Buôn lậu và gian lận thương mại - Thực trạng và giải pháp

lời nói đầu Đất nước ta là một quốc gia đang phát triển ra sức đẩy mạnh sản xuất trong nước nâng cao trình độ và sức cạnh tranh trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế. Đang dần hội nhập nền kinh tế quốc tế đang có hiệu quả, chúng ta phải thực hiện được sản xuất và xuất khẩu mặt hàng có chất lượng cao cạnh tranh trên khắp thị trường thế giới kể cả những thị trường khó tính nhất như Mỹ, Nhật, EU.... Đất nước ta đang trong quá trình xây dựng và phát triển cần nhiều nguồn lực từ bên ngoài, năng

doc59 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1654 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Buôn lậu và gian lận thương mại - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lực sản xuất trong nước đang còn chưa thể đáp ứng được nhiều nhu cầu sản xuất tiêu dùng nội địa, chính vì vậy phải nhập khẩu hàng hoá máy móc thiết bị từ bên ngoài là tất yếu để quản lý và điều tiết tất cả các hoạt động xuất nhập khẩu Nhà nước cũng sử dụng các công cụ như thuế xuất nhập khẩu, hạn ngạch. Tuy nhiên, sự xuất hiện của buôn lậu và gian lận thương mại thì nó sẽ làm lệch lạc bóp méo tất cả, nó ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế đất nước, trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Gân đây buôn lậu và gian lận thương mại đã trở thành một quốc nạn gây tác hại ngày càng trầm trọng chính vì vậy giải quyết được hiện tượng này là một trong những vẫn đề đã và đang được xem xét quan tâm. Để nhìn nhận một cách đúng đắn và đầy đủ về buôn lậu và gian lận thương mại và góp phần trong công tác chống BL&GLTM đang là vấn đề bức xúc hiện nay, với những kiến thức đã học cùng với sự giúp đỡ hướng dẫn của thầy giáo em chọn đề tài: "Buôn lậu và gian lận thương mại - thực trạng và giải pháp". Đây là một đề tài rộng với kiến thức và điều kiện thực tiễn còn hạn chế chắc sẽ không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong thầy cô bổ sung để đề án này được hoàn thiện hơn. Chương I Tổng quan về buôn lậu và gian lận thương mại. 1. Các khái niệm: Xét trên từng góc độ thì thuật ngữ buôn lậu có ý nghĩa khác nhau: Xét từ góc độ khoa học về ngôn ngữ thì buôn lậu có nghĩa là buôn bán những hàng hoá trốn thuế và hàng cấm (theo từ điển tiếng Việt – NXB Khoa học Hà Nội (1997). Đây là một quan niệm kế thừa những hiểu biết truyền thóng từ xưa đến nay và phù hợp với quan niệm phổ thông hiện nay. Do vậy theo nghĩa này nó được sử dụng một cách rộng rãi. Xét từ góc độ khoa học pháp lý thì buôn lậu được hiểu phức tạp hơn, nó không bao hàm hay phản ánh một thông tin nào rành mạch rõ ràng mà phải đặt vào tình huống hay ngữ cảnh cụ thể thì mới xác định và hiểu phù hợp với ngũ cảnh đó. Ví dụ khi nói: “khởi tố bị can buôn lậu” thì buôn lậu được hiểu ở đây là một hành vi gắn với đối tượng thực hiện hành vi; khi nói “đấu tranh chống buôn lậu” thì buôn lậu được hiểu đó là một hiện tượng tiêu cực của xã hội, nó bao gòm nhiều tội danh với nhiều hành vi khác nhau như buôn bán ma tuý, buôn bán vận chuyển trái phép hàng hoá tiền tệ qua biên giới, buôn bán văn hoá phẩm đồi truỵ.... Hành vi buôn lậu sẽ bị qui kết vào tội danh buôn lậu. Tội danh buôn lậu được chính thức ghi nhận trong Bộ luật hình sự của Việt Nam từ 1985. Trong thể chế phong kiến Việt Nam. Triều Lê (1428-1788) có “Quốc triều hình luật” được coi là bộ luật hoàn chỉnh nhất cũng không qui định về tội danh buôn lậi. Nhưng trong đó đã có các qui định như: “Những trang trại ven bờ biển mà đón thuyền buôn, ngầm dỡ hộ hàng hoá lên bờ thì bị xử biến (cách thức) phạt gấp 3 lần tang vật để sung công...”; “Những người bán ruộng, đất ở bờ cõi, binh khí, các loại chất nổ có thể chế hoá tiến cho người nước ngoài đều phải tội chém”; “Bán mắm muối cho nước ngoài thì bị xử đi châu xa”... Các mặt hàng cấm xuất khẩu qui định thời đó gồm: ruộng đất, thuốc nổ, vũ khi, sắt, đồng, vàng, da trâu, gỗ lim, vỏ quế, trân châu, ngà voi. Những hành vi cụ thể tách biệt nói trên trong tiềm thức xã hội đều được gộp chung lại là hiện tượng buôn lậu. Trước năm 1985 thuật ngữ “tội buôn lậu” đã được đề cập trong một số văn bản pháp luật nước ta như pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng cảnh sát nhân dân (20/7/1962); pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép (10/6/1982). Tuy nhiên, trong các văn bản này thì tội danh buôn lậu chưa được hướng dẫn và nhận diện đầy đủ với các yếu tố cấu thành và dấu hiệu pháp lý đặc trưng, mà phần lớn xã hội và các cơ quan hoạt động tư pháp vẫn chịu ảnh hưởng của quan niệm truyền thống cho rằng buôn lậu bao gồm các hành vi kinh doanh trái phép, trốn thuế, đầu cơ tích trữ, buôn bán hàng cấm. Từ năm 1985 Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời đã chính thức ghi nhận tội danh buôn lậu: “Người nào buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quí, đá quí hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hoá thì bị phạt...” Tuy nhiên, khái niệm này còn bộc lộ nhiều hạn chế như: ghép chung 2 hành vi có tính chất độc lập tương đối với nhau, chủ thể tham gia khác nhau và những dấu hiệu pháp lý khác nhau trong điều luật là buôn bán trái phép và “vận chuyển trái phép”. Việc xác định tang vật là hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, thì vô hình chung đã xếp cái tổng thể với bộ phận hàng hoá buôn bán, vận chuyển trái phép rất nhiều khó có thể liệt kê hết được và cùng với thời gian thì tính chất pháp lý sẽ có những thay đổi, qui định khác nhau, có thể xuất hiện thêm hàng hoá khác hoặc mất đi tuỳ thuộc yêu cầu quản lý vĩ mô của Nhà nước. Do đó mà làm cho khái niệm sẽ trở nên vừa thừa vừa thiếu. Song song tồn tại bên cạnh Điều 97 (Bộ luật hình sự) về tội buôn lậu còn có những điều luật khác mà các yếu tố cấu thành của nó tương tự như tội buôn lậu, sự khác nhau mong manh chỉ là ở chỗ vị trí địa lý, buôn bán trong nội địa hay qua biên giới như Điều 96 về tội mua bán chất nổ, cháy, độc, phóng xạ; Điều 99 về tội mua bán văn hoá phẩm đồi truỵ, Điều 166 về buôn bán hàng cấm... Trên thực tế xét xử đều theo các điều luật tương ứng với các vụ vi phạm về hàng hoá đặc trưng trên chứ không theo Điều 97 để truy tố. Điều này gân ra sự sai lệchgiữa các cơ quan chuyên môn với nhau về thống kê, đánh giá, tạo sự trùng lắp, khi phát sinh trách nhiệm lại đổ lẫn cho nhau, không có sự phân định một cách rõ ràng chức năng quyền hạn giữa các cơ quan, bộ phận. 2. Khái niệm về gian lận thương mại. Gian lận thương mại (GLTM) theo từ điển tiếng Việt là “dối trá, lừa lọc” trong lĩnh vực thương mại. Người có hành vi gian lận thương mại gọi là “gian thương” tức là “người có nhiều mưu mô lừa lọc”, “kẻ buôn bán gian lận và trái phép”. Gian lận đựơc coi là hành vi của con người cụ thể có lời nói, cử chỉ hoặc hành động không đúng với bản chất của sự vật hiện tượng nhằm mục đích đánh lừa người khác. Trong dân gian GLTM gắn liền với thành ngữ “buôn gian, bán lận” và dùng để chỉ những thủ đoạn mánh khoé lừa lọc khách hàng hoặc người khác để thu lời bất chính. Hành vi “buôn gian bán lận” trong dân gian được hiểu bao gồm một số thủ đoạn đơn giản như: hàng xấu nó tốt, ít nói nhiều, rẻ nói đắt, cân đo sai, buôn bán hàng cấm, lén lút, giấu diếm, lậu thuế... Hành vi GLTM trwocs hết phải là hành vi gian lận nói chung nhưng hành vi gian lận này thể hiện trong lĩnh vực thương mại với đối tượng thể hiện là hàng hoá, dịch vụ. Chủ thể của hành vi GLTM cóthể là các chủ hàng, người bán, có thể là người mua, hay cả người bán và người mua. Mục đích của hành vi GLTM là nhằm thu lợi bất chính do thực hiện trót lọt hành vi lừa đảo, dối trá. Ngày 9/6/1977 Hội đòng hợp tác hải quan quốc tế đã đưa ra định nghĩa về GLTM trong lĩnh vực hải quan trong Công ước quốc tế về giúp đỡ hành chính lẫn nhau nhằm ngăn chặn, điều tra và trấn áp vi phạm hải quan- Công ước Nairobi. Định nghĩa được nêu ra như sau: “GLTM trong lĩnh vực hải quan là hình vi vi phạm pháp luật hải quan trong đó cá nhân lừa dối hải quan để nhằm lẫn tránh một phần hoặc toàn bộ việc nộp thuế xuất nhập khẩu, việc áp dụng các biện pháp cấm hoặc hạn chế do luật pháp hải quan qui định, hoặc thu được một khoản lợi nào đó qua việc vi phạm phát luật này”. Định nghĩa này cơ bản đã khái quát được hành vi GLTM trong lĩnh vực hải quan, đó là sự lừa dối thông qua hành động lẫn tránh việc nộp thuế và việc tuân thủ pháp luật hải quan nhằm mục đích thu một khoản lợi nào đó. Tuy nhiên, trong bối cảnh thương mại quốc tế ngày nay có nhiều thay đổi lớn thì định nghĩa này còn chưa đẩy đủ, chính xác hành vi GLTM trong lĩnh vực hải quan. Vì vậy Hội nghị quốc tế lần thứ 5 về chống GLTM trong lĩnh vực hải quan tại Brussels (Bỉ) (từ 9/10/1945 đến 13/10/1995) đã thống nhất đưa ra một định nghĩa mới như sau: “GLTM trong lĩnh vực hải quan là hành vi vi phạm các điều khoản pháp qui hoặc pháp luật hải quan nhằm: - Trốn tránh hoặc cố ý trốn tránh việc nộp thuế hải quan, phí và các khoản thu khác đối với việc di chuyển hàng hoá thương mại và/ hoặc: - Nhận và có ý định nhận việc hoàn trả trợ cấp hoặc phụ cấp cho hàng hoá không thuộc đối tượng đó, và/hoặc: - Đạt được hoặc có ý đạt được lợi thế thương mại bất hợp pháp gây hại cho các nguyên tắc và tập tục cạnh tranh thương mại chân chính”. Tại Hội nghị này cũng đã thống nhất phân chia các hình thức GLTM thàng 16 loại: 1. Buôn bán hàng cấm qua biên giới hoặc ra khỏi sự kiểm soát của hải quan. (Buôn bán động vật quí hiếm, sản phẩm văn hoá). 2. Khai báo sai chủng loại hàng hoá 3. Khai tăng, giảm giá trị hàng hoá 4. Lợi dụng chế độ ưu đãi xuất xứ hàng hoá 5. Lợi dụng chế độ ưu đãi đối với hàng hoá gia công. 6. Lợi dụng chế độ tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập. 7. Lợi dụng các yêu cầu về giấy phép xuất nhập khẩu (ví dụ: các loại giấy phép theo yêu cầu chuyên ngnàh như hàng cho an ninh, quốc phòng, y tế, văn hoá, xã hội...) 8. Lợi dụng chế độ quá cảnh đem dùng trong nước. 9. Khai báo sao về số lượng, chất lượng hàng hoá. 10. Lợi dụng chế độ mục đích sử dụng, buôn bán, trái phép hàng hoá được ưu đãi về thuế cho những đối tượng sử dụng nhất định (ví dụ: cho cứu trợ, các cơ quan ngoại giao, vùng dân tộcthiểu số, miền núi để xoá đói giảm nghèo...) 11. Vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại hoặc qui định bảo vệ người tiêu dùng. 12. Buôn bán hàng giả, ăn cắp mẫu mã. 13. Buôn bán hàng không có sổ sách (không rõ xuất xứ) 14. Làm giả, làm khống việc hoàn hay truy hoàn thuế hải quan 15. Kinh doanh “ma để hưởng tín dụng thuế trái phép. 16. Thanh lý, phá sản có chủ đích để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế (ví dụ: công ty đăng ký kinh doanh một thời gian ngắn, nợ thuế rồi tuyên bố phá sản). Thái độ ứng xử đối với 16 hành vi này của các nước trên thế giới là thống nhất với nhau theo 2 bậc tuỳ thuộc mức độ tác hại của hành vi đối với xã hội mà xử lý hành chính hay xử lý hình sự. ở nước ta thái độ ứng xử với các hành vi này theo 3 trường hợp: 1. Hành vi có tính chất không nghiêm trọng, giá trị tài sản buôn bán sai phạm không lớn thì xử lý hành chính theo pháp lệnh hải quan và các nghị định của Chính phủ về quản lý xuất nhập khẩu. 2. Một số hành vi trong số đó chưa được qui định hoặc hành vi đó xảy ra nhưng không bị xử lý như lợi dụng chế độ tín dụng thuế. 3. Tất cả các hành vi có tính chất nghiêm trọng, hậu quả lớn đều bị xử lý dưới một tội danh chung của Điều 97 là buôn lậu (Bộ luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam). Một số vấn đề mới trong GLTM đó là GLTM trong chuyển tải hàng hoá xuất nhập khẩu. Nó được định nghĩa: GLTM trong chuyển tải là việc sử dụng một nước thứ 3 để dấu nguồn gốc thữ sự của hàng hoá, che mắt hải quan của nước nhập khẩu. Tại nước thứ 3 người ta cung cấp các tài liệu giả hoặc có hoạt động gian trá nhằm thay đổi nguồn góc hàng từ nước xuất khẩu sang nước quá cảnh (nước thứ 3). Như vậy đến khi nhập vào họ tránh được những hạn chế đặt ra của các nước nhập khẩu như chế độ ưu đĩa, hạn ngạch, li xăng. GLTM qua chuyển tải có các dạng sau: - Hàng hoá đưa vào một cảng hoặc một kho ở nước chuyển tải, tại đây chúng được thay thế nhãn mác để trở thành sản phẩm của nước chuyển tải hoặc một nước khác. - Hàng đưa vào nước chuyển tải là hàng hoàn chỉnh hoặc bán thành phẩm nhưng được khai là nguyên nhiên phụ liệu để sản xuất hoặc chế biến, như vậy hàng hoá nghiễm nhiên trở thành hàng của nước này. - Hàng mang giấy tờ giả để chứng minh là hàng của nước trên đường đi từ nước xuất khẩu hàng đến nức nhập hàng. 3. Phân biệt buôn lậu và gian lận thương mại và mối quan hệ giữa chúng. Theo pháp luật Việt Nam, gian lận thương mại không phải là một tội danh trong Luật hình sự những các biểu hiện đặc của GLTM lại trùng hợp với tội danh buôn lâu. Một bộ phận của GLTM là buôn lậu và buôn lậu cũng bao gồm cả GLTM. Sự khác nhau cơ bản giữa buôn lậu và GLTM là buôn lậu trước hết là hành vi GLTM nhưng ở mức cao hơn, tính chất phức tạp và hậu quả nghiêm trọng hơn. Nó là một trường hợp đặc biệt của GLTM. Hội nghị quốc tế lần 5 về chống GLTM của tổ chức hải quan thế giới đã xếp buôn lậu vào trong các hình thức GLTM, nhưng coi đó là loại hình GLTM nguy hiểm, đặc biệt. Trong Bộ luật hình sự của nước ta ghi nhận tội danh buôn lâu là “buôn bán trái phép, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ, vật phẩm văn hoá... qua biên giới. GLTM ngoài buôn lâu còn bao hàm các thành phần khác như buôn bán hàng giả, ăn cắp mẫu mã, khai báo sai số lượng, chất lượng hàng...., là việc làm trái qui định của pháp luật, chính sách hoặc lợi dụng sơ hở, không rõ ràng, chính xác, khoa học của luật pháp, chính sách và sự quản lý sơ hở của các cơ quan quản lý chức năng để thực hiện hành vi gian lận thương mại. Như vậy GLTM bao gồm nhiều hành vi gian lận, trái pháp luật hơn buôn lậu, buôn lậu là một hình thức đặc thù của GLTM. II- Nguyên nhân xuất hiện buôn lậu và gian lận thương mại: 1. Nguyên nhân khách quan. * Sự kiến tạo địa hình lãnh thổ tự nhiên: Sự kiến tạo địa hình lãnh thổ Việt Nam với nhiều núi non hiểm trở, nhiều đường ngang lối tắt trên dọc các tuyến biên giới, cả tuyến biên giới trên bộ và đường biển dài. Đây là một khó khăn lớn cho việc kiểm soát, quản lý lưu thông hàng hoá với nước ngoài, tạo nhiều cơ hội cho BLGLTM hoạt động. * Sự chuyển biến cơ chế: Việc chuyển đổi cơ chế kinh tế đất nước từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, nền kinh tế mở cửa, mở rộng giao thương, hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới. Trình độ cũng như kinh nghiệm quản lý và điều hành kinh tế còn nhiều hạn chế, nền sản xuất trong nước còn chưa đáp ứng được nhiều nhu cầu tiêu dùng trong nước cả về chủng loại cũng như chất lượng của hàng hoá. Điều này dẫn tới nhiều kẻ hở trong quá trình hoàn thiện việc quản lý, điều hành kinh tế, hoàn thiện và phát triển sản xuất trong nước. Chính vì vậy gian thương đã lợi dụng để thực hiện các hành vi BL&GLTM kiếm lợi bất chính. Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách của Nhà nước đang tiếp tục hoàn thiện còn nhiều vướng mắc, kẽ hở, tình trạng một số văn bản pháp luật, qui định chức năng, quyền hạn của một số cơ quan, bộ phận chức năng về chống BL&GLTM còn chồng chéo là phổ biến, dẫn đến nhiều điểm không thống nhất, tạo môi trường, cơ hội cho bọn BL &GLTM. * Trang thiết bị cho công tác chống BL&GLTM còn thiếu và lạc hậu. Các lực lượng kiểm tra, kiểm soát chống BL&GLTM được trang bị nghèo nàn cả về số lượng và chất lượng phải đấu tránh với bọn BL&GLTM với nhiều phương tiện tốt và hiện đại hơn cùng với mánh khéo thủ đoạn ngày càng tinh vi là một công việc hết sức khó khăn. Trên một số cửa khẩu biên giới cơ sở vật chất nghèo nàn, chưa đảm bảo đầy đủ cho đời sống cũng như công tác. Đây là vấn đề hết sức nan giải vì điều kiện kinh tế đất nước ta còn nhiều khó khăn, còn nhiều vấn đề kinh tế xã hội khác cũng phải được quan tâm giải quyết. * Đời sống và trình độ của dân cư còn thấp đặc biệt ở các vùng biên giới. Tình trạng này là một trong những nguyên nhân để bọn BL&GLTM lợi dụng lôi kéo và mua chuộc các cư dân ở khu vực này tham gia, tiếp tay cho chúng. Nguy hiểm hơn là bọn chúng dùng các thủ đoạn ràng buộc trách nhiệm của họ với hàng hoá lậu, tạo thái độ kiên quyết bảo vệ hàng lậu và bất hợp tác với lực lượng chức năng, điều này gây khó khăn trở tngại rất lớn trong việc phát hiện bắt giữ cũng như xử lý các hành vi vi phạm. 2. Nguyên nhân chủ quan. * Sự phối hợp chưa chặt chẽ, thống nhất và đồng bộ giữa các cơ quan bộ phận chức năng, giữa trung ương và cơ sở. * Sự buông lỏng quản lý, thụ động của một số chính quyền địa phương trong công tác đấu tranh BL&GLTM. Hiện tượng một số chính quyền địa phương có hiện tượng BL&GLTM nhưng buông lỏng quản lý, thậm chí làm ngơ, do vậy không có các biện pháp cụ thể hữu hiệu để ngăn chặn BL&GLTM. Có hiện tượng chính quyền quan niệm buôn lậu là kế sinh nhai của bà con, xác nhận cho họ là có hoàn cảnh khó khăn để xin các lực lượng chống buôn lậu thả hàng hay người khi bị bắt, gây khó khăn, khó xử cho họ. * Thủ tục hành chính hải quan, Kiểm tra, kiểm soát, giám định... còn nhiều rườm rà, mất nhiều thời gian và công sức thậm chí bỏ lỡ cơ hội kinh doanh của người kinh doanh. Điều này dễ nảy sinh các tiêu cực, thủ đoạn trốn tránh hay mua chuộc cán bộ chức năng, làm giả, quay vòng chứng từ, dẫn tới BL&GLTM. * Năng lực trình độ của các lực lượng chống BL&GLTM còn thấp kém, chưa được đào tạo một cách hệ thống và toàn diện về các nghiệp vụ, thao tác trong việc BL&GLTM cũng như xử lý các vi phạm. Bên cạnh đó một số cán bộ trong các cơ quan chức năng như hải quan, quản lý thị trường, thuế vụ... tha hoá đạo đức tiếp tay cho bọn BL&GLTM làm cho công tác chống BL&GLTM càng thêm khó khăn, phức tạp gây thiệt hại rất lớn đến lợi ích quốc gia, đây là một nguyên nhân được xem là nghiêm trọng nhất, nó không chỉ là nguyên nhân tạo điều kiện, cơ hội cho BL&GLTM mà còn gắn với hối lộ, tham nhũng, không chỉ gây thiệt hại về vật chất mà còn làm tha hoá đạo đức, gây mất lòng tin của nhân dân đối với họ, ảnh hưởng đến uy tín của toàn ngành thậm chí của cả Đảng, Nhà nước. Một số giải pháp đưa ra chưa được thực hiện một cách kịp thời, triệt để. Phát huy tác dụng chưa tốt. Hay các giải pháp đưa ra chưa dựa trên cơ sở thực tế khách quan, kém hiệu quả gây nhiều ách tắc, có thể phát sinh những thủ đoạn, tiêu cực mới. III- Sự cần thiết của việc chống buôn lậu và gian lận thương mại * Có thể nói buôn lậu và gian lận thương mại là hành vi vi phạm trong lĩnh vực thương mại nhưng nó lại gây ảnh hưởng, tác hại tiêu cực đối với mọi mặt, lĩnh vực đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Hậu quả của nó khó có thể tính toán hết được. Đối với Việt Nam là một nước đang trong quá trình chuyển mình dần hoàn thiện việc chuyển đổi cơ chế kinh tế. Thựcc hiện một nền kinh tế mở, hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, mỗi thành phần kinh tế, tổ chức, cá nhân phát huy lợi thế, nội lực của mình để đón bắt các cơ hội, sự cạnh tranh để hoạt động kinh doanh có hiệu quả nhất. Các thành phần kinh tế có nhiều cơ hội trong việc lựa chọn lĩnh vực, ngành nghề, đối tác kinh doanh, với đa dạng các hình thức kinh doanh tạo ra lợi nhuận một cách lành mạnh, tuy nhiên một phần không nhỏ trong các thành phần này lại lợi dụng các kẻ hở trong pháp luật, cơ chế chính sách quản lý của Nhà nước cũng trình độ năng lực quản lý hoạt động kinh doanh thương mại còn có nhiều điểm còn hạn chế để kiếm lợi bất chính, không lành mạnh đó là buôn lậu và các hoạt động gian lận thương mại. Các hoạt động này thực sự ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế đất nước. Trước hết các hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại sẽ làm môi trường kinh doanh trong nước giảm tính cạnh tranh lành mạnh, hàng buôn lậu với giá hạ, hay chất lượng không đảm bảo sẽ gây ra sự rối ren thị trường, điêu đứng kìm hãm nền sản xuất trong nước. Hàng hoá nhập lậu với đa dạng mặt hàng, chủng loại. Từ hàng hoá tiêu dùng cá nhân tới cả máy móc thiết bị lớn, ô tô, xe máy, từ hàng hoá có giá trị thấp tới hàng hoá xa xỉ, giá trị lớn. Như vậy nó sẽ gây tác hại tới mọi ngành sản xuất trong nước. Có thể nêu một vài ví dụ như ngành sản xuất đường ăn, xi măng, sản xuất chế tạo máy nông ngư cơ...đã rất lao đao không phát triển được cũng vì sự cạnh tranh gay gắt của hàng hoá nhập lậu. Sản xuất và kinh doanh hàng giả cũng vậy không những nó làm ảnh hưởng rối ren môi trường cạnh tranh trong nước gây ra những khó khăn cho nhiều nhà sản xuất kinh doanh chân chính, đảm bảo là ivệc vi phạm nhãn hiệu, bản quyền hàng hoá, bên cạnh đó nó còn tác hại trực tiếp đến người tiêu dùng, gây tâm lý dề dặt, hoang mang, đặc biệt BL&GLTM còn gây thất thu cho ngân sách Nhà nước, tăng thêm các chi phí để đấu tranh lại tệ BL&GLTM. Đối với việc sản xuất hàng tiêu dùng như thực phẩm, dược phẩm, thuốc bảo vệ thực vật.... BL&GLTM không những gây tác hại đối với nền kinh tế mà nó còn tác hại về mặt chính trị, văn hoá, xã hội. Vì lợi nhuận bất chính từ BL&GLTM rất lớn do đó bọ BL&GLTM không từ bất cứ một hành động, thủ đonạ nào để thực hiện hành vi. Chúng bỏ tiền ra hối lộ, mua chuộc từ đội ngũ cán bộ, nhân viên chức năng làm tha hoá không ít các cán bộ Đảng viên, đến lợi dụng lôi kéo đông đảo nhân dân lao động bỏ bề làm ăn để tham gia tiếp tay cho BL&GLTM. Điều này không những làm suy thoái đạo đức, giảm lòng tin đối với các cơ chức năng thậm chí cả đối với Đảng, Nhà nước mà nó còn là sự coi thường pháp luật, nảy sinh tâm lý coi trong vật chất, đồng tiền, chống đối lại những người thực thi nhiệm vụ chống BL&GLTM. Chính bằng những thủ đoạn hối lộ, lôi kéo này là một trong những nguyên nhân khiến tình trạng buôn lậu ngày càng trở nên nghiêm trọng, khó kiểm soát nổi. Đảm bảo các khu vực biên, biển hoạt động buôn lậu diễn ra tình hình trở nên phức tạp rất nhiều, có nơi cả làng, cả xã đa số các hộ đều có người tham gia buôn lậu, người ta coi buôn lậu như một nghề kiếm sống chứ không phải là việc lao động sản xuất chân chính. Vì vậy công tác chống buôn lậu ở đây rất khó khăn, tình hình an ninh xã hội phức tạp. Việc buôn lậu và vận chuyển các chất ma tuý, văn hoá phẩm độc hại phản động đối truỵ, thuốc nổ... là những mặt hàng gây tác hại nguy hiểm lớn nó ngấm ngầm phá vữ sự ổn định trật tự x, nảy sinh các tệ nạn xã hội, các hành động chống phá chế độ,... Chính vì tác hại nhiều mặt của BL&GLTM đòi hỏi công tác quản lý phải được thực hiện tốt việc quản lý kiểm tra, kiểm soát hoạt động thương mại, ngăn chặn và đẩy lùi BL&GLTM có hiệu quả trước hết phải tìm hiểu được nguyên nhân, các thủ đoạn của bọn BL&GLTM thì từ đó mới có các giải pháp hữu hiệu công tác chống BL&GLTM phải được coi như một trong những vụ quan trọng và bức bách nhất hiện nay và phải có sự tham gia tích cực không những từ các cấp chính quyền mà còn phải có sự tham gia của lực lượng các thành phần khác như các doanh nghiệp và quần chúng nhân dân. Chương II Thực trạng tình hình buôn lậu và gian lận thương mại ở Việt Nam. I- Thực trạng buôn lậu và gian lận thương mại ở Việt Nam những năm gần đây: 1. Thực trạng chung trong cả nước và một số địa phương: Việt Nam là một đất nước có địa hình phức tạp, đồi núi chiếm phần lớn diện tích cả nước, có biên giới tiếp giáp với Lào, Trung Quốc, Campuchia, mặt phía Đông và phía Nam giáp biển, các cửa khẩu trải dài từ Bắc vào Nam. Đặc điểm này của địa hình kết hợp các yếu tố như năng lực sx trong nước, chính sách thuế, sự quản lý trong kinh doanh... làm cho hoạt động buôn lậu và gain lận thương mại trong cả nước diễn biến phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt để trốn lậu thuế, chống lại sự kiểm soát của hải quan, sản xuất và kinh doanh hàng giả, nó như một quốc nạ, xuất hiện khắp mọi nơi trên lãnh thổ, từ khắp các biên giới phía Bắc đến biên giới phía Tây, cả bằng đường bộ, đường biển, đường không và bưu điện; từ hoạt động thương mại chính ngạch đến tiểu ngạch; từ nhái nhãn mẫu đén hàng giả, từ mặt hàng có giá trị thấp đến giá trị cao... BL&GLTM vẫn luôn là vấn đề nóng bỏng cần phải có biện pháp hạn chế và chặn đứng. * Thực trạng về buôn lậu qua biên giới và lưu thông trên thị trường nước ta ở một số địa phương và các tuyến trọng điểm như: - Trên tuyến biên giới phía Bắc: ) Biên giới Việt – Trung) Trên tuyến này buôn lậu diễn ra tấp nập, hối hả nhất là tại các khu vực cửa khẩu Móng Cái, Hữu Nghị, Tân Thanh, Văn Lăng, Chi Ma... hàng của Trung Quốc qua các tỉnh biên giới phía Bắc với đủ loại, chất lượng trung bình, giá rẻ như vải, hàng may mặc sẵn, hàng điệntử, gạch men, vật liệu xây dựng, xe đạp, xe máy, đồ chơi trẻ em, hoa quả, trứng gia cầm, bánh kẹo... hàng xuất lậu qua biên giới Lạng Sơn sang Trung Quốc là một số loài động vật hoang dã, gỗ quí hiếm như: Tê tê, rắn, rùa...., gỗ nghiến.... Nhìn chung nếu như trước đây bọn buôn lậu thường đi những lô hàng lớn thì gần đây để khỏi mất trắng chúng đã chủ động xé lẻ, không tập kết hàng ở khu vực đường biên mà chuyển hàng vào chợ và sâu trong nội địa, sử dụng số lượng lớn người tham gia vận chuyển, gắn trách nhiệm của người vận chuyển với hàng hoá nhập lậu, có trường hợp thuê bọn côn đồ bảo kê bảo vệ hàng, đe doạ hành hung lực lượng kiểm tra, cướp lại hàng. - Tại Lạng Sơn: Đây là một trong những tỉnh miền núi phía Bắc có đường biên giới giáp Trung Quốc dài 253 km với các cửa khẩu quốc tế, các chợ vùng biên và rất nhiều đường mòn, đường tránh với địa hình núi non hiểm trở chính vì vậy mà tình hình buôn lậu, trốn thuế đặc biệt là những mặt hàng có thuế suất cao thường xuyên xảy ra ở các khu vực biên giới. Trong nội địa các khu vực địa bàn như thị xã, thị trấn, nhà ga, bên xe... là nơi mà bọn buôn lậu thường chọn làm nơi tập kết hàng hoá để vận chuyển về các tỉnh phía sau nhằm tránh sự kiểm tra, kiểm soát của lực lượng hải quan. Tình hình buôn lậu diễn biến ngày càng phức tạp với những thủ đoạn tinh vi hơn. Hầu hết các chủ hàng rút vào hoạt động chìm, núp bóng, chuyển hướng hoạt động, thiết lập các đường dây mới, xé lẻ hàng hoá, thuê mướn đội ngũ vận chuyển, áp tải đồng thời gắn trách nhiệm của họ với hàng hoá buôn lậu, hoạt động thường vào ban đêm, lúc trưa, lúc các lực lượng kiểm tra, kiểm soát nghỉ, đưa hàng chia ở nhiều nơi. Ngoài ra chúng còn sử dụng nhiều thủ đoạn khác để thực hiện buôn lậu như lôi kéo một số cán bộ hải quan tha hoá biến chất bao che hàng lâu qua cửa khẩu và các lực lượng kiểm tra kiểm soát bảo vệ, dẫn dắt, làm luật trong quá trình vận chuyển.... Mặt hàng buôn lậu chủ yếu thuộc diện Nhà nước quản lý dán tem hoặc có thuế suất cao như điện gia dụng, phương tiện vận tải (không chuyên dụng), hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng, điện tử.... Theo số liệu thống kê của Cục quản lý thị trường trong năm 1999, tại Lạng Sơn số vụ buôn bán hàng cấm và hàng nhập luậ là 993 vụ, 6 tháng đầu năm 2000 số vụ là 159 vụ. - Cao Bằng, Lào Cai: Đây là hai tỉnh miền núi có đường biên giới tiếp giáp Trung Quốc và có nhiều giao lưu buôn bán với Trung Quốc. Địa bàn hai tỉnh núi non hiểm trở giao thông đi lại khó khăn, có nhiều cửa khẩu nhưng hoạt động kinh doanh không mấy sôi động như một số tỉnh biên giới khác. Tuy nhiên, hoạt động buôn lậu thì lại đang ngày càng phát triển với nhiều thru đoạn tinh vi hơn như thuê người vận chuyển hàng hoá nhỏ lẻ, nhiều lần, thu gom hàng lậu phạm vi rộng; không chỉ ở biên giới, thị xã Lào Cai mà còn mở rọng đến thị xã Cam Đường, thị trấn Phố Lu huyện Bảo Thắng. Tại đây hàng lậu được đưa lên các phương tiện vận tải đường bộ, đường sắt vận chuyển vào các tỉnh phía sau, lợi dụng địa thế lôi kéo cửa vạn vận chuyển hàng qua biên giới, khai man về số lượng để giảm thuế, quay vòng tem, hoá đơn chứng từ, lợi dụng giấy tờ xuất nhập cảnh để mang tiền giả, ngoại tệ, ma tuý cắt gián tinh vi theo người, chúng còn tổ chức theo dõi hoạt động của hải quan, biên phòng, lợi dụng lúc các lực lượng kiểm tra mất cảnh giác để tuồn hàng lậu qua biên giới, chúng sử dụng xe đạp, xe máy, xe chở khách và cả xe chở quặng vào hoạt động vận chuyển hàng lậu vào hoạt động vận chuyển hàng lậu. Những mặt hàng nhập lậu bao gồm: Máy bơm nước, quạt điện, xe đạp, bếp ga, nồi cơm điện, gạch ốp lát, tủ kính, đầu video, rượu ngoại, vải.... Một điều đáng lo ngại là nạn buôn bán hàng cấm xuất nhập khẩu như ma tuý, thuốc nổ qua biên giới diễn ra khá phổ biến. ở các chợ biên giới cũng hết sức phức tạp và khó quản lý các cư dân Trung Quốc tham gia vào hoạt động trao đổi mua bán ở các chợ biên giới đều không có giấy thông hành xuất nhập cảnh do vậy họ thường đi lại qua các đường mòn biên giới ít qua cửa khẩu làm cho các lực lượng cơ quan chức năng khó kiểm soát, việc phân biệt cư dân Việt Nam và Trung Quốc cũng gặp khó khăn làm cho việc kiểm soát hàng lậu rất khó. Nhiều khi chính tịa các chợ này là nơi tập kết hàng lậu, hợp thức hàng hoá nhập lậu, chủ yếu là hàng tươi sống và một vài mặt hàng có giá trị thấp, nhỏ lẻ như vải, quần áo, vật dụng tiêu dùng phục vụ nhu cầu hàng ngày của dân cư. Theo ông Cường Phó chi Cục trưởng chi cục quản lý thị trường Lào Cai, buôn lậu ở Lào Cai tuy không lớn nhưng nếu không có biện pháp ngăn chặn triệt để thì sức phát triển cũng khó lường trước được. Lào Cai đã đề ra phương sách thích hợp cho việc chống buôn lậu, đó là việc đưa cán bộ quản lý thị trường về nằm tại phường để theo dõi các đối tượng hoạt động kinh doanh cố định, ngăn chặn những đầu mối lớn, chủ lớn hạn chế tối đa sự “lũng đoạn” của dân buôn lậu, những người buôn lậu nhỏ không có cơ hội hoạt động. Theo thống kê tại Lào Cai số vụ buôn bán hàng cấm và nhập lậu năm 1999 là 294 vụ, 6 tháng đầu năm 2000 là 118 vụ. - Tại Móng Cái (Quảng Ninh): Tại đây thời gian qua nổi lên tình trạng nhập lhậu hàng tiêu dùng với giá rẻ để cạnh tranh với thị trường nội địa làm ảnh hưởng đến sản xuất trong nước như ruột phích, sợi đay, bao đay, động cơ.... Các đầu nậu ở đây đã sử dụng thủ thuật mới để đối phó với các lực lượng, cơ quan chức năng chúng chủ động chẻ nhỏ, không tập kết hàng ở khu vực gần đường biên mà chuyển hàng vào chợ và khu vực thị xã, hoạt động của cửu vạn là vào ban đêm (bắt đầu 7,8 giờ tối) khuân hàng từ sông KaLong âm thầm chạy vào những phố tối dọc chợ. Sau đó vận chuyển trên đường công khai bằng xe ôm, xe khách đến gần trạm kiểm tra liên ngành km 15 thì dừng xe ôm cầu hàng hàng qua hai bên cánh gà của trạm rồi lại đưa lên ô tô chuyển vào nội địa. Chủ hàng “bán đứt” cho cửu vạn, chỉ khi cửu vạn chuyển hàng xong mới được ohàn trả tiền cọc cộng với tiền cước”, hiện nay vận chuyển 1 thùng đĩa VCD lậu (400 đĩa) từ Móng Cái về Hà Nội, cửa vạn được trả 600.000đ/thùng nhưng phải đặt cọc 12 triệu đồng cho chủ hàng, đến khi giao hàng xong mới nhận đựơc tiền. Hàng lậu khi đã chuyển trót lọt vào nội địa thì dùng các loại hoá đơn chứng từ giả hoặc dán tem quan vòng để hợp thức che mắt các cơ quan chức năng. Việc ngăn chặn hàng ở các cửa khẩu đã khó nhưng khi lọt vào nội địa thì còn khó hơn gấp bội thứ nhất do rất khó nhận diện hàng lậu trong một biển hàng hoá tràn ngập như chợ Móng Cái, thử đến nếu kiểm tra gắt gao quá sẽ ảnh hưởng đến tâm lý không tốt đối với thương nhân chân chinhs. Năm 1999 hải quan Móng Cái bắt giữ 286 vụ buôn lậu, vận chuyển tráip hép hàng hoá qua biên giới trị giá khoảng 2,6 tỷ đồng với đủ các chủng loại hàng hoá. Con số này không phản ánh hết được bởi trên thực tế hàng nhập lậu từ Trung Quốc vẫn tràn vào thị trường Móng Cái ngày cà._.ng nhiều hơn. - Trên tuyến biên giới phía Tây (biên giới Việt – Lào): Hoạt động buôn lậu tại các khu vực Cửa Lò, Quỳnh Lưu (Nghệ An), Cầu Treo (Hà Tĩnh), Lao Bảo (Quảng Trị), thủ đoạn chủ yếu của buôn lậu vẫn là thuê cửa vạn đưa hàng qua biên giới theo các đường mòn, tránh cửa khẩu, sử dụng các phương tiện xe cộ, thông tin liên lạc hiện đại, hàng vào nội địa sử dụng hoá đơn chứng từ giả, quay vòng hoá đơn, tem... Lượng hàng hoá rất lớn được tập kết trên đất Lào dọc sát biên giới, sông Sêpôn, sát cửa khẩu Cầu Treo, chờ thời cơ là xuất vào Việt Nam. Mặt hàng buôn lậu chủ yếu là hàng điện tử, nồi cơm điện, gạch ốp lát, tủ lạnh, thuốc lá, xe máy, sứ vệ sinh, hàng xa xỉ phẩm Thái, Nhật. Hiện nay trên tuyến biên giới phía Tây đang nổi lên tình trạng xuất lậu vàng, ngoại tệ, nhập lậu xe máy, thuốc lá, rượu ngoại. Tại các cửa khẩu Nghệ An, Lai Châu các vụ buôn lậu ma tuý rất thường xuyên. - Khu vực Cầu Treo: Cầu Treo là một cửa khẩu quốc tế cách thị xã Hà Tĩnh gần 100km, giao thông rất khó khăn với đường rừng, đường đèo quanh co. Trong vài năm gần đây bọn buôn lậu lợi dụng địa hình đồi núi, sự thông thạo đường mòn lối tắt của dân cư địa phương để đưa hàng lậu qua biên giới, cả dân cư địa phương để đưa hàng lậu qua biên giới, cả dân cư địa phương, học sinh, giáo viên và cả người miền xuôi lên tham gia khuôn vác, vận chuyển hàng lậu. Trong đó phần lớn là cư dân cảu 2 xã Kim sơn là Sơn Tây huyện Hương Sơn. Các cửu vạn nắm rất vững địa bàn, nếu bị bắt bởi lực lượng chống buôn lậu thì chính quyền địa phương có lúc đã giúp đỡ, xác nhận hoàn cảnh khó khăn để xin hàng gây khó xử cho việc giải quyết xử lý, nhiều lúc lực lượng cửu vạn còn chống trả, trả thù cán bộ quản lý. Mặt hàng vận chuyển lậu chủ yếu là hàng điện, điện tử, gạch men, nước giải khát, tân dược. Tại Lào gần cửa khẩu Cầu Treo có các kho hàng lớn của chủ hàng người Lào quản lý và chở vào Việt Nam. Bọn buôn lậu đều nậu 2 bên thường sử dụng các phương tiện liên lạc hiện đại, điện thoại di động để làm ăn, hoạt động theo luật riêng, ít xuất đầu lộ diện mà thông qua các đối tượng khác nhau, phương thức khác nhau thay đổi liên tục để chống lại sự kiểm tra kiểm soát của lực lượng chống buôn lậu. Bọn buôn lậu lợi dụng địa hình rừng nguyên sinh, sự thông thạo địa hình của đội ngũ cửu vạn cũng như sự phối hợp yếu của các cơ quan chức năng, trang bị kém, sử dụng xe cơ giới theo đường 8 vào nội địa. Qua cửa khẩu chúng lợi dụng chế độ thạm nhập tái xuất tạm xuất tái nhập, chứng từ hoá đơn giả, mua chuộc cán bọ chức năng để đưa hàng lậu vào nội địa. - Khu vực cửa khẩu Lao Bảo và tuyến sông Sêpôn: Chạy song song với đường 9 Nam Lào đoạn từ cửa khẩu Lao Bảo về thị trấn Khe Sanh dài gần 200 km là đường biên giới giữa hai nước Việt – Lào. Có nhiều đoạn sông cách quốc lộ 9 chỉ vài trăm mét do vậy bọn buôn lậu chọn 3 xã Tân Thành, Tân Phước, Tân Long tiếp giáp sông Sêpôn làm cứ điểm cất giữ hàng lậu, đây là 3 điểm nóng ở khu vực này. Sự phối hợp kiểm soát giữa hai bên Lào – Việt chưa chặt chẽ cho hàng lậu cứ ồ ạt vượt biên bằng con đường Sêpôn thâm nhập vào Việt Nam, đặc biệt từ khi Nhà nước ta có chính sách hàng đổi hàng vưói Lào thì hoạt động buôn lậu càng nở rộ hơn. “Kho trung chuyển hàng lậu thị trấn Lao Bảo, xã Tân Thành, Tân Long có tới 70-80% gia đình sống bằng “nghề” buôn lậu, nhà nào hàng hoá cũng chật ních hàng để trung chuyển từ Việt sang Lào và ngược lại, mỗi ngày trung bình 50-70 chuyến xe ca chở hàng lậu lên từ Đông Hà tiếp đó lại chở hàng lậu ngược từ Lao Bảo về. Ngoài ra còn có đội quân khoảng 300 xe máy tham gia vận chuyển bằng đường rừng về xuôi. Hàng ngày thuyền của Lào thường là chuyên chở hàng lớn xuôi dòng Sêpôn, các thuyền nan của đội quân “cửu vạn” Việt Nam ra đón hàng vào bờ. Dòng sông sêpôn chỉ tiếp giáp với Quảng Trị có 10km nhưng là điểm nóng buôn lậu để theo dõi, quan sát lực lượng chống buôn lậu. Bở bên kia sông thường xuyên có 40-50 thuyền máy chất đầy hàng hoá phụ tùng xe máy, đồ điện, rượu, quần áo may sẵn... khi có thời cơ là đưa sang ngay, chỉ sau 15-20phút là chuyến hàng được bốc và phân tán xong. Hàng qua sông sẽ được cửu vạn gùi cõng, hoặc chở xuyên rừng về thị xã Đông Hà, Triệu Phong. Bọn buôn lậu sử dụng nhiều phương thức và thủ đonạ khác nhau. Trên bộ chúng sử dụng đông đảo lực lượng cửu vạn vận chuyền hàng lậu qua biên giới từng tốp nhỏ, chuyển hàng lớn chủ hàng cho người đi cảnh giới nếu phát hiện lực lượng chống buôn lậu là báo hiệu ngay cho phía sau phân tán hàng; hàng qua cửa khẩu bằng các con đường mòn hai bên cánh gà; tại cửa khẩu Lao Bảo, Nậm Cắn xuất biên thủ đoạn mới dấu hàng trong các xe vận tải quá cảnh; xe téc chuyên chở xăng dầu hay thạch cao từ Lào về Việt Nam để cất dấu xe máy hàng lậu. Trên sông bọn buôn lậu mua lại hàng lậu của chủ hàng người Việt Nam hoặc Lào vận chuyển bằng thuyền máy, sang mạn cho thuyền nan chèo voà bờ chuyển đến điểm tập kết, bán lại cho dân cõng chuyển tiếp vào chợ Lao Bảo. Hàng lậu chủ yếu có nguồn gốc từ Thái Lan, các sản phẩm thuốc lá, nồi cơm điện, ti vi, tủ lạnh, xe máy, quần áo.... buôn bán vàng, ngoại tệ thời gian gần đây cũng đang gia tăng. Năm 1999 Cục hải quan tỉnh Quảng trị bắt giữ được 1859 vụ buôn hàng lậu thu về cho Nhà nước trên 11 tỷ ddồng tăng 522 vụ so với năm 1998. Số lượng bắt được có khoảng cách xa với thực tế mà hàng lậu qua biên giới vào Quảng Trị. - Trên tuyến biên giới Tây Nam (biên giới Việt Nam – Campuchia): Khu vực này tập trung ở các tỉnh Long An, Tây Ninh, An Giang, bọn buôn lậu và gian lận thương mại sử dụng rất nhiều thủ đoạn tinh vi như quay vòng tem nhập khẩu, sử dụng tem giả, quay vòng vỏ thùng hàng đã dán tem, chở nhỏ hàng từ xa để vận chuyển, thuê mướn nhà xưởng, xe cộng vụ của một số cơ quan, doanh nghiệp để làm cho trung chuyển, tập kết, vận chuyển, sử dụng chứng từ giả, quay vòng, còn có cả hình thức cưới xin để vận chuyển hàng lậu. Đây là tuyến buôn lậu tập trung sôi động, phức tạp từ lâu trong đó mặt hàng chủ yếu là thuốc lá ngoại, quần ao sida, đồ điện tử, đồ chơi trẻ em, xe máy cũ....được nhập lậu, hàng xuất lậu chủ yếu là vàng, ngoại tệ, xăng dầu... Những hàng hoá nhập lậu được đưa phần lớn vào thành phồ HCM. Mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong hàng nhập lậu là thuốc lá, lúc cao điểm có khi lên đến 1 triệu bao/ngày. Theo Cục điều tra chống buôn lậu thì trung bình mỗi ngày khoảng 700-800 kiện thuốc lá được chở từ Campuchia,ước tính 12-15 triệu bao/tháng nhập lậu qua khu vực này trong khi đó lực lượng chống buôn lậu chỉ thu được khoảng 2 triệu bao, xe máy cũ nhập lậu trước đây chủ yếu là qua khu vực này từ khi xe máy Trung Quốc tràn vào Việt Nam với giá hạ thì đã giảm mạnh, số xe máy nhập lậu mà lực lượng quản lý thị trường tịch thu nửa đầu năm này chỉ bằng nửa cùng kỳ năm trước. Tại biên giới Tây Nam vàng, ngoại tệ mạnh, phụ tùng xe máy, thuốc lá... vẫn tiếp tục được chuyển lậu khá mạnh. Đặc biệt từ tháng 7/2000 đến nay bọn buôn lậu đã lợi dụng tình hình nước lũ để tuồn mạnh hàng lậu vào thị trường nội địa. Một số điểm nóng buôn lậu như chợ Gò Tà Mau (An Giang), Mộc Bài (Tây Ninh), Samat... trong đó chợ Gò Tà Mau là điểm nóng nhất mà bọn buôn lậu thường đưa vào An Giang, chợ này nằm sát đường biên giới Việt Nam – Campu chia chừng 3km, thuộc xã Châu Đốc. Chợ Gò Tà Mau có hàng trăm nhà đầy ắp hàng hoá được chở đến từ Campuchia. Hải quan và bộ đội biên phòng được trang bị hiện đại cả phương tiện đi lại và liên lạc để chống buôn lậu nhưng hàng lậu vẫn vượt biên giới vào thị xã Châu Đốc, Châu Phú, Phú Tân rồi toả đi các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long và thành phố HCM để tiêu thụ. Mặt hàng buôn lậu chủ yếu là thuốc lá điếu, đồ điện cũ, quần áo cũ, phụ tùng xe máy, mỹ phẩm... những hàng hoá này được đeo vác vào mùa khô và vận chuyển bằng thuyền ghe vào mùa nước nổi từ chợ Gò Tà Mau đến các điểm tập kết ở chợ Châu Đốc hoặc các chợ nhỏ dọc tuyến quốc lộ 91 như chợ Vĩnh Mỹ, Cái Dầu, Cổ Dương. Thủ đoạn của bọn buôn lậu lợi dụng người lao động nghèo, tìm cách gắn trách nhiệm của họ với hàng lậu vận chuyển như cho vay vốn để mua hàng lậu..., tổ chức chặt chẽ trong vận chuyển ,thay đổi giờ hoạt động, chạy tiếp sức... để nhanh chóng đưa hàng lậu qua biên giới không bị phát hiện. Theo thống kê năm 1999 số vụ bắt giữ xử lý buôn bán hàng cấm và hàng nhập lậu/số lần kiểm tra là: Tại An Giang 2671/15.073; tại Kiên Giang: 5.826/12.407; Long An: 1.224/2.722; Tây Ninh: 1.268/1.397. Trong 6 tháng đầu năm 2000 con số này lần lượt là: 350/5.670; 2.365/4.542; 520/2.439; 471/535. Buôn lậu & gian lận thương mại chủ yếu là vượt biên trái phép còn qua con đường chính ngạch xảy ra ít hơn và thường có sự trợ giúp của một số cán bộ chức năng, cơ quan doanh nghiệp Nhà nước có chức năng xuất nhập khẩu mượn tư cách pháp nhân để tuồn hàng lậu. - Trên tuyến đường bộ: Trên các đường mòn biên giới bọn buôn lậu thường sử dụng người địa phương thông thạo địa hình, nắm được qui luật hoạt động của lực lượng kiểm soát để lợi dụng thời cơ mang hàng lậu qua biên giới, gắn trách nhiệm của người vận chuyển với hàng lậu do vậy khi bị bắt họ chống trả lại quyết liệt lực lượng chức năng. Núi rừng hiểm trở với đường ngang lối tắt chi chít đã được bọn buôn lậu tận dụng, tránh sự kiểm soát của hải quan, biên phòng. Bọn buôn lậu thường ẩn nấp trong rừng, liên lạc với nhau bằng điện thoại di động, điều khiển cửu vạn, xe chở thuê vào nội địa gây nhiều khó khăn cho công tác phòng chống buôn lậu. Mỗi cửa khẩu, tuyến biên giới có đặc thù riêng song do vận chuyển đường bộ nên chủ yếu các mặt hàng có thể mang, vác hoặc xé lẻ được vượt rừng núi vào nội địa tập kết, từ nơi tập kết hàng chủ yếu sẽ được vận chuyển bằng đường sắt với khối lượng lớn vào sâu trong nội địa, vận chuyển suốt ngày đem. Chủ hàng thông đồng với nhân viên tàu và nhà ga để thực hiện vận chuyển lậu, trốn thuế. Trên tuyến đường sắt Lào Cai – Yên Bái- Việt Trì - Lạng Sơn – Yên Viên cho thấy hàng nhập lậu được chia nhỏ qua các đường mòn biên giới tập kết tại khu vực nhà ga đến sát giờ tàu chạy hàng được ồ ạt đưa lên hay dỡ xuống trong các chuyến tàu khách khu vực nhà ga hàng lậu được phân tán trong nhà dân, nhà ở của cán bộ nhân viên nhà ga rất khó cho việc quản lý. Tại một số cửa khẩu địa phương không có đường sắt thì hàng lậu được chuyển trên các phương tiện xe lam, xe ô tô và cả xe máy.. bọn “đầu trâu” thường chia nhỏ phân tán hàng hoá thành nhiều tốp, nhiều chuyến, lịchtrình, phương tiện và tuyến đường luôn thay đổi gây rất nhiều khó khăn cho các lực lượng chống buôn lậu, các phương tiện vận chuyển được bọn buôn lậu tận dụng và thiết kế chỗ cất dấu hàng rất tinh vi như bình xăng ôtô 2 lớp, thùng xe 2 ngăn, chứa trong téc xe, lốp xe ôtô.... - Trên tuyến đường biển: Hoạt động buôn lậu và GLTM ở tuyến này tuy không sôi động như trên đất liền nhưng được tổ chức rất qui moo, lượng hàng hoá lớn và có giá trị cao. Bọn buôn lậu sử dụng từ tàu đánh cá nhỏ đến tàu pha sông, biển và cả tàu viễn dương. Chúng hoạt động cótổ chức và phối hợp chặt chẽ với nhau, địa bàn rộng, tổ chức đường dây quốc tế, các đối tượng sử dụng hệ thống thông tin liên lạc điểu khiển từ xa VHF để liên lạc với nhau về tàu, quân số, địa điểm mật phục, địa bàn tái chiến của lực lượng chống buôn lậu trên biển. Bọn buôn lậu biển chủ yếu sử dụng các loại tàu thuyền của các lực lượng vũ trang, các cơ quan tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp đi mua hàng lậu từ Trung Quốc về vào các cảng bến nhỏ, cảng cá, biến đậu vắng hẻo lánh để dỡ hàng như khu vực giáp ranh Nam Định – Thái Bình, Hoàng Hoá, Quảng Xương (Thanh Hoá), Quỳnh Lưu, Cửa Lò (Nghệ An), Cửa Sói (Hà Tĩnh)... khi xuống hàng sử dụng lượng lớn cửu vạn để phân tán nhanh hàng hoá, gặp lực lượng kiểm tra chúng táo tợn chống lại cướp hàng. Các tàu lớn chuyên chở hàng lậu về thường sang mạn ở ngoài khơi xa thuộc hải phận nước ngoài hay quốc tế hoặc các đảo vắng sau đó cho các tàu thuyền nhỏ phân tán hàng hoá vận chuyển vào bờ, chúng lợi dụng ngư dân để vận chuyển và cất dấu hàng lậu. Tàu chở hàng lậu thường chứa hàng lậu ở các khoang chứa nước, chứa dầu, hầm neo. Đáng chú ý gần đây xuất hiện hình thức buôn lậu mới khỉ chở hàng từ Trung Quốc về bọn buôn lậu cho tàu vào cảng Vạn Gia (Xương Ninh) làm thủ tục hải quan sau đó quay ngược trở lại Trung Quốc lấy thêm hàng rồi tiếp tục hành trình về Việt Nam. Nếu bị phát hiện kiểm tra chủ tàu đã có bộ hồ sơ hải quan để hợp thức hoá số hàng vận chuyển trên tàu gây khó khăn cho lực lượng kiểm tra. Mặt hàng nhập lậu chủ yếu là gạch ốp lát, xe đạp cũ, hàng điện tử đã qua sử dụng, kính xây dựng... Trên tuyến biển hàng nhập lậu đặc biệt từ Trung Quốc có xu hướng gia tăng do lợi thế vận tải biển và khi tuyến đường bộ bị các lực lượng chức năng tăng cường kiểm tra, kiểm soát. Chỉ trong 8 tháng đầu năm lực lượng của Cục điều tra chống buôn lậu trên biển đã bắt được 8 tàu buôn lâụ, khám 4 tàu viễn dương có hành vi buôn lậu và GLTM với tổng trị giá hàng vi phạm trên 3 tỷ đồng. - Trên tuyến hàng không: Trên tuyến đường này bọn BL&GLTM hoạt động ở các sân bay lứon như Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng với lưu lượng hành khách lớn, nhiều tuyến bay quốc tế mới mở. Đặc thù của đường không là khống chế về khối lượng nên hàng hoá nhập lậu thường là gọn nhẹ như vàng, ngoại tệ, đồng hồ, đồ cổ, đá quí, điện thoại di động... Bọn buôn lậu thường lợi dụng hộ chiếu đỏ, hộ chiếu ngoại giao được miễn kiểm tra để mang hàng lậu, khai báo sai số lượng, khối lượng hàng hoá, tiền tệ, gửi, dấu trong hành lý cá nhân của hành khách, của tiếp viên hàng không.... những thủ đonạ này được bọn buôn lậu sử dụng phổ biến để đưa hàng lậu theo đường không vào trong nước hay ra nước ngoài. - Trên tuyến bưu điện. Tuyến này thường ít được sử dụng rộng rãi, nó thường được bọn buôn lậu chủ yếu sử dụng để gửi ngoại tệ, vàng, tân dược và cả ma tuý, với một số hàng gọn nhẹ có giá trị cao khác. Ma tuý được vận chuyển qua tuyến này theo đường chuyển phát nhanh bưu điện, bọn buôn lậu dùng thủ đoạn dùng đồ gia dụng để cất dấu ma tuý, điển hình là cuối 8/2000 hải quan bưu điển thành phố HCM đã phát hiện giữa vỏ và ruột nồi cơm điện gửi từ Trung Quốc về Việt Nam qua đường chuyển phát nhanh DHL cho ông Wang Xue Feng đang tạm trú tại quận II thành phố Hồ Chí Mình. Bên cạnh hoạt động buôn lậu thì tình hình gian lận thương mại cũng không kém phần đáng lo ngại, đây là vấn đề cả xã hội phải quan tâm. Tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, quá hạn sử dụng cũng như gian lận về thuế đang trở thành vấn đề nhức nhối và đấu tranh chống lại tình trạng này đang là một vấn đề bức súc, khẩn trương. Bên cạnhđó tình trạng nhái nhãn mác và ăn cắp bản quyền sở hữu công nghiệp đang diễn ra rất phổ biến. GLTM nổi cộm lên 2 vấn đề đó là gian lận về thuế và nạn hàng giả. Các thương nhân tìm mọi cách để trốn thuế, bằng nhiều hình thức và thủ đoạn khác nhau như khai sai số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá, khai sai xuất xứ, khai sai mục đích sử dụng của hàng nhập, buôn bán kinh doanh không có giấy phép, sử dụng giấy đăng ký quá hạn, không có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh... Tình hình sản xuất buôn bán hàng giả, kém chất lượng xảy ra thường xuyên và xuất hiện ở mọi nơi trong cả nước. Bọn sản xuất và buôn bán hàng giả không từ bất kỳ mặt hàng nào từ những mặt hàng có giá trị thấp đến mặt hàng có giá trị cao và các mặt hàng khác có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và tính mạng của con người: thực phẩm, thuốc chữa bệnh, ảnh hưởng đến mùa màng và môi sinh như phân bón, thuóc trừ sâu, rối loạn thị trường, ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh.... Đối tượng tham gia sản xuất và buôn bán hàng gải gồm tổ chức và cá nhân thuộc nhiều thành phần kinh tế. Thủ đonạh sản xuất, buôn bán hàng giả ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Bọn sản xuất, buôn bán hàng giả hoạt động rất kín đáo, chặt chẽ, cho người theo dõi lực lượng kiểm tra,kiểm soát ở nơi sản xuất, bày bán lẫn lộn giữa hàng thật với hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng quá hạn sử dụng, không ghi rõ nơi sản xuất gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng và lượng lượng kiểm soát. Địa điểm sản xuất hàng thường lả các thành phố, thị xã, thị trấn gần đây chuyển về ngoại thành, nông thôn, ở các hẻm sâu để dễ phitang khi bị kiểm tra, kiểm soát. Hàng giả không những được sản xuất ở trong nước mà còn được sản xuất cả ở nước ngoài đưa vào nước ta tiêu thụ, hàng ngoại giả ngoại và cả hàng ngoại giả nội, hàng nội giả nội.... Trên mặt trận chống gian lận thương mại là một công việc khó khăn phức tạp vì ranh giới giữa hàng giả, hàng kém chất lượng và gian lận thương mại chưa rõ ràng, việc điều tra xác minh tốn nhiều thời gian, công sức và chi phí kiểm định, giảm định chất lượng hàng hoá lại lớn, mặt khác trình độ cũng như trang bị của các lực lượng kiểm tra, kiểm soát cũng còn nhiều hạn chế. Do vậy kết quả đạt được còn thấp. Năm 1998 lực lượng quản lý thị trường cả nước kiểm tra hơn 2000 vụ sản xuất, buôn bán hàng giả, kém chất lượng, mất phẩm chất, 28.100 vụ vi phạm về đăng ký kinh doanh; năm 1999 kiểm tra xử lý 1.210 vụ buôn bán sản xuất hàng giả, kém chất lượng, quá hạn dùng..., 56.840 vụ vi phạm về đăng ký kinh doanh. Số liệu tương ứng của 6 tháng đầu năm 2000 là 1.339 và 20.412 vụ. 2. Những thủ đoạn buôn lậu và GGLTM: a. Những mánh khoé thủ đoạn trong buôn lậu: - Lợi dụng địa hình và dân cư biên giới. Địa bàn biên giới thường là đồi núi, rừng rậm khá phức tạp với nhiều đường mòn qua biên giới, vượt cửa khẩu. Lợi dụng sự hạn chế của các lực lượng chống buôn lậu trong nắm địa bàn và trang bị phương tiện lực lượng. Bọn buôn lậu lợi dụng sự khó khăn cũng như sự thông thạo địa hình của dân cư vùng biên biến họ thành những người tham gia buôn lậu tích cực. Bọn buôn lậu tìm mọi cách để ràng buộc trách nhiệm của "cửu vạn" bảo đảm an toàn cho hàng hoá vượt biên cũng như chủ hàng, với thủ đoạn này chúng bỏ vốn ra cho người vận chuyển vay mua hàng và vận chuyển qua biên giới, nếu mất cửu vạn hoàn toàn chịu trách nhiệm, hàng hoá sau đó được tập kết lại để vận chuyển tiếp vào nội địa. Hoặc chủ hàng lậu thuê cửu vạn theo một nhóm nhất định vận chuyển hàng hoá có giá trị cao, đường vận chuyển chúng thấy an toàn, điểm tập kết được xác định trước, thường xuyên thay đổi đường vận chuyển , địa điểm tập kết hàng và tổ chức chạy tiếp sức, cảnh giới... Nói chung tổ chức đưa hàng lậu rất chặt chẽ mọi khâu bảo đảm an toàn và nhanh chóng cho hàng lậu vượt biên. - Chuyển hướng hàng nhập lậu và phương thức hoạt động: Bọn buôn lậu linh hoạt chuyển hướng nhập lậu những mặt hàng truyền thống ở khu vực này qua khu vực khác. Ví dụ đối với mặt hàng thuốc lá ngoại trước kia thường được nhập lậu vào quy mô lớn ở biên giới Tây Nam thì nay chúng đã tổ chức nhập lậu vào qua khu vực biên giới các tỉnh Miền trung, tránh đưa tập trung vào một số địa điểm nhất định. Bọn buôn lậu dùng hình thức chẻ nhỏ hàng hoá từ xa để vận chuyển sâu vào nội địa băng mọi phương tiện, nguỵ trang tinh vi. Lợi dụng đêm tối, thời tiết thuận lợi cho vận chuyển lậu, theo dõi hoạt động của lực lượng chống buôn lậu để hoạt động. Trên biển bọn buôn lậu sang mạn hàng, sử dụng cả tàu thuyền đánh cá của ngư dân để vận chuyển hàng vào bờ. - Lợi dụng hộ chiếu đỏ: người mang hộ chiếu này sẽ được miễn khai, miễn khám khi qua cửa khẩu, lợi dụng điều này họ thường đưa hàng lậu vào. - Buôn lậu dưới hình thức xuất khẩu nhờ uỷ thác là hiện tượng khá phổ biến. Gian thương tìm cách"nhờ" doanh nghiệp có chức năng XNK uỷ thác một số mặt hàng. Sau khi làm song thủ tục hải quan, trong quá trình vận chuyển hàng đến cảng các đối tượng buôn lậu tiến hành phá kẹp chì làm giả chì hải quan, gia cố ốc vít bắt tại các chốt liên kết, có trường hợp tháo cả cụm khoá có kẹp chì ra và thay hàng lậu vào, song lắp lại như cũ. - Mua chuộc cán bộ, nhân viên của các cơ quan chức năng: Một số cán bộ, nhân viên này tha hoá biến chất đã bị bọn buôn lậu mua chuộc để tạo điều kiện cho chúng đưa hàng lậu vào như bỏ qua kiểm tra, thông tin cho buôn lậu... Ngoài các thủ đoạn trên bọn buôn lậu còn nhiều thủ đoạn khác tinh vi xảo quyệt kể cả việc lợi dụng lực lượng chống buôn lậu mỏng chúng tổ chức cướp lại hàng, hành hung, đe doạ... b. Một số thủ đoạn GLTM phổ biến ở Việt Nam: - Lợi dụng chính sách thuế của Nhà nước: Đây là loại hình mà gian thương hay sử dụng nhất ở Việt Nam, đặc biệt trong hoạt động XNK. Thuế XNK của Việt Nam thường là cao hơn đối với các mặt hàng nhập khẩu như ô tô du lịch, rượu bia, mỹ phẩm, hàng điện tử... Hơn nữa chính sách thuế XNK của ta còn bộc lộ nhiều vấn đề bất cập tạo nhiều kẽ hở cho gian thương, lợi nhuận chênh lệch do khai báo không đầy đủ trung thực, giấy tờ xuất trình (chứng nhận xuất xứ) hàng hoá là rất lớn nên gian thương tìm mọi cách để trốn tránh, lách thuế. Thủ đoạn của gian thương trong lợi dụng chính sách thuế như: Đối với mặt hàng theo mục đích sử dụng khác nhau có mức thuế suất khác nhau, lợi dụng điều này gian thương thường thực hiện việc tân trang, hoán cải lại hàng hoá. Ví dụ đối với xe ô tô du lịch có thuế suất 160%, nếu thay đổi chi tiết như tháo hết ghế sau trở thành xe tải nhẹ thì mức thuế suất chi còn 60% hay dùng lắp thêm còi cứu thương thì xe cứu thương có mức thuế suất 0% - giảm toàn bộ thuế. Theo quyết định số 1803/ 1998/ QĐ - BTC ban hành ngày 11/12/1998 của Bộ tài chính các loại xe thiết kế chuyên dụng như xe thiết kế chở hàng đông lạnh có thuế suất là 10%. Để nhằm "lánh" luật các chủ hàng đã " thiết kế" lại xe ô tô tải dưới 5 tấn thành ô tô đông lạnh theo kiểu gắn thêm thùng lạnh đằng sau xe tải, hàn và lắp thêm chi tiết khác... để thực hiện hành vi này chủ hàng móc ngoặc, thông đồng với phía nước ngoài. Tương tự đối với các mặt hàng xe đạp thường được hoán cải thành xe đạp đua, từ ô tô có trọng tải thấp khai trọng tải cao để hướng thuế suất thấp hơn. (thuế suất NK xe đạp thường 60%, xe đạp đua 5%, xe trọng tải 5 tấn: 60%, xe 5,5 tấn: 40 %)... Việt Nam khuyến khích nhập nguyên liệu, cho phép nhập 80% linh kiện phụ tùng lắp ráp và xuất khẩu sản phẩm chế biến do đó Nhà nước áp dụng mức thuế suất nhập thấp, thậm chí 0%. Lợi dụng điều này bọn gian thương tháo dời sản phẩm nguyên chiếc để nhập vào hưởng mức thuế suất của linh kiện. Ví dụ đối với xe máy linh kiện nhập trong cơ cấu dạng IDK thuế suất NK 30 - 40 % nhưng nhập nguyên chiếc thuế suất là 60%. Chính sách thuế đối với mặt hàng có xuất xứ khác nhau cùng có mức thuế suất khác nhau, chính sách ưu đãi thuế giữa các nước thành viên như AFTA, quy chế tối huệ quốc được bọn gian thương lợi dụng triệt để. Khai báo sai nguồn gốc xuất xứ của hàng hoá, chứng nhận xuất xứ giả,... Một vấn đề nữa đó là thủ đoạn làm giả hoá đơn, bán hàng không hoá đơn, ghi giá sai trên hoá đơn so với thực tế. Trong bán hàng, mua hàng hiện tượng ghi giá trên hoá đơn thấp hơn giá bán thực tế thường áp dụng đối với mặt hàng có gía trị cao như xe máy... - Lợi dụng chế độ hoàn thuế giá trị gia tăng: Luật thuế giá trị gia tăng (VAT) có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999 và cũng chính từ thời điểm này các hình thức gian lận về thuế ngày càng trở lên đa dạng, tinh vi hơn. Gian thương không chỉ kinh doanh trốn thuế mà còn thực hiện moi tiền của Nhà nước thông qua việc thực hiện chính sách hoàn, khấu trừ thuế (hoàn thuế). Theo định chế của luật pháp hiện hành thì hình thức hoàn thuế VAT được thực hiện theo các quy trình như "nộp trước, hoàn sau", doanh nghiệp này nộp doanh nghiệp kia được hoàn," hoàn thuế trước, kiểm tra sau", Doanh nghiệp khi xuất nhập khẩu hàng thì thông thường thuế suất VAT là 0% và toàn bộ số thuế đã nộp ở các công đoạn trước sẽ được hoàn lại. Lợi dụng quy trình này gian thương đã tìm đủ mọi mánh khoé để "lách" luật trục lợi bất chính. Thủ đoạn của chúng là dùng hoá đơn gải, mua bán hoá đơn thật của đơn vị khác đã sử dụng, sử dụng hoá đơn thật nhưng tô hoá đơn giao cho khách mua để làm chứng từ hoàn thuế có giá trị tiền bán hàng lớn hơn so với hoá đơn lưu lại đơn vị bán, sử dụng hoá đơn khống (không mua bán hàng nhưng vẫn xuất hoá đơn). Đặc biệt đã xuất hiện nhiều công ty TNHH thành lập ra không để kinh doanh mà chỉ thực hiện việc "hợp thức hoá đầu vào" loại hàng không có nguồn gốc hợp pháp, rõ ràng, sau đó đem xuất nhập khẩu để được hoàn thuế 100%. - Khai báo không trung thực về mặt hàng, số lượng, chất lượng, giá trị, chủng loại hàng hoá: thủ đoạn này là khá phổ biến, lẩn tránh sự kiểm tra của hải quan. Chủ trương cải cách, đơn giản hoá thủ tục Hải quan tạo điều kiện thông thoáng cho hoạt động XNK. Giải phóng hàng hoá nhanh chóng tại cửa khẩu, lượng hàng hoá qua cửa khẩu ngày càng lớn, biên chế cũng như trang bị cho công tác hải quan còn thiếu, chưa đồng bộ do đó gian thương lợi dụng sự sơ hở trong giám sát, kiểm tra của hải quan để thực hiện hành vi gian lận thương mại. Thủ đoạn của bọn chúng là kê khai sai mặt hàng thực XNK, mặt hàng có thuế suất cao thì khai thành mặt hàng có thuế suất thấp hoặc hàng không phải chịu thuế, khai hàng được XNK thay cho hàng cấm hay phải có hạn ngạch. Về giá trị hàng hoá: khai hàng hoá có giá trị cao thành giá trị thấp để hưởng chênh lệch thuế, khai tăng giá trị hàng xuất nhập khẩu để hưởng hạn ngạch hoặc khai thấp giá trị hàng NK trong khi thực nhập cao hơn hạn ngạch, khai sai số lượng, trọng lượng, khai sai phẩm cấp chất lượng hàng cũ khai hàng mới, thành phẩm khai là nguyên liệu, phế phẩm .... Về chủng loại hàng hoá: nhập nhiều hàng hoá khác nhau nhưng chỉ khai một hoặc một số hàng chịu thuế suất thấp hay hàng hoá nhiều phẩm cấp khác nhau khai báo một phẩm cấp... - Gian lận về giá và lợi dụng việc hàng đổi hàng: Các gian thương núp bóng doanh nghiệp Nhà nước ký các hợp đồng danh nghĩa với giá nước ngoài để đặt bản hợp đồng theo quy định tai thông tư 82/1997/ BTC theo đó giá tính thuế tính theo giá hợp đồng mà không xem xét mức giá đó có phản ánh thực giá mua hoặc thanh toán, gian thương đã thông đồng với phía nước ngoài, phần giá trị thực còn lại của hàng được thanh toán chui dưới nhiều hình thức như đầu tư tại Việt Nam hoặc mang lậu ngoại tệ ra nước ngoài. Kim ngạch xuất khẩu ảo trong phương thức hàng đổi hàng với Lào: Các Doanh nghiệp gian lận theo phương thức này đã sử dụng các thủ đoạn tinh vi, trắng trợn nhằm tạo ra càng nhiều"kim ngạch xuất khẩu" càng tót để nhập về nhiều xe máy bán thu lợi nhuận. Thủ đoạn áp dụng phổ biến ở đây là khai tăng giá trị hàng hoá xuất khẩu trên hoá đơn cao gấp nhiều lần so với thực tế. Ví dụ như mặt hàng tỏi khô giá bán thực tế khoảng 150USD/tấn song khai giá trong hồ sơ, hoá đơn là 500USD/ tấn. Tiếp nữa là khai man tăng số lượng hàng XK, trắng trợn hơn như công ty XNK nông sản và TTCN tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu khai báo xuất 22 ngàn lít tinh dầu xả, trị giá hơn 300.000 USD song thực tế chỉ là nước lã. Ngoài thủ đoạn trên nhiều doanh nghiệp còn nhập lậu hàng ngoại (Trung Quốc, Thái Lan...) "phù phép" thành hàng của Việt Nam để XK, hoặc sử dụng thủ đoạn "quay vòng hàng hoá" như hàng đã xuất khẩu qua Lào lại nhập lậu về làm thủ tục lần nữa... - GLTM trong sản xuất hàng gia công xuất khẩu: hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để gia công để xuất khẩu theo hợp đồng đã ký kết với nước ngoài thuộc diện miễn thuế XNK. Thủ đoạn của các chủ hàng gia công là nhập nguyên phụ liệu nhiều nhưng sản xuất thành phẩm còn dư sẽ được tiêu thụ trong nội địa để trốn thuế NK, hoặc khi ký hợp đồng gia công bên gia công và bên đặt gia công thông đồng để khai sai định mức tiêu hao nguyên phụ liệu, số dư này cũng được bán trong nước, trốn thuế NK. - Bán Quota (hạn ngạch) trong gia công lại: một số doanh nghiệp hoàn toàn không có năng lực song do "ngoại giao" tốt xin được nhiều hạn ngạch và bán lại cho các doanh nghiệp khác thu lợi nhuận siêu ngạch. Để hợp thức hoá doanh nghiệp bán hạn ngạch làm luôn thủ tục XNK vì vậy khi xem hồ sơ khó có thể phân biệt được. Hình thức này phổ biến trong ngành may mặc. - Lợi dụng quy định cho phép chủ hàng làm thủ tục hải quan tại nơi nào thấy thuận tiện nhất cho mình(nghị định 171/ HĐBT ngày 27/5/1991 của hội đồng bộ trưởng - nay là Chính phủ), Doanh nghiệp có thể làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu hay khu vực kho bãi của doanh nghiệp. Điều này có thể phát sinh tiêu cực, kẽ hở để gian thương lợi dụng thực hiện hành vi gian lận. Vụ vi phạm Phạm Ngọc Lam - nguyên Giám đốc công ty Anh Lâm đã tổ chức buôn lậu 170 ô tô du lịch qua cảng TP. HCM và các tỉnh bằng cách hối lộ hải quan và thực hiện trao đổi hàng hoá là một điển hình. - GLTM trong lĩnh vực liên doanh đầu tư: theo luật ĐTNN tại Việt Nam thì các xí nghiệp có vốn ĐTNN được miễn thuế NK đối với thiết bị, máy móc, phụ tùng và các phương tiện sản xuất kinh doanh, các vật tư để đầu tư xây dựng cơ bản hình thành xí nghiệp hoặc để tạo tài sản cố định thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các đối tác nước ngoài lợi dụng sự thiếu hiểu biết, trình độ kém, và phẩm chất xấu của một số cán bộ quản lý Việt Nam để góp vốn bằng máy móc thiết bị đã lạc hậu, cũ, khai tăng giá trị máy móc thiết bị góp vốn để thu lợi nhuận cao qua phần thu hồi khấu hao, đồng thời làm giảm sút lợi nhuận chia cho phía Việt Nam cũng như phần thuế lợi tức phải nộp cho Nhà nước ta. Bên cạnh đó họ còn lợi dụng việc liên doanh để hợp pháp hoá các nguồn thu bất hợp pháp từ các hoạt động khác. - Ngoài ra còn có nhiều hình thức GLTM khác như lợi dụng hàng kinh doanh chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất, lợi dụng chính sách và cơ chế hoạt động của cửa hàng miễn thuế, GLTM qua hoạt động của văn phòng đại diện tổ chức kinh tế nước ngoài tại Việt Nam, lợi dụng tiêu chuẩn hành lý miễn thuế... Tóm lại GLTM ở Việt Nam rất đặc thù và đa dạng, từ đơn giản đến tinh vi, phức tạp nó sản xuất buôn bán hàng giả, kém chất lượng, nhái nhãn mác, vi phạm quyền sở hữu công nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều, gây tác hại nghiêm trọng, ảnh hưởng tới môi trường kinh doanh, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước. II. Những tác động của buôn lậu và GLTM 1. Tác động đến kinh tế Tình trạng buôn lậu và GLTM xâm hại đến chế độ chính sách quản lý XNK hàng hoá, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường kinh doanh trong nước, quyền lợi người tiêu dùng, sản xuất trong nước ... đồng thời nó cũng gây thất thu cho ngân sách Nhà nước. Buôn lậu và GLTM qua hành vi trốn tránh thuế nhập khẩu gây điêu đứng, thiệt hại cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chấn chỉnh. Đối với sản xuất trong nước việc hàng ngoại được nhập lậu tràn lan, tiêu thụ trên thị trường nội địa sẽ có gá cả cạnh tranh hơn so vưói hàng nội hay hàng nhập khẩu hợp pháp, chưa kể hàng ngoại thườ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35030.doc
Tài liệu liên quan