Các biện pháp khuyến khích & bảo hộ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

lời mở đầu Hiện nay, việc thu hút đầu tư nước ngoài đang trở thành bộ phận chủ yếu của quan hệ kinh tế thế giới. Nó là nhân tố quan trọng hàng đầu của nhiều nước nhằm hỗ trợ và phát huy lợi thế của mỗi quốc gia phát triển và là đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển kinh tế xã hội ở mỗi nước. Đối với các nước đang phát triển, đầu tư nước ngoài là một trong những nhân tố chủ yếu cho sự tăng trưởng kinh tế, là một trong những chỉ số căn bản đánh giá khả năng phát triển. Mở rộng hoạt động kin

doc37 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1701 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Các biện pháp khuyến khích & bảo hộ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế đối ngoại, phát triển ngoại thương, thực hiện tốt chương trình hàng xuất khẩu thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là những nhiệm vụ có tầm chiến lược quan trọng trước mắt, là lâu dài của Đảng và Nhà nước ta. Trong điều kiện hiện nay, khi mà nguồn vốn đầu tư ngày càng khan hiếm, cuộc cạnh tranh để thu hút vốn ngày càng trở nên gay gắt, các nước đều nhận thức được vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài và luôn có những quyết sách thích hợp để cải thiện môi trường đầu tư. Các biện pháp khuyến khích đầu tư ngày càng mở rộng phong phú hơn, cùng với nền tảng bảo hộ pháp chế chắc chắn tạo nên môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư. Việt Nam, sau hơn 10 năm ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987), đã có những đổi mới căn bản trong nhận thức và đường lối, chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài đã đạt được thành tựu đáng khích lệ, nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý đã bước đầu được thu hút, tốc độ tăng trưởng kinh tế được thúc đẩy theo hướng tích cực. Tuy nhiên, trong một số năm gần đây đồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam có xu hướng chững lại, mục tiêu chiến lược đặt ra đến năm 2005 gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, để đẩy mạnh hơn nữa việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cần có những biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sao cho thoáng hơn nữa nhằm tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn để có thể cạnh tranh với các nhà đầu tư trên thế giới. Đặc biệt, đó là điều hết sức cần thiết và có ý nghĩa đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong bài viết này của em nghiên cứu. Các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Bố cục bài viết gồm: - Chương I: Tình hình đầu tư tại Việt Nam - Chương II: Các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam - Chương III: Thực trạng về đầu tư nước ngoài trong những năm gần đây và một số giải pháp, kiến nghị. Chương I Tình hình đầu tư tại Việt Nam I. Cơ sở pháp lý qui định các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư. 1. Sơ lược quá trình xây dựng và hoàn thiện Luật đầu tư nước ngoài: Để có cơ sở cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN), Nhà nước ta đã ban hành Điều lệ ĐTNN tại Việt Nam theo Nghị định 115 CP ngày 19/4/1997 của Chính phủ (gọi tắt là Điều lệ đầu tư 77). Điều lệ đầu tư 77 đã đặt nền móng ban đầu cho hệ thống văn bản pháp luật về ĐTNN tại Việt Nam. Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước, với chủ trương đổi mới cho phù hợp với đặc điểm và khả năng của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn mới, nhằm “mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, phát triển kinh tế quốc dân, đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở khai thác có hiệu quả tài nguyên sức lao động và các tiềm năng của đất nước” chúng ta đã công bố chính sách mở cửa nền kinh tế, trong đó khuyến khích và thừa nhận các hình thức đầu tư nước ngoài. Chính sách ĐTNN đứng trước đòi hỏi phải thay đổi, phải thể hiện tư duy kinh tế mới, phải góp phần mở rộng và đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. Nghị định 115 CP không đủ đáp ứng được yêu cầu này mà đòi hỏi phải có một đạo luật hoàn chỉnh với những qui định cụ thể để phù hợp với tình hình mới. Kỳ hợp Quốc hội khoá VII đã thông qua Luật ĐTNN tại Việt Nam ngày 29/12/1987, đánh dấu một mốc quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và thu hút ĐTNN tại Việt Nam. Luật ĐTNN 1987 đã qui định những vấn đề cơ bản như các hình thức đầu tư, các biện pháp ưu đãi và bảo hộ đầu tư. Đặc biệt, điều 1 khẳng định: “Nhà nước Việt Nam bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và quyền lợi khác của các tổ chức cá nhân nước ngoài tạo điều kiện thuận lợi khác của các tổ chức, các cá nhân nước ngoài tạo điều kiện thuận lợi và qui định các thủ tục dễ dàng cho các tổ chức, cá nhân đó đầu tư vào Việt Nam”. Việc Nhà nước làm là đảm bảo vệ mặt pháp lý chắc chắn cho hoạt động ĐTNN tại Việt Nam. Qua thực tiễn áp dụng, để phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế, Nhà nước ta đã tiến hành sửa đổi bổ sung luật ĐTNN hai lần: Luật ĐTNN sửa đổi bổ sung 30/6/1990; Luật ĐTNN sửa đổi bổ sung 23/12/1992. Đồng thời các văn bản pháp qui có liên quan cũng được từng bước ban hành, bổ sung, sửa đổi cho phù hợp. Hệ thống văn bản này đến cuối 1995 bao gồm hơn 100 văn bản pháp luật cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành Luật ĐTNN. Tổng cộng đã có hơn 30 văn bản dưới luật đã được ban hành sau Luật ĐTNN 1996. Đến nay, Luật ĐTNN sửa đổi bổ sung ngày 1/7/2000 đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thức 7 thông qua. Luật ĐTNN tại Việt Nam liên tục được sửa đổi và hoàn thiện trong suốt quá trình xây dựng đất nước phần nào làm cho một số nhà đầu tư e ngại, họ cho rằng pháp luật Việt Nam chưa ổn định và cảm thấy không yên tâm khi đầu tư. Nhưng trong thực tế, việc hoàn thiện liên tục này không làm ảnh hưởng và không gây ra những tác động tiêu cực đối với hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư mà nó chỉ từng bước hoàn thiện hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn và cơ cấu hợp lý hơn, nó chứa đựng những qui phạm thực chất qui định cụ thể biện pháp khuyến khích, ưu đãi và bảo đảm quyền lợi nhà ĐTNN. Việc sửa đổi bổ sung Luật ĐTNN tại Việt Nam luôn nhất quán với nguyên tắc mà Hiến pháp 92 đã nêu rõ: “Nhà nước khuyến khích các tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế, bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN không bị quốc hữu hoá”. 2. Một số sửa đổi quan trọng để khuyến khích và bảo hộ đầu tư của Luật ĐTNN tại Việt Nam. - Về các hình thức đầu tư: Trước đây, Luật ĐTNN 1987 và Luật sửa đổi 1990 chỉ qui định 3 hình thức là: Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, XN liên doanh và Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Luật sửa đổi 1992 qui định thêm phương thức mới là Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO) và Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT) đồng thời qui định cụ thể hơn qui chế đầu tư vào khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao. - Về thời hạn đầu tư: Theo Luật ĐTNN 87 thì thời hạn đầu tư “không quá 20 năm, trường hợp đặc biệt có thể kéo dài hơn”. Luật sửa đổi bổ sung 92 qui định thời hạn hoạt động của dự án có vốn ĐTNN là 50 năm, trường hợp đặc biệt có thể kéo dài đến 70 năm. - Về chủ thể tham gia quan hệ đầu tư: Nhà đầu tư nước ngoài có điều kiện để lựa chọn đối tác thích hợp khi đầu tư vào Việt Nam. - Về thủ tục cấp phép đầu tư: Thời hạn xét duyệt hồ sơ rút ngắn hơn (từ 3 tháng xuống 60 ngày), mở rộng cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư: “ngoài Bộ Khoa học - Đầu tư còn có thể phân cấp cho một số UBND tỉnh, thành phố nhất định hoặc ban quản lý khu công nghiệp trong trường hợp uỷ quyền, thủ tục thẩm định và cấp phép dự án đầu tư được đơn giản hơn nhiều so với trước. Đặc biệt Luật đầu tư sửa đổi bổ xung 2000 qui định thời hạn xem xét đơn và thông báo quyết định cấp phép đầu tư là 45 hoặc 30 ngày. * Luật ĐTNN sửa đổi 1/7/2000: các qui định mới có thể chia làm 3 nhóm: - Nhóm I: những qui định mới nhằm tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN. + Thừa nhận quyền doanh nghiệp ĐTNN được thế chấp tài sản gắn với sử dụng đất, được mở tài khoản ở nước ngoài, được hỗ trợ cân đối ngoại tệ hợp lý hơn. + Được giải thể và thanh lý tài sản phù hợp với thông lệ khi doanh nghiệp ngừng hoạt động. + Được Chính phủ bảo lãnh những dự án đặc biệt quan trọng, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn ĐTNN có sự bình đẳng về thuế giá trị gia tăng. + Quan trọng hơn cả là những qui định bảo đảm quyền lợi cho nhà đầu tư trong trường hợp thay đổi qui định của pháp luật Việt Nam làm thiệt hại đến lợi ích của nhà đầu tư như qui định mới ưu đãi hơn ban hành sau khi được cấp phép đầu tư sẽ được áp dụng cho doanh nghiệp ĐTNN đã được cấp giấy phép đã và đang hoạt động. - Nhóm 2: Những điều khoản nhằm giảm hoặc xoá bỏ sự áp đặt hay can thiệp trái với thông lệ quốc tế vào việc tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. + Các nhà đầu tư được chủ động chuyển nhượng vốn, lập các quĩ, tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp. + ND của nguyên tắc nhất trí trong hội đồng quản trị doanh nghiệp liên doanh thu hẹp hơn so với trước. - Nhóm 3: Những điều khoản mới ưu đãi làm cho môi trường đầu tư hấp dẫn hơn như: + Giảm thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. + Miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị và phương tiện nhập khẩu để tạo dựng tài sản cố định của doanh nghiệp, phía Việt Nam có trách nhiệm trong việc đền bù và giải phóng mặt bằng. + Cho phép nhà đầu tư chọn áp dụng luật nước ngoài đối với vấn đề chưa được quy định trong pháp luật Việt Nam. + Tinh giản hơn nữa thủ tục hành chính trong thẩm định, cấp giấy phép và quản lý dự án ĐTNN. Như vậy, những sửa đổi của luật ĐTNN ngày càng tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn hơn. II. Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. 1. Đầu tư trực tiếp: Là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà chủ ĐTNN đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm sau: Thứ nhất, đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư quyết định và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và có hiệu quả cao, không để lại gánh nặng nợ nần cho kinh tế. Thứ hai, chủ ĐTNN điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh theo tỷ lệ góp vốn của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực, chủ đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 40%-51% số cổ phần còn lại do nước chủ nhà nắm giữ. Trong khi đó, Luật ĐTNN của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối với hình thức 100% vốn nước ngoài và qui định bên nước ngoài phải góp vốn tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án (trường hợp đặc biệt có thể 20%). Thứ ba, thông qua FDI, chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý,... là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. Thứ tư, nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ lợi nhuận thu được. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò: - Cung cấp nguồn vốn bổ sung cho nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, bù đắp sự thiếu hụt về vốn, ngoại tệ trong quá trình CNH, HĐH. - Việc sử dụng công nghệ hiện đại buộc nhà ĐTNN cũng như Chính phủ Việt Nam phải có các chương trình đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ công nhân làm việc trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Nhờ vậy mà năng lực chuyên môn và trình độ quản lý của cán bộ trong nước được nâng cao. - FDI tác động mạnh đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. - Tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. - Tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp cận thị trường thế giới. 2. Đầu tư gián tiếp. Là hình thức đầu tư quốc tế quan trọng, trong đó chủ đầu tư nước ngoài đầu tư bằng hình thức mua cổ phần của công ty nước sở tại (có mức khống chế nhất định) để thu lợi nhuận mà không tham gia điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Đầu tư gián tiếp nước ngoài có những điểm sau: Thứ nhất, phạm vi đầu tư có giới hạn vì chủ đầu tư chỉ có thể quyết định mua cổ phần của những doanh nghiệp làm ăn có lãi hoặc có triển vọng phát triển trong tương lai. Thứ hai, số lượng cổ phần của các công ty nước ngoài được mua bị khống chế trong mức độ nhất định tuỳ theo từng nước để không có cổ phần nào chi phối doanh nghiệp. Thông thường là phải dưới 10-25% vốn pháp định. Thứ ba, chủ ĐTNN không tham gia điều hành doanh nghiệp, do đó bên tiếp nhận đầu tư có quyền chủ động hoàn toàn trong kinh doanh. Chủ đầu tư nước ngoài thu được lợi nhuận qua lãi suất cổ phiếu không cố định tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh. Thứ tư, tuy doanh nghiệp đầu tư không có khả năng tiếp thu công nghệ kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý nhưng thay vào đó doanh nghiệp có khả năng phân tán rủi ro kinh doanh trong những người mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp. Qua sự phân tích trên, đã phần nào thể hiện được ưu thế của hình thức ĐTNN so với đầu tư gián tiếp và các hình thức đầu tư quốc tế khác. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, hình thức ĐTNN là phù hợp và có hiệu quả nhất. Chương II các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam I. Các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Biện pháp khuyến khích đầu tư là các biện pháp của Chính phủ được đặt ra để tác động tới qui mô, địa điểm hay ngành nghề đầu tư thông qua việc tác động tới chi phí tương đối hay lợi nhuận tiềm năng hoặc bằng cách thay đổi rủi ro đi kèm với các dự án đó. Các biện pháp khuyến khích đầu tư có thể dành cho công ty nước ngoài doanh nghiệp trong nước hoặc cả hai. Khi ưu đãi dành cho nhà ĐTNN thì những biện pháp đó gắn với chủ ý ưu tiên và thu hút đầu tư trực tiếp chứ không phải là hạn chế. Chính sách khuyến khích đầu tư thực sự là một đòn bẩy kinh tế và vai trò của nó ở chỗ nó quyết định trực tiếp tới mức lợi nhuận. Chính sách thuế cởi mở với tỷ suất thấp, giá thuê đất thấp, tiền lương thấp sẽ làm cho chi phí tư bản thấp đi và như vậy trong điều kiện bình thường thì đương nhiên mức lợi nhuận sẽ cao, có lợi cho nhà đầu tư. Vì vậy, Nhà nước đã sử dụng các biện pháp này như một công cụ lợi hại để cạnh tranh trên thị trường vốn đầu tư. Nhà nước Việt Nam nhận thức được rằng tranh thủ đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội là cần thiết phải có chính sách đúng. Trong điều kiện các nước không ngừng cải thiện môi trường ĐTNN để thu hút vốn và nâng cao sức cạnh tranh, Chính phủ Việt Nam cũng đưa ra các biện pháp khuyến khích TTNN bao gồm: - Những lĩnh vực khuyến khích đầu tư - Những hình thức khuyến khích đầu tư - Những ưu đãi về tài chính. 1. Những lĩnh vực khuyến khích đầu tư nước ngoài: Chính phủ Việt Nam khuyến khích và dành ưu đãi đặc biệt đối với các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng công nghệ dự án đầu tư thuộc danh mục các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư và danh mục các địa bàn khuyến khích đầu tư. Điều 3 luật ĐTNN qui định: “Nhà ĐTNN được đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân”. Nhà nước khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào những lĩnh vực và khu vực sau: * Lĩnh vực: - Sản xuất hàng xuất khẩu. - Sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển. - Sử dụng nhiều lao động, chế biến nguyên liệu và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam. - Xây dựng kết cấu hạ tầng và các cơ sở sản xuất công nghiệp quan trọng. * Khu vực: - Khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. - Khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Các dự án đầu tư vào khu vực khuyến khích đầu tư và các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư được dành một số ưu đãi về thuế. Có thể nói, dựa vào mục tiêu phát triển đất nước theo hướng CNH, HĐH dựa vào nguồn nhân lực vốn có của đất nước và định hướng thị trường mà Chính phủ đã xác định rõ các lĩnh vực cần thu hút FDI và có các biện pháp để khuyến khích ĐTNN. Nhà ĐTNN khi đầu tư vào các lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư sẽ được hưởng thêm các ưu đãi đặc biệt, các qui định của pháp luật dựa trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi và đảm bảo cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. 2. Các hình thức thu hút FDI. Hiện nay, FDI vào Việt Nam được thực hiện theo các hình thức sau: - Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp do 2 bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc ký Hiệp định giữa nước cộng hoà XHCN Việt Nam với Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn ĐTNN hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà ĐTNN trên cơ sở Hợp đồng liên doanh. - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do nhà ĐTNN đầu tư 100% vốn tại Việt Nam. - Hợp tác kinh doanh trên cơ sở Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa 2 bên hoặc nhiều bên để tiến hành hoạt động đầu tư mà không thành lập doanh nghiệp. Hợp đồng BOT, BTO, BT - Hợp đồng xây dựng kinh doanh chuyển giao là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà ĐTNN để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong 1 thời hạn nhất định, hết thời hạn nhà ĐTNN chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. - Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà ĐTNN để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng xong, nhà ĐTNN chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. - Hợp đồng xây dựng chuyển giao là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà ĐTNN để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, khi xây dựng xong, nhà ĐTNN chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. Thời gian qua, doanh nghiệp liên doanh là hình thức chiếm ưu thế Nhà nước cũng có những ưu tiên cho doanh nghiệp liên doanh (DNLD), xuất phát từ lợi ích của bên Việt Nam khi tham gia DNLD sẽ có cơ hội đào tạo đội ngũ quản lý, nâng cao trình độ công tác, còn bên nước ngoài có điều kiện tiếp cận thị trường thực hiện các thủ tục hành chính nhanh chóng. Tuy nhiên, trong vài năm gần đây hình thức này có xu hướng giảm bớt về tỷ trọng. Trước xu hướng này, để khuyến khích hình thức DNLD chúng ta cần có chính sách tạo vốn cho bên Việt Nam để tăng tỷ lệ góp vốn, có kế hoạch đào tạo cán bộ quản lý để đưa vào quản lý DNLD. Mặt khác, các quy định của pháp luật phải có sự chuyển đổi thích hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà ĐTNN, rút ngắn khoảng cách sự ưu đãi dành cho doanh nghiệp, tạo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp là doanh nghiệp Việt Nam. Trước đây chỉ có DNLD mới có quyền chuyển lỗ của năm này sang lãi của năm sau nhưng không quá 5 năm, hiện nay quyền này dành cho tất cả doanh nghiệp có vốn ĐTNN và cả bên hợp doanh nước ngoài. Nguyên tắc nhất trí trong hội đồng quản trị cũng thu hẹp lại hơn so với trước. Một số thay đổi của luật đã phần nào tháo gỡ bức xúc vướng mắ cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Việc hợp tác kinh doanh trên cơ sở Hợp đồng hợp tác kinh doanh được thực hiện trên nhiều lĩnh vực và qua thực tiễn rất phù hợp với điều kiện của Việt Nam nhất là trong các lĩnh vực khó khăn, đòi hỏi vốn lớn, có mức độ rủi ro cao mà chúng ta không đủ khả năng về vốn cũng như công nghệ để tham gia liên doanh. Đến cuối 1999 hình thức này chiếm 7,1% số dự án và 10% vốn đầu tư. Thời gian qua chúng ta mới chỉ thu được 4 dự án BOT, chưa có dự án BTO, BT. Các qui định của luật và văn bản dưới luật về hình thức đầu tư này nhìn chung còn sơ sài, lỏng lẻo, gây khó khăn trong việc giải thích hướng dẫn và vận dụng. Trong thực tế lại khá phức tạp vì nó liên quan đến nhiều vấn đề như thủ tục, vốn góp, tổ chức khai thác phân chia lợi nhuận, giải quyết tranh chấp. Ưu thế của hình thức này ở chỗ nó là hình thức đầu tư đơn giản, các bên tham gia không phải ràng buộc với nhau trong một pháp nhân chung, vì vậy trong khi tiến hành khai thác các bên vẫn duy trì được tính độc lập của mình. Luật ĐTNN hiện nay không cho hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh được hưởng ưu đãi của chế độ miễn giảm thuế như đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Đây cũng là vấn đề làm nhà ĐTNN tính toán có nên đầu tư hay không. Ví dụ như theo các nhà đầu tư của Mỹ, hình thức đầu tư theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh là có lợi cho họ về thuế theo luật của Mỹ nhưng nếu đầu tư vào Việt Nam họ lại không được hưởng ưu đãi như các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. So với các quốc gia khác, hình thức thu hút FDI của Việt Nam còn đơn điệu và ít có cơ hội cho nhà ĐTNN lựa chọn. Đây là một thực tế khách quan phù hợp với điều kiện hoàn cảnh nước ta, giúp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quản lý, giám sát được hoạt động ĐTNN nhưng lại là điều khiến nhà ĐTNN ngần ngại khi bỏ vốn vào vì họ không có nhiều hình thức đầu tư để lựa chọn. Lấy kinh nghiệm các nước như Trung Quốc, nhà ĐTNN có thể lựa chọn một trong nhiều hình thức sau: thành lập liên doanh hợp tác, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp toàn bộ sở hữu nước ngoài, tham gia cổ phần tại các công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn Trung Quốc, thành lập chi nhánh công ty nước ngoài tại Trung Quốc, thành lập công ty Holding company (Công ty quản lý vốn, đa mục tiêu, đa dự án), thành lập văn phòng đại diện, tiến hành các hoạt động gia công và lắp ráp tại Trung Quốc, tham gia công ty cổ phần có vốn ĐTNN. ở Inđônêxia, nhà ĐTNN có thể chọn các hình thức sau: liên doanh với một công ty Inđônêxia để thành lập một công ty liên doanh trách nhiệm hữu hạn, thành lập chi nhánh nếu hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng hoặc công ty khai thác dầu khí, công ty liên doanh có thể mua cổ phần của các công ty Inđônêxia. Chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm để đa dạng hoá các hình thức FDI tạo điều kiện cho nhà ĐTNN lựa chọn, so sánh hình thức nào phù hợp với họ nhất, đảm bảo cho họ có được lợi nhuận cao nhất mà chúng ta vẫn quản lý được hoạt động ĐTNN. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta chưa đủ điều kiện để tổ chức hoạt động đầu tư gián tiếp nên Luật ĐTNN 2000 vẫn giữ nguyên các hình thức như trước. Chúng ta hy vọng trong thời gian tới Chính phủ sẽ hoàn thiện dần hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu lực quản lý, đa dạng hoá các hình thức ĐTNN. Để phát triển công nghiệp có hiệu quả, các Chính phủ đều khuyến khích các nhà ĐTNN đầu tư vào khu công nghiệp. Có thể chia khu công nghiệp làm 3 loại: - Khu công nghiệp (KCN) thông thường: là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc thủ tướng Chính phủ cấp quyết định thành lập. - Khu chế xuất (KCX): là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. - Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp có kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên cứu, triển khai khoa học công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên quan, có ranh giới đại lý xác định, do Chính phủ hoặc thủ tướng Chính phủ cấp quyết định thành lập. ở Việt Nam, để xây dựng nền công nghiệp hướng vào xuất khẩu đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, cần đảm bảo những điều kiện và yếu tố cần thiết: vốn đầu tư, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, đội ngũ quản lý và công nhân lành nghề có trình độ tay nghề cao. KCX, KCN là công cụ quan trọng để thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu, đồng thời khai thông với thị trường khu vực và thế giới. Hiện nay, cả nước có 58 KCN, trong đó có 3 KCX đã và đang hoạt động, 12 khu liên doanh với nước ngoài xây dựng, 1 khu do Đài Loan bỏ 100% vốn xây dựng, số còn lại do Việt Nam tự bỏ vốn xây dựng. Trong số 58 KCN nói trên, tính đến cuối 1999 mới có hơn 20 KCN đã thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Dẫn đầu là KCN Biên Hoà 2, KCX Tân Thuận, KCN Sài Đồng B. Còn nhìn chung các KCN khác số dự án vào còn rất ít nhiều lô đất trong KCN còn bị bỏ trống, có khi chỉ sử dụng 35% diện tích. Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân khác nhau: do kết cấu hạ tầng bên ngoài KCN xây dựng rất chậm và thiếu đồng bộ, do chi phí điện nước, dịch vụ kỹ thuật của KCN còn quá cao, có quá nhiều loại phí và lệ phí đào tạo nên tâm lý không muốn đầu tư vào các KCN. Tóm lại, thu hút các dự án FDI vào các KCN là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn nhằm phát triển nhanh nền công nghiệp nước ta, phục vụ đắc lực sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhưng một thực tế là việc phát triển các KCN của ta chưa đủ sức thu hút các dự án FDI, làm giảm nhịp độ vốn đầu tư FDI vào Việt Nam trong những năm tới, chúng ta cần cải tiến cơ chế hoạt động của các KCN, KCX. 3. Những ưu đãi về tài chính: Đối với các doanh nghiệp cũng như đối với các nhà ĐTNN, đầu tư vào Việt Nam thì vấn đề lợi nhuận là yếu tố quan trọng hàng đầu của quá trình kinh doanh mà trong đó thuế là yếu tố quan trọng nhất để so sánh sự ưu đãi về đầu tư, các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp có vốn ĐTNN hiện đang áp dụng hệ thống thuế bao gồm hơn 10 loại thuế và một số loại phí như: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế VAT, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế XNK, thuế môn bài, lệ phí chước bạ, lệ phí chứng thư. Tuy nhiên theo quy định của luật ĐTNN có sự khác biệt đáng kể giữa đầu tư trong nước và ĐTNN về một số loại thuế, thể hiện sự ưu đãi và khuyến khích của Nhà nước đối với nhà ĐTNN. 3.1. Thuế thu nhập doanh nghiệp. Được qui định tại điều 45, 46, 47, 48, Nghị định 24CP ngày 31/7/2000. * Mức thuế suất phổ thông: Doanh nghiệp có vốn ĐTNN và bên hợp doanh nước ngoài nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất là 25% lợi nhuận thu được. * Mức thuế suất ưu đãi: - Trong trường hợp khuyến khích đầu tư, mức thuế thu nhập doanh nghiệp là 20% lợi nhuận thu được. - Trường hợp có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư thì mức thuế suất là 15% lợi nhuận thu được. - Trường hợp đặc biệt khuyến khích đầu tư thì mức thuế lợi tức là 10% lợi nhuận thu được. Sau thời gian được hưởng mức thuế suất ưu đãi nói trên, các dự án phải nộp thuế suất doanh nghiệp với mức thuế suất là 25% riêng đối với dự án đầu tư đáp ứng một trong các tiêu chuẩn sau được áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trong suốt thời hạn thực hiện dự án: thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư, thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn trong danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư, dự án phát triển hạ tầng KCX, KCN, khu công nghệ cao, đầu tư vào KCX, KCN, khu công nghệ cao, thuộc lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo nghiên cứu khoa học. * Một số ưu đãi đặc biệt khác: - Các kiều bào nước ngoài đầu tư về nước được giảm 20% thuế thu nhập doanh nghiệp so với các dự án cùng loại, trừ trường hợp được hưởng mức thuế là 10%. - Thuế đối với doanh nghiệp BOT: thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp bằng 10% lợi nhuận thu được và áp dụng trong suốt thời gian thực hiện dự án. Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo. Trong trường hợp đầu tư vào địa bàn khuyến khích đầu tư được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 8 năm kể từ khi kinh doanh có lãi. Điều 49 Nghị định 24CP qui định rõ hơn sự ưu đãi: các doanh nghiệp BOT, BTO, BT đầu tư vào địa bàn thuộc danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư, doanh nghiệp khu công nghệ kỹ thuật cao, doanh nghiệp dịch vụ công nghệ cao trong khu công nghệ cao, các dự án trồng rừng và các dự án xây dựng - kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng tại điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, các dự án có qui mô lớn và có tác động lớn đối với kinh tế - xã hội thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 8 năm kể từ khi kinh doanh có lãi. Đối với lĩnh vực dầu khí và một số tài nguyên quí hiếm khác thì miễn thuế thu nhập doanh nghiệp theo qui định của luật dầu khí và pháp luật có liên quan. Nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân Nhà nước mở rộng đầu tư tại Việt Nam, điều 51 Nghị định 24CP qui định: 1. Nhà ĐTNN dùng lợi nhuận và các khoản thu hợp pháp khác trong hoạt động đầu tư ở Việt Nam để tái đầu tư vào các dự án đang thực hiện hoặc đầu tư vào dự án mới theo luật ĐTNN được hoàn lại một phần hoặc toàn bộ số thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp của số lợi nhuận tái đầu tư (trừ trường hợp qui định tại luật dầu khí) nếu đáp ứng các điều kiện sau: a. Tái đầu tư vào những dự án được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp nêu tại điều 46 của Nghị định này. b. Vốn tái đầu tư được sử dụng từ 3 năm trở lên. c. Đã góp đủ vốn pháp định, vốn để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh ghi trong giấy phép đầu tư. 2. Mức hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với số lợi nhuận tái đầu tư tại Việt Nam được qui định như sau: a. 100% nếu tái đầu tư vào các dự án thuộc diện được hưởng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10%; b. 75% nếu tái đầu tư vào các dự án thuộc diện được hưởng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 15%. c. 50% nếu tái đầu tư vào các dự án thuộc diện được hưởng mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp 20%. Mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và các qui định về miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp rõ ràng là một đòn bảy kinh tế đối với nhà ĐTNN và nâng cao khả năng cạnh tranh thu hút vốn của Luật ĐTNN tại Việt Nam. 3.2. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là công cụ của Nhà nước để điều chỉnh vĩ mô các hoạt động chuyển tiền tệ ra nước ngoài nói riêng và hoạt động đầu tư nói chung. Nhằm khuyến khích thu hút ĐTNN, nhà nước ta đã qui định những mức thuế ưu đãi, đồng thời cơ quan quản lý Nhà nước về ĐTNN có thể miễn giảm thuế này trong các trường hợp khuyến khích đầu tư. Điều 43, luật sửa đổi bổ sung một số luật ĐTNN tại Việt Nam 2000 “Khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài phải nộp một khoản thuế là 3%, 5%, 7% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài, tuỳ thuộc vào mức độ góp vốn của nhà ĐTNN vào vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn ĐTNN hoặc vốn thực hiện hợp động hợp tác kinh doanh”. Điều 50 Nghị định 24CP qui định cụ thể: 1. Lợi nhuận mà nhà ĐTNN thu được do đầu tư tại Việt Nam (kể cả thuế thu nhập doanh nghiệp được hoàn lại do tái đầu tư và lợi nhuận thu được do chuyển nhượng vốn) nếu chuyển ra nước ngoài hoặc được giữ lại ngoài Việt Nam đều phải chịu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. 2. Thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài được áp dụng như sau: a. 3% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài đối với: - Người Việt Nam định cư ở nước ngo._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0057.doc