Cà HỘI và THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH THỦY SẢN Việt Nam khi gia nhập WTO

LỜI MỞ ĐẦU : Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mạI Thế GiớI WTO. Đó là một thành công rất lớn của chúng ta sau suốt 12 năm đàm phán. Bước vào WTO chính là lúc con tàu Việt Nam bước ra biển lớn, hòa mình vào đại dương. Chúng ta đã có điều kiện, có thế và lực mới để giao lưu thương mại bình đẳng với cả thế giới. Gia nhập WTO, chúng ta có rất nhiều thời cơ và lợi thế để đẩy mạnh kinh tế phát triển đất nước, đồng thời, chúng ta cũng sẽ gặp không ít khó khăn, thá

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3208 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Cà HỘI và THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH THỦY SẢN Việt Nam khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch thức. Đối măt với một sân chơi mới, với những thời cơ mới, quy định mới, những yêu cầu khắc nghiệt hơn về mọi mặt, nhất là khía cạnh luật pháp, Việt Nam tất yếu sẽ phải thay đổi, thích nghi với hoàn cảnh, khắc phục khó khăn, biến thách thức thành cơ hội, tận dụng cơ hội để phát triển kinh tế, giao lưu hội nhập, nâng cao vị thế của mình trên trường Thế Giới. Gia nhập WTO chắc chắn sẽ mang tới những thay đổi to lớn cho nền Kinh tế Việt Nam nói chung, và ngành xuất nhập khẩu thủy sản nói riêng. Hiện nay, Việt Nam xếp vị trí thứ 7 về xuất khẩu thuỷ sản trên thế giới. Là lĩnh vực đầu tiên chịu thử thách, rủi ro từ hội nhập; các doanh nghiệp thủy sản đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quý báu khi làm ăn trên thương trường quốc tế. Khởi đầu từ một nền sản xuất phụ trong ngành nông nghiệp, chủ yếu là tự cung tự cấp, phục vụ nhu cầu trong nước, mãi cho đến những năm 1990, thị trường xuất khẩu của hàng thuỷ sản Việt Nam vẫn chỉ quanh quẩn trong khu vực Đông Âu. Nhưng giờ đây, ngành thuỷ sản vươn mình đứng dậy và trở thành một trong số ít những lĩnh vực đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD và là một trong những ngành phải "rát mặt" nhiều nhất khi hội nhập. Đã tham gia vào thị trường thế giới thì phải tuân thủ những yêu cầu, điều kiện, những luật lệ chung của thị trường Thế giới. Đề tài nghiên cứu khoa học này xem xét các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO nói chung, cũng như nghành thủy sản nói riêng và những cơ hội, thách thức đói với nghành này. CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI VÀ CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM I. Khái quát chung về WTO :  Tổ chức Thương mại thế giới (World trade organization-WTO) là một tổ chức quốc tế, trụ sở chính ở Giơnevơ (Thụy Sĩ), có chức năng giám sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên theo các qui tắc thương mại đã cam kết. Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do thương mại.   WTO có tiền thân là GATT-định chế thương mại quốc tế Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (1/1/1948 với 23 nước tham gia thỏa thuận ban đầu), GATT đóng vai trò là khung khổ pháp lí chủ yếu của hệ thống thương mại đa phương trong suốt 50 năm (đến hết năm 1994). Các nguyên tắc và các hiệp định của GATT được WTO kế thừa,quản lí và mở rộng. Tính đến nay WTO đã có 150 thành viên, giao dịch giữa các thành viên chiếm trên 90% giao dịch thương mại quốc tế. Ngôn ngữ chính thức : tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha. II. Những đặc trưng cở bản của WTO: 1.Mục tiêu hoạt động và chức năng cơ bản: a. Mục tiêu hoạt động: Với tư cách là một tổ chức thương mại lớn nhất thể giới và kế tục GATT, mục tiêu tổng quát mà WTO theo đuổi đã được ghi trong  lời nói đầu của hiệp định GATT 1947 là nâng cao mức sống của nhân dân các bên tham gia ký kết, đảm bảo việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thương mại, sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của thế giới. Cụ thể là: - Thúc đẩy tăng trưởng, thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường. - Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế, bảo đảm cho các nước đang phát triển đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được hưởng thụ những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển của của các nước này và khuyến khích các nước này ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. -  Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm, cho người dân của các thành viên, bảo đảm quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.                         b. Những chức năng cơ bản : Để đạt được các mục tiêu trên, WTO có những chức năng cơ bản sau đây: -  Quản lý các hiệp định thương mại thuộc hệ thống thương mại WTO. - Diễn đàn đàm phán thương mại : thiết lập khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO. -   Giải quyết các tranh chấp thương mại. Hình thành cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các thành viên liên quan đến việc thực hiện và giải thích hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa phương. -  Giám sát các chính sách thương mại của các thành viên. Hiệp định thành lập WTO đã quy định một cơ chế giám sát chính sách thương mại áp dụng chung đối với tất cả các thành viên. -  Hợp tác với các tổ chức quốc tế, hỗ trợ các nước đang phát triển về chính sách thương mại, thông qua các chương trình hỗ trợ kỹ thuật và huấn luyện: thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế  quốc tế khác như quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và ngân hàng thế giới (WB) trong việc hoạch định những chính sách và dự báo về những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu. hỗ trợ các nước phát triển về chính sách thương mại, thông qua các chương trình hỗ trợ kỹ thuật và huấn luyện. 2. Những nguyên tắc hoạt động: Phần lớn các quyết định của WTO đều dựa trên cơ sở đàm phán và đồng thuận. Mỗi thành viên của WTO có một phiếu bầu có giá trị ngang nhau. Nguyên tắc đồng thuận có ưu điểm là nó khuyến khích nỗ lực tìm ra một quyết định khả dĩ nhất được tất cả các thành viên chấp nhận. Nhưng nhược điểm của nó là tiêu tốn nhiều thời gian và nguồn lực để có một quyết định đồng thuận. Đồng thời nó dẫn đến xu hướng sử dụng cách diễn đạt chung chung trong hiệp định đối với những vấn đề có nhiều tranh cãi, khiến cho việc diễn giải các hiệp định gặp nhiều khó khăn. Trên thực tế, đàm phán của WTO diễn ra không phải qua sự nhất trí của tất cả các thành viên mà qua một quá trình đàm phán không chính thức giữa những nhóm nước. Những cuộc đàm phán như vậy thường được gọi là “đàm phán trong phòng Xanh “ lấy theo màu của phòng làm việc của tổng giám đốc WTO tại Giơnevơ (Thuỵ Sĩ) Chúng còn được gọi là hội nghị bộ trưởng thu hẹp khi chúng diễn ra ở các nước khác. 3. Các nguyên tắc pháp lí cơ bản của WTO: WTO hoạt động dựa trên nguyên tắc pháp lý căn bản sau: a. Nguyên tắc thứ nhất : Không phân biệt đối xử. Nguyên tắc này là nguyên tắc pháp lý quan trọng nhất của WTO bao gồm hai nội dụng : đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) và đãi ngộ quốc gia (NT) 1. Đãi ngộ tối huệ quốc là nguyên tắc quy định mỗi thành viên sẽ dành cho sản phẩm của một thành viên khác sự đối xử không kém ưu đãi hơn sự đối sử mà thành viên đó dành cho sản phẩm của một thành viên thứ ba. 2. Đãi ngộ quốc gia là nguyên tắc quy định mỗi thành viên sẽ không dành cho sản phẩm của công dân của mình sự đối xử ưu đãi hơn so với sản phẩm của người nước ngoài. b. Nguyên tắc thứ hai: Mở cửa thị trường. Nguyên tắc “ mở cửa thị trường “ hay còn gọi là “ tiếp cận thị trường “ thực chất là tự do hoá thương mại, mở cửa thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và đầu tư nước ngoài. Trong một hệ thống thương mại đa phương, khi tất cả các bên tham gia đều chấp nhận  mở cửa thị trường của mình thì điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa. Về mặt pháp lý, tiếp cận thị trường thể hiện nghĩa vụ có tính chất ràng buộc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường mà nước này đã chấp nhận khi đàm phán gia nhập WTO. c. Nguyên tắc thứ ba : Có khả năng dự đoán trước. Các công ty, nhà đầu tư và chính phủ nước ngoài có thể vững tin rằng các rào cản thương mại sẽ không được dựng lên tuỳ tiện, ngày càng có thêm những cam kết về mặt pháp lý trong việc giảm thuế suất và mở cửa thị trường trong WTO. Việc bảo hộ thông qua thuế quan là để đảm bảo tính minh bạch và dễ dự đoán. Thuế quan thể hiện bằng đại lượng rõ ràng là những con số, do đó người ta có thể dễ dàng nhận thấy mức độ bảo hộ dành cho một mặt hàng, ngành hàng.   d. Nguyên tắc thứ tư: Cạnh tranh công bằng Nguyên tắc này nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng, hạn chế các tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định e. Nguyên tắc thứ năm : Dành cho các thành viên đang phát triển và các nước đang chuyển đổi một số ưu đãi. Dành cho các nước chậm phát triển nhiều thời gian hơn để điều chỉnh, tính linh hoạt cao hơn và nhữnh ưu đãi đặc biệt. Ví dụ: Được miễn không phải thực hiện nghĩa vụ, mức độ cam kết thấp hơn… Tóm lại, với những nguyên tắc nêu trên, rõ ràng là WTO đã không áp đặt các chính sách, cũng không vạch đường chỉ lối cho các thành viên trong việc thực hiện các chính sách thương mại, mà là một tổ chức chịu sự điều hành của các thành viên . Nguyên tắc đồng thuận đòi hỏi mọi quyết định phải được tiến hành thông qua đàm phán giữa các thành viên và phải được quốc hội của các thành viên phê chuẩn. Nói cách khác, việc thông qua các quyết định của WTO là công khai, dân chủ và có trách nhiệm. Cơ hội lớn nhất để WTO có ảnh hưởng trực tiếp tới chính sách của một nước nào đó là khi các tranh chấp có liên quan được đưa ra xem xét tại WTO và được quyết định bởi Cơ quan giải quyết tranh chấp. Thông thường, Cơ quan giải quyết tranh chấp đưa ra quyết định dựa trên các phán quyết của các ủy ban hoặc dựa trên hồ sơ phúc thẩm. Dưới mọi góc độ, WTO không bao giờ bắt các nước phải chấp nhận hoặc từ bỏ một chính sách cụ thể nào. Ban thư kí cũng chỉ đơn thuần là một bộ phận cung cấp các hỗ trợ về mặt kĩ thuật, hành chính cho WTO và các thành viên. III. Các cam kết của Việt Nam tác động đến ngành thủy sản và pháp luật về thủy sản : Chính sách ảnh hưởng tới thương mại hàng hóa : * Quyền kinh doanh (quyền nhập khẩu và xuất khẩu) Việt Nam cam kết kể từ ngày gia nhập, mọi thể nhân hoặc pháp nhân, dù là thể nhân hay pháp nhân Việt Nam hoặc nước ngoài, đều có quyền trở thành nhà nhập khẩu hoặc xuất khẩu đứng tên trên hồ sơ đối với mọi sản phẩm được phép nhập khẩu vào Việt Nam hoặc xuất khẩu từ Việt Nam, và trong trường hợp nhập khẩu sẽ có quyền bán hoặc cung cấp các sản phẩm đó cho mọi thể nhân hoặc pháp nhân Việt Nam hay nước ngoài có quyền phân phối các sản phẩm đó. Việt Nam gia nhập WTO, quyền kinh doanh sẽ được quản lý phù hợp với mọi quy định liên quan của WTO. Khi được đề nghị cung cấp thông tin về các chương trình trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam, đại diện Việt Nam cho biết Việt Nam đã thành lập Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu nhằm hỗ trợ, khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm của Việt Nam. Các hình thức trợ cấp từ Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu bao gồm hỗ trợ lãi suất (hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ lãi suất vay vốn ngân hàng thông thường); hỗ trợ tài chính trực tiếp, đặc biệt đối với hàng hóa lần đầu tiên xuất khẩu, hàng hóa xuất khẩu sang các thị trường mới, hàng hoá chịu biến động mạnh về giá cả; thưởng và khen thưởng xuất khẩu. Tổng chi từ Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu năm 2004 lên tới 193 tỉ đồng Việt Nam. Đại diện Việt Nam cho biết hỗ trợ tài chính bao gồm tất cả các dạng lợi ích tài chính và cả hỗ trợ tài chính lẫn thưởng xuất khẩu đều có thể được coi là các khoản cấp phát.   * Đại diện Việt Nam cho biết Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu cũng hỗ trợ các doanh nghiệp về kinh phí dành cho các hoạt động xúc tiến thương mại như tham gia hội chợ và triển lãm thương mại, khảo sát thị trường, phí tư vấn và mở các trung tâm xúc tiến thương mại và văn phòng đại diện ở nước ngoài kể từ đầu năm 2001. Các khoản chi từ Quỹ này được xác định trên cơ sở kim ngạch xuất khẩu (0,1-0,2%) nhưng mức hỗ trợ tối đa không vượt quá 50% đến 70% mức chi thực tế của doanh nghiệp cho các hoạt động đó. Đại diện Việt Nam cho biết Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg đã đưa ra chương trình xúc tiến thương mại mới cho giai đoạn 2006-2010 và khẳng định rằng chương trình mới này sẽ được áp dụng phù hợp với các quy định của WTO.   * Đại diện Việt Nam cho biết thêm rằng một trong các ưu đãi đầu tư mà Việt Nam dành cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất trong thời hạn 5 năm đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất, chế biến xuất khẩu 80% sản phẩm trở lên, hoặc chế biến nông sản, lâm sản, thuỷ sản từ nguồn nguyên liệu trong nước xuất khẩu 50% sản phẩm trở lên.   * Đại diện Việt Nam xác nhận rằng, kể từ ngày gia nhập WTO, Việt Nam sẽ không cấp bất kỳ trợ cấp bị cấm nào cho các đối tượng hưởng trợ cấp mới theo chương trình dành ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nước và chương trình dành ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đại diện Việt Nam xác nhận thêm rằng những lợi ích mà các đối tượng hưởng trợ cấp hiện tại đang được nhận theo hai chương trình này sẽ được xóa bỏ dần trong vòng 5 năm kể từ ngày gia nhập WTO. Ngoài ra, đại diện Việt Nam cũng xác nhận rằng chương trình dành ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nước và chương trình dành ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu dành cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ hoàn toàn bị xóa bỏ không muộn hơn 5 năm kể từ ngày Việt Nam gia nhập WTO. Việt Nam sẽ thông báo cho WTO về các biện pháp xóa bỏ hai chương trình trợ cấp nói trên cũng như về biện pháp xoá bỏ các trợ cấp bị cấm khác. Đại diện Việt Nam cũng xác nhận rằng tới thời điểm gia nhập WTO, Việt Nam sẽ nộp lên Uỷ ban Trợ cấp và các Biện pháp chống trợ cấp của WTO bản Thông báo trợ cấp theo quy định của Điều 25 của Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp chống trợ cấp. * Việt Nam áp dụng một số biện pháp quản lý chuyên ngành đối với hàng nhập khẩu một số sản phẩm động vật và thực vật. Những biện pháp này dưới hình thức cấp giấy chứng nhận khảo nghiệm được thực hiện nhằm mục đích bảo vệ sức khoẻ động thực vật. Đại diện Việt Nam xác nhận, các biện pháp quản lý chuyên ngành của Việt Nam phù hợp với Hiệp định SPS của WTO. Quy định của Việt Nam đối với nhập khẩu động vật và đặc biệt là sản phẩm từ động vật, được soạn thảo dựa trên Bộ luật quốc tế về Sức khoẻ động vật và đặctính có khả năng gây hại của sản phẩm được đánh giá trên cơ sở các chứng cứ khoa học. Các quy định nhập khẩu không phù hợp, nếu có, sẽ được điều chỉnh lại nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn OIE. Thông tư liên tịch hướng dẫn việc kiểm tra và giám sát đối với hàng xuất nhập khẩu là động thực vật, thuỷ hải sản thuộc đối tượng cần phải kiểm tra đã được ban hành vào ngày 14/3/2004 (Thông tư số 17/2003/TTLT-BTC-BNN&PTNT-BTS) nhằm đơn giản hoá các thủ tục kiểm tra và giám sát đối với việc nhập khẩu. Các sản phẩm động vật và có nguồn gốc từ động vật cần phải qua kiểm dịch được quy định tại quyết định số 45/2005/QĐ-BNN. Thủ tục kiểm tra sức khoẻ của động vật dưới nước để xuất nhập khẩu và lưu thông trongnước cũng được sửa đối cho phù hợp với Pháp lệnh thú y và các quy định và tiêu chuẩn OIE.Đại diện Việt Nam bổ sung rằng Việt Nam luôn cố gắng nâng cao năng lực cán bộ và trang thiết bị để tăng cường hợp lý hoá quy trình kiểm tra, giám sát và chấp thuận tại biên giới. Ngư nghiệp: * Đại diện của Việt Nam cho biết Chính phủ Việt Nam đang thực hiện một chương trình tổng thể để phát triển ngành thuỷ sản. Các ngành này được thực hiện bởi các doanh nghiệp, hộ nông dân và ngư dân, các hợp tác xã và phần lớn dựa vào hỗ trợ kỹ thuật của các chuyên gia của chính phủ thông qua hệ thống khuyến ngư, đào tạo và hướng dẫn quản lý cho lao động trong ngành. Cơ sở hạ tầng, bao gồm việc xây dựng các cơ sở đông lạnh và trang thiết bị, nhà xưởng để đóng và sửa chữa tàu bè cũng được phát triển. Chính phủ Việt Nam dành cho ngư dân các khoản vay dài hạn để đóng hoặc nâng cấp tàu đánh cá xa bờ và khuyến khích đưa các công nghệ mới vào sản xuất. Chính phủ đã ban hành Luật Thuỷ sản, các tiêu chuẩn và quy định nhằm phù hợp với các quy định về vệ sinh, an toàn thực phẩm và thú y thuỷ sản ban hành bởi Codex và Bộ luật Ứng xử về Nghề cá.      * Giấy phép nhập khẩu đối với các sản phẩm thủy sản chuyên ngành bao gồm các loại giống, thức ăn, thuốc, vắc-xin, chất xử lý hoá sinh và thuốc tăng trọng quy định tại Quyết định số 344/2001/QĐ-BTS ngày 02/05/2001 và Quyết định số 20/2003/QĐ-BTS ngày 12/12/2003 của Bộ Thuỷ sản chỉ áp dụng đối với các sản phẩm mới; các sản phẩm này phải xin giấy phép nhập khẩu thử nghiệm. Quyết định quy định yêu cầu và thủ tục liên quan đến nhập khẩu và xuất khẩu các sản phẩm thủy sản chuyên ngành. Các yêu cầu kiểm dịch và cấp giấy chứng nhận kiểm dịch được áp dụng vì lý do bảo vệ sức khoẻ, tránh lan truyền các bệnh truyền nhiễm trong ngành nuôi trồng thuỷ sản. Cá và các sản phẩm từ cá nhập khẩu bị yêu cầu phải được kiểm dịch và chứng nhận bởi các cơ quan chức năng có thẩm quyền của nước xuất khẩu. Biện pháp này nhằm bảo đảm rằng các sản phẩm không bị nhiễm các bệnh nêu trong danh mục các bệnh thuộc mối quan tâm của OIE và đáp ứng các yêu cầu của Bộ luật Y tế Động vật Thuỷ sinh của OIE. Khi nhập khẩu vào Việt Nam , các cơ quan kiểm dịch của Việt Nam kiểm tra cả tài liệu và động vật được nhập khẩu.Những động vật bị nhiễm bệnh bị trả lại cho nước xuất khẩu hoặc bị tiêu huỷ. Theo quan điểm của mình, đại diện Việt Nam bổ sung rằng các yêu cầu kiểm dịch xuất khẩu của Việt Nam phù hợp với các quy định của OIE và các yêu cầu của nước nhập khẩu và chứng nhận kiểm dịch của Việt Nam đối với việc nhập khẩu và xuất khẩu thuỷ sản phù hợp với các yêu cầu của Mẫu Chứng nhận Kiểm dịch của OIE và Bộ luật Y tế Thuỷ sinh. Bộ Thủy sản có thể cấm xuất khẩu các giống thuỷ sản quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng và đưa ra các điều kiện xuất khẩu các giống thủy sản hiếm có giá trị kinh tế cao nếu thấy cần thiết để bảo tồn nguồn tài nguyên. CHƯƠNG II : CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM I.Cơ hội :  Bước chân vào cánh cửa hội nhập, Việt Nam đã chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều này đã, đang và sẽ có nhiều ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. Cùng với việc mở cửa, ngành xuất nhập khẩu sẽ chịu ảnh hưởng lớn do xu thế hội nhập, mở cửa thi trường. Thủy sản và  gạo là hai mặt hàng được kì vọng nhiều nhất khi Việt Nam tham gia vào WTO. Ơ đây ta chỉ xét tới mặt hàng xuất nhập khẩu thủy sản trong tiến trình hội nhập đã có những thuận lợi gì và pháp luật Việt Nam đã có những sửa đổi, bổ xung như thế nào cho phù hợp với nguyên tắc quốc tế cũng như với tình hình chung của mặt hàng này trong hoàn cảnh nước ta. 4 thuận lợi nổi bật của ngành thủy sản trong hội nhập: a) Việc gia nhập WTO mang lại cơ hội cho thủy sản Việt Nam trong việc thâm nhập thị trường thế giới, do các nước biết tới Việt Nam nhiều hơn, doanh nhân các nước quan tâm hơn tới xuất nhập khẩu, trong đó có ngành thủy sản. b) Ưu đãi hơn về thuế quan, xuất xứ hàng hoá, hàng rào phi thuế quan. Những lợi ích về công bằng, bình đẳng tạo điều kiện cho ngành thủy sản Việt Nam có cơ hội cạnh tranh trên thị trường thủy sản thế giới.     c) Bộ thủy sản không ngừng điều chỉnh cơ chế, chính sách và ban hành các văn bản pháp luật, các tiêu chuẩn cho phù hợp, đáp ứng các qui định của WTO cũng như các nước thành viên.    d) Vào WTO - cơ hội để các nhà đầu tư nước ngòai quan tâm hơn tới đầu tư vào ngành thủy sản Việt nam.   1.Gia nhập WTO cơ hội cho sản phẩm thủy sản Việt Nam trong việc thâm nhập thị trường thế giới:        Thủy sản là một trong những mặt hàng thế mạnh của Việt Nam. Trước khi bước chân vào WTO, ngành thủy sản Việt Nam ít được biết đến trên trường quồc tế do một số thị trường chưa được khai thông hoặc bị phân biệt đối xử nên khả năng xuất khẩu còn hạn chế. Chỉ một số nước Việt Nam thường xuyên có quan hệ thương mại như Trung Quốc, Hoa Kì, Nhật Bản….. thì các mặt hàng thủy sản mới được quan tâm và biết đến. Giờ đây các nước sẽ biết đến Việt Nam nhiều hơn, quan tâm hơn tới xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam, ngành thủy sản cũng được quan tâm, ưu tiên phát triển nhiều hơn. Được biết đến nhiều hơn trên trường quốc tế, ngành Thủy sản Việt Nam sẽ thể hiện mình như thế nào dể thu hút nhiều hơn các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngòai vào mặt hàng này? Khi chưa là thành viên của WTO, thị trường tiêu thụ thủy sản chỉ bó hẹp trong nước cũng như một số thị trường nước ngòai là Hoa Kì, Trung Quốc …. Việc mở rộng thị trường của doanh nghiệp Việt Nam tới một bước phát triển mới. Trong những thị trường mới, làm thế nào để sản phẩm thủy sản Việt Nam ngày càng được biết đến nhiều hơn về chất lượng và có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường vốn nhiều rủi ro này. Cùng với những tác động liên quan tới hoạt động xuất nhập khẩu, ngành này sẽ không ngừng lớn mạnh cả về kim ngạch lẫn qui mô thị trường. Cơ hội xuất nhập khẩu sẽ được mở rộng, không bị bó hẹp trong các hiệp định song phuong mà có tính tòan cầu. Thị trường xuất khẩu Việt Nam không ngừng mở rộng, hàng loạt các mặt hàng thủy sản chủ lực của Việt Nam như Tôm, cá Basa  …. Không ngừng tăng về số lượng và quy mô mở rộng thị trường.      Nói tới thủy sản Việt Nam ta không thể không kể tới những thành tựu của ngành này trong thời gian vừa qua. Từ chỗ không có tên trên bản đồ xuất khẩu thủy sản thế giới, ngành thủy sản Việt Nam đã liên tiếp có những cú bứt phá ngoạn mục vươn lên vị trí thứ 7 trong topten có kim ngạch xuất khẩu thủy sản lớn nhất, với 2, 65 tỷ USD đạt được trong năm 2005, có mặt ở 105 thị trường nước ngòai …. Và là một trong những “ cường quốc ” về thủy sản.      Chỉ xét trong 9 tháng đầu năm 2006, tổng giá trị kim ngạch thủy sản ước đạt 2, 3 tỷ USD, tăng 21% so với năm 2005, đạt trên 82% kế hoạch năm 2006. Trong đó các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là: cá đông lạnh với trên 300 nghìn tấn, tôm đông lạnh trên 100 nghìn tấn, các loại mực, bạch tuộc và hải sản ….      Đặc biệt trong những năm vừa qua việc xuất nhập khẩu thủy sản sang thị trường EU _ một trong những thị trường lớn của Việt Nam có nhiều điểm nổi bật. Từ những năm 1980, sản phẩm xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường EU dưới một nhãn hiệu chung là SEAPRODEX. Từ những năm đằu thâm nhập thị trường, sản phẩm thủy sản được xuất khẩu chung với các sản phẩm nông sản khác với số lượng ít nhưng đã gây được cảm tình của người tiêu dùng Châu Âu. Vào năm 1985,1986, công ty xuất nhập khẩu thủy sản Việt Nam SEAPRODEX đã được trao tặng danh hiệu “ Nhãn hiệu sản phẩm thủy sản uy tín ”.      Từ năm 1996 - 1999, kim ngạch xuất khẩu của thủy sản Việt Nam sang EU tăng rất nhanh với tốc độ trung bình hàng năm 54,92%. Theo số liệu thống kê của EU, năm 1996 kim ngạch nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam đạt 26, 9 triệu USD, năm 1997 - 65, 0 triệu USD, năm 1998 tăng lên 92, 5 triệu USD. Nhận thức được rằng quá trình tiêu thụ sản phẩm cuối cùng, đặc biệt là tiêu thụ với giá trị tăng thông qua xuất khẩu, là hoạt động bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển của các hoạt động sản xuất khai thác và nuôi trồng. Bên cạnh việc giữ vững các thị trường truyền thống, ngành thủy sản đã chủ trương tích cực, đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, trong đó EU là một trong những lựa chọn hàng đầu. Do đây là một thị trường lớn, ổn định, giá tốt nhưng có đòi hỏi hơi cao về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là sau những vụ ngộ độc thực phẩm. Để thu hút được thành công ở thị trường này, ngành đã xác định không ngừng nâng cao chất lượng vệ sinh an toàn sản phẩm là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong chiến lược xúc tiến xâm nhập thị trường. Từ bộ thủy sản đến các doanh nghiệp đã thực hiện hàng loạt biện pháp, từ cải thiện hệ thống thể chế, hoàn thiện văn bản qui phạm pháp luật, nâng cao năng lực các cơ quan thẩm quyền, đổi mới cách tiếp cận trong  quản lý chất lượng, an toàn sản phẩm, cho tới đầu tư đổi mới công nghệ, ứng dụng thành tựu khoa hoc kĩ thuật vào sản xuất, nâng cấp điều kiện sản xuất nhằm thỏa mãn các điểu tương đồng với các nước nhập khẩu về hệ thống pháp lý và điều kiện sản xuất của các doanh nghiệp.      Xét thị trường trong nước với các mặt hàng thủy sản Việt Nam. Do các sản phẩm như cá tra, cá basa ở thị trường nội địa còn mới nên các mặt hàng xuất khẩu này lại không tiêu thụ tốt. Đây phải chăng là một điều rất đáng tiếc cho thị trường thủy sản trong nước đối với các doanh nghiệp thủy sản nói chung trong nhưng năm vừa qua. Còn thị trường ngoài nước thì sao? Theo hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam ( VASEP ) trong các thị trường nhập khẩu thủy sản Việt Nam, Nhật Bản tiếp tục là thị trường lớn nhất, tiếp đến là Mĩ, Trung Quốc, EU và một số thị trường khác như Nga và Đông Âu. Giá cả trên các thị trường này ngày càng tăng. Trong năm 2006 giá cả các mặt hàng thủy sản ngày càng tăng do nhu cầu của thị trường Châu Âu sau khi nghỉ hè bắt đầu tăng mạnh trở lại, đặc biệt là thị trường Nga. Bên cạnh đó   trên thế giới cá thịt trắng hiện đang thiếu  nguồn, vì vậy cá Việt Nam là một ưu tiên cao vì có chất lượng tốt, giá cả phải chăng. Đây cũng là một thuận lợi ban đầu cho Thuỷ sản Việt Nam khi vào WTO, khi mà trên một số thị trường mặt hàng này đã được đánh giá và quan tâm cao. Đây cũng là tiếng vang cho thủy sản Việt Nam trên các thị trường mới mà các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tiến đến sau hội nhập.       Cùng với việc kí kết là thành viên của WTO, trước đó Việt Nam còn kí nhiều hiệp định song phương với các nước khác. Đáng chú ý là hiệp định song phương giữa Việt Nam _ Hoa Kì. Khi mà thủy sản Việt Nam trên thị trường Mĩ khá lớn và là mặt hàng xuất khẩu thành công sang thị trường này. Sau khi kí kết BTA, hiệp định có hiệu lực thì Hoa Kì đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam. Sự mở rộng xuất khảu ấn tượng và tăng trưởng nhanh về DTNN trong BTA là cơ sở cho doanh nghiệp Việt Nam tự tin hơn về khả năng cạnh tranh thành công trên thị trường quốc tế và tận dụng được những cơ hội mà những quan hệ thương mại quốc tế mang lại.       2.Ưu đãi về thuế quan, xuất xứ hàng hoá, lợi ích vè đối xử bình đẳng, công bằng để thủy sản Việt Nam có khả năng cạnh tranh trên thị trường:       Là thành viên của WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cam kêt cho phù hợp với các qui định của WTO. Những cam kết về khong phân biệt đối xử và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng .Trong nhưng năm qua Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc đối xử bình đẳng trong thương mại quốc tế. Chính phủ đã từng bước giam va tién tới hủy bỏ các qui định có tính phân biệt đối xử giữa các hàng hóa.      Gia nhập WTO có nhiều khó khăn và thách thức, nhưng cùng với nó hàng hóa Việt Nam , trong đó có mặt hàng thủy sản sẽ được đối xử bình đẳng. WTO có cơ chế giải quyết tranh chấp tạo điều kiện để các nước nhỏ bảo vệ được lợi ích của mình hoặc có nhiều tiếng nói hơn. Hàng hóa của Việt Nam sẽ tránh được những đối xử bất lợi trong các hiệp định thương mại song phương gắn với những điều kiện phi thị trương. Vì vậy nếu Việt Nam đã là thành viên của WTO thì vụ kiện chống bán phá giá cá tra, cá basa đã có thể kiện lên WTO để giải quyết; khi đó các phán quyết có thể công bằng hơn so với phán quyết đơn phương của Hoa Kì như vừa qua. Va theo đó hoạt đọng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn.       Là thành viên của WTO, thị trường tiêu thụ của ngành thủy sản khong những được mở rộng hơn ma mức thuế nhập khẩu áp giá cho mặt hàng thủy sản chế biến giảm. Đây là lợi thế lớn nhất cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản chế biến. Mặt khác khi thực hiện cam kết tự do thương mại hóa của tổ chưc WTO thỉ thuế xuất mặt hàng thuốc thú y, phụ phẩm chế biến thức ăn thủy sản sẽ giảm.Đây cũng là lợi thế để ngành thủy sản giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranhtrên thương trường. Gia nhập WTO, thời cơ kinh doanh rất lớn đã mở ra cho ngành thủy sản nước ta. Vấn đề là các doanh nghiệp sản xuất chế biến thủy sản xuất khẩu sẽ khai thác thời cơ như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất.      Việc các nước thành viên cắt giảm hang raò thuế quan với các mặt hàng cũng như những ưu đãi của tổ chức với ngành này tạo điều kiện cho ngành nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu thủy sản ngày cang phát triển và kim ngạch xuất khẩu sẽ ngày càng tăng. Do các nước gia nhập WTO đều phải cam kết không tăng thuế vượt mức nhất định đối với phần lớn các mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu. Mức cam kết này trong một số trường hợp có thể thấp hơn mức thuế đang áp dụng. Vì vậy các nước gia nhập WTO đều phải giảm thuế nhập khẩu ở nhiều mặt hàng. Bên cạnh đó trong WTO còn có các mô hình cắt giảm thuế quan mạnh mẽ như: “ cắt giảm thúe quan theo ngành “ và “ hài hòa hóa thúe quan “ theo đó thuế quan của các sản phẩm liên quan đều được cam kết ở mức rất thấp, chủ yếu là bằng 0%.      Trước khi vào WTO, các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam đã phải đương đầu với nhiêu vụ kiện chống bán phá giá một số mặt hàng như cá tra, cá basa.Những vụ kiện kết thúc với một phán quyết áp mức thuế rất cao cho những mặt hàng bị kiện đã gây thiệt hại lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, khiến cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn tưởng chừng như không thể đứng vững. Trái với nhưng dự đoán, con cá tra, cá basa, con tôm cũng vượt qua được những khó khăn ban đầu, cùng ngành thủy sản vượt chỉ tiêu xuất khẩu năm 2005.Tuy nhiên nhưng vụ việc như vậy giúp cho các doanh nghiệp Việt nam có thêm những bài học kinh nghiêm thưc tế, tích lũy nhiều kinh nghiêm quý báu khi làm ăn trên trường quốc tế tạo tiền đề bước đầu khi vao WTO. Hàng hóa của Việt Nam được đối xử bình đăng trên tất cả các thị trương của tất cả các nước thành viên (theo nguyên tắc MFN t). Việt Nam sẽ có lợi thế hơn trong việc giải quyết tranh chấp với các đối tác thương mại chính, do tiếp cận được hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO. Tránh tình trạng bị các nước lớn gây sức ép trong các tranh chấp thương mại quốc tế. Gia nhập WTO cung tạo điều kiện để Việt Nam không bị đối xử như một nền kinh tế phi thị trường (NME) trong các vụ tranh chấp thương mại như hiện nay.       3.Điều chỉnh các cơ chế, chính sách pháp luật cho phù hợp với qui định của WTO:       Hệ thống pháp luật Việt Nam không ngừng được hoàn thiện, chỉnh sửa cho phù hợp với các qui định của WTO và các nước thành viên.      Vào WTO, để nắm rõ các vấn đề, đủ sức cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả thì các doanh nghiệp phải hiểu rõ các văn bản pháp luât quốc tế cung như luật trong nước để có thể áp dụng nó một cách linh hoạt và có hiệu quả cao.Trước nhiều đạo luật chúng ta phải nghiên cứu và sẵn sang chuẩn bị những phương án sẵn sàng ưng phó với mợi tình huống có thể xảy ra. VD: Giả định một số văn bản của ủy ban Châu Âu (EC) có thể được ban hành.Nội dung yêu cầu tất cả các doanh nghiệp ngàn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6067.doc
Tài liệu liên quan