tốt. Đối với các hàng hóa mua chịu được mà khi bán lại thu được tiền ngay thì coi như ta không phải bỏ vốn mà vẫn có lời, xong vốn của ta ở đây chính là uy tín và sự khéo léo của ta. Như vậy công ty lên tận dụng các khoản cung cấp cho phép nợ của các nhà cung cấp. Điều khiển linh hoạt khoản này có thể bán chịu cho khách hàng cũng được( xong phải dựa trên cơ sở khả năng thanh toán của khách hàng) nhưng ta cũng phải chú ý khả năng thanh toán của mình bởi đây là vấn đề rất nhạy cảm có tác động tới uy tín của công ty. Nắm vững khả năng tài chính của khách hàng. Trên cơ chế thị trường hiện nay thì mọi yêu cầu của khách hàng đều buộc công ty phải chú ý đến. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng thì công ty phai cung cấp được những gì khách hàng cần chứ không phải những gì mình có. Xong dù có cạnh tranh lành mạnh, cho dù các chiến lược kinh doanh đúng đắn, có nội lực kinh tế đến đâu đi nữa thì tính bất ổn kinh doanh luôn theo xuốt quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, doanh lợi và các rủi ro luôn đi cùng với nhau. Do vậy việc nghiên cứu khả năng tài chính của khách hàng là tối thiểu cần thiết, nó có thể giúp cho công ty giảm tới mức thấp nhất có thể khả năng rủi ro đối với các khoản nợ của công ty. Nắm vững khả năng tài chính của khách hàng sẽ đưa công ty tới chỗ làm ăn các bạn hàng tin cậy, loại bỏ dần khách hàng không đủ uy tín và không đáng tin cậy. Nếu khách hàng có khả năng tài chính lớn, khả năng huy động vốn cao thì có thể tin tưởng khả năng tài trợ của họ. Tuy nhiên cũng chính vì khả năng tài chính của họ lớn nên công ty cần khai thác ngay bằng cách thu hẹp thời hạn tín dụng nhằm thu hồi vốn nhanh, tăng tốc độ quay vòng vốn. Ngược lại với những khách hàng có khả năng tài chính hạn hẹp, khả năng huy động vốn thấp thì công ty nên thận trọng, đánh giá đúng mức độ tin cậy của khách hàng để tạo cho mình một hàng lang an toàn cần thiết. Nếu khách hàng đủ tin cậy thì công ty sẽ nới rộng điều kiện tín dụng cho họ và cũng để thu hút họ mua hàng hóa nhiều hơn. Giải pháp nhấn vào quản lý tốt khoản phải thi của công ty CEMACO là rất quan trọng vì tỷ lệ các khoản phải thu chiếm tỷ lệ lớn trong tổng tài sản và chiếm tỷ trọng tối đa trong tài sản lưu động. Nó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty bởi khi các khoản phải thu tăng mặc dù doanh thu của công ty tăng nhưng dòng tiền đi vào công ty là chưa có, rất dễ gây ra tình trạng thiếu vốn sản xuất và nguy hại lớn là làm mất khả năng thanh toán của công ty. Tóm lại, công ty cần phải xem xét và cân đối đối tượng khách hàng tùy theo khả năng của họ mà có điều kiện tín dụng hợp lý, làm được điều này công ty đã có cơ sở để cân nhắc giữa rủi ro và tính sinh lời trong kinh doanh. 5.Giải pháp cho hàng tồn kho Hàng tồn kho là một bộ phận quan trọng của vốn lưu động trong công ty, nó đảm bảo cho hoạt động của công ty thường xuyên liên tục. Quản lý hàng tồn kho giúp công ty thực hiện tốt mức lưu chuyển hàng hóa giảm tồn kho ứ đọng, tránh hư hỏng hàng hóa, tăng nhanh tốc độ quay vòng hàng tồn kho. Trong cơ chế thị trường hiện nay giá cả khá biến động theo nhu cầu. Việc cạnh tranh ngày càng gay gắt nếu doanh nghiệp không nhạy bén trong kinh doanh không nắm yêu cầu của thị trường trong những thời điểm nhất định thì sẽ chịu thô lỗ trong kinh doanh. Hàng tồn kho của công ty CEMACO chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản lưu động, quản lý tốt hàng tồn kho chưa hẳn ta cần giảm tối thiểu hàng tồn kho. Nếu hàng tồn kho ít sẽ làm gián đoạn chu kỳ sản xuất kinh doanh, sẽ không có lượng hàng hóa dự trữ cho những hợp đồng bất thường…Ngược lại, nếu hàng tồn kho quá lớn gây ứ đọng vốn sản phẩm không bán được, không có doanh thu, không có vốn đầu tư tiếp theo. Như vậy quản lý tốt hàng tồn kho là việc xác định cho công ty một mức dự trữ hợp lý. Để xác định một mức dự trữ hợp lý công ty cần xem xét các yếu tố như quy mô sản xuất khả năng cung ứng của thị trường, độ dài của chu kỳ sản xuất, trình độ tổ chức, sự phối hợp giữa các khâu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, khả năng xâm nhập thị trường của công ty…Và công ty có thể sử dụng phương pháp quản lý hàng tồn kho bằng mô hình hiệu quả nhất. 6.Giải pháp quản lý tiền mặt Tiền là một bộ phận của vốn lưu động, tiền mặt làm chức năng phương tiện lưu động chỉ là vật trung gian chốc lát trong trao đổi hàng hóa. Tiền là một loại tài sản linh họat nhất, dễ dàng dùng nó thỏa mãn yêu cầu trong kinh doanh thể hiện tính chủ động trong kinh doanh và khả năng tính toán của công ty. Nếu tiền dự trữ nhiều thì khả năng chủ động và thanh toán nhanh của công ty tốt, xong lại không sinh lời. Do vậy xác định một lượng tiền dự trữ hợp lý là vô cùng quan trọng, lượng tiện này vừa phải đảm bảo thanh toán nhanh lại không được mức dự trữ cần thiết(có nghĩa là lượng tiền chết lớn) đưa được tiền vào để quay vòng luôn là mong muốn của các doanh nghiệp xong không dự trữ tiền thì mức rủi ro lại cao. 7.Quản lý chi phí Chi phí là một trong các yếu tố xác định lên lợi nhuận của công ty. Tiết kiệm được chi phí là yếu tố quan trọng để nâng cao lợi nhuận và tăng khả năng sử dụng vốn của công ty. Do vậy việc sử dụng các khoản chi phí đồng thời tránh lãng phí là một mục tiêu mà bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải đạt được. Như đã biết ở biểu hoạt động kinh doanh ta nhận thấy công ty đã có nhiều cố gắng trong việc giảm bớt chi phí trong quản lý nhưng bên cạnh đó chi phí vẫn tăng cao. Để giảm chi phí quản lý doanh nghiệp góp phần làm tăng lợi nhuận của công ty, công ty muốn hoạt động có hiệu quả hơn nữa cần đề ra các biện pháp cụ thể cho việc quản lý chi phí này là: Thứ nhất: Điều chỉnh lại quy trình tiến hành thi công các công trình hạng mục thực hiện một cách tiết kiệm nhất, giảm thiểu số nhân viên quản lý ở các phòng ban sao cho phù hợp vừa đảm bảo được quản lý vừa không ngừng gia tăng doanh thu. Thứ hai: Điều chỉnh hướng tới chi phí quản lý nhỏ nhất có thể được, công ty nên có giải pháp huy động vốn khác để giảm được chi phí vốn vay ngân hàng. 8.Chủ động trong việc xây dựng kế hoạch và sử dụng vốn kinh doanh Trong nền kinh tế thị trường một trong những điều kiện tiền đề để doanh nghiệp có thể hoạt động tốt là phải đủ vốn. Do vậy, việc chủ động xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn kinh doanh là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm tăng cường hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp. Kế hoạch huy động và sử dụng vốn hình thành nên các hoạt động về tổ chức các nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn kinh doanh của doanh nghiệp và sử dụng chúng sao cho có hiệu quả là cao nhất. Để đạt được mục đích đó, công ty cần chú trọng vào vấn đề sau: Xác định một cách chính xác nhu cầu vốn tối thiểu cho hoạt động kinh doanh đặc biệt là nhu cầu vốn lưu động cho quá trình mua sắm vật tư hàng hóa. Để từ đó kế hoạch huy động các nguồn vốn tạo điều kiện về vốn cho kinh doanh trên cơ sở khai thác hết mọi điều kiện về tiềm năng về nguồn vốn. Tránh tình trạng huy động thừa vốn dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn hoặc huy động không đầy đủ gây tình trạng thiếu vốn kinh doanh làm giảm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Cần tập trung tối đa nguôn vốn sẵn có của doanh nghiệp. Căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của công ty hiện nay yêu cầu vốn với từng loại tài sản trong từng thời kỳ kinh doanh mà định ra mức vốn với từng khâu trên cơ sở đó tiết kiệm được vốn kinh doanh. Trong công tác kế hoạch năm công ty cần chú ý đến việc xác định nhu cầu vốn kinh doanh để từ đó có kế hoạch huy động các nguồn vốn đảm bảo cho quá trình kinh doanh của công ty được tiến hành thường xuyên, liên tục đồng thời tránh lãng phí vốn. Việc xác định đúng vốn kinh doanh thực tế có thể gặp nhiều khó khăn. Đó là những ảnh hưởng của sự biến động của thị trường, giá cả… Do vậy công ty cần dựa vào những phân tích cụ thể về tình hình vốn kinh doanh năm trước công với sự dự đoán về sự biến động thị trường và kế hoạch kinh doanh hàng năm để thấy được nhu cầu cụ thể về vốn kinh doanh của mình trong từng thời kỳ kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là một phạm trù rộng, bao gồm nhiều yếu tố, khía cạnh khác nhau. Do vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh cần thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp. Kết luận Chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh doanh trong một môi trường mới, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Để quản lý và nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở bất kỳ một doanh nghiệp nào suy cho cùng đó là một công việc khó khăn và phức tạp, đặc biệt là trong tình hình thị trường đầy rủi ro và nhiều biến động như hiện nay. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải luôn quan tâm đúng mức tới việc đổi mới công nghệ, thay thế máy móc hiện đại. Mặt khác, doanh nghiệp phải luôn có những quyết sách để hoạt động của doanh nghiệp luôn được hoàn thiện và có hiệu quả cao nhất trong những hoạt động kinh doanh của mình. Để tham gia hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới thì doanh nghiệp phải có đủ sức mạnh cạnh tranh, quy mô vốn lớn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, uy tín trên thị trường. Để làm được vấn đề này, doanh nghiệp phải luôn làm tốt công tác hiệu quả quản lý sử dụng vốn kinh doanh của công ty một cách tốt nhất. Quá trình hình thành và phát triển công ty CEMACO đã trải qua nhiều khó khăn và thách thức. Nhưng công ty đã có những giải pháp thiết thực và hiệu quả, dần khắc phục được khó khăn ban đầu đưa công ty vươn lên hòa nhập với nền kinh tế thị trường. Như công ty đã đầu tư và mở rộng các cửa hàng, thay thế các thiết bị cũ lạc hậu bằng các thiết bị máy móc hiện đại, tăng cường công tác tiếp thị, đa dạng hóa sản phẩm phù hợp với thị yếu người tiêu dùng đặt ra. Việc kinh doanh của công ty cũng được thay đổi nhiều so với trước kia, ngày càng nâng cao được hiệu quả tối đa trong kinh doanh mà công việc đề ra, phù hợp với xu thế của sự phát triển của thị trường. Để làm được như vậy phải nói đến sự phát triển mạnh mẽ của công ty trong những năm gần đây. Nhưng đây cũng chỉ là bước đi khởi đầu còn nhiều cơ hội và thách thức mới đang chờ đợi phía trước đối với công ty. Qua phân tích tình hình thực tế khi tham gia thực tập tại công ty cổ phần hoá chất và vật tư khoa học kỹ thuật, tôi đã nhận thấy được phần nào những thành tựu mà công ty đạt được trong những năm qua và những mặt hạn chế còn cần khắc phục trong thời gian tới. Tôi đã đề xuất một số giải pháp khắc phục những mặt còn hạn chế để công ty có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý sử dụng vốn kinh doanh nhằm góp một phần kiến thức để xây dựng công ty ngày một đi lên trong xu thế phát triển toàn cầu hóa ngày nay. Tuy nhiên, trình độ lý luận và thời gian thực tập có hạn nên bài viết của tôi chắc chắn còn nhiều hạn chế, tôi rất mong được sự đánh giá , góp ý kiến của thầy giáo: PGS.TS.Phan Kim Chiến, các thầy cô giáo bộ môn trong khoa và các cô chú, anh chị trong công ty để bài viết được hoàn thiện và có ý nghĩa thực tế hơn nữa. Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn: PGS.TS.Phan Kim Chiến cùng toàn thể các thầy cô trong khoa khoa học quản lý và các cô chú, anh chị trong công ty đã tạo điều kiện và giúp đỡ tận tình trong thời gian thực tập vừa qua. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tài liêu tham khảo 1.Giáo trình hiệu quả và quản lý dự án nhà nước. NXB Khoa học kỹ thuật 2001 2.Giáo trình hoạch toán kế toán trong các doanh nghiệp. NXB ĐHKTQD 2006 3.Giáo trình khoa học quản lý tập I. NXB Khoa học và kỹ thuật 2002 4.Giáo trình khoa học quản lý tập II. NXB khoa học và kỹ thuật 2002 5.Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lê Nin. NXB Chính trị quốc gia 2005 6.Giáo trình lý thuyết quản trị kinh doanh. NXB Thống kê 1994 7.Giáo trình tài chính doanh nghiệp(dùng cho ngoài ngành). NXB ĐHKTQD 2007 8.Kinh tế thương mại-khoa khoa thương mại trường ĐHKTQD 9.Quản lý tài chính doanh nghiệp. NXB Thống kê 1994. 10.Sổ tay quản lý vốn doanh nghiệp. NXB Thống kê 1994. Các tài liệu liên quan khác: Bản báo cáo tài chính, bảng cân đối kế toán doanh nghiệp, phương hướng hoạt động,…Của công ty cổ phần hóa chất và vật tư khoa học kỹ thuật CEMACO trong năm 2005-2006-2007. Lời nói đầu 2 Chương I: Lý luận chung về hiệu quả quản lý vốn kinh doanh của doanh nghiệp 5 I.Tổng quan về hiệu quả và hiệu quả kinh tế 5 1. Khái niệm và ý nghĩa của hiệu quả 5 1.1. Khái niệm 5 1.2. Ý nghĩa 5 1.3. Các khái niệm hiệu quả 5 1.4. Hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân 6 1.5. Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài 7 2.Tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân 7 2.1. Tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả tài chính là lợi nhuận cao nhất và ổn định 7 2.2. Tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả kinh tế quốc dân là giá trị gia tăng quốc gia 8 2.3.Nguyên tắc xác định hiệu quả 11 2.3.1. Nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả 11 2.3.2. Nguyên tắc về sự thống nhất lợi ích 11 2.3.3. Nguyên tắc về tình chính xác, tính khoa học 12 2.3.4.Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế 12 3.Các định mức hiệu quả kinh tế 12 3.1. Khái niệm 12 3.2. Một số định mức hiệu quả 12 II.Vốn kinh doanh và vai trò của vốn kinh doanh 15 1.Vốn và nguồn vốn kinh doanh 15 1.1.Khái niệm về vốn 15 1.2.Nguồn vốn 17 2.Phân loại vốn kinh doanh của doanh nghiệp 17 2.1.Phân loại vốn theo nguồn hình thành 17 2.2.Phân loại theo đặc điểm chu chuyển 18 2.2.1.Vốn cố định 18 2.2.2.Vốn lưu động 21 2.2.3.Nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp 23 3.Vai trò của vốn kinh doanh đối với các doanh nghiệp 24 III.Hiệu quả quản lý sử dụng vốn kinh doanh 25 1.Quan điểm về hiệu quả quản lý và sử dụng vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp 25 2.Các tiêu chí về công việc quản lý hiệu quả và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh 26 2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định trong doanh nghiệp 27 2.2.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động 29 2.3.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tổng hợp 30 IV.Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh 31 1.Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh 31 2.Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh 32 2.1.Các nhân tố ảnh hưởng khách quan 33 2.2.Các nhân tố chủ quan 34 3.Các biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp 35 3.1.Các biện pháp nâng cao hiệu quả công việc quản lý và sử dụng vốn 35 3.2.Một số biện pháp bảo toàn và phát triển vốn 36 3.3.Lựa chọn nguồn vốn và mức độ huy động của từng nguồn cho hợp lý với mục đích kinh doanh 38 4.Các phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng vốn 40 4.1.Phương pháp so sánh 40 4.2.Phương pháp tỷ lệ 40 4.3.Một số phương pháp khác 40 Chương II:Thực trạng quản lý vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại công ty CEMACO 41 I.Khái quát về đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty CEMACO 41 1.Quá trình hình thành phát triển của công ty 41 2.Chức năng và nhiệm vụ của công ty 43 3.Đăc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh 44 4.Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty 46 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty 47 5.Một số kết quả hoạt động của công ty CEMACO trong 2 năm 2006-2007 52 II.Tình hình quản lý vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty CEMACO trong năm 2006-2007 56 1.Quản lý nguồn vốn trong doanh nghiệp 56 1.1.Vốn của doanh nghiệp 57 1.2. Các nguồn vốn của doanh nghiệp và phương thức huy động 57 1.2.1. Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp 57 1.2.1.1. Vốn góp ban đầu 57 1.2.1.2. Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia 58 1.2.1.3. Phát hành cổ phiếu 59 1.3.Nợ và các phương thức huy động nợ của doanh nghiệp 59 1.3.1.Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại 59 1.3.2. Phát hành trái phiếu công ty 61 2.Tình hình phân bổ vốn và kết cấu vốn kinh doanh của công ty 62 2.1.Kết cấu vốn kinh doanh của công ty CEMACO 62 2.2.Tình hình nguồn vốn kinh doanh của công ty 63 2.3.Tình hình các khoản phải thu và các khoản phải trả của công ty 64 3.Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty 66 3.1.Phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh 66 3.2.Phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động 67 3.2.1.Tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động 67 3.2.2.Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động 68 3.2.3.Phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định tại công ty 70 4.Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình kinh doanh và sử dụng vốn kinh doanh tại công ty 71 4.1.Thuận lợi 71 4.2.Khó khăn 72 Chương III: Tổng kết công tác hoạt động của công ty trong năm 2007 phương hướng nhiệm vụ công tác trong năm 2008 và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vốn tại công ty 73 I. Tổng kết công tác công ty trong năm 2007 phương hướng nhiệm vụ công tác trong năm 2008. 73 1.Tổng kết công tác công tác hoạt động của công ty trong năm 2007 73 Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu năm 2007 73 1.1.Thực hiện kế hoạch kinh doanh 74 1.1.1.Mua-bán hàng hóa 74 1.1.2. Sản xuất và tiếp nhận hàng hóa 75 1.2.Hiệu quả kinh doanh 75 1.3.Công tác quản lý và điều hành 76 2. Phương hướng nhiệm vụ công tác trong năm 2008 78 2. 1.Chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu năm 2008 78 2.2. Một số biện pháp chủ yếu để triển khai thực hiện 78 2.2.1.Công tác xây dựng 78 2.2.2. Công tác đầu tư khai thác cơ sở vật chất kỹ thuật. 79 2.2.3. Công tác nhân sự 79 2.2.4. Công tác quản lý điều hành. 79 II.Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 80 1.Tìm kiếm thị trường ổn định,đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm 80 2.Về tổ chức đào tạo 80 3.Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định 81 4.Quản lý tốt các khoản phải thu 81 5.Giải pháp cho hàng tồn kho 83 6.Giải pháp quản lý tiền mặt 83 7.Quản lý chi phí 84 8.Chủ động trong việc xây dựng kế hoạch và sử dụng vốn kinh doanh 84 Kết luận 86 Tài liêu tham khảo 88 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20153.doc
Tài liệu liên quan