phần mở đầu
Trong quá trình học tập của sinh viên, đề án môn học là một trong những phần có vai trò và ý nghĩa quan trọng. Làm đề án môn học sinh viên sẽ hiểu sâu hơn về môn học đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên tìm hiểu, mở rộng kiến thức lí thuyết và thực tế, giúp cho việc học tập tốt hơn. Trong chương trình môn học "kinh tế thương mại" phần làm đề án của sinh viên giúp sinh viên đạt kết quả tốt về môn học.
Đề tài: “Buôn lậu và gian lận thương mại ở Việt Nam. Thực trạng và giải
45 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Buôn lậu & gian lận thương mại ở Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp chống buôn lậu & gian lận thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
pháp chống buôn lậu và gian lận thương mại" là đề tài mà em chọn làm trong phần làm đề án này.
Buôn lậu và gian lận thương mại là một trong những mặt trái của kinh tế thị trường, tác động và ảnh hưởng lớn đến kinh tế -xã hội. Nó là vấn đề nóng bỏng, bức xúc và diễn biến ngày càng phức tạp ở nước ta hiện nay, gây ra khó khăn cho sản xuất trong nước, làm thất thu ngân sách Nhà nước làm mất kỉ cương hoạt động thương mại, tăng thêm tình trạng vi phạm pháp luật, gây ra nhiều tiêu cực trong xã hội. Vì vậy cần phải tích cực phòng chống tình trạng này bằng sự đoàn kết phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, giữa Nhà nước và nhân dân. Trong khuôn khổ bài viết này em xin trình bày một số vấn đề về thực trạng và giải pháp chống buôn lậu và gian lận thương mại ở Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Đặng Đình Đào - PGS. TS đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
phần nội dung
Chương I
những vấn đề chung về buôn lậu và gian lận thương mại
I-/ kinh tế thị trường và vấn đề buôn lậu và gian lận thương mại.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế -xã hội trong đó sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng đều gắn chặt với thị trường. Sản xuất ra hàng hoá- dịch vụ gì, khối lượng bao nhiêu? sản xuất bằng cách nào? Ai sẽ nhận hàng hoá- dịch vụ sau khi sản xuất ra? Tất cả đều xuất phát từ nhu cầu của thị trường và thông qua thị trường. Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá dịch vụ cho xã hội. Thị trường là tập hợp các thoả thuận thông qua đó người bán và người mua tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hoá- dịch vụ. Trong thị trường, người mua và người bán hàng hoá- dịch vụ tác động với nhau hình thành cung cầu hàng hoá- dịch vụ. Sự tương tác giữa cung- cầu hàng hoá- dịch vụ trên thị trường hình thành giá cả thị trường. Thị trường thừa nhận hàng hoá dịch vụ do người sản xuất hàng hoá- dịch vụ cung ứng có phù hợp với nhu cầu của xã hội hay không. Thị trường điều tiết cung- cầu hàng hoá-dịch vụ, thị trường cũng kích thích kìm hãm cung cầu hàng hoá và dịch vụ lại mối quan hệ kinh tế giữa người mua, người bán, giữa nhà sản xuất kinh doanh với khách hàng thông qua mua bán bằng tiền trên thị trường. Trong kinh tế thị trường các mối quan hệ kinh tế đều tiền tệ hoá, khi tiền tệ tham gia vào quá trình lưu thông hàng hoá thì trao đổi hiện vật trực tiếp cũng không tồn tại. Tiền tệ có mặt trong lưu thông, làm cho quá trình trao đổi nhanh hơn, thúc đẩy quy mô sản xuất tăng lên và đời sống nhân dân được nâng cao.
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động thương mại rất phát triển và nó có vị trí rất quan trọng. Thương mại là một bộ phận hợp thành của tái sản xuất. Thương mại nối liền giữa sản xuất với tiêu dùng. Dòng vận động của sản phẩm hàng hoá qua khâu thương mại hoặc để tiếp tục cho sản xuất hoặc đi vào tiêu dùng cá nhân. ở vị trí cấu thành của tái sản xuất, thương mại được coi như hệ thống dẫn lưu tạo ra sự liên tục của quá trình tái sản xuất. Khâu này bị ách tắc sẽ dẫn tới sự khủng hoảng của sản xuất và tiêu dùng. Thương mại hợp phần của sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá có mục đích từ trước là để thoả mãn nhu cầu của người khác, để trao đổi mua bán hàng hoá. Không thể nói đến sản xuất hàng hoá mà không nói đến thương mại. Thương mại là lĩnh vực kinh doanh cũng thu hút trí lực và tiền vốn của các nhà đầu tư để thu hút lợi nhuận, thậm chí siêu lợi nhuận. Kinh doanh thương mại trở thành ngành sản xuất vật chất thứ hai.
Thương mại có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Thương mại thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chấn hưng các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Qua hoạt động mua bán tạo ra động lực kích thích đối với người sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy phân công xã hội, tổ chức lại sản xuất, hình thành nên các vùng chuyên môn hoá sản xuất. Thương mại kích thích sự phát triển lực lượng sản xuất. Lợi nhuận là mục đích của hoạt động thương mại. Người sản xuất sẽ tìm mọi cách để cải tiến công tác, áp dụng khoa học và công nghệ mới, hạ chi phí để thu nhiều lợi nhuận. Đồng thời cạnh tranh trong thương mại bắt buộc người sản xuất phải năng động, không ngừng nâng cao tay nghề, chuyên môn và tính toán thực chất hoạt động kinh doanh, tiết kiệm các nguồn lực nâng cao năng suất lao động. Đó là những nhân tố tác động làm cho lực lượng sản xuất phát triển. Thương mại kích thích nhu cầu và luôn tạo ra nhu cầu mới. Người tiêu dùng mua bán không xuất phát từ tình cảm mà bằng lí trí. Lợi ích của sản phẩm hay mức độ thoả mãn nhu cầu của sản phẩm sẽ tạo ra khả năng tái tạo nhu cầu. Thương mại một mặt, làm cho nhu cầu trên thị trường trung thực với nhu cầu, mặt khác nó làm bộc lộ tính đa dạng, phong phú của nhu cầu. Thương mại buộc các nhà sản xuất phải đa dạng về loại hình, kiểu dáng, mẫu mã chất lượng sản phẩm. Điều này tác động ngược lại với người tiêu dùng, làm bật dậy các nhu cầu tiềm năng. Tóm lại thương mại làm tăng trưởng nhu cầu và là nguồn gốc rễ cho sự phát triển của sản xuất kinh doanh.
Thương mại góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, làm cho quan hệ thương mại giữa nước ta với các nước khác không ngừng phát triển. Điều đó giúp chúng ta tận dụng được ưu thế của thời đại, phát huy được lợi thế so sánh, từng bước đưa thị trường nước ta hội nhập với thị trường thế giới, biến nước ta thành bộ phận của phân công lao động quốc tế.
Ngày nay thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước là xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung chuyển sang cơ chế thị trường, chế độ cung cấp được thay bằng thương mại. Thương mại thể hiện sự tự do mua bán theo giá cả thị trường, người mua và người bán được tự do lựa chọn bạn hàng. Gắn giữa sản xuất với thương mại, thương mại cũng là một chức năng của sản xuất hàng hoá, giữa các doanh nghiệp, các vùng và quốc gia thực hiện cơ chế mở trong mua bán hàng hoá.
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, thương mại phát triển có những mặt tích cực nhưng bên cạnh nó có những mặt tiêu cực. Trong kinh tế thị trường, đồng tiền trở thành phương tiện có giá trị, làm phát sinh tư tưởng sùng bái đồng tiền, chạy theo cuộc sống giàu có không bằng khả năng của mình, không tôn trọng pháp luật, làm giàu bất chính đó là buôn lậu và gian lận thương mại. Lợi dụng cơ chế tự do buôn bán lưu thông hàng hoá một số người đã kinh doanh trái pháp luật, gian lận để kiếm lời. Buôn lậu và gian lận thương mại là một nhược điểm rất lớn trong nền kinh tế thị trường. Nó bóp méo vai trò của thương mại đi ngượi lại với bản chất của thương mại. Vai trò của thương mại tác động tích cực đối với nền kinh tế quốc dân, ngược lại buôn lậu và gian lận thương mại lại tác động tiêu cực đến nền kinh tế quốc dân.
Việc thấy trước những nhược điểm, khuyết tật để có biện pháp, giải pháp khắc phục, để hạn chế bớt là rất cần thiết. Để đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại đem lại hiệu quả thì phải có nhận thức đầy đủ về tội buôn lậu và gian lận thương mại.
Để hiểu buôn lậu và gian lận thương mại là gì, chúng ta sẽ lần lượt đi sâu nghiên cứu từng nội dung của khái niệm.
1-/ Khái niệm về buôn lậu.
Thuật ngữ buôn lậu được sử dụng với những ý nghĩa rất khác nhau. Từ góc độ của khoa học về ngôn ngữ, cụm từ "buôn lậu" có ý nghĩa là buôn bán những hàng hoá trốn thuế và hàng cấm. Đây là một khái niệm kế thừa những hiểu biết xưa nay của cụm từ này và khá phù hợp với quan niệm phổ thông hiện nay.
Từ góc độ khoa học pháp lý thì thuật ngữ "buôn lậu" được hiểu rắc rối hơn. Khi nói đến cụm từ buôn lậu, bản thân nó về mặt pháp lý chưa phản ánh một thông tin rành mạch nào. Muốn hiểu được phải đặt trong ngữ cảnh cụ thể. Thí dụ: khi nói "khởi tố bị can buôn lậu "có nghĩa là đối tượng tham gian buôn lậu và thuật ngữ được hiểu như một hành vi. Còn khi nói "đấu tranh chống buôn lậu" thì thuật ngữ được hiều là một hiện tượng tiêu cực của xã hội. Cho nên lúc này thuật ngữ "buôn lậu bao gồm nhiều hành vi, nhiều tội danh khác nhau như: vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới, buôn bán ma tuý, buôn bán vũ khí, chất độc, văn hoá phẩm đồi trụy, đồ cổ, động vật quý hiếm..."
Trong "Quốc triều Hình luật" của triều Lê (1428- 1788) được xem là bộ luật hình sự hoàn chỉnh nhất của thể chế phong kiến Việt Nam, tội danh buôn lậu không được quy định. Mặc dù vậy "Quốc triều Hình luật" đã quy định "những trang trại ven bờ biển mà đón tiếp thuyền buôn, ngầm dỡ hộ hàng hoá lên bờ thì bị xử biếm (cách chức), phạt gấp 3 tang vật để sung công... "Những người bán ruộng đất ở bờ cõi, binh khí; các thứ chất nổ có thể chế hoả tiễn, hoả pháo cho người nước ngoài đều phải tội chém", " bán mắm muối ra nước ngoài... thì bị xử đi Châu Xa". Các mặt hàng cấm xuất khẩu lúc đó được quy định gồn: ruộng đất, thuốc nổ, vũ khí, sắt, đồng, vàng da trâu, gỗ lim, vỏ quế, trân châu, ngà voi... Những hành vi cụ thể, tách biệt nói trên trong tiềm thức xã hội đều được gộp chung lại là hiện tượng buôn lậu chứ không có tội danh buôn lậu.
Trước năm 1985, thuật ngữ "tội buôn lậu" đã được đề cập trong một số văn bản pháp luật nước ta như Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng cảnh sát nhân dân (20/7/1962); Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép (10/6/1982). Song về cơ bản tội danh "buôn lậu" lúc đó chưa được hướng dẫn nhận diện đầy đủ với các yếu tố cấu thành và dấu hiệu pháp lý đặc trưng. Phần lớn người ta vẫn chịu ảnh hưởng của các quan niệm truyền thống, cho rằng buôn lậu bao gồm các hành vi kinh doanh trái phép, trốn thuế, đầu cơ tích trữ, buôn bán hàng cấm.
Từ năm 1985 Bộ luật Hình sự của nước CHXHCN Việt Nam ra đời đã chính thức ghi nhận tội danh buôn lậu: "Người nào buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá thì bị phạt...". Bắt đầu từ đây, tội danh buôn lậu đã được xác định với 4 yếu tố cấu thành tội phạm và những dấu hiệu pháp lý đặc trưng, nên đã có tác dụng hướng dẫn nhận thức cũng như chỉ đạo thực thi pháp luật.
2-/ Khái niệm về gian lận thương mại.
Một thuật ngữ nữa luôn gắn liền với buôn lậu là "gian lận thương mại ". Gian lận thương mại theo Từ điển tiếng Việt là "dối trá, lừa lọc" trong hoạt động thương mại. Người có hành vi gian lận thương mại gọi là "gian thương" tức là "người có nhiều mưu mô lừa lọc"'; "kẻ buôn bán gian lận và trái phép". Gian lận được coi là hành vi của con người cụ thể có lời nói nói hoặc cử chỉ, hành động không đúng với bản chất của sự vật hiện tượng nhằm mục đích đánh lừa người khác. Trong dân gian gian lận thương mại gắn liền với thành ngữ "Buôn gian, bán lận" và dùng để chỉ những thủ đoạn mánh khoé lừa lọc khách hàng hoặc người khác để thu lời bất chính. Hành vi "buôn gian, bán lận" trong dân gian được hiểu bao gồm một số thủ đoạn đơn giản như: hàng xấu nói tốt, ít nói nhiều, rẻ nói đắt, cân đo điêu, buôn bán hàng cấm, lén lút, giấu giếm, lậu thuế... Hành vi gian lận thương mại trước hết phải là hành vi gian lận nói chung, nhưng hành vi gian lận này phải được thể hiện trong lĩnh vực thương mại thông qua đối tượng thể hiện là hàng hoá, dịch vụ. Chủ thể của hành vi gian lận thương mại là các chủ hàng, có thể là người mua, người bán cũng có khi là cả người mua và người bán. Mục đích của hành vi gian lận thương mại là nhằm thu lợi bất chính do thực hiện trót lọt hành vi lừa đảo, dối trá.
* Gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải Quan.
Gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan là những hành vi gian lận thương mại của chủ hàng xảy ra trong hoạt động xuất khẩu để trốn tránh việc kiểm soát và quản lý của Hải Quan. Vấn đề này đã được Hội đồng Hợp tác Hải quan (Nay là tổ chức Hải Quan thế giới- WCO) chú ý từ những ngày mới thành lập. Trong Bản khuyến nghị về giúp đỡ hành chính lẫn nhau do Hội đồng Hợp tác Hải Quan quốc tế đưa ra ngày 5/12/1953 cũng đã đề cập vấn đề giúp đỡ hành chính lẫn nhau về chống gian lận thương mại. Qua nhiều lần bổ xung, thảo luận, mãi đến 9/6/1977 định nghĩa về gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải Quan mới được Hội đồng Hợp tác Hải Quan quốc tế đưa ra trong công ước quốc tế về giúp đỡ hành chính lẫn nhau nhằm ngăn điều tra và trấn áp vi phạm Hải Quan, được các nước thành viên thông qua kí kết tại Nairobi, Cộng hoà Kenia. Định nghĩa về gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải Quan được công ước Nairobi nêu ra như sau:
"Gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải Quan là hành vi phạm pháp luật. Hải Quan trong đó 1 cá nhân lừa dối Hải Quan để nhằm lẩn tránh 1 phần hoặc toàn bộ việc nộp thuế xuất nhập khẩu, việc áp dụng các biện pháp cấm hoặc hạn chế do luật pháp Hải Quan quy định, hoặc thu được 1 khoản lợi nhuận nào đó qua việc vi phạm pháp luật này".
Trong định nghĩa này, về cơ bản đã khái quá được hành vi gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải Quan. Hành vi đó được thể hiện bằng sự lừa dối thông qua hành động lẩn tránh việc nộp thuế và việc tuân thủ pháp luật Hải Quan nhằm mục đích thu được một khoản lợi nào đó. Tuy nhiên định nghĩa trên chưa nêu được một cách đầy đủ, chính xác hành vi gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải Quan, khi bối cảnh hoạt động thương mại Thế giới ngày nay đã có những thay đổi lớn. Vì vậy tại Hội nghị quốc tế lần thứ 5 về chống gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải Quan do tổ chức Hải Quan thế giới triệu tập tại Brussels (Bỉ) từ ngày 9/10/1995 đến ngày 13/10/1995 đã xem xét lại định nghĩa về gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải Quan và thống nhất đưa ra một định nghĩa mới như sau:
"Gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải Quan là hành vi vi phạm các điều khoản pháp quy hoặc Pháp luật Hải quan nhằm:
- Trốn tránh hoặc cố ý trốn tránh việc nộp thuễ Hải Quan, phí và các khoản thu khác đối với việc di chuyển hàng hoá thương mại và /hoặc:
- Nhận và có ý định nhận việc hoàn trả trợ cấp hoặc phụ cấp cho hàng hoá không thuộc đối tượng đó và/hoặc:
- Đạt được hoặc cố ý đạt được lợi thế thương mại bất hợp pháp gây hại cho các nguyên tắc và tập tục, cạnh tranh thương mại chân chính".
Tại Hội nghị của tổ chức Hải quan quốc tế về chống gian lận thương mại được tổ chức từ ngày 9 đến 13/10/1995 ở Brúcxen (Bỉ) cũng đã thống nhất phân chia các hình thức gian lận thương mại thành 16 loại.
1. Buôn bán hàng cấm qua biên giới hoặc ra khỏi sự kiểm soát của Hải quan (thí dụ: Buôn bán động vật quý hiếm, sản phẩm văn hoá...).
2. Khai báo sai chủng loại hàng hoá.
3. Khai tăng, giảm giá trị hàng hoá.
4. Lợi dung chế độ ưu đãi xuất xứ hàng hoá (thí dụ: Nhà nước ta có chính sách ưu đãi về thuế đối với hàng hoá của các nước ASEAN).
5. Lợi dụng chế độ ưu đãi đối với hàng hoá gia công.
6. Lợi dụng chế độ tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập (đây là hàng hoá được miễn thuế XNK nhưng đã sử dụng sai mục đích).
7. Lợi dụng các yêu cầu về giấy phép XNK (thí dụ các loại giấy phép theo nhu cầu chuyên ngành như hàng cho an ninh, quốc phòng, cho y tế, văn hoá, xã hội...).
8. Lợi dụng chế độ quá cảnh đem dùng trong nước (thí dụ: hàng của Lào, Trung Quốc vận chuyển qua lãnh thổ Việt Nam).
9. Khai báo sai về số lượng, chất lượng hàng hoá.
10. Lợi dụng chế độ mục đích sử dụng, buôn bán trái phép hàng hoá được sử dụng nhất định (thí dụ: Hàng cho đồng bào bị bão lụt, cho các dân tộc miền núi để xóa đói giảm nghèo, hàng cho các cơ quan ngoại giao...).
11. Vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại hoặc quy định bảo vệ người tiêu dùng.
12. Buôn bán hàng giả, hàng ăn cắp mẫu mã.
13. Buôn bán hàng không có sổ sách.
14. Làm giả, làm khống việc hoàn hay truy hoàn thuế Hải quan (thí dụ: làm giả chứng từ về hàng đã xuất...).
15. Kinh doanh "ma" để hưởng tín dụng thuế trái phép.
16. Thanh lý phá sản có chủ đích để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế (thí dụ: Công ty đăng kí kinh doanh một thời gian ngắn, nợ thuế rồi tuyên bố phá sản).
* Thái độ của các nước trên thế giới đối với 16 loại hành vi nói trên đều thống nhất ở hai cung bậc, tuỳ thuộc vào mức độ tác hại của hành vi đó mang lại cho xã hội mà bị xử lí hành chính hay xử lí hình sự. Đối với nhiều nước như Mỹ, Nhật, Pháp bên cạnh việc áp dụng các công ước quốc tế xử lý 16 hành vi này theo luật Hải quan, còn quy định trong luật hình sự các tội danh cụ thể tương ứng với những hành vi đó. Đối với nước ta, tình hình diễn ra theo 3 trường hợp.
1. Trường hợp thứ nhất: Hành vi có tính chất không nghiêm trọng, giá trị tài sản buôn bán sai phạm không lớn thì xử lý hành chính theo pháp lệnh Hải quan và các nghị định của Chính phủ về quản lý XNK.
2. Trường hợp thứ hai: Một số hành vi trong số đó chưa được quy định hoặc không bị xử lý. Như hành vi vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại, quy định bảo vệ người tiêu dùng, chế độ tín dụng thuế.
3. Trường hợp thứ ba: Tất cả hành vi có tính chất nghiêm trọng hậu quả lớn đều bị xử lý dưới một tội danh chung của điều 97 là buôn lậu.
* Một vấn đề mới trong gian lận thương mại mà tổ chức Hải Quan thế giới cũng đang rất quan tâm đó là gian lận thương mại trong chuyển tải hàng hoá xuất nhập khẩu.
Chuyển tải là một khâu tự nhiên cần thiết trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại, nhằm đưa hàng hoá từ nơi này đến nơi khác nhưng phải đi qu một số địa điểm nhất định nào đó. Tuy nhiên, đôi khi chủ hàng sử dụng chuyển tải để che dấu xuất xứ thực sự của hàng hoá và đó là gian lận thương mại trong chuyển tải.
Gian lận thương mại trong chuyển tải được định nghĩa như sau: Gian lận trong chuyển tải là việc sử dụng một nước thứ 3 để dấu nguồn gốc thực sự của hàng hoá, che mắt Hải quan của nước nhập khẩu.
Tại nước thứ 3, người ta cung cấp các tài liệu giả hoặc có hoạt động gian trá nhằm thay đổi nguồn gốc hàng từ xuất khẩu sang nước quá cảnh (hay nước thứ 3). Như vậy đến khi nhập vào, họ tránh được hạn chế đặt ra của nước nhập như: hạn ngạch, li xăng, chế độ ưu đãi.
Một số dạng gian lận thương mại qua chuyển tải.
- Hàng hoá đưa vào một cảng hoặc một kho ở nước chuyển tải ở đây chúng ta có thể thay thế được nhãn rồi lại bốc lên tàu và xem như sản phẩm của nước chuyển tải hoặc một số nước nào đó.
- Hàng đưa vào nước chuyển tải là hàng hoàn chỉnh hoặc bán sản phẩm nhưng được khai là nguyên nhiên phụ kiện được coi là nguyên liệu để sản xuất hoặc để chế biến và nghiễm nhiên trở thành sản phẩm của nước chuyển tải.
- Hàng mang giấy tờ giả để chứng minh là hàng của nước thứ 3 trên đường đi từ nước xuất hàng đến nước nhập hàng.
3-/ Mối quan hệ giữa buôn lậu và gian lận thương mại.
Gian lận thương mại dù không phải là một tội danh trong luật hình sự, nhưng các dấu hiệu đặc trưng của nó lại trùng hợp với tội buôn lậu và buôn lậu cũng bao gồm gian lận thương mại.
Hội nghị Quốc tế lần thứ V về chống gian lận thương mại của tổ chức Hải Quan thế giới đã xếp buôn lậu vào trong các hình thức gian lận thương mại, nhưng coi đó là loại hình gian lận thương mại nguy hiểm, đặc biệt.
Công ước quốc tế Nairobi cũng đã đưa ra khái niệm buôn lậu và gian lận thương mại nhằm che dấu sự kiểm tra, kiểm soát của Hải Quan bằng mọi thủ đoạn, mọi phương tiện trong việc đưa hàng hoá lén lút qua biên giới.
Trong bộ luật hình sự của nước ta đã ghi nhận tội buôn lậu "buôn bán trái phép, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biến giới" còn trong công ước quốc tế xử lý 16 loại gian lận thương mại có "Buôn bán hàng cấm qua biên giới hoặc ra khỏi sự kiểm soát của Hải quan", "khai báo chủng loại hàng hoá". " khai tăng giảm giá trị hàng hoá ". Đây là những hành vi buôn bán gian lận trái pháp luật, mang tính chất giống như buôn lậu. "Buôn lậu" từ trước đến nay được nhiều người biết đến hơn là "gian lận thương mại ". Gian lận thương mại là thuật ngữ mới xuất hiện, bao gồm nhiều hành vi gian lận, trái pháp luật hơn buôn lậu hay nói cách khác nội hàm của nó rộng hơn nội hàm của buôn lậu. Điều này là do ngày càng có nhiều hiện tượng mới, tiêu cực xảy ra trong xã hội. Vì vậy hai thuật ngữ này thường đi kèm với nhau "Buôn lậu và gian lận thương mại ".
II-/ nguyên nhân xuất hiện buôn lậu và gian lận thương mại.
Buôn lậu và gian lận thương mại là hiện tượng kinh tế - xã hội xuất hiện trong hoạt động lưu thông hàng hoá cùng với sự ra đời của hàng rào thuế quan. Nếu như hoạt động lưu thông hàng hoá góp phần cân bằng quan hệ cung- cầu trên thị trường thì một trong những nguyên nhân tồn tại và phát triển của tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại là sự chênh lệch giá cả, nhu cầu sử dụng hàng hoá ở các vùng địa lý khác nhau, do hành vi kiếm lời bất chính, cạnh tranh trái pháp luật, không lành mạnh.
Doanh số bán lẻ trên thị trường xã hội là chỉ tiêu phản ánh nhu cầu tiêu dùng thực đã được thực hiện của toàn xã hội. Còn chỉ số giá cả, và theo đó là sự biến động của nó là chỉ tiêu phản ánh tương quan giữa hai đại lượng hàng hoá và sức mua. Nói cách khách đó là chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ cung cầu về hàng hoá. Hiểu được bản chất kinh tế của vấn đề này, các nhà sản xuất tìm cách tiết kiệm chi phí, hạ giá thành trên cơ sở cải tiến mẫu mã hấp dẫn, hợp thị hiếu, nâng cao chất lượng sản phẩm, đủ sức cạnh tranh, doanh thu thương mại tìm cách mua được hàng hoá rẻ, bán ra với giá thị trường chấp nhận, nhằm quay vòng vốn nhanh, thu lợi nhuận cao. Để làm được những điều này không phải là việc dễ dàng và lại nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay. Một trong những hiện tượng cạnh tranh, kinh doanh để kiếm lợi nhuận lớn nhưng trái pháp luật là lao vào "buôn lậu và gian lận thương mại ". Một số nhà kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, dù ở mức độ khác nhau đã tìm đủ mọi cách luồn lách để thắng trong cuộc chạy đua "một vốn bốn lời". Cho chạy theo lối sống giàu sang và quá sùng bái đồng tiền nhưng lại không đủ khả năng làm giàu hợp pháp mà gian thương đã kinh doanh một cách bất hợp pháp để kiếm lời nhanh và dễ dàng. Lợi ích cá nhân của họ đặt lên quá cao mà không nghĩ đễn lợi ích tập thể, lợi ích quốc gia mà trong đó họ có phần. Từ đó mà buôn lậu và gian lận thương mại ngày càng nảy sinh và phát triển. Hành vi buôn lậu và gian lận thương mại ngày càng tinh vi, diễn biến ngày càng phức tạp là điều bức xúc đối với xã hội hiện nay.
Nhu cầu sử dụng hàng hoá ở các vùng địa lý khác nhau và hàng hoá có chất lượng cao, giá thấp hơn ở nơi này sẽ có xu hướng chuyển sang nơi khác có hàng hoá với chất lượng thấp hơn, giá cao hơn. Đây cũng là quy luật cạnh tranh trong lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên trong một số trường hợp để bảo vệ sản xuất nội địa Nhà nước phải dùng đến hàng rào thuế quan. Trong điều kiện đó gian thương tìm mọi thủ đoạn để tàng trữ buôn bán, vận chuyển hàng hoá qua biên giới, cũng như lợi dụng mọi khe hở để gian lận số lượng, chủng loại, đánh lẫn hàng hoá ... để trốn thuế kiếm lời bất chính. Một số hàng hoá Nhà nước cấm buôn bán vì những lí do không bảo vệ an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội... và những hàng hoá buôn bán phải có giấy phép vẫn bị gian thương tìm mọi cách để buôn bán kiếm lời. Là những hàng cấm nhưng nhu cầu vẫn có nên giá của chúng rất cao, lợi nhuận từ việc buôn bán trái phép những hàng hoá này mang lại rất cao lại càng thúc đẩy gian thương buôn bán để kiếm lời bất chính. Mặt khác vì âm mưu phản động phá hoại chính trị bọn buôn lậu hàng cấm cũng xuất hiện.
Đối với mỗi quốc gia tuỳ thuộc vào chế độ chính trị, chính sách đối ngoại, chính sách kinh tế, yêu cầu bảo hộ nền sản xuất nội địa, quy định của pháp luật và khả năng quản lý khác nhau thì quy mô, tính chất, mức độ buôn lậu và gian lận thương mại cũng khác nhau. Buôn lậu và gian lận thương mại xuất hiện là những tệ nạn xã hội. Trong cơ chế thị trường những tệ nạn này không ngừng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp. Nhiều vấn đề mới nảy sinh xuất hiện làm cho tội danh buôn lậu và gian lận thương mại ngày càng phức tạp.
Chương II
buôn lậu và gian lận thương mại ở việt nam hiện nay
I-/ thực trạng về buôn lậu và gian lận thương mại ở việt nam.
Nước ta mới chuyển sang nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, năng suất lao động chưa cao, trình độ quản lý còn hạn chế nên hàng hoá có chất lượng thấp, chi phí và giá cả cao, khả năng cạnh tranh của hàng hoá còn thấp kém trong khi hàng hoá nước ngoài có chất lượng cao hơn, giá cả lại thấp hơn so với hàng hoá của nước ta. Do vậy chúng ta phải dùng hàng rào thuế quan để bảo vệ sản xuất trong nước. Trong điều kiện đó mục tiêu lợi nhuận đã thúc đẩy gian thương tìm mọi thủ đoạn để tàng trữ buôn bán vận chuyển hàng hoá qua biên giới, cũng như lợi dụng mọi khe hở để gian lận số lượng, chủng loại, đánh lẫn hàng không đăng kí kinh doanh, đánh lẫn hàng cấm nhập, tạm nhập với hàng được phép nhập khi bị kiểm tra, kiểm soát, lợi dụng quy định cho phép trả lại hàng gửi nhầm, hàng không địa chỉ người nhận để giải thoát hàng gian lận khi bị phát hiện.
Nhìn lại tình hình hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép hàng cấm tại khắp nơi: cửa khẩu, các tuyến biên giới, trên biển những năm gần đây, cục điều tra chống buôn lậu. Tổng cục Hải quan nhận định: Tình trạng này "vẫn diễn biến phức tạp, hàng hoá ngoại nhập lậu vẫn bày bán công khai trên thị trường, đối tượng buôn lậu lợi dụng sơ hở tạm ngừng hoạt động rồi hoạt động trở lại hoặc thay đổi phương thức thủ đoạn làm ăn phi pháp". Đáng chú ý là đã xuất hiện một số vụ buôn lậu, gian lận thương mại quy mô lớn, có tổ chức xuyên quốc gia, liên quan đến buôn bán hàng hoá, vật liệu nổ, ma túy ngoại tệ và các chất gây nghiện mới khác. Tình hình trên cho thấy "Tiếng súng chống "quốc nạn" vô cùng nguy hiểm này vẫn chưa đến hồi ngưng nghỉ, trận chiến này ngày càng gay go, phức tạp. Theo nhận định của Cục điều tra chống buôn lậu (Tổng cục Hải quan): Hoạt động buôn lậu trên các tuyến biên giới lẫn tuyến trên biển đã xuất hiện nhiều thủ đoạn mới, tinh quái hơn rất khó nắm bắt. Nếu tình trạng vi phạm pháp luật về hải quan qua tuyến hàng không vẫn chủ yếu là: vận chuyển tài liệu phản động văn hoá đồi trụy, xuất và nhập khẩu ngoại tệ có giá trị lớn nhưng không khai báo hoặc khai báo không trung thực thì tình trạng này ở tuyến đường bộ diễn ra đa dạng và phức tạp gấp nhiều lần, tập trung ở những điểm nóng là Quảng Ninh, Lạng Sơn. Ngoài việc xuất lậu động vật hoang dã, nông lâm sản, đồ cổ, nhập lậu hàng tiêu dùng của Trung Quốc như đã từng xảy ra. Thời gian gần đây tại khu vực này nổi lên việc nhập lậu đường, vải, trứng, gia cầm, gạch men, thịt lợn v.v..".
- Khu vực biên giới phía Bắc (Biên giới Việt - Trung), khu vực đường biển và tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng lợi dụng địa hình hiểm trở, bọn đầu nâu thường sử dụng phương thức xé lẻ hàng sau đó tổ chức cho đội ngũ cửu vạn vận chuyển qua biên giới vào ban đêm, đồng thời thuê bọn đầu gấu, bọn nghiện hút áp tải bảo vệ. Khu vực biên giới phía Tây Miền Trung (biên giới Việt- Lào) hoạt động buôn lậu tập trung tại các khu vực Lao Bảo- Quảng Trị, Cầu treo- Hà Tĩnh. Mặt hàng chủ yếu nhập lậu qua các khu vực này là thuốc lá ngoại, mỹ phẩm, vật liệu xây dựng, nôi cơm điện. Theo báo cáo cua địa phương và qua nắm tình hình cho thấy lượng hàng rất lớn tập kết trên đất Laò tại các kho rộng hang nghìn m2, nằm trên sông SêPôn cách cửa khẩu Lao Bảo 11km hoặc trên dọc đường 8, sát cửa khẩu cầu treo chờ thời cơ là xuất hàng lậu sang Việt Nam. Phương thức vận chuyển hàng lậu ở đây là sử dụng lực lượng cửu vạn đông đảo là người địa phương cỡ 200- 300 người mỗi cửa khẩu. Tại cửa khẩu của tỉnh Nghệ An và Lai Châu các vụ buôn lậu qua biên giới bị bắt giữ chủ yếu là các chất ma tuý.
- Khu vực biên giới Tây Nam (biên giới Việt Nam- Campuchia ) có 4 trạm kiểm soát liên hợp, đều do lực lượng Hải quan là nòng cốt thuộc 3 tỉnh Tây Ninh, Long An và An Giang hoạt động đã có hiệu quả. Hàng nhập lậu ở đây bị bắt giữ chủ yếu là thuốc lá ngoại, xe gắn máy, gạo, đường ăn Thái Lan... xuất lậu chủ yếu là ngoại tệ, vàng đặc biệt có những vụ xuất lậu vàng với khối lượng lớn. Phương thức thủ đoạn của các đối tượng buôn lậu này là: sử dụng vẫn là đội vác, dùng xe đạp, xe máy vận chuyển qua đường mòn hoặc dùng tàu thuyền vận chuyển trên sông.
- Tuyến biển cũng là trận tuyến mà cuộc chiến chống buôn lậu diễn ra không kém phần quyết liệt. Địa bàn trọng điểm vẫn là vùng biển Đông Bắc và Miền Trung (Hà Cối- Quảng Ninh, Cửa Lò, Quỳnh Lưu- Nghệ An). Hàng hoá nhập lậu qua tuyến này chủ yếu là gạch ốp lát, kính xây dựng, hàng điện tử đã qua sử dụng, xe máy, phụ tùng ô tô... Từ các cảng ven biển Nam Trung Quốc đưa về bằng các thuyền vừa và nhỏ.
- Tại cửa khẩu sân bay, lưu lượng hành khách xuất nhập cảnh qua sân bay quốc tế Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng đều cao và nhiều tuyến quốc tế mới mở cửa. Hành khách xuất nhập cảnh đa dạng và phức tạp, trên nhiều tuyến đường và các hãng hàng không khác nhau. Hàng hóa trái phép thu giữ và xử lý qua tuyến biên giới này chủ yếu là tài liệu phản động, văn hoá phẩm đồi truỵ, ngoại tệ.
- Trong đất liền, ở các tỉnh thành phố hai kênh vận chuyển hàng lậu được bọn buôn lậu thường sử dụng là vận chuyển bằng đường sắt và đường bộ:
+ Tình hình vận chuyên hàng lậu trên tuyến đường sắt diễn ra rất nghiêm trọng. Hàng lậu được vận chuyển với khối lượng lớn và giá trị lớn. Tập trung chủ yếu trên các chuyến tàu hàng, được xếp tập kết lên và xuống tàu một cách công khai, coi thường dư luận và pháp luật. Chủ hàng và cửu vạn còn thông đồng với nhân viên nhà ga và trên tàu để thực hiện trốn thuế, trốn cước và vận chuyển hàng cấm. Các lực lượng chống buôn lậu đã phát hiện và xử lý được một số vụ hàng lậu có giá trị hàng tỷ đồng. Nhiều đối tượng buôn lậu và vận chuyển hàng lậu, thậm chí cả nhân viên ngành đường sắt vi phạm bị bắt giữ.
+ Trên tuyến đường bộ hàng lậu được vận chuyển trên các xe khách liên tỉnh, gian thương thường thuê xe khách vận chuyển hàng hoá, hang lậu trên xe cùng với hành khách nhằm qua mắt cơ quan quản lý thị trường và cảnh sát giao thông. Có nhiều trường hợp lái xe và chủ hàng lậu tìm cách mua chuộc cảnh sát giao thông. Hàng lậu ngang nhiên, lén lút được vận chuyển đi các tỉnh để tiêu thụ.
Tình hình gian lận thương mại ở Việt Nam thời gian qua theo đánh giá của Tổng cục Hải quan là hết sức nghiêm trọng. Hàng ngoại thông qua buôn lalạu và gian lận thương mại tràn ngập thị trường nội địa Việt Nam, bao gồm đủ loại từ hàng cao cấp đắt tiền đến hàng tiêu dùng bình dân, hàng giả. Từ xe hơi du lịch, xe máy, ti vi, đầu video, tủ lạnh, đồ điện tử gia dụng đến mỹ phẩm, hoá chất, rượu bia, thuốc lá, quần áo... và nghiêm trọng hơn là văn hoá phẩm độc hại. Buôn ._.lậu và gian lận thương mại xuất hiện ở khăp mọi nơi, Hải quan nào, cửa khẩu nào cũng phát hiện thấy buôn lậu và gian lận thương mại. Gian lận thương mại khi tăng khi giảm nổi cộm ở khu vực này, khi lại sôi động ở cửa khẩu kia.
1-/ Những mánh khoé và thủ đoạn trong buôn lậu.
Thủ đoạn của bọn buôn lậu ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn như quay vòng hoá đơn chứng từ, quay vòng tem hàng XK, tờ khai hải quan, chuyển đổi phương thức từ thuê "cửu vạn " sang cho "cửu vạn" vay vốn rồi thu mua lại hàng nhập lậu để ràng buộc "cửu vạn" với hàng. Mặt khác nếu hàng hoá qua biên giới bị thu giữ thì hàng hoá của dân "cửu vạn" bị mất. Mà những người tham gia đội quân "cửu vạn" chủ yếu lại là những người nghèo, thất nghiệp, những người thuộc diện chính sách, người già, trẻ em, người tàn tật.
Bọn buôn lậu còn lợi dụng vận chuyển hàng hoá vào thời gian lực lượng tuần tra, kiểm tra ít hoạt động. Từ hoạt động theo đoàn nhóm, bọn buôn lậu lại chuyển sang ban ngày nhỏ lẻ nên rất khó cho lực lượng chóng buôn lậu. Bọn buôn lậu còn lợi dụng những hôm trời có gió mạnh, đêm tối hoặc mưa to, ddeer ráo riết hoạt động. Hàng nhẹ, ít tiền vận chuyển vào chập tối, giữa đêm là hàng kồng kềnh, nhiều tiền.
Bọn buôn lậu còn dùng nhiều hình thức chẻ nhỏ hàng hoá từ xa để vận chuyển sâu vào nội địa băng mọi phương tiện, sử dụng các thông tin liên lạc hiện đại để chỉ đạo, điều hành các hoạt động buôn bán và vận chuyển hàng nhập lậu. Hàng lậu được chuyển về thành phố cũng bằng sổ sách. Nếu như cán bộ kiểm tra hàng ở các bến xe, trạm ga thì những tay buôn lậu lớn đã có hẳn một "đường dây". Họ gửi hàng trước ở những điểm ven tuyến đường này, sau khi được trạm kiểm tra, lái xe như được "chuẩn bị trước", đỗ lại ở một địa điểm nào đó, thế là hàng lậu được khuân lên xe chuyển về xuôi không mấy khó khăn. Hàng lậu được ngụy trang bằng nhiều kiểu để vận chuyển.
Trên tuyến biển, buôn lậu vẫn diễn ra sôi động, bọn buôn lậu sang mạn hàng, dùng tàu đánh cả để tuồn sâu hàng. Chúng còn dùng tàu gỗ nhỏ trực tiếp sang cảng nước ngoài nhận hàng hoặc sang mạn từ các tàu lớn ở ngoài khơi để vận chuyển hàng lậu. Sau đó theo các luồng lạch, bãi ngang và lợi dụng đưa hàng lên bờ và vận chuyển sâu vào nội địa.
Trên tuyến hàng không, tình hình buôn lậu cũng rất phức tạp. Phương thức của bọn buôn lậu vẫn là cất giấu, mua chuộc cán bộ, lợi dụng chế độ hành lý miễn thuế, đi lại nhiều lần để buôn bán kiếm lời.
Buôn lậu dưới hình thức "XK uỷ thác" là hiện tượng khá phổ biến. Theo hình thức này, gian thương tìm cách "nhờ" các doanh nghiệp XNK của Nhà nước uỷ thác một số mặt hàng. Sau khi làm xong thủ tục hải quan trong quá trình vận chuyển hàng đến cảng các đối tượng buôn lậu tiến hành phá kẹp chì, làm giả chì hải quan, thay vào container, gia cố ốc vít bắt tại các chốt liên kết, có trường hợp còn tháo cả cụm khoá có kẹp chì ra, thay hàng lậu và lắp lại như cũ. Với thủ đoạn này mặt hàng hợp đồng uỷ thác đã bị thay thế bằng các mặt hàng khác. Cơ quan chức năng ngành Hải Quan và công an đã phát hiện, tiến hành điều tra làm rõ hai vụ buôn lậu dưới hình thức này xảy ra trên địa bàn Hà Nội và Hải Phòng.
Ngoài ra con có rất nhiều thủ đoạn buôn lậu tinh vi phức tạp, bằng nhiều cách thiên biến vạn hoá mà gian thương sử dụng để buôn bán, vận chuyển hàng lậu. Tình hình diễn biến ngày càng phức tạp gây khó khăn cho lực lượng chống buôn lậu.
2-/ Một số hình thức gian lận thương mại phổ biến ở Việt Nam hiện nay.
- Gian lận thương mại qua lợi dụng chính sách thuế của Nhà nước. Trong các hoạt động gian lận thương mại có lẽ gian lận thương mại qua lợi dụng chính sách thuế xuất nhập khẩu là loại hình gian lận đặc thù nhất ở Việt Nam. Vì thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam bao gồm nhiều sắc thuế gộp lại là thuế quan, thuế doanh thu, thuế phụ thu, thuế thu điều chỉnh bình ổn giá (thuế tiêu thụ đặc biệt vừa mới bóc tách ra khỏi thuế xuất nhập khẩu từ 1/1/1996), nên thuế xuất nhập khẩu của ta thường cao, nhiều mặt hàng xuất khẩu có thuế suất cao như: ô tô du lịch, rượu bia, hàng điện tử... do thuế suất cao nên sự chênh lệch giữa giá phải trả cho việc khai báo đầy đủ, chính xác và xuất trình trung thực cho các cơ quan kiểm tra, kiểm soát Nhà nước với lợi nhuận kiếm được do gian lận thương mại là rất lớn. Thuế suất là một trong những nguyên nhân hấp dẫn gian thương, buôn lậu và gian lận thương mại. Điển hình là trong thời gian gần đây là việc khai thác sự sơ hở của luật thuế xuất nhập khẩu, các gian thương đã tìm mọi cách để biến tướng, để nhầm lẫn trong khai báo mã hàng để gian lận thương mại trốn thuế. Ví dụ:
Năm 1998 mấy chục doanh nghiệp nhập xe tải loại dưới 5 tấn. Sau đó đưa vào xưởng "hoán cải" thành xe du lịch 4 hoặc 12 chỗ ngồi. Vì xe ôtô du lịch 12 chỗ ngồi có thuế suất 160% nhưng vẫn chiếc xe đó, nếu thay đổi đi một vài chi tiết phụ như tháo hết ghế thành xe tải nhẹ thì thuế suất lúc này chỉ còn 60% như vậy là giảm được 100% thuế. Còn đối với các loại xe thiết kế chuyên dụng như xe đông lạnh không quy định trong Quyết định số 254 /1998/QĐ-TTg về việc điều hành XNK hàng hoá năm 1999 thì được coi như nhập khẩu không hạn chế, thuế suất 10%. Phát hiện ra cái "khe' hở chênh lệch tới 50% thuế nhập khẩu, nhiều doanh nghiệp, mà phần lớn là các Công ty TNHH, các DN tư nhân đã móc nối, thông đồng với phía bán hàng ở nước ngoài "hoán cải" loại xe tải dưới 5 tấn thành xe chuyên dụng đông lạnh để nhập khẩu vào Việt Nam với thuế suất 10% thay vì nhập khẩu cũng loại xe này không "hoán cải", phải xin phép Bộ Thương mại và phải chịu thuế suất 60%. Xe đạp đua có thuế suất nhập khẩu là 5% trong khi các loại xe khác có thuế nhập khẩu là 60%. Việc chênh lệch 55% thuế suất từ xe đạp thường sang xe đạp đua là bài toán để các gian thương nghiên cứu "vận dụng linh hoạt" thế là hàng chục nghìn xe đạp kiểu dáng xe đua được sản xuất ở nước ngoài theo đơn đặt hàng ở trong nước như tay lái phải uốn cong, đĩa líp phải có nhiều tầng, lốp đặc... đã tràn vào Việt Nam với giá nhập khẩu khoảng từ 50 đến 100USD/chiếc. Những chiếc xe này được khai là xe đạp đua và được tính thuế là 5% nhưng thực chất đây hoàn toàn không phải la xe đạp đua.
Xe ôtô có trọng tải thấp khai trọng tải cao để hưởng thuế suất thấp hơn. Như xe có trọng tải 5 tấn thuế suất là 60% nhưng xe có trọng tải là 5,5 tấn lại chỉ có thuế là 40%.
Hàng nguyên chiếc được tháo dời để hưởng thuế suất của nhập linh kiện thì theo quy định của hàng nhập theo dạng CJD, SKD, IKD được hưởng mức thấp hơn là hàng nguyên chiếc và ở từng dạng CKD hay SKD... thì phải có bo nhiêu chi tiết phải tháo rời. Lợi dụng sơ hở này nhiều doanh nghiệp đã nhập hàng nguyên chiếc. Xe máy có thuế suất là 60% nhưng khi khai nhập ở dạng CKD2 thì thuế suất chỉ là 50%. Năm 1997, Công ty liên doanh GMNVJ.V đã đưa vào Việt Nam 30.000 bộ linh kiện xe gắn máy CKD chứ không phải ở dạng JKD như trong giấy phép hải quan tỉnh Quảng Trị. Năm 1998 GMNJ.V lại tiếp tục nhập qua cửa khẩu Hà Tĩnh 2000 bộ linh kiện xe máy nằm trong số 40.00 bộ linh kiện mà GMNJ.V được phép nhập.
- Gian lận thương mại qua giá hàng hoá xuất nhập khẩu. Theo tính toán của chính phủ thất thu thuế qua giá là rất lớn, ước tính thất thu thuế theo giá vào khoảng 25% trong tổng số thu thuế xuất nhập khẩu. Chống gian lận thương mại qua giá ở nước ta cũng như trên thế giới đang là vấn đề được Hải quan các nước đặc biệt quan tâm, vì đây là hoạt động gian lận thương mại tinh vi nhất, khó phát hiện nhất.
- Gian lận thương mại thông qua việc khai báo sai số lượng trọng lượng, phẩm cấp hàng hoá xuất nhập khẩu. Đây cũng là hình thức gian lận thương mại khá phổ biến ở Việt Nam. Các chủ hàng thường lợi dụng chính sách thông thoáng, mở cửa của Nhà nước ta thông qua việc cải cáh thủ tục hành chính trong ngành Hải quan bằng các biện pháp đơn giản hoá thủ tục Hải quan, tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu, giai phóng hàng hoá xuất nhập khẩu tại cửa khẩu Hải quan thực hiện các hành vi gian lận thương mại. Các cửa khẩu hải quan với biên chế có hạn, trình độ cán bộ không đồng đều trong lúc đó lượng hàng xuất khẩu qua cửa khẩu hàng ngày lớn. Hải quan không thể cân đong, đo đếm chi li từng kiện hàng, cũng như không thể kiểm tra chi tiết tất cả các lô hàng mà chỉ có thể kiểm tra xác suất. Từ nguyên nhân này bon gian lận thương mại đã lợi dụng sự sơ hở trong quản lý, giám sát và kiểm tra Hải quan để gian lận thương mại bằng các thủ đoạn như hàng nhiều nhưng chỉ khai một phần, hàng có giá trị cao khai hàng có phẩm cấp thấp.
- Gian lận thương mại qua việc cố ý xác định sai xuất xứ hàng hoá. Xác đinh xuất xứ hàng hoá là vấn đề kỹ thuật phức tạp, rất quan trọng. liên quan đến lợi ích chủ quyền quốc gia. Đây là vấn đề rất mới mẻ đối với Việt Nam ta. Xuất xứ hàng hoá liên quan đến hai vấn đề chính là: Thuế xuất nhập khẩu và chính sách ưu đãi thuế giữa các nước thành viên có quan hệ giành cho nhau hưởng quy chế tối huệ quốc. Từ mối liên quan giữa xác định xuất xứ hoặc xuất trình giấy chứng nhận xuất xứ giả, khai không đúng xuất xứ hàng hoá XNK để trốn thuế.
- Gian lận thương mại thông qua hải quan cho hàng chuyển tiếp. Nghị định số 171/HĐBT ngày 27/05/1991 của Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là Chính phủ) ban hành bảng quy hoạch cụ thể thủ tục hải quan rất rõ là đối với hàng hoá kinh doanh XNK có thể làm thủ tục hải quan tại nơi nào chủ hàng thấy tiện nhất. Tổng cục hải quan cũng đã có nhiều văn bản, quy chế quy định về địa điểm kiểm tra ngoài khu vực cửa khẩu, thủ tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu được phép chuyển tiếp. Điều này có nghĩa là Hải quan chấp nhận để các doanh nghiệp đưa hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài về khu vực kho bãi của doanh nghiệp làm thủ tục kiểm tra, kiểm hoá và hoàn tất thủ tục Hải quan tại doanh nghiệp mà không cần phải kiểm tra lại các cửa khẩu. Thực tế vấn đề này còn có nhiều sơ hở nên gian lận thương mại còn có nhiều môi trường hoạt động. Hoạt động gian lận thương mại qua hàng chuyển tiếp là một đặc thù của Việt Nam. Trị giá hàng hoá gian lận thương mại qua hình thức này là rất lớn. Vì vậy Tổng cục Hải quan coi đây là vấn đề nhức nhối hiện nay trong công cuộc đấu tranh chống gian lận thương mại.
- Gian lận thương mại trong lĩnh vực liên doanh đầu tư.
Theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam va Nghị định số 18/CP ngày 14/04/1993 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, máy móc phụ tùng và các phương tiện sản xuất kinh doanh và các vật tư nhập khẩu vào Việt Nam để đầu tư xây dựng cơ bản hình thành xí nghiệp hoặc để tạo tài sản cố định thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Điều đó có nghĩa là với những hàng hoá thuộc loại trên Hải Quan không cần quan tâm đến giá trị hàng hoá (tức là giá để tính thuế) vì đằng nào hàng hoá đó cũng được miễn thuế theo quy định của pháp luật. Từ quan niệm này nên khi làm thủ tục hải quan, Hải Quan dễ dàng cho qua các loại hàng thuộc đối tượng, như vậy đã vô hình để gian lận thương mại trong lĩnh vực liên doanh đầu tư nước ngoài lọt lưới. Thực tế, trong các xí nghiệp liên doanh đầu tư hiện nay diễn ra khá phổ biến tình trạng: Các đối tác nước ngoài lợi dụng sự thiếu hiểu biết và yếu kém về năng lực và phẩm chất một số cán bộ quản lý Việt Nam, đã tìm cách góp vốn bằng máy móc thiết bị cũ, lạc hậu về công nghệ, khai tăng giá lên một cách quá đáng các thiết bị, máy móc mà họ góp vốn. Việc nâng giá máy móc thiết bị lên so với giá cả thị trường quốc tế để góp vốn của các chủ đầu tư, liên doanh nước ngoài đã làm gia tăng giả tạo tỷ lệ góp vốn và lợi nhuận cho phía nước ngoài để thu lợi nhuận cao qua phần thu hồi khấu hao thiết bị, máy móc cao hơn giá trị thực vốn của nó làm giảm góp vốn và phân chia cho phía Việt Nam, đồng thời còn làm giảm sút phần thuế lợi tức phải nộp cho Nhà nước ta. Đơn cử việc gian lận này. Qua tiến hành giám định việc khai giá nhập khẩu thiết bị vật tư góp vốn của 12 xí nghiệp liên doanh đầu tư, thì đã có 6 xí nghiệp có hiện tượng nâng giá thiết bị nhập khẩu với giá trị cao hơn so với thực tế là 14 triệu USD. Trong đó ở liên doanh bia BGI Tiền Giang mức chênh lệch giữa giá do liên doanh đưa ra với giá giám định của Công ty SGS Thụy Sĩ đã chênh lệch tới 9,1 triệu USD. Các xí nghiệp liên doanh đầu tư nước ngoài, một mặt khai tăng giá nhập khẩu thiết bị vật tư thuộc phần góp vốn được miễn thuế, mặt khác họ tìm cách khai giảm giá nhập khẩu nguyên liệu và giá sản phẩm kinh doanh xuất nhập khẩu.
- Gian lận thương mại trong lĩnh vực sản xuất hàng gia công xuất khẩu. Hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để gia công cho nước ngoài rồi xuất khẩu theo hợp đồng đã kí kết theo quy định của luật thuế xuất nhập khẩu, hàng thuộc diện này được miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Trên cơ sở các hợp động gia công và văn bản cho phép của Bộ thương mại cấp cho các đơn vị sản xuất hàng gia công xuất khẩu. Hải Quan kiểm tra định mức tiêu dùng nguyên phụ liệu cho từng đơn vị sản phẩm thì thanh khoản trừ lùi vào phần nguyên phụ liệu đã nhập cho đến khi kết thúc hợp đồng, phần thừa không xuất hết mới phải nộp thuế. Song trong thực tế có những hợp đồng gia công kéo dài từ 5 đến 10 năm, nguyên phụ liệu nộp vào và sản phẩm gia công hoàn chỉnh được xuất ra khỏi Việt Nam phải thực hiện trong một thời gian dài, bằng nhiều chuyến hàng, qua nhiều bộ tờ khai hải quan. Hơn nữa, theo Nghị định số 171/HĐBT, chủ hàng có thể làm thủ tục Hải Quan nơi nào cảm thấy thuận tiện cho mình nhất, nên cùng một hợp đồng cùng một giấy phép nhưng khi chủ hàng làm thủ tục tại hải quan địa phương này, khi thì chủ hàng làm ở địa phương khác. Do đó, việc theo dõi các thanh khoản các hợp đồng gia công là hết sức phức tạp khó khăn, đó là chưa kể đến quan niệm một số các bộ Hải Quan cho rằng hàng gia công được miễn thuế. Đây là những sơ hở mà các chủ hàng gia công triệt để lợi dụng. Thủ đoạn của họ là nhập nguyên phụ liệu nhiều nhưng khi sản xuất ra thành phẩm không hết mà một phần được tiêu thụ trong nội địa để trốn thuế nhập khẩu. Hoặc bằng cách khi ký hợp đồng gia công, bên gia và công nhận gia công đã thông đồng với nhau để xác định sai định mức tiêu hao nguyên phụ liệu, số dôi thừa do xác định sai này họ sẽ đem bán trong nước một cách công khai mà vẫn trốn được thuế nhập khẩu.
- Gian lận thương mại qua lợi dụng hàng hoá gửi kho ngoại quan. Theo quy định của quy chế kho ngoại quan ban hành kèm theo Quyết định số 104-TTg ngày 16/03/1994 của Thủ tướng Chính phủ: "Tất cả các loại hàng hoá chờ xuất hoặc chờ nhập khẩu đều được chấp nhận đưa vào lưu giữ trong kho ngoại quan trừ trường hợp hàng hoá mang nhãn hiệu giả mạo xuất xứ Việt Nam, cấm nhập đối với nước nhập hàng từ kho ngoại quan". Cũng theo quy chế kho ngoại quan, hàng hoá từ nước ngoài đưa vào kho ngoại quan chưa nộp thuế nhập khẩu... Từ quy định trên chủ hàng lợi dụng để đưa vào kho ngoại quan những lô hàng "có vấn đề" như chủ hàng nhập một lô hàng cấm sau khi đã móc ngoặc được với một số cán bộ Nhà nước có chức năng quản lý, kiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nhưng khi hàng đến Việt Nam, vì một lý do nào đó đã bị trục trặc không làm thủ tục nhận hàng được. Nếu cứ cố tình làm thủ tục nhận hàng sẽ bị phát hiện và xử lý phạt tịch thu hàng có khi còn phải chịu trách nhiệm hình sự trước luật pháp. Để giải quyết vướng mắc nan giải này, chủ hàng chỉ cần ký hợp đồng gửi hàng vào kho ngoại quan để tìm thủ đoạn mới một cách an toàn và lô hàng từ chỗ bất hợp pháp trở thành hợp pháp.
- Gian lận thương mại qua lợi dụng hàng kinh doanh chuyển khẩu hàng tạm nhập tái xuất. Hàng chuyển khẩu, hàng tạm nhập tái xuất là nhứng hàng hoá được hoàn lại thuế sau khi đã có chứng nhận của Hải Quan cửa khẩu chứng nhận hàng hoá thực xuất. Lợi dụng sự ưu đãi này, nhều chủ hàng đã thông đồng với Hải Quan một cửa khẩu xuất, xác nhận khống hàng thực xuất vào bộ hồ sơ giả thực xuất mà được đem tiêu thụ trong nội địa. Cũng có trường hợp chủ hàng làm hồ sơ giả thực xuất để trốn thuế thu lợi bất chính. Ví dụ xăng dầu nếu nhập khẩu để tiêu thụ trong nước thì phải nộp thuế nhập khẩu là 70%, nhưng nếu tái chế xuất sang một nước khác như Campuchia và Lào chẳng hạn thì số xăng dầu này được hoàn lại thuế nhập khẩu trước đó đã nộp vì vậy chủ hàng làm thủ tục tái xuất xăng dầu sang Campuchia và Lào nhưng không xuất sang Campuchia và Lào mà trên đường đi bán số xăng dầu này với giá rẻ hơn giá trị thị trường nội địa nhiều lần vẫn thu được lãi lớn. Trong năm 1999 vừa qua có trường hợp là nhiều doanh nghiệp đã cho tư thương "mượn tư cách pháp nhân tạm nhập trên 2 ngàn chiếc xe du lịch để tái xuất, nhưng khi phía Trung Quốc không cho nhập loại xe này nữa, nhiều tư thương đã tìm cách "tái xuất" ngay tại Việt Nam. Lực lượng CSKT cả nước đã điều tra, thu giữ 491 chiếc xe ô tô du lịch "tái xuất" theo kiểu này.
- Gian lận thương mại do lợi dụng chủ trương hàng đổi hàng của Nhà nước. Theo các nhà quản lý thì thủ đoạn gian lận thương mại trong việc xuất khẩu theo phương thức "hàng đổi hàng" với nước ngoài (chủ yếu với Lào) đưa một số doanh nghiệp Việt Nam áp dụng trong thời gian gần đây đến mức báo động. Những doanh nghiệp này đã sử dụng thủ đoạn tinh vi đến thủ đoạn trắng trợn nhằm tạo ra càng nhiều kim "ngạch xuất khẩu" càng tốt để nhập về nhiều xe máy đem bán để thu lợi nhuận. Thủ đoạn được áp dụng phổ biến là khai tăng hàng xuất khẩu. Trên hoá đơn, trị giá hàng thường cao gấp 3, gấp 5 lần, thậm chí gấp 10 lần so với giá trị thực tế. Tiếp đến là khai tăng số lượng hàng hoá xuất khẩu. Có công ty khai xuất khẩu 10 ngàn đơn vị hàng, song đến khi kiểm tra thì chỉ có 1/10 số lượng khai báo. Trắng trợn hơn công ty XNK Nông sản và TTCN tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đã khai báo xuất 22 ngàn lít tinh dầu xả, trị giá hơn 300 ngàn USD song thực tế kiểm tra lại là nước lã. Gian thương còn áp dụng thủ đoạn "quay vòng hàng hoá " như hàng đã xuất khẩu qua Lào lại nhập lại Việt Nam, làm thủ tục lần nữa... làm cho những con số thống kê kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trở thành những con số ảo.
Ngoài ra còn nhiều dạng gian lận thương mại khác như lợi dụng chính sách và cơ chế hoạt động của cửa hàng miễn thuế, gian lận thương mại qua hoạt động của văn phòng đại diện tổ chức kinh tế nước ngoài tại Việt Nam, gian lận qua lợi dụng tiêu chuẩn hành lý miễn, gian lận thương mại qua lợi dụng chế độ hàng là tài sản di chuyển.
Tóm lại, gian lận thương mại ở Việt Nam là hết sức đặc thù và đa dạng, có những hình thức rất đơn giản nhưng cũng có nhiều hình thức phức tạp, tinh vi, khôn khéo, biết tạo vỏ bọc rất hợp lệ hợp pháp. Tình trạng này phát triển lên đến mức báo động hiện nay và nó đã trở thành một nghề mà theo giới báo chí gọi là nghề "lách". Không ít những doanh nghiệp làm ăn "khấm khá" thậm chí "phất lên" rất nhanh, "thắng" nhiều "quả" đậm là nhờ "khéo" sử dụng mẹo "lách". Mỗi khi Nhà nước ban hành một chủ trương, chính sách mới nhất là chính sách XNK, những thợ "lách" lại chau mày tìm cách "lách" sao cho việc kinh doanh của họ mang lại lợi nhuận lớn nhất.
3-/ Tổng kết về những vụ buôn lậu và gian lận thương mại năm 1998-1999
Tình hình buôn lậu và gian lận thương mại diễn ra với quy mô rất lớn. Theo con số thống kê của lực lượng chống buôn lậu và gian lận thương mại năm 1998 các lực lượng chức năng đã phát hiện và bắt giữ khoảng 87.000 vụ buôn lậu, gian lận thương mại với giá trị trên 1.000 tỷ đồng. Trong đó lực lượng công an phát hiện bắt giữ trên 1.600 vụ trị giá 570 tỷ đồng, lực lượng hải quan 11.600 vụ trị giá 260 tỷ đồng và 2 triệu USD, lực lượng biên phòng bắt giữ 1.700 vụ trị giá 90 tỷ đồng, lực lượng quản lý thị trường bắt 58.000 vụ trị giá 150 tỷ đồng. Các địa phương đã góp nhiều thành tích hoạt động chống buôn lậu như Lạng Sơn xử lý trên 4.800 vụ trị giá gần 40 tỷ đồng, Quảng Ninh 6.000 vụ trị giá 50 tỷ đồng, Quảng Trị trên 3.600 vụ trị giá 26 tỷ đồng, Tây Ninh 4.300 vụ trị giá 10 tỷ đồng, An Giang 4.200 vụ với 26 tỷ đồng, Long An 3.100 vụ với 15 tỷ đồng.
Năm 1999 lực lượng cảnh sát kinh tế cả nước đã kiểm tra, phát hiện 14.281 vụ buôn lậu, buôn bán hàng cấm, kinh doanh trái phép trốn thuế. Hàng hoá thu giữ trị giá 423.406 triệu đồng. Trong đó có 5.203 vụ buôn lậu, 3.985 vụ buôn bán hàng cấm, 2.257 vụ kinh doanh trái phép... hàng hoá tạm thu chờ xử lý trị giá 83.064 triệu.
Ngành Hải quan đã phát hiện bắt giữ 8.790 vụ buôn lậu và gian lận thương mại vận chuyển trái phép hàng cấm và vi phạm hành chính về Hải Quan trị giá hàng vi phạm khoảng 250 tỷ.
* Năm 1999 có 10 vụ buôn lậu và gian lận thương mại điển hình.
1. Trong vòng 1 tuần lễ (10-17/2/99) Hải đội Hải đội 3 và trung tâm chỉ huy chống buôn lậu trên biển của Tổng cục Hải quan đã liên tiếp bắt giữ 12 tàu buôn lậu với tổng trị giá hàng hoá thu giữ khoảng 5 tỷ đồng. Chiến dịch này đã tạo nên một "cú đấm mạnh" phá tan đường dây buôn lậu lớn trên biển trải dài từ Quảng Ninh đến Thanh Hoá, Nghệ An.
2. Ngày 16/2/99 đội kiểm soát cơ động Hải quan Đồng Tháp phối hợp với Hải quan các cửa khẩu Thường Phước Thông Bình, Sở Thương mại bắt giữ 3 thuyền vận chuyển phế liệu các loại và gạo Thái Lan nhập lậu, trị giá trên 2 tỷ đồng.
3. Từ 26/10/98 đến 24/2/99 Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh 15 lần phát hiện công ty TNHH Liên Phát Thinh đã vi phạm luật Hải quan về nhập hàng không khai báo đúng quy cách phẩm chất, tổng trị giá ước tính 203.500 USD.
4. Ngày 6/4/99, Đội kiểm soát hải quan số 1 (Cục Điều tra chống buôn lậu - TCHQ) mở hồ sơ điều tra lô hàng vận chuyển trên tuyến đường sắt Trung Quốc qua Lạng Sơn về Yên Viên, Hà Nội phát hiện lô hàng khai báo sai, trốn thuế giá trị trên 3 tỷ đồng.
5. Từ 5/5 đến 3/7/99, Hải quan Tây Ninh và Long An lập kế hoạch"KH799" chặn bắt được 76.529 bao thuốc lá ngoại, 17 ghe vận chuyển thuốc lá, đã làm giảm hẳn lượng thuốc lá ngoại nhập lậu trên kênh Rạch Tràm - một điểm nóng nhập lậu thuốc lá ngoại ở Nam Bộ.
6. Trong tháng 6/99, Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất đã phát hiện một loạt vụ xuất nhập cảnh không khai báo ngoại tệ, đồ cổ. Tang vật sai phạm gồm 29 viên đá quý 98.000 USD, 15 hiện vật có niên đại thế kỉ 19.
7. Ngày 17/7/99 các lực lượng kiểm tra, kiểm soát cửa khẩu Vĩnh Xương (An Giang) bắt giữ tàu Phúc Đức 4, nhập lậu quần áo cũ, vải, hàng điện tử đã qua sử dụng, trị giá 850 triệu đồng.
8. Phòng điều tra chống buôn lậu phía Bắc - Cục điều tra chống buôn lậu (TCHQ) điều tra về 3 liên doanh: Công ty tơ lụa Sông Châu, Công ty TNHH tập đoàn y dược Đại Chinh, Công ty liên doanh Taxi Hồng Hà đã làm hồ sơ giả để nâng cao giá trị nhập khẩu góp vốn vào liên doanh, làm giả hồ sơ để thế chấp tài sản, chiếm đoạt và sử dụng tài sản của liên doanh sai mục đích, liên doanh bị rút giấy phép nhưng không thanh lý tài sản để trốn thuế nhập khẩu. Đã tạm giữ 2 xe ô tô và 1 lô hàng trị giá khoảng 1 tỷ đồng.
9. Cục điều tra chống buôn lậu (TCHQ) phối hợp với Hải Quan Nghệ An kiểm tra hồ sơ thủ tục nhập khẩu và hàng hoá vận chuyển trên tàu miền Trung 45 cập cảng Bến Thuỷ (Nghệ An) ngày 15/11/99 sau khi kiểm tra đã có kết luận về nội bộ thực hiện sai quy định. Tổng trị giá hàng hoá vi phạm xấp xỉ 1,5 tỷ đồng.
10. Ngày 4/11/99 Hải quan ICD (Phước Long- Thành phố Hồ Chí Minh) lập biên bản vi phạm hành chính đối với công ty dịch vụ lao động hợp tác quốc tế Hà Nội về hành vi nhập khẩu thừa 20.294 phụ tùng xe máy so với khai báo Hải quan, trị giá hành vi vi phạm ước tính 34.452USD, chênh lệch thuế trên 220 triệu đồng.
II-/ Những tác động của nạn buôn lậu và gian lận thương mại đến kinh tế - xã hội nước ta.
1-/ Tác động đến kinh tế
Tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại xâm hại đến chế độ chính sách quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá. Như ta đã biết: thuế quan là các mức thuế đánh trên hàng hoá xuất nhập khẩu nhằm mục đích làm tăng giá của hàng nhập khẩu để làm giảm sự cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước hoặc kích thích sản xuất tại nội địa. Vì vậy các hành vi buôn lậu, trốn thuế xuất nhập khẩu thông qua hoạt động gian lận thương mại, cạnh tranh tiêu cực phi kinh tế này đã xâm hại đến chế độ chính sách quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá.
Buôn lậu và gian lận thương mại gây nhiều thiệt hại cho người sản xuất trong nước, làm điêu đứng các doanh nghiệp sản xuất cũng như các doanh nghiệp thương mại. Đối với người sản xuất trong nước, việc hàng ngoại tràn ngập thị trường với chất lượng cao hơn, giá rẻ hơn hàng nội, thực sự là mối đe doạ đời sống của hàng nghìn công nhân trong các xí nghiệp sản xuất trong nước, nhất là những ngành công nghiệp non trẻ, mới. Nguyên nhân là những xí nghiệp sản xuất trong nước vẫn phải nhập một số nguyên phụ liệu, nhiên liệu... và phải nộp thuế nhập khẩu số hàng hoá này.Trong quá trình sản xuất ra sản phẩm để đem bán trên thị trường, họ còn phải nộp thuế lợi tức, thuế doanh thu. Trong khi hàng ngoại do trốn được thuế, giá cả rẻ hơn hàng nội, làm cho hàng nội không bán được, dẫn đến đọng vốn, nợ chồng chất, đi đến phá sản. Đối với doanh nghiệp thương mại do giá cả hàng hoá mua vào cao hơn nên không thể cạnh tranh được với hàng lậu trốn thuế. Những doanh nghiệp kinh doanh đúng luật, nộp thuế đầy đủ bị những doanh nghiệp kinh doanh trái phép, gian lận trốn thuế cạnh tranh chèn ép không thể phát triển được. Nói về vấn đề này một số doanh nghiệp, cán bộ quản lý doanh nghiệp đã lên tiếng Phó tổng giám đốc Tổng công ty hóa chất Việt Nam, ông Đỗ Quang Chiêu cho rằng "Sản phẩm của chúng tôi phải cạnh tranh gay gắt với hàng hoá nhập lậu từ bên ngoài, điều này chẳng những thất thu cho nguồn ngân sách, thiệt hại đến người tiêu dùng mà còn gây không ít khó khăn cho sản xuất trong nước". Công ty xe đạp thống nhất dự tính " mỗi năm có tới 600.000 - 700.000 xe đạp ngoại nhập lậu vào nước ta, trong khi trong nước chỉ sản xuất và tiêu thụ được từ 250.000 - 300.000 xe đạp. Do hàng nhập lậu, trốn thuế nên giá bán rất rẻ đã nảy sinh một sức ép lớn, một sự cạnh tranh bất bình đẳng trong thị trường, làm cho sản phẩm nội địa không tiêu thụ được, gây ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập của người lao động" (Theo báo Văn hoá số 24 thàng 12-1999).
Buôn lậu và gian lận thương mại là hình thức cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng rất lớn đến môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh là nhân tố tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó có tác động tích cực: kích thích đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh nếu là môi trường trong sạch, bình đẳng nhưng ngược lại nó tác động tiêu cực nếu là môi trường không ổn định. Buôn lậu và gian lận thương mại đã kìm hãm sự phát triển kinh tế của đất nước.
Báo pháp luật số cuối tháng 4-1999 đã trích lời phát biểu của bà Nguyễn Thanh Bình - Phó tổng giám đốc công ty bánh kẹo Hải Hà Kotobuki: "Tình hình buôn lậu, buôn bán, sản xuất hàng giả để gian lận thương mại đang làm ô nhiễm môi trường kinh doanh và làm thiệt hại to lớn đến các doanh nghiệp... Chúng tôi hiểu trong cơ chế thị trường với xu thế hội nhập thì sự cạnh tranh ngày càng gay gắt cả trong nước cũng như quốc tế song phải là sự cạnh tranh lành mạnh trong môi trường kinh doanh được đảm bảo bằng Nhà nước và pháp luật". Không những ảnh hưởng đến đầu tư trong nước mà buôn lậu và gian lận thương mại còn ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài. Nó không chỉ là nỗi khổ của doanh nghiệp mà còn gây tâm lý e ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài, nhiều nhà đầu tư nước ngoài rất muốn đầu tư vào Việt Nam nhưng do tác động của môi trường kinh doanh trong đó có vấn đề buôn lậu và gian lận thương mại nên đã ngập ngừng hoặc rút lui. Trong báo Văn hóa số 24 tháng 12-1999 đã ghi lại lời phát biểu của đại diện công ty Việt Nam-Suzuki: "Số lượng xe máy nhập lậu và gian lận thương mại ước lượng bình quân 7-8 vạn chiếc/năm. Nhu cầu hiện nay là 350.000 xe/năm. Trong khi các Công ty liên doanh và có vốn 100% nước ngoài do bị xe nhập lậu giá rẻ nên chỉ sản xuất tiêu thụ khoảng 23.000 xe/năm. Nếu so sánh thì xe nhập lậu chiếm khoảng 30% trong khi năng lực đầu tư của các liên doanh là hơn 1 triệu xe. Nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời thì liệu rồi nền công nghiệp chế tạo xe máy sẽ đi về đâu?"
Thực trạng này còn làm cho thị trường hàng hoá mất ổn định, làm mất cân bằng cục bộ giữa cung và cầu, gây hoang mang cho các nhà sản xuất trong nước, làm khủng hoảng lòng tin của người tiêu dùng. Với người tiêu dùng, hàng ngoại tràn ngập thị trường với giá rẻ sẽ tạo nên thị hiếu ưa dùng hàng ngoại tuy nhiên nguồn cung cấp tiêu dùng của hàng ngoại với giá rẻ hơn giá thành hàng nội do trốn thuế là rất bấp bênh, vì không phải lúc nào nhập hàng cũng trốn thuế được cả. Do đó từng thời kỳ sẽ nảy sinh các cơn sốt về giá, về hàng làm đảo lộn thị trường làm thị trường mất ổn định mà Nhà nước không quản lý được.
Buôn lậu và gian lận thương mại đã kích thích tâm lý và thị hiếu tiêu dùng sa sỉ, vượt quá năng lực sản xuất trong nước và đối lập với yêu cầu "thắt lưng buộc bụng" cần kiệm xây dựng đất nước hiện nay.
Buôn lậu và gian lận thương mại cũng làm thất thoát nghiêm trọng nguồn thu ngân sách thông qua thuế xuất nhập khẩu làm ảnh hưởng đến quá trình tích luỹ vốn của Nhà nước để tiến hành cân đối thu chi ngân sách và công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra nó còn tác hại đối với nền kinh tế ở chỗ: gian lận thương mại và buôn lậu đã tạo nên một nền kinh tế tiêu thụ giả tạo trên một nền sản xuất chưa cân xứng. Vì đa số tầng lớp gian thương và tham nhũng qua hoạt đông buôn lậu và gian lận thương mại không đầu tư vốn vào sản xuất mà thường ăn xài xa xỉ hoặc đầu tư vào bất động sản như nhà cửa, đất đai, vàng bạc, ngoại tệ... Bên cạnh tầng lớp này xã hội sẽ hình thành một khu vực kinh tế chuyên về dịch vụ và tiêu thụ.
2-/ Tác động đến văn hoá xã hội
Buôn lậu và gian lận thương mại ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống văn hoá xã hội. Mục đích của gian lận và buôn lậu thương mại là làm thế nào để thu được nhiều lợi nhuận bất chính mà nếu làm ăn chính đáng họ không thể có được, từ chủ trương đó dần dần họ đã làm giảm giá trị và làm lu mờ hệ thống đạo đức truyền thống là: "đói cho sạch, rách cho thơm" hay "mình vì mọi người"... để chạy theo đồng tiền, tạo ra một hệ thống đạo đức khác là "vì tiền" hay "có tiền là có tất cả"... làm cho khoảng cách chênh lệch giữa kẻ giàu và người nghèo ngày càng lớn. Mặt khác từ đồng tiền bất chính do gian lận thương mại đó đã làm cho đạo đức của nhiều kẻ bị tha hoá. Đó là nguyên nhân chính gây ra nhiều tệ nạn xã hội, tác động nghiêm trọng đến nhân cách văn hoá của nhiều người trong mọi tầng lớp nhân dân. Điều này có thể thấy ở việc ngày càng xuất hiện ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0657.doc