Các biện pháp kiềm chế lạm phát? Liên hệ với các giải pháp mà Việt Nam đã thực hiện trong thời gian qua

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Bước vào năm 2009, tình hình kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục có một số mặt thuận lợi. Tình hình chính trị - xã hội ổn định; hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển, hội nhập; sau một năm gia nhập WTO, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta tăng mạnh, kinh tế đang trên đà tăng trưởng với tốc độ cao. Tuy nhiên, sự suy giảm của nền kinh tế Mỹ, đồng USD giảm giá, giá cả nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới tăng cao, t

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1473 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các biện pháp kiềm chế lạm phát? Liên hệ với các giải pháp mà Việt Nam đã thực hiện trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiên tai, dịch bệnh xảy ra ở một số địa phương đã tác động bất lợi, làm xuất hiện những khó khăn và biểu hiện xấu trong nền kinh tế nước ta. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã chỉ đạo Ban cán sự đảng Chính phủ, ban cán sự đảng các bộ, ngành có nhiều giải pháp tích cực để kiểm soát tăng giá, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất phát triển, hỗ trợ đời sống nhân dân. Nhưng, đến nay lạm phát vẫn còn cao, sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, đời sống của một bộ phận nhân dân vẫn còn khó khăn, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết. Sau một thời gian nghiên cứu, với những kiến thức có được và sự hướng dẫn của cô giáo ThS. Trương Hoài Linh em đã hoàn thành đề tài: “Các biện pháp kiềm chế lạm phát? Liên hệ với các giải pháp mà Việt Nam đã thực hiện trong thời gian qua”. Tuy nhiên, do thời gian có hạn, kiến thức còn hạn chế nên bài viết còn nhiều thiếu sót. Em mong được sự góp ý chân thành của cô giáo để có thể thực hiện tốt hơn ở những bài viết sau. Em xin cảm ơn cô giáo. Phần I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT 1. Định nghĩa và phân loại lạm phát 1.1. Định nghĩa lạm phát Lạm phát là một hiện tượng kinh tế vĩ mô phổ biến và có ảnh hưởng rộng lớn đến các mặt của đời sống kinh tế hiện đại.lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong một mức giá chung điều này không nhất thiết có nghĩa giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng thời phải tăng lên theo cùng một tỷ lệ mà cỉ cần mức giá trung bình tăng lên .Một nền kinh tế vẫn có thể trải qua lạm phát khi giá cả một số hàng hóa giảm ,nếu như giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ mạnh . Lạm phát cũng có thể được định nghĩa là sự suy giảm sức mua trong nước của đồng nội tệ .Trong bối cảnh lạm phát thì một đơn vị tiền tệ chỉ có thể mua được ngày càng ít hàng hóa và dịch vụ hơn.Hay nói một cách khác ,khi có lạm phát ,chúng ta phải chi ngày càng nhiều đồng nội tệ hơn để mua một giỏ hàng hóa và dịch vụ cố định.Nếu thu nhập bằng tiền không theo kịp tốc độ trượt giá,thì thu nhập thực tế ,tức là sức mua của thu nhập bằng tiền sẽ giảm.Do vậy thu nhập thực tế tăng lên hay giảm xuống trong bối cảnh có lạm phát phụ thuộc vào điều gì xảy ra với thu nhập bằng tiền ,tức là ,phải chăng các cá nhân có nhận thêm số đồng nội tệ đã giảm giá trị đủ để bù đắp cho sự gia tăng của mức giá .Mọi người không nhất thiết phải nghèo hơn trong bối cảnh có lạm phát.Một điều quan trọng mà chúng ta cần nhận thức là lạm phát không chỉ đơn thuần là sự tăng giá mà đó phải là sự gia tăng liên tục trong mức giá nếu như chỉ là một cú sốc xuất hiện làm tăng mức giá ,thì dường như giá đột ngột bùng lên rồi rồi lại giảm trở lại mứ ban đầu ngay sau đó .Hện tượng tăng giá tạm thời như vậy không được gọi là lạm phát.tuy nhiên trong thực tế mỗi cú sốc thường có ảnh hưởng kéo dài đối với nền kinh tế và do đó có thể gây ra lạm phát. 1.2. Phân loại lạm phát Dựa vào tỷ lệ tăng giá, các nhà kinh tế phân lạm phát ra làm ba mức độ khác nhau: - Lạm phát vừa phải: khi giá cả hàng hoá tăng chậm ở mức một con số hàng năm (dưới 10% một năm). - Lạm phát cao: khi giá cả hàng hoá tăng ở hai con số hàng năm (từ 10% - 100% một năm). - Siêu lạm phát: khi giá cả hàng hoá tăng ở mức độ ba con số hàng năm trở lên. 2. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát Qua nghiên cứu, có các quan điểm như sau: 2.1. Lạm phát do cầu kéo Khi nền kinh tế đạt tới hay vượt quá sản lượng tiềm năng, việc tăng mức cầu dẫn tới lạm phát được gọi là lạm phát do cầu kéo hay lạm phát nhu cầu. Số cầu tăng là do: - Tổng khối lượng tiền lưu hàng tăng: do thiếu hụt ngân sách, vay mượn nước ngoài. - Tốc độ lưu thông tiền tệ tăng: do hệ thống chính trị khủng hoảng, kinh tế suy thoái làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ tiền tệ nhà nước bị xói mòn, từ đó gây tâm lý chạy trốn đồng tiền mất giá. 2.2. Lạm phát do chi phí đẩy Khi chi phí sản xuất kinh doanh tăng sẽ đẩy giá cả tăng lên ngay cả khi các yếu tố sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ, đó là lạm phát do chi phí đẩy. Chi phí tăng lên vì: - Tốc độ tăng tiền lương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động. - Các cuộc khủng hoảng về nhiên nguyên vật liệu cơ bản như: dầu mỏ, sắt thép. 2.3. Lạm phát do những nguyên nhân liên quan đến sự thiếu hụt mức cung Khi nền kinh tế đạt mức toàn dụng (nghĩa là các yếu tố sản xuất: nhân công, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị… gần như đã khai thác tối ưu), mức cung hàng hoá và dịch vụ trên thị trường có khuynh hướng giảm. Bên cạnh đó, tình trạng tắt nghẽn của thị trường cũng làm giới hạn mức cung hàng hoá. Do đó khiến cho khối lượng hàng hoá không đáp ứng tốt nhu cầu tăng lên của thị trường làm cho giá cả tăng lên. Khi nền kinh tế chưa đạt tới mức toàn dụng nhưng nếu cơ cấu kinh tế tổ chức bất hợp lý thì cũng không cho phép tạo ra khối lượng hàng hoá và dịch vụ đầy đủ để thoả mãn nhu cầu ngày càng gia tăng của thị trường. Trường hợp cũng làm nảy sinh hiện tượng lạm phát. 2.4. Lý thuyết ca tụng lạm phát của J.M.Keynes J.M.Keynes đã có công vạch rõ tác động của việc in thêm tiền vào kinh tế: Khi nền kinh tế chưa đạt mức toàn dụng, nếu nhà nước mạnh dạn phát hành thêm tiền để gia tăng đầu tư thì sẽ thu được kết quả tích cực: - Chống được khủng hoảng kinh tế - Giảm thiểu được tình trạng thất nghiệp Trường hợp này, lạm phát được nhà nước chủ động sử dụng như là một công cụ để kích thích tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế đã toàn dụng, nếu nhà nước vẫn tiếp tục in thêm tiền đưa vào nền kinh tế, khối hàng hoá và dịch vụ không gia tăng của khối cung tiền. Khi đó, lạm phát không có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế. Ngoài những nguyên nhân trên còn có nhiều nguyên nhân khác dẫn tới lạm phát như: các chính sách nhà nước, chiến tranh, thiên tai,… Phần II: THỰC TRẠNG VỀ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA. Lạm phát hiện nay ở Việt Nam là một hiện tượng có nguyên nhân tiền tệ, bắt nguồn từ phản ứng thiếu đồng bộ của hai chính sách vĩ mô là tăng trưởng tiền tệ - tín dụng và ổn định tỷ giá, dẫn đến hậu quả làm thặng dư cung tiền. Theo thống kê sơ bộ của tổng cục thống kê, tính đến cuối tháng 10/2007, mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã lên đến hơn 9.34% so với cùng kỳ năm trước, và khoảng 8,12% so với đầu năm. Qua diễn biến kinh tế và một số động thái chính sách của Việt Nam hiện nay, có đối chiếu trên những khía cạnh tương tự với một số nước trong khu vực, đi đến kết luận rằng tình trạng lạm phát hiện nay ở Việt Nam là hậu quả tổng hợp của một số hiện tượng kinh tế đặc thù đi liền với sự kết hợp thiếu đồng bộ giữa một số chính sách vĩ mô trong thời gian qua. Hiện tượng kinh tế đặc thù được lưu ý ở đây là sự tăng trưởng mạnh mẽ của kiều hối (bao gồm một phần rất lớn và ngày càng tăng tiền gửi của người đi xuất khẩu lao động), kết hợp với sự tăng trưởng của dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam. Một sự kết hợp nữa là trong năm 2006, quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và sự phát triển của thị trường chứng khoán đã đạt những bước phát triển lớn, khiến Việt Nam trở thành một địa điểm hấp dẫn và dòng vốn đầu tư gián tiếp chảy mạnh vào nước ta. Theo ước lượng không chính thức, có khoảng hơn 5 tỷ USD kiều hối đã được gửi về, và khoảng 1 đến 2 tỷ USD vốn đầu tư gián tiếp đã được chuyển vào trong nước trong năm 2006 và những tháng đầu năm 2007. Các chính sách kết hợp không đồng bộ, bao gồm hai chính sách lớn sau: (1) chính sách tăng trưởng cung tiền và tín dụng theo đà của các năm trước (2) chính sách neo tỷ giá ổn định theo đồng USD thông qua can thiệp của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường ngoại hối. Một đặc điểm vĩ mô quan trọng bậc nhất của Việt Nam gần đây có lẽ là sự gia tăng nhanh chóng của dòng tiền gửi về từ nước ngoài, trong đó một phần rất lớn từ người đi lao động, tạm gọi tất cả các khoản tiền gửi kiểu này là kiều hối. Xét trên phương diện quy mô to lớn tương đối của dòng kiều hối, thì Việt Nam chỉ đứng sau Philippines là nước trong khu vực đã có truyền thống xuất khẩu lao động từ lâu, và có những đặc điểm kinh tế khá tương đồng. Do đó, sau đây chúng ta sẽ sử dụng trường hợp Philippines để đối chiếu với tình trạng ở Việt Nam. Một số chỉ tiêu vĩ mô của Philippines, 2002-2006 2002 2003 2004 2005 2006 Kiều hối (%GDP) 12.8 12.9 13.3 13.8 13.2 Thâm hụt thương mại (%GDP) -7.2 -7.4 -6.6 -5.9 -7.7 Cân đối TK vãng lai (%GDP) -0.4 0.4 1.8 2.0 2.8 Cân đối tài khoản vốn (%GDP) 1.4 0.9 -1.8 1.6 -0.4 Thay đổi dự trữ ngoại tệ (%GDP) -2.1 -1.3 -0.6 -3.2 -3.2 Tỷ giá danh nghĩa (trung bình kỳ) 51.6 54.2 56.0 55.1 49.8 REER (trung bình kỳ) 96.2 89.1 86.2 92.3 101.4 Tăng trưởng GDP (%) 4.4 4.9 6.2 5.0 5.5 Tăng CPI (%) (cuối năm) 2.5 3.9 8.6 6.7 4.3 Nguồn: IMF (2007) Một số chỉ tiêu vĩ mô của Việt Nam, 2002-2006 2002 2003 2004 2005 2006 Kiều hối (%GDP) 5.1 5.2 5.1 6.0 5.6 Thâm hụt thương mại (%GDP) -3.0 -6.4 -5.0 -1.6 -0.6 Cân đối tài khoản vãng lai (%GDP) -1.9 -4.8 -3.4 0.4 0.3 Cân đối tài khoản vốn (%GDP) 3.3 10.1 5.4 3.6 4.5 Thay đổi dự trữ ngoại tệ (%GDP)* -1.3 -5.3 -1.9 -4.0 -4.7 Tỷ giá danh nghĩa (trung bình kỳ) 15.244 15.475 15.704 15.816 15.957 REER (trung bình kỳ, 1990 =100) 94.9 86.3 87.3 98.6 102.9 Tăng trưởng GDP (%) 7.1 7.3 7.8 8.4 7.5 Tăng CPI (%) (cuối năm) 4.0 2.9 9.7 8.8 7.5 Nguồn: IMF (2006b), *: Dấu (-) nghĩa là thay đổi tăng Từ hai bảng trên, chúng ta có thể nhận thấy Philippines hàng năm nhận một lượng kiều hối nhiều hơn Việt Nam rất nhiều kể cả tương đối (so với GDP) lẫn tuyệt đối (vì GDP của Philippines lớn hơn của Việt Nam khoảng 1.5 lần). Tuy nhiên, xét trên mối tương quan với GDP, thâm hụt thương mại của Philippines tương đối trầm trọng, cộng với các khoản trả lãi vay nước ngoài tương đối lớn, nên có thể nói dòng kiều hối chủ yếu được dùng để tài trợ cho khoản thâm hụt này trong tài khoản vãng lai. Kết quả là bất chấp lượng kiều hối khổng lồ chuyển về mỗi năm, cán cân vãng lai chỉ thặng dư khoảng từ 2% đến dưới 3% GDP. Bên cạnh đó, thặng dư cán cân tư bản của Philippines tương đối thấp, và có khuynh hướng dao động quanh mức zero. Kết quả là sức ép mua lại ngoại hối của cơ quan tiền tệ ở Philippines, trong trường hợp nước này muốn can thiệp để ổn định tỷ giá, chỉ bắt đầu xuất hiện từ năm 2005, với mức tăng dự trữ ngoại hối thêm hơn 3% GDP mỗi năm. Trong khi đó, ở Việt Nam, tuy tỷ trọng kiều hối không lớn như ở Philippines, nhưng thâm hụt thương mại chưa nghiêm trọng như ở nước này, nên cán cân vãng lai được cải thiện đáng kể trong những năm gần đây, và kể từ năm 2005 có khuynh hướng thặng dư (nhưng còn ở mức thấp hơn nhiều so với Philippines). Tuy nhiên, đặc điểm quan trọng của Việt Nam là cán cân tư bản luôn có thặng dư rất đáng kể, đã dẫn tới khả năng dư thừa ngoại hối thậm chí lớn hơn ở Philippines. Để giữ tỷ giá neo tương đối ổn định vào đồng USD, cơ quan tiền tệ Việt Nam đã liên tục mua lượng ngoại hối thặng dư trên thị trường. Kết quả là dự trữ ngoại tệ mỗi năm đã tăng lên rất mạnh, chẳng hạn như năm 2005 tăng thêm 4% GDP, còn năm 2006 gần 5% GDP. Như vậy, có thể nói một đặc điểm quan trọng của Việt Nam gần đây là sự tăng trưởng nhanh chóng của cả hai dòng tiền từ bên ngoài là kiều hối và đầu tư nước ngoài. Các con số cập nhật gần đây (chưa chính thức) cho thấy trong nửa cuối năm 2006 và quý I năm 2007, dòng tiền này còn được bồi đắp thêm nhờ dòng vốn đầu tư gián tiếp, hướng tới thị trường chứng khoán Việt Nam và chuẩn bị cho các khoản mua cổ phần từ các doanh nghiệp nhà nước chuẩn bị được cổ phần hoá. Kết quả là, để giữ cho đồng Việt Nam không lên giá quá nhanh, cơ quan tiền tệ Việt Nam đã mua vào (theo các tuyên bố trên báo chí) khoảng hơn 7 tỷ USD (14% GDP). Chính sách này đã làm tăng nhanh lượng cung tiền trong nền kinh tế. Điều này được coi là nguyên nhân hàng đầu gây nên tình trạng lạm phát hiện nay. Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra là: Vì sao, ở một số nền kinh tế khác, cụ thể là Trung Quốc, cơ quan tiền tệ cũng phải đối mặt với lượng thặng dự ngoại tệ hằng năm rất lớn (chủ yếu từ thặng dư thương mại), trong khi vẫn giữ vững quyết tâm can thiệp để neo đồng nội tệ ổn định vào USD, lại không xuất hiện tình trạng lạm phát cao như ở Việt Nam? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải xem xét chính sách tiền tệ gần đây của Trung Quốc và đối chiếu nó với tình hình Việt Nam. 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tăng trưởng M2 (%) 14.4 16.8 19.6 14.6 17.6 -- Tăng trưởng tín dụng (%) 6.4 30.7 19.6 10.9 13.6 -- Tăng trưởng tiền dự trữ (%) 9.2 13.3 17.1 11.4 9.3 -- Tăng trưởng dự trữ ngoại hối (%) -- 35.3 39.7 49.0 33.4 26.6 Dự trữ ngoại hối/GDP (%) 16.5 20.3 25.1 32.0 36.6 -- Tỷ giá danh nghĩa 8.28 8.28 8.28 8.28 8.07 -- REER 104.8 101.9 94.5 91.9 91.9 -- Mức tăng CPI 0.7 -0.8 1.2 3.9 1.8 1.5 Tăngtrưởng tiền tệ và tín dụng ở Trung Quốc, 2001-2006 Nguồn: IMF (2006). Thay đổi cuối kỳ. Riêng REER và CPI là trung bình kỳ Bảng trên cho thấy mức tăng CPI ở Trung Quốc trong những năm vừa qua ở mức rất “lý tưởng”, trong khi tăng trưởng kinh tế vẫn hầu như ở mức hai con số. Cần lưu ý ngay rằng, nước này cũng phải đối mặt với các vấn đề liên quan đến “chi phí đẩy,” như là giá cả các mặt hàng thiết yếu và năng lượng trên thế giới tăng không khác gì, thậm chí có thể lớn hơn, so với Việt Nam. Tăng trưởng tiền tệ và tín dụng ở Việt Nam, 2001-2006 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tăng trưởng M2 (%) 25.5 17.6 24.9 29.5 29.7 38.6 Tăng trưởng tín dụng (%) 21.4 22.2 28.4 41.6 31.7 21.4 Tăng trưởng tiền dự trữ (%) 16.7 12.4 27.4 16.1 23.7 30.9 Tăng trưởng dự trữ ngoại hối (%) -- 14.4 58.4 15.1 31.7 32.8 Dự trữ ngoại hối/GDP (%) 10.1 10.6 14.4 14.8 16.8 19.1 Tỷ giá danh nghĩa 15070 15368 15608 15739 15875 15957 REER 100.4 94.9 86.3 87.3 98.6 102.9 Nguồn: IMF (2006b). Thay đổi cuối kỳ. Riêng REER là trung bình kỳ Thực tiễn cho thấy kết quả cuối cùng là Trung Quốc đã không trải qua lạm phát cao, trong khi Việt Nam luôn phải gánh chịu lạm phát cao (trên 6%) liên tiếp kể từ năm 2004. Thêm vào đó, tăng trưởng ở Trung Quốc vẫn được giữ ở mức cao hơn Việt Nam, thặng dư thương mại lớn (dự trữ ngoại hối đã tăng ngoạn mục từ mức 16.5% năm 2001 lên 36.6% GDP vào năm 2005), và giá trị đồng nội tệ ổn định (tỷ giá danh nghĩa chỉ giảm khoảng 2.5% trong giai đoạn 2001-2005). Như vậy, có cơ sở để nhận định rằng Việt Nam đã thực hiện chính sách can thiệp tăng dự trữ ngoại tệ nhưng không đồng thời thắt chặt tiền tệ, nên đã dẫn tới lạm phát cao. Trong khi đó, Trung Quốc đã thực hiện thắt chặt tiền tệ rất có chủ ý để kết hợp hài hoà với chính sách giữ ổn định đồng Nhân dân tệ, và đã thành công trong việc kiềm chế lạm phát. Nói tóm lại, trường hợp Trung Quốc cho thấy bài học đáng giá rằng kiểm soát tăng trưởng tiền tệ và tín dụng vẫn là phương tiện căn bản, quan trọng và hữu hiệu hàng đầu giúp kiểm soát lạm phát. Một bài học nữa có thể rút ra, là sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách vĩ mô có ý nghĩa quan trọng. Cụ thể trong trường hợp này, khi cơ quan tiền tệ đã xác định có kế hoạch mua vào một lượng ngoại tệ lớn, thì nó cũng đồng thời phải tiến hành kế hoạch thắt chặt cung tiền một cách đồng bộ. Bây giờ ta thử xem số liệu lạm phát của Việt Nam từ đầu 2009 nói lên điều gì. Hiện giờ, lạm phát ở mức thấp, từ tháng 12/08 đến tháng 5/09 mới là 2.12%, nếu ngoại suy ra cả năm thì lạm phát sẽ là 5.17%. Mức độ này thuộc dạng thấp đối với Việt Nam, nhưng cũng không thấp như thời kỳ 2002-2004. Có xu hướng lạm phát đang tăng chút ít: chỉ số lạm phát hàng tháng đang tăng dần từ Tháng 2 đến tháng 5. Nhưng nếu tính ngoại suy từ giai đoạn tháng 1 đến tháng 5, chứ không phải từ tháng 12/2008, thì lạm phát cả năm cũng chỉ là 5.49%. Chúng ta có thể thấy được thực trạng của lạm phát những tháng đầu năm 2009 qua biểu đồ sau: Phần III: NHỮNG GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA. 1. Những biện pháp kiềm chế lạm phát. Nhận diện lạm phát ở Việt Nam: Lạm phát hiện tại ở Việt Nam là sự tích hợp của lạm phát tiền tệ, lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy, ba loại này tác động lẫn nhau làm cho lạm phát càng trở nên phức tạp. Lạm phát tiền tệ: Do việc thực thi chính sách chính sách tiền tệ không nghiêm, có thể chưa phù hợp nên việc phát huy tác dụng của chính sách không được như mong muốn. Quản lý yếu kém dẫn tới lượng cung tiền trong lưu thông đã vượt quá lượng tiền cần có trên thị trường nhiều lần do đó dẫn tới lạm phát. Có thể kể ra các nguyên nhân trực tiếp làm lượng cung tiền tăng lên như sau: Thứ nhất, chi tiêu ngân sách ngày càng lớn. Chi tiêu ngân sách năm sau cao hơn năm trước do yêu cầu phát triển tế xã hội đòi hỏi các điều kiện hạ tầng như đường xá, cầu cống, bến cảng, các khu đô thị, khắc phục hậu quả của thiên tai ... Trong đó có nhiều các vụ việc tiêu cực, hiệu quả chi tiêu ngân sách thấp, nhiều công trình kéo dài, tốn kém, hiệu quả thấp. Những khoản chi tiêu ngân sách này đã đưa một lượng tiền mặt lớn ra thị trường. Thứ hai, quản lý tiền mặt kém hiệu quả. Hiện nay ở Việt Nam có nhiều đơn vị như Ngân hàng Nhà nước, hệ thống các Ngân hàng thương mại, các Tổ chức tín dụng phi ngân hàng, Công ty bảo hiểm, ... liên quan tới công tác lưu hành tiền tệ. Lượng tiền cần có (D) để cân đối với hàng hoá không đồng nhất với lượng tiền mặt thực tế đang có trên thị trường. Lượng tiền này không chỉ phụ thuộc vào lượng tiền mặt thực tế (T) mà còn phụ thuộc vào vòng quay đồng tiền (V), chúng tỷ lệ thuận với nhau theo công thức: D = T . V. Lượng tiền D cân đối với hàng cần phải được kiểm soát chặt và thường ổn định trong một thời gian thích hợp có lợi cho sự phát triển kinh tế. Khi có nhu cầu tăng D, các nhà quản lý thường tăng vòng quay của đồng tiền (V), hạn chế tăng T. Vấn đề này rấ quan trọng cả đối với quản lý vĩ mô và quản lý vi mô. Song việc có nhiều thành viên tham gia vào cơ chế lưu hành tiền tệ như trên đã khiến cho công tác quản lý trở nên phức tạp và kém hiệu quả. Nhiều cơ sở ngân hàng, phi ngân hàng tham gia kinh doanh tiền tệ thường chỉ quan tâm tới lợi nhuận, tới vốn. Do vậy vòng quay tiền mặt ít được chú ý, khiến cho việc quản lý V càng khó khăn phức tạp hơn. Khi có nhu cầu tăng D, thay vì việc tìm giải pháp tăng vòng quay đồng tiền (V) lại tăng lượng cung tiền mặt vào lưu thông, làm cho lượng tiền mặt có trong lưu thông (T) thường xuyên tăng lên. Lượng tiền nhiều trong lưu thông khiến cho thu chi tiền mặt dễ dàng, xuất hiện toạ chi ở nhiều doanh nghiệp, vòng quay đồng tiền (V) thực tế đã tăng lên. Điều này khiến cho D càng lớn gây mất cân đối trầm trọng giữa tiền (D) và hàng, làm lạm phát gia tăng đột biến. Thứ ba, ngoại tệ tăng mạnh. Năm 2007 đầu tư nước ngoài vào Việt nam tăng cao, kiều hối cũng tăng đáng kể, riêng hai khoản này cũng đã gần 30 tỷ USD. Với lượng tiền đó đòi hỏi phải có lượng tiền VNĐ lớn tung ra thị trường, làm cho lượng tiền mặt trên thị trường tăng lên. Thứ tư, sức hút của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán phát triển mạnh trong thời gian qua đã hút một lượng tiền lớn vào đây. Ngoài lượng tiền nhàn rỗi trong dân được huy động, lượng vốn bằng tiền còn được huy động thông qua vay ngân hàng, rút tiết kiệm, bán tài sản (do thay đổi mục tiêu kinh doanh), từ các nhà đầu tư nước ngoài,.... Ngoài ra, một nguyên nhân quan trọng khác là tâm lý hoang mang của người dân trước giá cả thị trường tăng cao, đồng tiền giảm giá nhanh chóng. Để bảo toàn vốn của mình, các nhà đầu tư cũng như dân chúng đã chuyển sang mua vàng hoặc kim loại quý, đá quý khác thay vì dùng vốn đó kinh doanh hoặc gửi tiết kiệm. Do vậy một lượng tiền lớn được tung vào lưu thông đã làm cho lạm phát trầm trọng hơn. Tất cả những nhân tố trên làm cho lượng tiền mặt thực tế có trong lưu thông (T) tăng lên quá nhiều, vượt xa lượng tiền mặt thực tế cần có. Lạm phát cầu kéo Lạm phát cầu kéo có nguyên nhân bắt nguồn từ nội bộ nền kinh tế, vì vậy loại lạm phát này thường chỉ diễn ra đối với từng nền kinh tế cá biệt. Lạm phát cầu kéo do tốc độ phát triển kinh tế cao, quy mô đầu tư lớn và dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp, vượt quá khả năng đáp ứng về tài nguyên tiềm năng của nền kinh tế. Nền kinh tế phát triển nóng khiến cho nhu cầu quá lớn trong khi khả năng cung ứng có hạn, mất cân đối này làm giá cả tăng liên tục với tỷ lệ cao. Năm 2006, 2007 nền kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình trạng phát triển nóng. Điều này thể hiện rõ nhất ở mất cân đối cao giữa cung cầu, cung luôn thấp hơn cầu (năng lượng, nhân lực chất lượng cao, tắc nghẽn mạch thông tin liên lạc, hạ tầng quá tải, công trình – dự án chậm tiến độ ...). Chúng ta đang tập trung mọi nỗ lực nhằm đạt tỷ lệ tăng trưởng GDP 8,5 – 9% trong năm 2008, điều này sẽ dẫn tới mất cân đối cung cầu hơn nữa và sẽ làm lạm phát tăng cao hơn. Lạm phát chi phí đẩy Lạm phát chi phí đẩy do giá vật tư đầu vào tăng. Trong năm qua, nhiều loại nguyên vật liệu giá tăng rất cao như dầu mỏ, than đá, sắt thép, nhựa, … Những loại chi phí tăng lên đó đã tác động tới hầu hết các nền kinh tế, tạo nên chi phí đầu vào rất cao đối với nhiều loại hàng hoá, dẫn tới chi phí sản xuất cao, buộc các doanh nghiệp tăng giá bán hàng hoá của mình. Làn sóng tăng giá này làm giá cả chung trên thị trường tăng mạnh mẽ, đẩy nền kinh tế tới lạm phát. Năm 2007 và năm 2008, giá dầu tăng cao tác động tới hầu hết các ngành sản xuất trong nước, dẫn tới tăng giá bán ở đầu ra. Trong năm qua, không ngành sản xuất nào trong nước cưỡng lại được xu thế này, bao gồm cả ngành giao thông vận tải, than, khai thác đá, luyện cán thép... sắp tới là ngành điện. Lạm phát chi phí đẩy mang tính toàn cầu song mức độ diễn ra ở mỗi nước có khác nhau. Những nền kinh tế đang trong thời kỳ suy giảm sẽ không lạm phát, tăng giá dầu chỉ là yếu tố dẫn tới tăng giá trong nước. Đối với những nền kinh tế tăng trưởng nóng như Việt Nam, Trung Quốc, ấn Độ, giá dầu tăng đã thực sự đẩy lạm phát cao. Do vậy, việc nhập khẩu các yếu tố đầu vào từ những nền kinh tế tăng trưởng nóng cũng bao hàm việc nhập cả những yếu tố lạm phát của các nền kinh tế đó. 1.1. Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt Cho dù do nhiều nguyên nhân, nhưng lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu thông và dư nợ tín dụng tăng liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng cao trong năm 2007 là nguyên nhân quan trọng gây lạm phát. Nhận thức được tình hình đó, Chính phủ chủ trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng ngay từ đầu năm. Ngân hàng nhà nước, thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng hợp lý các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được yêu cầu này. Điều cần nhấn mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển. 1.2. Tiết kiệm chi phí trong các hoạt động cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính phủ sẽ quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảm và yêu cầu các Bộ, địa phương xác định các công trình kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên quyết ngay trong việc phân bổ lại và cân đối nguồn vốn. Cũng trên tinh thần đó, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà nước, rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả. Đồng thời, tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư sản xuất hàng hoá thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất. 1.3. tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy, phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ. Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển. 1.4. bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ. Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón... giao nhiệm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả. Trong khi kiên trì chủ trương thực hiện cơ chế giá thị trường, xoá bỏ bao cấp qua giá, nhưng trong tình hình hiện nay, mặc dầu giá thế giới tăng cao, Chính phủ đã quyết định: từ nay cho đến hết tháng 6, chưa tăng giá điện, giá than, giá xăng dầu; giữ ổn định giá ximăng, phân bón, nước sạch, thuốc bệnh, vé máy bay, tàu hoả; giao Bộ Tài chính rà soát để cắt, giảm các loại phí thu từ nông dân... 1.5. triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng Hiện nay, tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội. 1.6. tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát giá cả Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thường xuyên kiểm tra giá bán tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của doanh nghiệp mình. Chính phủ đã chỉ đạo các Tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp. Chính phủ cũng yêu cầu các Hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả. 1.7. mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội Trước tình hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, chúng ta cần có giải pháp để nâng cao đời sống nhân dân, giảm thiểu tác động của lạm phát đối với đời sống của họ. 1.8. phối hợp đồng bộ Chống lạm phát là một nhiệm vụ phức tạp, đòi hỏi sự trả giá và đánh đổi. Để chống lạm phát đạt kết quả, sự trả giá và đánh đổi là thấp nhất, nhất thiết phải có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan quản lý nhà nước, sự chấp hành và tổ chức, triển khai thực hiện nghiêm túc của các cấp chính quyền. Hơn nữa, thị trường thế giới đang biến động, phải theo dõi sát tình hình, cập nhật đầy đủ thông tin để có các giải pháp phản ứng kịp thời, chính xác, nhằm một mặt, hạn chế các tác động xấu do những khó khăn khách quan mới nẩy sinh; mặt khác, tận dụng được thời cơ mới xuất hiện để phát huy tiềm năng tăng trưởng của đất nước, thúc đẩy kinh tế phát triển cao hơn khi điều kiện thuận lợi 2. Những giải pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong thời gian qua và kết quả đạt được 2.1. Giải pháp Từ giữa năm ngoái các chuyên gia đã cảnh báo mạnh mẽ về nguy cơ lạm phát, về những hậu quả khôn lường mà lạm phát có thể gây ra cho tất cả mọi người dân, nhất là những người nghèo, phải chịu; về mối hiểm nguy, về những nguyên nhân chính của lạm phát, về những cách hành xử không phù hợp của chính quyền v.v. Những cảnh báo đôi khi rất khó nghe, tuy nghiêm túc đó, đã làm cho không ít người bực mình. May thay Nhà nước đã có những thay đổi theo đúng hướng, Ngân hàng Nhà nước đã vào cuộc với một loạt biện pháp cứng rắn: nâng dự trữ bắt buộc, thắt chặt cho vay chứng khoán, cảnh báo về cho vay bất động sản, tăng lãi suất tái cấp vốn, tăng lãi suất cơ bản, đến buộc các ngân hàng thương mại mua tín phiếu do Ngân hàng Nhà nước phát hành. Bản thân việc can thiệp quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước là việc làm cần thiết, chứng tỏ Nhà nước đã thay đổi nhận thức của mình và là hành động đúng hướng: Giảm tổng lượng cung tiền. - Tăng lãi suất, tăng dự trữ bắt buộc, bắt buộc mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước (chứ không phải trái phiếu của Bộ Tài chính) là các công cụ chính sách tiền tệ hữu hiệu để giảm lượng cung tiền. - Giám sát chặt chẽ cơn khát đầu tư của các tập đoàn kinh tế nhà nước, không để cho các tập đoàn này liên kết với nhau tham gia quá mức vào các lĩnh vực tài chính ngân hàng, vào kinh doanh bất động sản, những lĩnh vực có vẻ dễ ăn "xổi" nhưng đầy rủi ro, thắt chặt chi tiêu ngân sách, tăng cường hiệu quả đầu tư là cách làm khôn ngoan để chống lạm phát mà vẫn có thể có tăng trưởng bền vững. Như thế các biện pháp của ngân hàng nhà nước là đúng hướng, là đáng hoan nghênh, nhưng còn nhiều việc nữa, nhất là bớt chi tiêu ngân sách, chi tiêu và đầu tư một cách có hiệu quả mà nhà nước phải làm và có thể làm để chống lạm phát và để có tăng trưởng bền vững. Đối với NH Nhà nước ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21202.doc