Bước đầu nghiên cứu sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (ở hai thể loại: kịch bản văn học và truyện ngắn)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM -------------------------------- NGUYỄN THUÝ QUỲNH BƢỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU SỰ NGHIỆP VĂN CHƢƠNG CỦA NAM XƢƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC (Ở HAI THỂ LOẠI: KỊCH BẢN VĂN HỌC VÀ TRUYỆN NGẮN) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS – TS Trần Thị Việt Trung THÁI NGUYÊN – 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

pdf114 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2199 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Bước đầu nghiên cứu sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (ở hai thể loại: kịch bản văn học và truyện ngắn), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2 MỤC LỤC Phần mở đầu:…………………………………………………………………..2 Chƣơng I: Vài nét về đời sống xã hội - văn hóa Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX và tác giả Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc…………………9 1.1. Đời sống xã hội – văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ảnh hưởng đến việc hình thành ngòi bút Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………...9 1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của tác giả Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………………………………………………… 17 Chƣơng II. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật kịch bản của Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc……………………………………...26 2.1.Tóm tắt các kịch bản của Nam Xương…………………………………....26 2.2. Một số đặc điểm nổi bật về nội dung tư tưởng của kịch Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………………………………..31 2.3. Một số đặc điểm nổi bật về nghệ thuật của kịch Nam Xương- Nguyễn Cát Ngạc……………………………………49 Chƣơng III. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật truyện ngắn của Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc………………………...67 3.1. Vài nét về tình hình sáng tác truyện ngắn của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………………………………..67 3.2. Một số đặc điểm nổi bật về nội dung truyện ngắn của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc…………………………………………69 3.3. Một số đặc điểm nổi bật về nghệ thuật truyện ngắn của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc……………………………………………..93 Kết luận ………………………………………………………….. ……….107 Tài liệu tham khảo………………………………………………………. ..110 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Với hai kịch bản nổi tiếng một thời (giai đoạn đầu thế kỷ XX) là Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc, trong mấy chục năm qua, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã được các nhà nghiên cứu văn học ở Việt Nam khẳng định là một trong những tác giả đầu tiên tham gia xây dựng nền móng của nền kịch nói Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, ngoài sự khẳng định trên, cho đến nay, sự nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ, cho dù sau khi hy sinh ở miền Nam vào năm 1958, ông đã để lại một di sản văn chương khá phong phú. Trên thực tế, ngoài việc giới thiệu khái quát tên tuổi của Nam Xương trong một số công trình nghiên cứu về văn học và sân khấu Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX, tên tuổi ông ít được nhắc tới, và các nhà nghiên cứu cũng thường xem xét ông trong tư cách tác giả kịch bản. Nhưng cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc không chỉ có vậy. Với lòng yêu nước sâu sắc, ngay từ đầu, ông đã dấn thân vào phong trào yêu nước, rồi gia nhập đội ngũ của những người cộng sản, ông đã hai lần nhận án tử hình của Nhật và Pháp, và cuối cùng ông đã hy sinh ở miền Nam năm 1958 với cương vị là chiến sĩ tình báo của cách mạng. Trên bước đường hoạt động ấy, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc vẫn tiếp tục sáng tác trên nhiều thể loại, từ kịch bản tới tiểu thuyết, truyện ngắn, một vài thể loại khác và bộ phận chủ yếu của di sản này vẫn chưa được công bố. Vì thế, giới nghiên cứu vẫn chưa có điều kiện tiếp xúc và khảo sát toàn bộ những sáng tác của ông, và đó là lý do giải thích vì sao sự nghiệp văn chương của ông lại chỉ được nghiên cứu một cách hạn hẹp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc bắt đầu sáng tác từ đầu những năm ba mươi của thế kỷ trước. Trong giai đoạn này, công cuộc hiện đại hoá văn học Việt Nam, như một yêu cầu khách quan của lịch sử, được hình thành từ giai đoạn giao thời, đã phát triển một cách toàn diện. Sự ra đời của Thơ mới, của tiểu thuyết và truyện ngắn, của nghệ thuật tạo hình, sân khấu kịch nói…đã tạo nên một diện mạo mới của nền văn học - nghệ thuật nước nhà, tạo đà cho các bước phát triển sau này. Chính vì thế, việc nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, đầy đủ hơn về bối cảnh lịch sử - xã hội - văn hóa, về các tác giả đã đi tiên phong trong giai đoạn đầu của công cuộc hiện đại văn học Việt Nam là hết sức quan trọng và cần thiết. Nam Xương – Nguyễn Cát Ngạc là một trong những tác giả như vậy. Nghiên cứu sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, chúng tôi mong muốn được khám phá và khẳng định vị trí của ông đối với việc góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. Do sẵn lòng kính trọng và yêu mến những sáng tác của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, đặc biệt là có may mắn được tiếp xúc với di cảo ông mà gia đình ông còn lưu giữ, chúng tôi chọn đề tài Bước đầu nghiên cứu sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (ở hai thể loại: kịch bản và truyện ngắn) để bước đầu khảo sát về ông, với ý muốn phục dựng một gương mặt văn học còn ít người biết tới. Sự phục dựng ấy có mục đích giới thiệu và đưa ra một số nhận định bước đầu về đặc điểm sáng tác của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, qua đó khẳng định những đóng góp của ông ở hai thể loại: kịch bản và truyện ngắn. Ngoài hai thể loại này, ông còn sáng tác ở các thể loại văn xuôi khác, nhưng trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn cao học và do khả năng còn có giới hạn, nên chúng tôi chỉ đi sâu vào 2 thể loại trên để nghiên cứu. 2. Lịch sử vấn đề Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 Là người tham gia hoạt động văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại từ khá sớm và để lại dấu ấn qua hai kịch bản Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc (trong đó, "ông Tây An Nam" đã trở thành một kiểu thành ngữ của người Việt Nam khi đề cập tới những người Việt vọng ngoại, bắt chước phương Tây một cách lố lăng), nhưng do nhiều biến cố của cuộc đời ông mà sự nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc chưa được giới nghiên cứu chú ý. Hơn nữa, do sáng tác của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc chủ yếu công bố trong vùng tạm chiếm khi ông hoạt động công khai trong nội thành Hà Nội và sau đó vào miền Nam hoạt động với danh nghĩa trí thức, nên việc sưu tầm tác phẩm của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc là rất khó khăn. Theo khảo sát bước đầu của chúng tôi, cho tới nay đã có những công trình nghiên cứu sau đề cập đến tác giả Nam Xương : 1. Bước đầu tìm hiểu Lịch sử kịch nói Việt Nam trước cách mạng tháng Tám (Phan Kế Hoành - Huỳnh Lý, NXB Văn hoá, H.1978) 2. Từ điển Văn học, mục từ Nam Xương (bản in năm 1984) 3. Từ điển Văn học (bộ mới), mục từ Nam Xương (bản in năm 2005) 4. Văn học Việt Nam thế kỷ XX, GS Phan Cự Đệ chủ biên, NXB Giáo dục, H.2004 (phần về kịch bản do PGS TS Phan Trọng Thưởng thực hiện). 5. Tổng tập văn học Việt Nam, tập 23, GS Đinh Gia Khánh chủ biên, NXB Khoa học xã hội, H.1997. 6. Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, GS Hà Minh Đức chủ biên, NXB Sân khấu, H.1997. 7. Bài báo Về tác giả vở kịch nói Ông Tây An Nam (Nguyễn Hòa, Tạp chí Nghiên cứu văn học - Viện Văn học, số 7 năm 2001) Trong các nguồn tư liệu này, thì ở 2 bộ từ điển chỉ giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương một cách khá sơ lược. Trong Từ điển Văn học, mục từ Nam Xương, Trần Hữu Tá giới thiệu: "Nam Xương tham gia cách mạng từ tháng Tám năm 1945, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 1948, làm công tác bí mật ở các thành phố Nam Định và Hà Nội. 1954, ông được phái vào Sài Gòn công tác và hy sinh 1958. Thời gian hoạt động trong vùng Hà Nội tạm bị chiếm (1948 - 1954), ông viết một tập truyện ngắn có giá trị phê phán tích cực (Bụi phồn hoa), hai cuốn tiểu thuyết lịch sử đậm đà tinh thần dân tộc (Bách Việt, Hùng Vương) và một vở kịch (Tây Thi). Dưới danh nghĩa một nhà xuất bản tưởng tượng "Quê hương", ông đã in được hai cuốn Bụi phồn hoa và Bách Việt nhằm động viên bạn đọc thành phố hướng về chính nghĩa" [5, tr.11]. Chúng tôi xin giới thiệu một số đánh giá của các nhà nghiên cứu trong các công trình trên: Trong bài mở đầu cuốn Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX , có nhan đề “Kịch nói Việt Nam, thời kỳ đầu hình thành và phát triển”, GS Hà Minh Đức viết: “Nam Xương không trực tiếp đả kích vào bọn thực dân xâm lược, mà phê phán đả kích vào cái hình bóng của nó qua những quái thai như Cử Lân, một trí thức du học ở Pháp về và hoàn toàn mất gốc” “Chất hài trong kịch Ông Tây An Nam của Nam Xương bộc lộ trong chiều sâu của xung đột và tác giả biết dẫn dắt để nhân vật tự phơi bày những nghịch lý, những trò lố lăng. Có thể xem đây là vở hài kịch thành công trong không khí chung của thời kỳ này” [22, tr.12] Trong công trình “ Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam” của Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý, có viết: “Ở cuối thời kỳ này (thời kỳ 1927 - 1930, theo cách phân kỳ của 2 tác giả trên - NTQ), Nam Xương cũng để lại hai vở kịch đáng chú ý là vở Chàng Ngốc và vở Ông Tây An Nam. Qua vở Ông Tây An Nam, Nam Xương đả kích một bọn trí thức vong bản. Cũng qua hai vở ấy, người ta thấy Nam Xương là người am hiểu về nghệ thuật kịch cổ điển và có sở trường về lối hài kịch”.[13, tr42] Cũng trong cuốn sách trên, Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý nhấn mạnh vị trí của kịch Nam Xương trong sân khấu kịch nói đương thời: “... trong sự phát triển có thể nói là xô bồ của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 mấy năm 1929, 1930, 1931, người ta ít tìm thấy những vở có tiếng vang trong kịch trường, trừ mấy vở của Nguyễn Hữu Kim, Vi Huyền Đắc, Tương Huyền và nhất là của Nam Xương” [13, tr. 44]. Bài báo của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà viết: “Bằng hai vở kịch nói Ông Tây An Nam (1930) và Chàng Ngốc (1931), Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã cùng với Vi Huyền Đắc, Vũ Đình Long, Nguyễn Hữu Kim…trở thành những nghệ sĩ đầu tiên đặt nền móng cho sự ra đời của nghệ thuật kịch nói Việt Nam. Dù chỉ là đôi dòng, nhưng tên tuổi của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc thường được nhắc tới trong các công trình nghiên cứu lịch sử văn học, nghiên cứu lịch sử sân khấu Việt Nam trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XX.”, “Có thể nói không quá lời rằng Nguyễn Cát Ngạc, là một trong số ít các tác giả đầu tiên có những sáng tác văn học về một gia đoạn lịch sử cách chúng ta rất xa là thời đại Hùng Vương - một thời đại mà sử liệu hiện chỉ còn chủ yếu trong truyền thuyết…Cho đến nay, truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc chưa được khảo sát kỹ lưỡng. Có thể nhận xét, đây là những truyện ngắn được viết khá công phu, được tổ chức theo lối kịch bản, có thắt nút cởi nút, đặc biệt tác giả thường khai thác một cách tinh tế những tình huống có khả năng khắc họa hình ảnh lố bịch của những kẻ bán nước hại dân. ”[14] Có thể thấy rằng: hầu hết các công trình nghiên cứu trên đây chỉ mới dừng ở những đánh giá ngắn gọn và khái quát về Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, chủ yếu ở vai trò một tác giả kịch bản giai đoạn đầu thế kỷ XX trong một tổng thể chung của cả nền văn học hoặc riêng lĩnh vực kịch nói; và mới chỉ có một bài báo của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà viết về cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương. Toàn bộ sự nghiệp văn học của Nam Xương nói chung và phần văn xuôi nói riêng chưa được khảo sát, nghiên cứu. Bài báo của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà - tuy đã đề cập tới phần văn xuôi của ông, nhưng cũng mới chỉ dừng ở việc đưa ra Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 những nhận định ban đầu. Chưa có công trình nào nghiên cứu sự nghiệp văn chương của Nam Xương một cách hệ thống và hoàn chỉnh. Do đó, việc nghiên cứu về Nam Xương là rất cần thiết. 3. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong các sáng tác của Nam Xương ở hai thể loại: kịch bản và truyện ngắn. - Khẳng định các đóng góp của Nam Xương đối với sự hình thành và phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại trong giai đoạn đầu thế kỷ XX ở hai thể loại trên. 4. Đối tƣợng nghiên cứu - Toàn bộ các tác phẩm của Nam Xương, tập trung nghiên cứu các tác phẩm kịch bản và truyện ngắn. - Các tài liệu liên quan: các tác phẩm kịch bản, truyện ngắn cùng thời với ông; các công trình nghiên cứu có đề cập đến sáng tác của Nam Xương. - Các tài liệu lý thuyết, lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Chỉ ra được những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của Nam Xương trong thể loại kịch bản văn học. - Chỉ ra được những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của Nam Xương trong thể loại truyện ngắn. - Khẳng định vị trí, vai trò cùng những đóng góp quan trọng của Nam Xương trong giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hoá nền văn học nước nhà ở hai thể loại trên. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu: Để thực hiện luận văn, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp phân tích và tổng hợp - Phương pháp nghiên cứu liên ngành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 - Phương pháp so sánh, đối chiếu. - Phương pháp nghiên cứu hệ thống 7. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương. Chương I: Vài nét về đời sống xã hội - văn hóa Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX và tác giả Nam Xƣơng. Chương II. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật kịch bản của Nam Xƣơng. Chƣơng III. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật truyện ngắn của Nam Xƣơng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 Chƣơng I ĐỜI SỐNG XÃ HỘI – VĂN HOÁ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ TÁC GIẢ NAM XƢƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC 1.1. Đời sống xã hội – văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ảnh hƣởng đến việc hình thành ngòi bút Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc 1.1.1. Sự xâm nhập của văn hoá phương Tây và những biến động trong đời sống xã hội - văn hoá Việt Nam Cuối thế kỷ XIX, về cơ bản người Pháp đã hoàn tất quá trình xâm lược Việt Nam. Chính sách chia để trị và sự hình thành về mặt hình thức của ba xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ đã cho phép người Pháp xúc tiến công cuộc khai thác thuộc địa ở “xứ Đông Dương thuộc Pháp” một cách triệt để, nhằm tận thu của cải vật chất từ thuộc địa, và nhằm một mặt bù vào những thiệt hại nặng nề từ các cuộc chiến tranh mà nước Pháp tham gia, một mặt tăng cường thêm nguồn lực tạo ra sức mạnh của nước Pháp trong quan hệ quốc tế. Kết quả của chính sách kinh tế đó là nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp hàng nghìn năm đã bị phá vỡ, kinh tế tư bản hình thành và phát triển; nước ta trở thành một thuộc địa bị khai thác đến tận cùng các của cải vật chất, đồng thời trở thành thị trường tiêu thụ và cung cấp nguyên liệu cho tư bản công nghiệp và thương nghiệp Pháp. Đi cùng với tình trạng này là việc giai cấp nông dân Việt Nam bị bần cùng hoá, tầng lớp tiểu tư sản, thợ thủ công không có điều kiện để phát triển, trở thành nguồn nhân công đông đảo và rẻ mạt cho các hãng buôn, chủ đồn điền, chủ thầu của Pháp. Về mặt chính trị, chế độ thực dân nửa phong kiến chưa từng có trong lịch sử Việt Nam từng bước hình thành trên khắp lãnh thổ. Nó tiếp tục kìm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 hãm sự phát triển của đất nước dưới một hình thức khác, tuy nhiên chính sự có mặt của nó lại phá vỡ và gây nên những biến động lớn trong xã hội Việt Nam vốn hàng nghìn năm “bế quan toả cảng” dưới chế độ phong kiến kiểu phương Đông. Để bóc lột sức lao động và vơ vét tài nguyên ở nước thuộc địa, người Pháp mở mang giao thông, thị trường buôn bán, phát triển nền kinh tế hàng hoá thống nhất trong cả nước. Kèm theo sự phát triển ấy là việc mở rộng các đô thị cũ, hình thành các khu công nghiệp mới “kiểu phương Tây”, rồi các tỉnh lỵ, phủ, huyện lỵ được xây dựng như những trung tâm kinh tế - văn hóa địa phương để phục vụ hoạt động, sinh hoạt của tầng lớp “Tây thuộc địa”, là trung tâm hành chính để cai trị, đồng thời là nơi sơ chế, buôn bán và tiêu thụ, sản phẩm có được trong quá trình bóc lột tài nguyên và tận dụng nguồn nhân công rẻ mạt. Quá trình đô thị hoá dẫn đến sự phá vỡ kết cấu xã hội. Hệ thống các giai tầng đã có tuổi đời hàng nghìn năm, được tổ chức theo mô hình “tứ dân” (sĩ - nông - công - thương ) dần dần bị phá vỡ do trong xã hội xuất hiện những dấu hiệu sơ khai của quan hệ sản xuất kiểu mới mà nền kinh tế tư bản từ nước Pháp mang lại. Những ngành nghề chưa từng có trong lịch sử dân tộc như thông ngôn, ký lục, ký giả,... cho đến thợ cơ khí, thợ in ấn, phu mỏ,… lần lượt xuất hiện, và tình trạng này cũng góp phần làm thay đổi cơ cấu nghề nghiệp trong xã hội. Đông đảo nông dân bị bần cùng hoá do mất ruộng đất phải tha hương ra các đô thị kiếm sống, hình thành một tầng lớp tiểu tư sản nghèo ngày càng tăng mãi lên trong các đô thị; một số khác không nhiều trở thành lực lượng phu mỏ, phu đồn điền, từng bước hình thành nên những bộ phận đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam. Và do đó, cuộc xâm lăng của người Pháp đã đẩy tới sự thoát thai ra khỏi cách thức tổ chức xã hội kiểu cũ, từng bước làm nên một xã hội Việt Nam kiểu mới với sự xuất hiện của một số tầng lớp xã hội mới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 Về sinh hoạt xã hội, đã diễn ra một tình trạng phân cực rõ rệt đến mức đối lập giữa nông thôn và đô thị, giữa kẻ giàu và người nghèo. Một nền kinh tế phụ thuộc với một số hàng hoá đến từ phương Tây, cùng với đó là một lối sống kiểu khác với những giá trị văn hóa - văn minh khác lạ đã dẫn đến sự thay đổi tâm trạng và lối sống trong xã hội Việt Nam đương thời. Từ việc tẩy chay những gì thuộc về ngoại bang, dần dà người ta buộc phải thích ứng với nó. Ở cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực, sự xâm nhập của cái mới đến từ phương Tây đã làm thay đổi căn bản bộ mặt xã hội Việt Nam, phá vỡ sự bình yên ngàn đời dưới luỹ tre xanh, đặt con người đứng trước sự tự ý thức trong một xã hội phức tạp và rộng lớn, phải vật lộn trong những tính toán mưu sinh trong các quan hệ ít nhiều mang dấu ấn của kinh tế thị trường tư bản, lạnh lùng và “tiền trao cháo múc”. Về mặt xã hội - văn hoá, công cuộc khai thác thuộc địa tự nó đòi hỏi phải có một hệ thống hạ tầng cơ sở, một không gian văn hóa chính quốc thu nhỏ, không chỉ nhằm phục vụ sinh hoạt mà còn có ý nghĩa quảng bá với cường độ cao, tiến tới đồng hóa văn hóa bản địa thông qua việc tuyên truyền cho những giá trị văn hóa - văn minh phương Tây mà văn hóa - văn minh Pháp là đại diện. Hệ quả của quá trình “khai hoá văn minh” mà người Pháp thực hiện tại xứ An Nam là sự phân hóa trong hoạt động tinh thần của xã hội. Biểu hiện cụ thể nhất là qua tình trạng cùng tồn tại của lớp nhà Nho, trí thức khoa bảng do nhà nước phong kiến Việt Nam đào tạo và những trí thức “Tây học” được đào tạo ở các nhà trường thuộc địa hoặc được đào tạo tại nước Pháp. Tình hình này đã đưa tới một hệ quả là sự du nhập những tri thức mới vào sinh hoạt tinh thần của người Việt trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đây cũng là thời kỳ mà lần đầu tiên các người con yêu nước của dân tộc được tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ của nhân loại lúc bấy giờ. Họ học hỏi, họ suy nghĩ và ý chí chấn hưng dân tộc, tư tưởng dân chủ và cách mạng được cái chí sĩ yêu nước bàn thảo và truyền bá công khai, trở thành mục tiêu của một số Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 phong trào yêu nước tiến bộ như Đông du, Đông kinh nghĩa thục,... cho thấy sự “lột xác” trong nhận thức của thế hệ người Việt Nam đầu tiên tiếp xúc với khoa học - văn minh phương Tây và cũng cho thấy tính chất quyết định trong tiến trình lịch sử dân tộc ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Cũng trong thời kỳ này, chủ nghĩa Mác - Lê nin, tinh hoa rực rỡ nhất của nhân loại đã được tiếp thu, kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân còn non trẻ đã trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày nay là Đảng Cộng sản Việt Nam - lực lượng tiên phong lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chúng tôi trình bày vài nét về bối cảnh xã hội – văn hoá Việt Nam đầu thế kỷ XX để làm cơ sở cho việc nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, bởi đó là những điều kiện khách quan đã tác động mạnh mẽ, và là đối tượng phản ánh trong tác phẩm của ông, cũng như góp phần hình thành tư tưởng và thế giới nghệ thuật của ông. 1.1.2. Quá trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và những ảnh hưởng trực tiếp đến nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc. Sự ra đời và diễn biến của nền kinh tế - xã hội – văn hoá kiểu mới trên đây đã tác động sâu sắc đã tác động sâu sắc tới mọi lĩnh vực vật chất - tinh thần của xã hội, và tất nhiên đối với văn học, nó cũng đặt ra các yêu cầu khách quan cho tiến trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam. Đồng thời, tự thân đời sống văn học cũng đứng trước yêu cầu phải đổi mới theo xu hướng hiện đại, bởi sự tham góp của các thành tố quan trọng về kinh tế - xã hội - văn hóa đã có vai trò như “bà đỡ” cho tiến trình hiện đại hoá văn học. Và trên thực tế, nhiều biến động văn hóa - xã hội đã diễn ra và cũng là điều kiện để văn học phát triển. Trước hết là sự thay thế dần chữ Hán, chữ Nôm bằng chữ quốc ngữ. Thời kỳ này, chữ quốc ngữ thật sự đã trở thành một chiếc cầu nối giữa văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 hóa Việt với văn hóa phương Tây. Có thể xem chữ việc sử dụng chữ quốc ngữ là thành tựu quan trọng của việc dân chủ hoá nền văn học. Sự phát triển của chữ quốc ngữ gắn liền với sự thay đổi tư duy của xã hội mới, kéo theo những kiểu công cụ chuyển tải mới như báo chí, và cả cách thức truyền bá mới như in ấn với số lượng lớn và hàng loạt, cập nhật và phổ cập trong mọi thành phần xã hội của hệ thống thông tin đại chúng - những phương tiện ngay đến thời cận đại ở Việt Nam vẫn còn kém cỏi. Ngoài việc thông báo tin tức, luận bàn các vấn đề xã hội, giới thiệu những thành tựu văn hoá - văn minh phương Tây..., một hệ quả của sự phát triển hệ thống thông tin đại chúng là đưa tới việc xuất hiện và đăng tải các tác phẩm văn chương “viết theo lối mới”, khác hẳn với hình thức - nội dung những tác phẩm văn chương vẫn được sáng tác và phổ biến theo “lối truyền thống”. Sự lên ngôi của chữ quốc ngữ thay thế cho chữ Hán, chữ Nôm cùng với sự phát triển của các phương tiện truyền thông, và quan trọng nhất là sự thay đổi về tư tưởng của các tầng lớp trong xã hội, nhất là nhân sĩ trí thức, đã dẫn đến sự phát triển có tính bước ngoặt của nền văn học nước nhà. Một nền văn học hiện đại vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của sự thay đổi lực lượng tác giả và công chúng của nó. Nếu như trong cả ngàn năm trước, văn học trung đại là sự biểu hiện thành văn của chính trị - đạo đức, là sản phẩm của các bậc nho sĩ, vua quan, mà mục đích chủ yếu họ khi cầm bút là để bày tỏ chí hướng, bộc lộ khí phách người quân tử, văn chương là “thi dĩ ngôn chí”, là “văn dĩ tải đạo”, thì vào đầu thế kỷ XX văn chương hiện đại đã làm thay đổi vị trí và tâm thế người cầm bút. Và quan trọng hơn cả là các quan niệm về đặc trưng và chức năng của văn học cũng thay đổi. Khi mà những quan niệm về mỹ học phương Đông về sự ước lệ, tượng trưng, quy phạm… đã hầu như không còn phù hợp nữa. Đặc biệt là một quan niệm mới về đời sống tinh thần cho thấy văn chương không chỉ là chính trị, là luân lý, mà nó còn mang tải những đặc trưng nghệ thuật riêng khác để phản ánh xã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 hội, để bộc lộ cảm xúc, thái độ cá nhân của người cầm bút. Đó là cơ sở để hình thành một thế hệ nhà văn mới, có tư tưởng mới mà lõi cốt là tư tưởng dân chủ và ý thức cá nhân; có phương pháp sáng tác mới mà cơ bản là các phương pháp sáng tác từ phương Tây du nhập vào. Họ có thể là bất cứ ai, thuộc bất cứ tầng lớp nào trong xã hội: nhà nho, trí thức Tây học, viên chức nhà nước, nhà báo, thầy giáo trường huyện, học sinh, sinh viên…và nhiều người trong số họ dần dần trở thành nhà văn chuyên nghiệp, khai sinh một loại hình nghề nghiệp mới cho xã hội. Gắn với người viết văn, công chúng người đọc cũng thay đổi. Với sự phổ biến của chữ quốc ngữ, và sự phát triển của các phương tiện truyền thông, người đọc trong xã hội hiện đại không còn ở trong tình trạng có sự phân biệt (dù tương đối) như trong xã hội trung đại - chỉ có người đọc dân gian và người đọc bác học, tức tầng lớp trí thức phong kiến. Người đọc trở nên đông đảo và phong phú, với đủ các tầng lớp xã hội. Họ có thể là tầng lớp tiểu tư sản và tư sản mới, là những trí thức Tây học, viên chức nhà nước, sinh viên, cũng có thể là những học trò trường huyện, hay các bà, các cô nội trợ...Sự tiếp nhận tác phẩm văn chương hiện đại của họ đã diễn ra dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn nhờ những vốn liếng tri thức họ tiếp nhận từ cuộc tiếp biến văn hoá Đông - Tây, giúp cho họ trở thành những thế hệ độc giả đầu tiên của văn học hiện đại Việt Nam. Và một tiến trình hiện đại hoá văn học đã diễn ra, với những giá trị nội dung và nghệ thuật mới, chưa từng xuất hiện trong lịch sử văn học nước nhà. Văn học Việt Nam vượt qua lối xướng hoạ ngâm vịnh truyền thống, bước đầu thoát ra khỏi những chế định văn học thời Trung đại để đặt chân vào một lãnh địa hoàn toàn mới, đặt văn chương vào cõi đời thế tục, đi tìm sinh khí cho văn chương từ cuộc sống, qua tác phẩm chuyển tải ý chí và suy tư về thời cuộc. Các tác giả Nguyễn Trọng Quản, Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn, Lê Hoằng Mưu, Đặng Trần Phất, Tản Đà …được xem là dấu nối giữa văn học cận đại và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 văn học hiện đại ở Việt Nam, trong đó Tản Đà đã tiến một bước khá dài trên hành trình đi tìm một diện mạo mới của văn học. Cùng với ông, Hoàng Ngọc Phách với Tố Tâm - cuốn tiểu thuyết được coi như là sự khởi đầu của nền tiểu thuyết, vở kịch Chén thuốc độc của Vũ Đình Long mở đầu cho nền kịch nói Việt Nam…, là những người đã đặt những viên gạch móng thành công cho sự ra đời của nền văn học Việt Nam hiện đại. Thời kỳ này đã diễn ra các “cuộc cách mạng” về thể loại. Trong khi các thể loại truyền thống của văn học dân tộc như các thể thơ dân gian (ca, vè, hát dặm), các thể thơ cảm hoài, ngôn chí, thể văn tế cổ điển… vẫn tiếp tục được sử dụng, thì lại có sự xuất hiện ồ ạt rồi dần dần hoàn chỉnh và đạt đến đỉnh cao của các thể loại văn học du nhập từ phương Tây. Về văn xuôi, xuất hiện tiểu thuyết, phóng sự, ký sự, tuỳ bút, truyện ngắn,… Về thơ, có thơ trữ tình, thơ trào phúng. Về kịch, lần đầu tiên thể loại kịch nói từ phương Tây đã du nhập vào Việt Nam, và trên cơ sở sự tiếp nhận những yếu tố tương hợp của kịch hát truyền thống (đặc biệt là phong cách hài hước của chèo cổ), nó nhanh chóng được công chúng tiếp nhận; sau đó là kịch thơ. Những thể loại mới không chỉ đóng vai trò cấu tạo nên diện mạo văn học hiện đại mà còn là nền tảng quan trọng cho sự phát triển thể loại của văn học Việt Nam các thời kỳ sau. Sau giai đoạn văn học giao thời, văn học Việt Nam bước vào một thời kỳ phát triển mạnh mẽ trên tất cả các phương diện của tiến trình hiện đại hoá. Theo các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam, đây là thời kỳ hoàn thiện diện mạo hiện đại trên tất cả mọi phương diện của đời sống văn chương - học thuật Việt Nam. Trên phương diện tư tưởng - nghệ thuật, là sự phát triển rực rỡ của ba dòng văn học hiện thực, lãng mạn và cách mạng. Trên phương diện thể loại, phải nói rằng đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất, kết tinh những đỉnh cao về tác gia, tác phẩm trên tất cả các thể loại văn học: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch, nghiên cứu lý luận phê bình, dịch thuật…Về phương diện đội ngũ, một đội ngũ đông đảo chưa từng có, với tên tuổi của Nhất Linh, Thạch Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 Lam, Khái Hưng, Thế Lữ, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Nam Cao, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nguyễn Bính,Chế Lan Viên…cùng những Hai đứa trẻ,Chí Phèo, Bỉ vỏ,Dế mèn phiêu lưu ký, Bước đường cùng, Số đỏ, Lửa thiêng, Thơ thơ, Điêu tàn,Vang bóng một thời, Chân quê,… đã in đậm dấu ấn, trở thành những “cột mốc” trong văn học Việt Nam suốt một thời đại. Thành công của cách mạng tháng Tám 1945, và sau đó là cuộc chiến đấu gian khổ trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp đã tác động rất lớn tới tâm thế xã hội - công dân của trí thức, nghệ sĩ Việt Nam nói chung và nhà văn Việt Nam nói riêng. Xu thế của lịch sử, ý thức về lòng tự hào, tự trọng dân tộc, cùng sự giác ngộ về lý tưởng đã thôi thúc đa số nhà văn nhà thơ thành danh từ trước cách mạng đứng vào đội ngũ của nhân dân, dùng ngòi bút như một công cụ phụng sự nhân dân. Một nền văn học cách mạng và kháng chiến đã ra đời theo bước chân của những văn nghệ sĩ - chiến sĩ trên các nẻo đường trường kỳ kháng chiến. Thực tế cho thấy, sự lựa chọn của các nhà thơ đã làm nên Thơ mới (như Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Chế Lan Viên…), hoặc các nhà văn từng là “chủ soái” của văn chương hiện thực phê phán (như Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao…) đã trực tiếp góp phần quan trọng để tạo dựng nền văn học Việt Nam kiểu mới còn non trẻ. Đứng vào hàng ngũ cách mạng, họ trực tiếp tham gia để làm nên một cao trào sáng tác văn học hướng về chủ nghĩa yêu nước, về tinh thần dân tộc, về sự hy sinh của mọi người cho sự nghiệp lớn… Khi nhà văn xác định phải gắn bó sự nghiệp sáng tác với sự nghiệp dân tộc thì không có cách nào khác, họ phải tham gia vào với sự nghiệp đó thông qua hoạt động nghề nghiệp. Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc cũng là một nhà văn - chiến sĩ, một người cầm bút xuất phát từ lập trường yêu nước để đến với lý tưởng cách mạng của giai cấp vô sản. Gia nhập làng văn nghệ từ những năm hai mươi, khi còn là một sinh viên trường Cao đẳng Công chính, ông là người đã có mặt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 ngay từ giai đoạn nền văn học dân tộc chuyển mình hoà nhập cùng thời đại, và gắn bó với nó theo cách riêng của mình cho đến hơi thở cuối cùng. Ông còn là một trong những người xây dựng nền kịch nói Việt Nam, góp phần vào tiến trình hiện đại hoá văn học nước nhà. Có thể nói, ngòi bút văn chương Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc vừa là kết quả của tiến trình hiện đại hoá văn học, vừa là một trong những nhân tố tích cực góp phần kiến tạo nên tiến trình này. Qua việc tìm hiểu đời sống kinh tế - xã hội - văn hoá Việt Nam và tiến trình hiện._. đại hoá văn học nửa đầu thế kỷ XX, chúng tôi muốn khai thác những tác động, ảnh hưởng của chúng đến quá trình vận động về tư tưởng và sáng tác văn học của nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc. Một điều đáng chú ý là: ông xuất hiện khá sớm, có tác phẩm nổi tiếng ngay từ giai đoạn văn học giao thời. Tuy nhiên, trong thời kỳ rực rỡ nhất của quá trình hiện đại hoá văn học, cũng như sau khi Cách mạng tháng Tám thành công thì ông lại đồng hành cùng những bước đi của dân tộc trong tâm thế của một chiến sĩ cách mạng hơn là một nhà văn. Những thông tin về cuộc đời và sự nghiệp của ông sẽ góp phần lý giải điều này. 1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của tác giả Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc 1.2.1.Vài nét về tiểu sử tác giả Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc Cho đến nay, thông tin về Nam Xương trên các tài liệu chúng tôi khảo cứu được rất hạn chế. Ngoài các tư liệu đã dẫn ở phần mở đầu, chúng tôi tìm trên trang web tìm kiếm Google, chỉ có 4 trang web giới thiệu về Nam Xương, đó là các trang web: dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn của Bách khoa toàn thư Việt Nam; nghethuatsankhau.com.vn của Trung tâm bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu Việt Nam (sử dụng lại thông tin của Bách khoa toàn thư Việt Nam, không có bổ sung gì thêm); một trang web của người Việt ở nước ngoài, là vietnamlit.org, và trên một diễn đàn của trang web Olympia Việt Nam ở địa chỉ .olympiavn.org/forum. Những nội dung được giới thiệu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 cũng rất sơ sài, về thân thế, sự nghiệp và 2 tác phẩm nổi tiếng của ông là Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc, bài giới thiệu dài nhất không quá 300 chữ. Chúng tôi dẫn ra như vậy để minh chứng rằng, thông tin về cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc còn được rất ít người biết tới và có đôi chỗ không thống nhất. Theo khảo cứu của chúng tôi, tiểu sử Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc có thể tóm tắt như sau: Nam Xương tên thật là Nguyễn Cát Ngạc, sinh năm 1905 tại quê hương ông ở xã Phù Khê, huyện Từ Sơn - Bắc Ninh. Trong gia tộc, ông là anh em ruột với ông thân s inh nhà sử học Nguyễn Lương Bích, và là chú họ đồng chí Nguyễn Văn Cừ - một trong những Tổng bí thư đầu tiên của Đảng ta. Học hết tiểu học ở quê nhà, Nguyễn Cát Ngạc ra Hà Nội học tiếp trung học tại Trường Bưởi. Ở Hà Nội trong thời kỳ các tư tưởng và phong trào yêu nước nở rộ, chàng thanh niên Nguyễn Cát Ngạc nhanh chóng tiếp thu và hăng hái tham gia các hoạt động để bộc lộ lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc của mình. Năm 1926, tại lễ tang Phan Chu Trinh, Nguyễn Cát Ngạc tham gia rất tích cực, vì vậy ông bị thực dân Pháp bắt giam một thời gian. Ra tù, ông tiếp tục đi học và học xong Cao đẳng với bằng Tham tá công chính.Vừa làm nghề công chính, vừa sáng tác, vừa tham gia các phong trào yêu nước, ông là một trong những thành viên đầu tiên của nhóm Nam Đồng Thư xã - tổ chức tiền thân của Việt Nam Quốc dân đảng, cùng với Trần Huy Liệu, Nguyễn Thái Học… Sau khi Quốc dân đảng thất bại trong khởi nghĩa Yên Bái tháng 2 năm 1930, nhận thấy con đường của Quốc dân đảng là không có tương lai, Nguyễn Cát Ngạc tìm đến với Việt Minh và tham gia hoạt động cách mạng. Vì vậy khi phát xít Nhật vào Đông Dương, chúng đã bắt giam và tuyên án tử hình ông. Nhưng ngay khi đó, Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được cứu thoát và về hoạt động tại Nam Định. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ (1946) ông lên chiến khu. Năm 1948 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng năm này, thực hiện nhiệm vụ được tổ chức giao, dưới danh nghĩa ''trí Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 thức dinh tê'', Nguyễn Cát Ngạc trở về Hà Nội, vừa hoạt động công khai bằng nghề công chính, vừa hoạt động tình báo. Đầu năm 1954, Nguyễn Cát Ngạc bị lộ, thực dân Pháp bắt và giam ông tại nhà giam Thanh Liệt và sau đó là nhà giam Hỏa Lò. Khi Hiệp định đình chiến được ký kết năm 1954, ông được quân đội đón về Hà Nam, vài tháng sau, dưới danh nghĩa ''trí thức di cư'', ông vào miền Nam tiếp tục hoạt động và mất ngày 15 tháng 1 năm 1958. Về cái chết của Nguyễn Cát Ngạc, theo nguồn tin chính thức thì ông bị ốm rồi qua đời, nhưng dư luận Sài Gòn những năm đó lại cho rằng ông bị kẻ thù đầu độc. Bức thư vĩnh biệt ông viết cho người con trai là Nguyễn Mạnh Đàm chính vào ngày ông mất, cho thấy dư luận có cơ sở, vì dường như ông đã biết trước được sự ra đi của mình: "Đàm con! Tiếc là lúc vĩnh biệt Ba không gặp con. Ba hy vọng lá thư này con đọc được. Ba không thể tiếp tục cùng con chung việc lớn. Vậy con ở lại cố làm nốt những việc Ba thường nhắn nhủ. Kín đáo và thận trọng, càng lên cao càng tốt. Trí lớn nuôi 20 năm nhưng chỉ cần làm trong một buổi. Đừng hoang toàng mà hỏng việc, đừng bất nhân mà hỏng nghĩa, đừng thất ý thượng cấp mà hỏng cơ đồ. Chúc con khoẻ, nghe lời Ba nuôi dạy các cháu nên người hữu dụng của đất nước. 23 giờ đêm ngày 15.1.1958, Ba - Nguyễn Cát Ngạc". Năm 1976, khi nước nhà thống nhất, tổ chức mới có thể gửi Giấy báo tử của ông tới gia đình, Giấy báo tử ghi rõ mức lương của ông tương đương với cấp bậc đại uý của quân đội. Trong bản xác nhận của đơn vị do đồng chí Nguyễn Mạnh Khoát - Trung tá thuộc Cục nghiên cứu thuộc Bộ Tổng Tham mưu (nay là Đại tá Nguyễn Mạnh Khoát, đã nghỉ hưu tại Thành phố Hồ Chí Minh) viết, Nguyễn Cát Ngạc là: “Cơ sở nội thành từ 1954 đến 1958, hòa bình lập lại do yêu cầu công tác chúng tôi phái ông vào Nam tiếp tục công tác đến 1958 thì ốm và mất” và ông: “ là người tích cực công tác và hoàn thành nhiệm vụ tốt”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 Ông được Nhà nước truy tặng danh hiệu liệt sĩ. Bằng Tổ quốc ghi công của ông mang số 546 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 7.12.1976. Lễ truy điệu Nguyễn Cát Ngạc được Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, bên cạnh có mặt của đại diện đơn vị và gia quyến, còn có các văn nghệ sĩ cùng thời với ông như Văn Cao, Nguyễn Xuân Sanh… Phần mộ ông hiện ở Nghĩa trang Liệt sĩ TP Hồ Chí Minh. 1.2.2. Quá trình sáng tác của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc Theo những nghiên cứu (có thể còn chưa đầy đủ) của chúng tôi, quá trình sáng tác của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc có thể chia ra thành 2 giai đoạn: trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. 1.2.2.1 Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 Tắm mình trong không khí duy tân và xu hướng đổi mới, hiện đại hoá nền văn học nước nhà thời kỳ văn học giao thời, Nguyễn Cát Ngạc khi ấy là sinh viên trường Cao đẳng Công chính, đã có điều kiện tiếp xúc với những tinh hoa của văn học thế giới được truyền bá bởi hội đoàn, nhà xuất bản, tạp chí canh tân lúc bấy giờ, như hội Khai trí tiến đức, An Nam tạp chí, Nam Phong tạp chí,... Ra trường, vừa làm nghề công chính trong bộ máy hành chính của Nhà nước Pháp thuôc, vừa tham gia cách mạng, ông vừa viết báo và say mê nghiên cứu văn chương, đặc biệt là nghiên cứu về kịch phương Tây. Ở vào giai đoạn sân khấu kịch nói Việt Nam đã nỗ lực hiện đại hoá sân khấu truyền thống, đang tìm cách thoát khỏi sự phụ thuộc sâu sắc vào kịch bản dịch và hoạt động của sân khấu phương Tây, Nam Xương là một trong những tác giả đầu tiên viết kịch bản văn học Việt Nam, tiếp theo Vũ Đình Long, Nguyễn Hữu Kim, Vi Huyền Đắc, Tương Huyền... Ông đã viết các vở kịch Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc, là những vở kịch thành công đầu tiên của kịch nói hiện đại Việt Nam. Hai vở kịch Ông Tây An Nam (hài kịch 3 hồi - viết xong tháng 8 năm 1930, Nam ký xuất bản năm 1931) và Chàng Ngốc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 (hài kịch 5 hồi - 1930) của Nam Xương được báo chí bình luận và khen ngợi. Năm 1934, 1935, ban kịch Bắc kỳ (La cène Tonkinoise - ban kịch nổi tiếng ở Hà Nội, hoạt động trong 2 năm 1934-1934; không phải là tên một vở kịch của Nam Xương như vietnamlit.org nêu) của Tạ Quang Cát dựng, gây được tiếng vang lớn trên sân khấu kịch lúc bấy giờ, nhất là trong số đông khán giả có tinh thần dân tộc sâu sắc. Có thể nói, sáng tác kịch là say mê của ông. Theo ông Nguyễn Hải Thoại, con trai của Nam Xương kể lại thì: “Có hai điều cuốn hút cha tôi từ khi còn học ở trường Bưởi, đó là say mê kịch nói và nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Có một câu nói của Henri Bergson mà ba tôi rất thích, ông ghi lên ô kính của cái tủ sách đầy ắp những Racine, Corneille, Molière…, câu ấy là: “Một dân tộc càng trí tuệ, càng biết yêu sân khấu” (Plus un peuple est spirituel, plus il aime le théâtre). Ba nói với tôi, lúc tôi độ 14 - 15 tuổi: - Ba rất mong về hưu, sống trong thanh thản và viết kịch. - Ba ơi, lúc ấy con sẽ chép lại kịch cho ba (tôi nói với ba như vậy)”. Tiếp theo 2 vở kịch nổi tiếng này, Nam Xương còn viết một số vở hài kịch khác nhưng chưa dựng, như Thuốc tê Ô Cấp, Tội ăn cắp, Nói khoác, Đại gia văn sĩ... Sau đó, có lẽ việc tham gia hoạt động ở Việt Nam Quốc dân đảng, và sau này tham gia Việt Minh, cùng nhiều lần bị bắt bớ, tù đày, nên hoạt động văn chương của ông bị gián đoạn. 1.2.2.2. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ (1946), ông đưa gia đình lên chiến khu. Nhưng rồi thực hiện nhiệm vụ được tổ chức giao, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc cùng gia đình trở về Hà Nội. Ông đưa vợ con về Nam Định sinh sống, còn mình thì ở Hà Nội, dưới danh nghĩa “trí thức dinh tê”, vừa hoạt động công khai bằng nghề công chính, vừa hoạt động tình báo. Trong thời kỳ này, ông có điều kiện hợp pháp để tiếp nối công việc viết văn, vì thế đã cho xuất bản nhiều truyện ngắn và truyện dã sử. Với Nhà xuất bản Quê Hương Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 do ông trực tiếp làm giám đốc, ông đã cho xuất bản 2 tiểu thuyết lịch sử Bách Việt, Hùng Vương (bản còn lại không ghi rõ thời gian xuất bản) và tập truyện ngắn Bụi phồn hoa xuất bản tháng 7 năm 1950, gồm 7 truyện ngắn. Đầu năm 1954, Nguyễn Cát Ngạc bị lộ, thực dân Pháp bắt và giam ông. Khi Hiệp định đình chiến được ký kết năm 1954, ông được quân đội đón về Hà Nam, vài tháng sau, dưới danh nghĩa “trí thức di cư”, ông vào miền Nam tiếp tục hoạt động. Trong khoảng 4 năm cho đến khi ông mất (1958), ông vừa hoạt động công khai vừa viết văn, làm báo, viết sử (bộ sách Sử ký Việt Nam, bút danh Nguyễn Trúc Thanh, gồm ba quyển, trình bày lịch sử dân tộc từ thời cổ đại đến năm 1765, in tại NXB Liên hiệp ở Sài Gòn vào năm 1956). Theo di cảo, thời gian này ông sống ở nhiều nơi, cộng tác với khá nhiều báo chí, hưởng ứng các phong trào ái hữu, như Hội truyền bá quốc ngữ. Nhưng phần tác phẩm còn lưu trữ được lại không nhiều. Đáng chú ý là hầu hết di cảo đều ghi thời gian sáng tác là năm 1955, kèm theo các địa danh Bạc Liêu, Phú Quốc, Cần Thơ. Theo những gì còn lại, cho thấy khoảng thời gian này ông viết rất khoẻ, rất nhiều, không chỉ truyện ngắn mà còn sáng tác kịch, viết sách giáo khoa lịch sử. Với sức viết ấy và tâm huyết của ông với văn chương, chúng tôi nghi ngờ rằng, những gì còn lại chưa hẳn đã là tất cả sáng tác của ông, mà có lẽ vì hoàn cảnh phức tạp và việc hoạt động bí mật trong lòng địch, nên các sáng tác của ông trong khoảng hai mươi năm kể từ khi Ông Tây An Nam ra đời năm 1931, đã không được lưu giữ đầy đủ. Một minh chứng cho sự nghi ngờ của chúng tôi là: Ở cuốn Bụi phồn hoa do NXB Quê hương xuất bản tại Hà Nội năm 1950 có trang giới thiệu sách “cùng một tác giả” (Nguyễn Cát Ngạc), ghi: “ Đã xuất bản: Bách Việt - chuyện dài lịch sử, 14$00; Bụi phồn hoa - Tập chuyện ngắn, 6$00. Sắp xuất bản: Hùng Vương - Chuyện dài lịch sử; Tây Thi – Bi kịch năm hồi; Hai người đàn bà - Tập chuyện ngắn. Phát hành tại Nhà xuất bản Quê hương, 38C phố Trưng Vương (Rollandes) – Hà Nội”. Chúng tôi đã sưu tầm được bản in hoặc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 bản thảo của các tác phẩm Bách Việt, Bụi phồn hoa, Hùng Vương,Tây Thi, nhưng bản thảo tập Hai người đàn bà thì chưa tìm được. Trong số di cảo của ông mà chúng tôi đang nghiên cứu cũng không có truyện ngắn nào tên là Hai người đàn bà. Vì vậy, chúng tôi cho rằng tập bản thảo hoặc truyện ngắn này đã bị thất lạc. 1.2.3. Các tác phẩm đã xuất bản và di cảo Tác phẩm của Nguyễn Cát Ngạc để lại khá phong phú về thể loại như kịch bản sân khấu, truyện ngắn, truyện dã sử, tiểu luận văn hóa, đoạn văn ngắn. Điểm lại chưa đầy đủ, Nguyễn Cát Ngạc có những tác phẩm sau: 1.2.3.1. Về kịch bản văn học: Hai tác phẩm được lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Hà Nội, là: Chàng Ngốc (hài kịch năm hồi, NXB Nam Định - Trường Phát in năm 1930) mã số P. 12381 (17) Nam Xương; Ông Tây An Nam (hài kịch ba hồi, NXB Hà Nội - Nam Kỳ in năm 1931) mã số M.6368 (19) Nam Xương. Trong di cảo ông còn các kịch bản: - Tây Thi (bi kịch năm hồi tám cảnh), - Văn Chủng (bi kịch năm hồi), - Tội ăn cắp (kịch vui), - Thuốc tê Ô Cấp (kịch vui). Theo gia đình cho biết, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc còn có hai kịch bản Nói khoác (hài kịch một hồi) và Đại gia văn sĩ (hài kịch năm hồi) hiện chưa tìm thấy. 1.2.3.2. Về truyện ngắn: Về truyện ngắn đã xuất bản, Nguyễn Cát Ngạc có tập Bụi phồn hoa do NXB Quê hương xuất bản tại Hà Nội năm 1950, gồm 7 truyện ngắn: Bụi phồn hoa, Một nhà cách mạng, Chữ Quý, Một nạn nhân, Vàng, Ngôi đất công khanh, Tái hợp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 Trong di cảo còn có 19 truyện ngắn ở dạng bản thảo, chưa xác định được là đã công bố hay chưa (nói như vậy bởi trong một số bản thảo, ông còn để lại bút tích trên đầu trang: “để đăng Sài Gòn Mới”, “Truyện dự thi tại Hội Truyền bá quốc ngũ Cần Thơ”), được ký với các bút danh Nguyễn Tác Cang, Nguyễn Trúc Thanh, Nguyễn Cát Ngạc, bao gồm: Hội đồng vĩ nhân, Khách quan, Vô sỉ, Tình chia đôi ngả, Vẽ mặt văn khôi, Vô liêm sỉ, Có chí thì nên, Giao Lương Sơn, Một tấm lòng vàng, Nước Trivitri, Truyện giải trí, Đánh ghen trong mồ, Tình trong biên giới, Kiếp bình bồng, Hai lần ly biệt, Tình quê, Yêu nghệ thuật, Hai nhân vật tỉnh Bắc Giang, Lưu Bình - Dương Lễ. Cũng về thể loại truyện ngắn, nhưng viết về đề tài lịch sử, ông ghi là “truyện dã sử", trong di cảo của ông còn có các tác phẩm: Hoàng Trừu, Huyền Trân công chúa, Nguyễn Thị Lộ, Trên chòi Khâm Thiên , Tráng sĩ Phù Đổng. Ngoài 19 truyện trên được ông ghi là “truyện ngắn”, Nguyễn Cát Ngạc còn viết một số tiểu phẩm ngắn cho một chuyên mục riêng được ông đặt tên là Kiến văn chí dị, gồm các bài: Giống Waltrabar, Nước tự do, Ma Hàng Giầy, Cái chết của ông lang Doanh, Ma Hàng Cỏ, Cây đèn Khổng Minh. Những tiểu phẩm này cũng được ông viết theo kết cấu của truyện ngắn. 1.2.3.3. Về tiểu thuyết: Nguyễn Cát Ngạc đã cho in hai cuốn tiểu thuyết viết theo lối chương hồi là Bách Việt và Hùng Vương tại NXB Quê hương (Hà Nội năm 1950). Hiện nay chưa tìm thấy bản in của cuốn Hùng Vương, chỉ còn lại bản thảo. 1.2.3.4. Về sử ký: Ông có bộ sách Sử ký Việt Nam (bút danh Nguyễn Trúc Thanh) gồm ba quyển, trình bày lịch sử dân tộc từ thời cổ đại đến năm 1765, bộ sách này được “soạn theo chương trình Ban Trung học của Bộ Quốc gia Giáo dục” (chính quyền miền Nam cũ) đã được in tại NXB Liên hiệp ở Sài Gòn vào năm 1956. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 Tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đặt trong bối cảnh xã hội – văn hoá và tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, chúng ta thấy được mối liên hệ biện chứng giữa hoàn cảnh xã hội và cá nhân nhà văn. Về phương diện xã hội, một hoàn cảnh xã hội đặc biệt, với sự ra đời và diễn biến của nền kinh tế - xã hội – văn hoá kiểu mới đã tác động sâu sắc đã tác động sâu sắc tới mọi lĩnh vực vật chất - tinh thần của xã hội, cùng sự ra đời của các tổ chức cách mạng, các phong trào yêu nước mà đỉnh cao là Đảng Cộng sản Đông Dương, là những yếu tố khách quan hình thành nên tư tưởng và nhân cách của nhà văn - chiến sĩ Nguyễn Cát Ngạc. Ở ông, tư cách nhà văn và tư cách người chiến sĩ cách mạng hoà làm một. Đó là lý do để ngòi bút văn chương của ông luôn thấm đẫm tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc. Về phương diện văn học, có thể nói, với những tác phẩm văn học của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (đặc biệt là về kịch nói) vừa là kết quả của tiến trình hiện đại hoá văn học, vừa là một trong những nhân tố tích cực góp phần kiến tạo nên tiến trình này. Tìm hiểu, nghiên cứu sự nghiệp văn học của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, chúng tôi mong muốn được làm sáng rõ hơn những giá trị của các tác phẩm mà ông đã viết trên đường cách mạng bằng tất cả đam mê và tâm huyết của mình, để thấy được những cống hiến của ông đối với sự nghiệp cách mạng và nền văn học Việt Nam mà lâu nay vẫn khuất lấp sau lớp lớp thời gian. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 Chƣơng II MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ KỊCH BẢN VĂN HỌC CỦA NAM XƢƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC 2.1. Tóm tắt các kịch bản của Nam Xƣơng Như đã trình bày ở chương I, đến nay qua khảo sát của chúng tôi, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc còn để lại hai tác phẩm được lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Hà Nội là: Chàng Ngốc (hài kịch năm hồi), Ông Tây An Nam (hài kịch ba hồi). Trong di cảo ông còn các kịch bản: Tây Thi (bi kịch năm hồi tám cảnh), Văn Chủng (bi kịch năm hồi), Tội ăn cắp (kịch vui), Thuốc tê Ô Cấp (kịch vui). Chúng tôi xin lần lượt tóm tắt lại các vở kịch trên để tiện cho việc nghiên cứu. Chàng Ngốc (viết năm 1930) là câu chuyện xảy ra trong một gia đình làm nghề buôn bán nhỏ. Chuyện xoay quanh sự kiện Sỉn ông - người bố - một người keo kiệt, bủn xỉn, và tham của, thấy Ngốc sinh là một thanh niên có của nên ưng thuận gả con gái như ông nói với Sỉn bà “gả cho cậu ấm Ngốc lấy mấy nghìn chơi”. Nhưng cô Cỏn, một cô gái tân thời, có nhan sắc và học thức, không chấp nhận sự gả bán này. Cô đã có người yêu là Tình sinh, một sinh viên cao đẳng. Vì thế, cô quyết liệt bảo vệ tình yêu của mình. Để làm mối cho cô Cỏn với Ngốc sinh, Sỉn ông nhờ cậy Tư Sùng, một bà mối khôn khéo và rất thực dụng. Tư Sùng xui Ngốc sinh nói dối để gia đình Sỉn ông tin cậu là người học hành tử tế, lại là con nhà tri huyện rất giàu có. Nhưng sự dối trá về việc học hành và gia thế của Ngốc sinh đã bị cô Cỏn bóc mẽ. Mặc dù vậy, Sỉn vẫn nhất định gả con gái cho Ngốc. Tình sinh và cô Cỏn lập mưu để hoãn cưới bằng cách cô Cỏn giả câm còn Tình sinh nhờ Tư Sùng thuyết phục Sỉn ông gả con gái cho mình. Tư Sùng thấy việc mai mối cho Ngốc sinh đã khó khăn hơn, nên quay sang nhận lời Tình sinh, nhưng đòi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 Tình sinh đưa tiền trước. Tình sinh bí quá, vay bạn bè không được, tình cờ gặp Ngốc sinh, thấy Ngốc sinh tỏ ra thân thiết, liền kể hết mưu của mình rồi vay tiền đưa cho Tư Sùng. Phát hiện được mưu của Tình sinh, Ngốc sinh vội vàng mang tiền đến trước, giục Sỉn ông cho đón dâu ngay. Tình sinh định đưa cô Cỏn đi trốn, nhưng bị gia đình Sùng ông phát hiện. Hai ông bà chửi mắng cô Cỏn thậm tệ. Nhưng cuối cùng, chính Ngốc sinh ngộ ra, nhường lại cô Cỏn cho Tình sinh. Ông Tây An Nam (viết năm 1931) là câu chuyện xảy ra trong gia đình Cưu ông. Cưu ông là người ưa danh giá, cho con là Lân sang Pháp học, đỗ cử nhân. Nhưng cử Lân nhập làng Tây, quay lại khinh bỉ dân tộc mình. Cử Lân về nước, mẹ là Cưu bà ra đón, y không thèm nhận bà mẹ bản xứ quê mùa, liền vu cho bà là kẻ cắp, gọi cẩm cho vào bóp. Y thuê khách sạn ở vì ghê sợ sinh hoạt của người An Nam. Về thăm nhà, y chỉ nói tiếng Pháp, bắt gã hầu phiên dịch ra tiếng Việt. Y sỉ mắng, nhục mạ mọi người, kể cả cha mẹ mình. Y nói với cụ Huấn, một người họ hàng xa với Cưu bà rằng “Ma patrie est la France, je suis Francais” (Tổ quốc tôi là Đại Pháp, tôi là người Đại Pháp). Cha mẹ mời ăn cơm y không ăn, mời uống nước y cũng không uống, vì sợ mùi An Nam. Nhưng đến khi gặp Kim Ninh, con gái cụ Huấn, một cô gái tân thời rất đẹp, thì y đem lòng mê mẩn. Y tìm cách trò chuyện với Kim Ninh, nhưng Kim Ninh nhất định không chịu nói tiếng Pháp nên y buộc phải nói tiếng Việt. Y giãi bày với Kim Ninh là: “Em ạ, anh xưa nay rất là hiểu rõ cái văn minh Âu tây…vậy muốn cho người ta quý mình, trọng đãi mình, trước hết ta không làm người Việt Nam nữa ”. Y dọn về nhà ở, lấy lòng cha mẹ và cụ Huấn để qua đó vận động họ tác thành cho mình và Kim Ninh. Nhưng Kim Ninh đã có người yêu là Tham Tứ, lại khinh thường thói vong bản của cử Lân nên nhất mực từ chối. Trước mặt mọi người, Kim Ninh làm cho cử Lân phải bộc lộ sự vong bản của y. Bị bẽ mặt, cử Lân trở lại nguyên hình là kẻ “Tây Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 hoá”, khinh thường dân tộc mình. Y hùng hổ quát đầy tớ: “Theo tao sang Pháp mà làm người Âu châu!”. Tây Thi (không rõ năm sáng tác) viết theo dã sử Trung Quốc. Chuyện lấy không gian ở cả nước Việt và nước Ngô. Để trả thù Ngô Phù Sai đã từng hành hạ mình, Việt vương Câu Tiễn nghe theo kế mỹ nhân của tướng quốc Văn Chủng, cho tìm con gái đẹp ở nước Việt cống nộp cho vua Ngô nhằm làm mê hoặc vua Ngô, để nước Việt thừa cơ mang quân sang báo thù. Phạm Lãi là tướng quốc giỏi của Việt vương Câu Tiễn được cử đi khắp nước tuyển người đẹp. Đến làng dệt lụa Trữ La, Phạm Lãi gặp Tây Thi. Anh hùng gặp mỹ nhân nên hai người đem lòng yêu nhau. Nhưng vì nghiệp lớn, Phạm Lãi đành mang Tây Thi cũng một người đẹp nữa là Trịnh Đán về cung. Sau một năm tập luyện hát múa, Tây Thi và Trịnh Đán được ra mắt Việt vương Câu Tiễn. Thấy Tây Thi quá đẹp, Câu Tiễn định giữ lại làm thiếp, nhưng Văn Chủng và Phạm Lãi can ngăn, nên đành từ bỏ ý định đó, sai Phạm Lãi đưa hai nàng đi cống Ngô. Nhờ sự ủng hộ của Trịnh Đán, Phạm Lãi và Tây Thi được gần gũi nhau suốt chặng đường dài sang Ngô. Khi được đưa vào làm phi tần của Phù Sai, Tây Thi làm cho Phù Sai mê mẩn, quên cả việc triều chính. Tướng quốc nước Ngô là Ngũ Viên thấy trước nguy cơ mất nước nên hết lòng can gián Phù Sai. Tây Thi thấy thế, sợ mưu không thành, vờ đòi đi tự tử. Phù Sai liền hạ lệnh cho Ngũ Viên phải chết. Thừa thế, Câu Tiễn đem quân sang đánh Ngô. Quân Việt đã vào trong thành mà Phù Sai vẫn ở đài Cô Tô, xem Tây Thi và cung nữ múa hát. Tây Thi bỏ trốn xuống thuyền, lúc đó Phù Sai mới nhận ra Tây Thi lừa dối mình, bèn đuổi theo chém Tây Thi. Phạm Lãi giao đấu và giết được Phù Sai, nhưng cũng bị Phù Sai chém trọng thương. Vở kịch kết thúc ở cảnh Tây Thi nói lời vĩnh biệt và Phạm Lãi cũng ngã gục xuống. Văn Chủng ( hay Tục Tây Thi, chưa rõ năm sáng tác ) như là phần tiếp theo của Tây Thi - Phạm Lãi. Bối cảnh của vở kịch là sau khi Việt vương Câu Tiễn đã lấy được nước Ngô, tưởng Phạm Lãi đã chết khi giao tranh với Phù Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 Sai trên đài Cô Tô, nên Câu Tiễn cho gọi Văn Chủng từ nước Việt sang, giao cho Văn Chủng dùng kế sách bình định nước Ngô, và lập đàn tế Phạm Lãi cùng Tây Thi, Trịnh Đán. Văn Chủng đang cho người lập đàn tế thì Phạm Lãi xuất hiện. Phạm Lãi khuyên Văn Chủng nên sớm rút khỏi trướng Câu Tiễn, kẻo Câu Tiễn sẽ giết hại, vì theo Phạm Lãi, Câu Tiễn là người “chỉ có thể gần khi gian nan, không thể ở gần khi giầu thịnh”. Văn Chủng không tin lời Phạm Lãi, lại còn dùng kế giữ chân Phạm Lãi ở lại để phò giúp Câu Tiễn. Nhân lúc Việt hậu là vợ Việt vương Câu Tiễn nổi lòng ghen, tìm giết Tây Thi vì sợ Tây Thi sẽ làm cho Việt vương mê đắm, Phạm Lãi bèn dùng mưu giải thoát cho Tây Thi, rồi đem Tây Thi trốn đi xa. Đến Đào thôn, Phạm Lãi cùng Tây Thi dừng lại, Phạm Lãi cải tên là Đào Chu công, lập Đào gia trang để ẩn tránh. Văn Chủng cho võ tướng là Mạnh Phong đem ba nghìn quân tìm đến tận nơi, bao vây Đào gia trang. Được biết Văn Chủng đã được Câu Tiễn điều về trấn giữ ở kinh đô Việt, Phạm Lãi liền nói cho Mạnh Phong biết là Văn Chủng đang gặp nguy hiểm, khuyên Mạnh Phong bỏ quân lại, về ngay kinh đô Việt để bảo vệ Văn Chủng. Mạnh Phong về đến nơi thì Văn Chủng đã bị Câu Tiễn hạ lệnh tự xử, con là Văn Kính đã bị Câu Tiễn đem đi. Mạnh Phong đau đớn cho người đi báo tin và giải vây cho Phạm Lãi, còn mình tìm đường đi cứu con Văn Chủng. Thuốc tê Ô Cấp là vở kịch vui ngắn, bối cảnh là Phòng kiểm duyệt của Hội Khai trí ở Hà Nội.Văn sĩ Hồng Hà đến lấy bản thảo một vở kịch xin kiểm duyệt, nhưng văn sĩ kiêm nhân viên kiểm duyệt Tua Rua chưa duyệt. Tua Rua lên tiếng chê bai vở kịch của Hồng Hà và khoe khoang vở kịch do mình viết. Hồng Hà bực lắm, phàn nàn với một văn sĩ là Sài Thành, cũng đến lấy lại bản thảo. Sài Thành lên tiếng phản ứng, liền bị Tua Rua giở thói độc đoán ra, từ chối không kiểm duyệt. Hai văn sĩ đang than thở với nhau thì Mai Hương, chủ một nhà xuất bản đến. Mai Hương nịnh Tua Rua văn hay, viết được tác phẩm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 xuất sắc, liền được Tua Rua cấp dấu kiểm duyệt ngay. Mai Hương chìa bản thảo cho hai văn sỹ kia xem và kết luận về Tua Rua: “Tự ái, Tiền, Tiên, ba giáo điều cùng một chữ T đứng đầu cả, tức là Tê- ô-cuyp. Đối với hạng này chỉ có Tê-ô-cuyp là một linh đan tuyệt nghiệm để muốn bắt họ phê sách thì phê!” Nhưng người tuỳ phái của Tua Rua nghe lỏm được cuộc đối thoại này, lại nghe không ra mấy chữ Tê-ô-cuyp nên kêu ầm lên là mấy văn sĩ định đánh “Thuốc Tê Ô Cấp” để hại chủ mình, nên tự cho mình là “thuốc Giải tê Bà Rịa” để cứu chủ, rồi giằng bản thảo của Mai Hương chạy mất. Tội ăn cắp (kịch vui, viết năm 1955) viết về một chuyện xảy ra trong gia đình thầy Cầu.Thầy đang ngồi viết thì cô Tú Anh (vợ thầy) đuổi đánh vú Ba, hai người chạy vào phòng viết của thầy. Cô vừa đuổi vừa chửi làm vú Ba không kịp thanh minh. Và cô còn một mực đòi chồng đuổi vú Ba ra khỏi nhà. Ông chồng hạ lệnh đuổi ngay dù chưa rõ lý do, làm cho người vú em phải lủi thủi vào thu xếp quần áo để chuẩn bị ra đi. Lúc đó, cô chủ Tú Anh mới nói rõ với thầy Cầu là vú Ba mắc tội ăn cắp mật ong chuyên dùng để đắp mặt của cô. Người vú thanh minh lại là vì em bé đòi ăn mật ong nên vú lấy cho em ăn. Vừa lúc đó, có người mang đến cho cô chủ chai thuốc đắp mặt mới. Thầy Cầu không đuổi người vú em nữa. Trên đây là 6 kịch bản mà chúng tôi sưu tầm được. Theo gia đình Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc cho biết, ông còn có hai kịch bản: Nói khoác (hài kịch một hồi) và Đại gia văn sĩ (hài kịch năm hồi), nhưng hiện chưa tìm thấy). Với 6 kịch bản trên, ở phương diện loại hình xung đột, có thể chia làm 2 loại : hài kịch có 4 vở (Chàng Ngốc, Ông Tây An Nam, Thuốc tê Ô Cấp, Tội ăn cắp), bi kịch có 2 vở (Tây Thi và Văn Chủng). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 2.2. Một số đặc điểm về nội dung tƣ tƣởng của kịch Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc. 2.2.1. Sự trân trọng giữ gìn các giá trị truyền thống của dân, thái độ phê phán quyết liệt đối với một bộ phận trí thức Tây học dị hợm, vong bản. Trong các khuynh hướng phát triển của văn học đầu thế kỷ XX, nổi lên khuynh hướng phê phán hiện thực xã hội. Ở lĩnh vực văn xuôi, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, truyện ngắn của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn là những tác phẩm đầu tiên khơi dòng khuynh hướng này. Khi kịch nói phát triển, khuynh hướng phê phán xã hội cũng từng bước hình thành và phát triển song hành với các khuynh hướng khác. Các nhà viết kịch đã đưa lên sân khấu những tình cảnh lam lũ, lụt lội, đói kém, lưu vong nơi đất khách quê người của người nông dân, cùng những cảnh xa hoa, phè phỡn của đám quan lại, thượng lưu, sự lố bịch của tấng lớp tư sản, thị dân mới, sự ngu dốt, khôi hài của những dân biểu bù nhìn ...trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Những vở kịch mở đầu cho khuynh hướng này là: Một nhà bị lụt, (không rõ tác giả), Nghị Ngốc của Trương Ái Chủng, Toà án âm phủ, Một người thừa, Bạn và vợ… của Nguyễn Hữu Kim, Chén thuốc độc của Vũ Đình Long, Tình hối của Nguyễn Từ Sơn, Toa toa, moa moa, Kẻ ăn mắm, người khát nước của Trung Tín, Chàng Ngốc và Ông Tây An Nam của Nam Xương… Với Chàng Ngốc, Ông Tây An Nam, và sau này là vở kịch vui Tội ăn cắp, Nam Xương đều chọn bối cảnh là các gia đình thành thị. Một điều đáng chú ý là các nhà viết kịch ở thời kỳ đầu của kịch nói Việt Nam (giai đoạn 1920 - 1930), phần lớn đều dựng kịch từ đề tài gia đình, bởi họ thấy được những biến động lớn của xã hội, những xung đột giữa các giá trị truyền thống và hiện đại đều tác động và phá vỡ các quan hệ giữa người với người ngay từ đơn vị nhỏ nhất của nó là gia đình. Thêm nữa, với người Việt, gia đình là một trọng ba thành tố của kết cấu Nhà – Làng - Nước làm nên một cộng đồng dân tộc bền vững trải qua hàng nghìn năm tồn tại; sự tác động lên nó, phá vỡ nó Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 tức là phá vỡ các quan hệ xã hội bền vững nhất, là nguyên nhân khiến cho xã hội bị khuynh đảo. Sự phá vỡ ấy diễn ra trước hết và tập trung ở khu vực đô thị, nơi chịu tác động mạnh mẽ nhất của quá trình biến đổi xã hội về mọi mặt. Với các vở kịch này, soi chiếu ở góc nhìn hiện thực, ta bắt gặp những tình cảnh, những nhân vật rất tiêu biểu làm nên một phần diện mạo của xã hội đương thời. Đó là một xã hội đa dạng về các hình thức sinh hoạt: sinh hoạt gia đình với những nề nếp gia phong chịu ảnh hưởng sâu sắc của lễ giáo phong kiến, xen lẫn với những kiểu sinh hoạt xã hội đang được hiện đại hoá theo xu hướng dân chủ (hội họp, tổ chức ca nhạc, bán vé làm từ thiện…); đa dạng về các loại hình nghề nghiệp, kéo theo sự đa dạng về thành phần nhân vật: tầng lớp thị dân (Sỉn ông, Sỉn bà, Cưu ông, Cưu bà), thanh niên, sinh viên (cô Cỏn, Tình sinh, Kim Ninh), trí thức cũ (cụ Huấn), trí thức mới (cử Lân, tham Tứ, Đại phong tiên sinh), cậu ấm ở nông thôn (Ngốc sinh), bà mối “kinh doanh hôn nhân” (bà Tư Sùng), người làm thuê (Khiếu, Bộc)…Sự đa dạng về các hình thức sinh hoạt và loại hình nghề nghiệp làm nên sự phức tạp của các mối quan hệ xã hội bộc lộ trong không gian gia đình. Trong Chàng Ngốc, đó là gia đình Sỉn ông, với một ông chủ keo kiệt bủn xỉn, tham tiền, muốn bằng mọi cách để thu lợi, bất chấp cả hạnh phúc và tương lai con cái; một bà chủ quê mùa c._.. Lát cắt ấy là một hành động trung tâm, có diễn biến gắn liền với sự vận động của nhân vật. Với ông, “lát cắt” ấy không chỉ là một phiến đoạn thông thường, mà có khả năng giúp người đọc hồi suy về quá khứ, đồng thời lại gợi mở các liên tưởng về tương lai. Trong truyện Bụi phồn hoa, tác giả lựa chọn không gian truyện là căn nhà sang trọng của Thanh Mai, thời điểm xảy ra sự việc là lúc cô đang chuẩn bị quần áo, trang sức lộng lẫy để chờ người chồng “giỏi giang” của mình về nhà đón để cùng đi dự tiệc. Ngay lúc ấy, một người bạn chồng xuất hiện, vô tình tiết lộ cho cô sự thật kinh hoàng về thủ đoạn làm giàu của người chồng. Trong khoảnh khắc ấy, Thanh Mai đã nhận ra sự thật ấy, đã thay đổi nhận thức và hành động. Đỉnh điểm của hành động là “nàng ngả dần tấm thân để tránh cái mặt đó, nhưng không sao tránh được, nàng ẩy nó ra, rồi bỗng như chớp nhoáng, hình như nàng không kìm hãm nổi tay, nàng tát cho nó một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 chiếc nên thân”. Kết thúc truyện là một hành động tất yếu: Thanh Mai bỏ đi, nhất quyết xa rời chốn phồn hoa bụi bặm; cho thấy cuộc đời nhân vật đã thay đổi. Không gian nghệ thuật của truyện cũng thay đổi chuyển từ căn phòng lộng lẫy với những đồ đạc sang trọng ra ngoài con đường gió bụi, nhưng như lời của nhân vật, “Bụi này tuy làm bẩn quần áo, nhưng không đáng sợ bằng bụi phồn hoa, làm bẩn cả tâm hồn”. Ở Ngôi đất công khanh, câu chuyện lại được bắt đầu từ một cuộc “ngả bàn đèn” của nhân vật phụ là cụ Ký trong “một căn buồng liền với phòng khách”, dùng để hút thuốc phiện. Nhân vật “tôi” - người kể chuyện thứ nhất đang trò chuyện với cụ Ký - người kể chuyện thứ hai - thì xuất hiện nhân vật chính, một ông già “chạc 60 tuổi, gầy đét, mắt ốc nhồi, môi sám s ịt, mặc bộ quần áo nâu rách, đội khăn lượt màu nước dưa sồng sộc bước nào, chắp tay vái cụ Ký tới gần đất”. Sau khi mắng nhiếc và ném gói sảm cho nhân vật này, rồi xua đi như xua tà, cụ Ký mới kể lại câu chuyện đáng ghê tởm mà nhân vật chính gây ra và chịu hậu quả. Dòng suy tưởng về quá khứ mở ra một không gian khác, thời gian khác, xen vào không gian thời gian hiện tại, làm cho câu chuyện đa chiều hơn. Kết thúc câu chuyện, là không gian thực tại với lời bình thể hiện thái độ của cụ Ký: “Một người vì lợi danh, đang tâm chôn sống mẹ, ai mà không tởm!” Ở một truyện ngắn khác là Giao lương sơn, tác giả chọn không gian là đỉnh núi Giao lương sơn, vào thời điểm nhân vật “tôi” - người kể chuyện thứ nhất - trên đường lên núi, thì suýt ngã xuống một cái rãnh lớn “sâu tới ba thước, nằm ngang đường đi, vắt từ sườn núi bên này, sang sườn núi bên kia”. Hỏi người thổ dân dẫn đường, thì anh ta trả lời rằng, “đây là vết dao của Cao Biền chém cổ rồng”. Và người thổ dân - trong vai người kể chuyện thứ hai - bắt đầu kể về một cuộc chiến bi hùng xảy ra trên đất này từ thời nhà Đường giữa người bản xứ và quân Tàu; kết cục của nó là việc Cao Biền dùng phép thuật làm đứt cổ rồng, cắt đứt long mạch khiến cho đối phương thua cuộc, vùng đất này cũng hết vượng khí. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 Phù hợp với thủ pháp “lát cắt hành động”, Nguyễn Cát Ngạc sử dụng kết cấu thời gian theo lối hiện tại - quá khứ - hiện tại trong xây dựng tác phẩm, mà trung tâm (nói cách khác là điểm xuất phát của tác phẩm) thường là một hành động nào đó trong hiện tại. Nghiên cứu các truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc, chúng tôi thấy ông khá chắc tay trong việc thiết lập quá trình hành động của nhân vật, đẩy quá trình ấy đến đỉnh điểm và ở đó, bước ngoặt của số phận nhân vật sẽ diễn ra như một điều tất yếu. Những truyện ngắn: Bụi phồn hoa, Một nhà cách mạng, Vô liêm sỉ, Một tấm lòng vàng, Nước Trivitri, Đánh ghen trong mồ, Hai lần ly biệt, Tình quê, Yêu nghệ thuật,… và nhiều truyện khác nữa đều sử dụng thủ pháp này. Phải chăng vì thế có thể nói rằng nghệ thuật kịch nói và những ảnh hưởng của luật “ba duy nhất” làm cho truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc hấp dẫn người đọc về sự kiện, về logich của hành động hơn là diễn biến của chiều sâu tâm lý nhân vật? 3.3.3. Nghệ thuật “hư cấu lịch sử” để thẩm mỹ hoá hình tượng nhân vật lịch sử. Phải khẳng định một đóng góp đáng kể của Nguyễn Cát Ngạc với văn chương nước nhà là: ông là một trong số không nhiều nhà văn đương thời đưa đề tài lịch sử vào văn chương, sử dụng nghệ thuật “hư cấu lịch sử” để thẩm mỹ hoá hình tượng nhân vật lịch sử. Trong các truyện ngắn Trên chòi Khâm Thiên, Huyền Trân công chúa, Nguyễn Thị Lộ,Lưu Bình - Dương Lễ... các nhân vật lịch sử như Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Huyền Trân, Trần Khắc Chung, Nguyễn Thị Lộ, Châu Long, Lưu Bình, Dương Lễ... hiện lên với diện mạo, diễn biến tâm lý, tính cách rõ rệt, tạo được cảm xúc thẩm mỹ trong người đọc. Với Lê Lợi (Trên chòi Khâm Thiên), ban đầu, Nguyễn Cát Ngạc “dụ” người đọc vào một chân dung phàm tục qua cái nhìn của Trần Nguyên Hãn: “một người chừng ba mươi tuổi, béo phục phịch, quần nâu lá toạ, để hở rốn sâu hoắm, đang ngồi thái một khúc giò. Khi thái, thỉnh thoảng lại bốc một khoanh, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 đút phồng mồm và nhai nhồm nhoàm rất là thô tục”. Hình ảnh này đã làm Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Trãi thất vọng sâu sắc, định bỏ về. Nhưng rồi sau đó Nguyễn Trãi bắt gặp một Lê Lợi hoàn toàn khác: “Giữa chòi, một người ngồi ngoảnh lưng về phía ông, bận áo dài đen, quấn khăn lượt, đang xem thiên văn một cách im lặng chăm chú… Nét mặt thô tục biến đi đâu hết. Dáng dấp lợn ỷ tự nhiên đổi thành đường bệ uy nghi. Lê Lợi đang như nghĩ ngợi thâm trầm, miệng lẩm bẩm, tay bấm đốt có vẻ một triết nhân quân tử, khác hẳn với ông ngồi thái giò lúc hoàng hôn. Rồi Lê Lợi ngồi xuống chiếu trước yên, sau khi thắp ba nén nhang trên bệ. Bấy giờ Nguyễn Trãi mới hiểu: Lê Lợi sắp tính Thái Ất, là một môn mà Nguyễn Trãi rất tinh thông”. Hai hình ảnh về Lê Lợi làm nên hai trạng thái tâm lý của nhân vật, cũng là của người đọc.Và hình ảnh thứ hai xoá đi hình ảnh ban đầu, chỉ còn lại một nhân vật uy nhi, đường bệ, giỏi giang, xứng đáng là minh chủ của một cuộc chiêu binh vì nghĩa lớn. Đó là một thành công đáng ghi nhận của nhà văn. Trong truyện ngắn Nguyễn Thị Lộ, bà Nguyễn Thị Lộ hiện lên thật đẹp, từ nhan sắc đến tâm hồn, khí phách. Dường như với mục đích chiêu tuyết cho một người mà hơn sáu trăm năm nay chưa rửa được mối oan khuất, nhà văn đã dùng hết khả năng miêu tả nhan sắc phụ nữ vốn không phải là sở trường của mình để tả Nguyễn Thị Lộ trong cuộc gặp kỳ ngộ với Nguyễn Trãi ở Tây Hồ: “…dáng điệu mềm mại uyển chuyển, và hai bàn tay xinh xinh trắng buốt đang đặ chiếc đòn gánh trên bó chiếu và đang cầm vành nón để sắp quạt… khuôn mặt thanh tao lạ lùng,da trắng nõn, càng thêm trắng bởi đôi mắt bồ câu đen láy… Đôi môi không son mà thắm như san hô, hé ra một cách ý nhị, làm tươi gương mặt trái xoan kiềm diễm đang đỏ bừng dưới ánh quái của chiều hôm”. Một vẻ đẹp thuần hậu, thánh thiện. Lối đặc tả của nhà văn cho thấy sự trân trọng yêu quí của ông dành cho nhân vật của mình. Người thiếp xinh đẹp và tài hoa đã vâng lời chồng, lên kinh đô làm Lễ nghi học sĩ. Vừa giúp vua trị nước, vừa cứu được Thứ phi Ngô Thị Ngọc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 Giao, mà vẫn một lòng son sắt với Nguyễn Trãi ở quê nhà. Cho đến khi đối mặt với cái chết bi thảm, nàng vẫn sẵn sàng hy sinh phẩm tiết của mình cho viên thẩm sát với một điều kiện duy nhất là y tha cho Nguyễn Trãi. Tấm lòng trung trinh của Nguyễn Thị Lộ cùng với nhan sắc và tài năng của bà làm nên một vẻ đẹp hoàn thiện, và đó là chân dung nhân vật phụ nữ đẹp nhất trong truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc. Hai nhân vật lịch sử khác cũng được ông xây dựng với sự quý trọng, đó là công chúa Huyền Trân và thái tử - sau này là vua Chiêm - Chế Mân. Huyền Trân là hình ảnh đẹp đẽ của một công chúa Đại Việt xinh đẹp, đức hạnh, tài hoa, biết yêu thương nhưng cũng biết hi sinh vì danh dự dân tộc và quyền lợi của đất nước. Còn Chế Mân, tuy không xuất hiện nhiều trong truyện Huyền Trân công chúa, nhưng Chế Mân để lại ấn tượng tốt đẹp cho người đọc về hình ảnh một vị vua dũng cảm, tài giỏi, hào hoa phong nhã, trọng chữ tín… Còn nhiều nhân vật khác nữa, được Nguyễn Cát Ngạc chăm chút, phục dựng lại chân dung, làm nổi bật vai trò trong lịch sử. Với một người thông thạo lịch sử như ông, việc xác định vị trí lịch sử của các nguyên mẫu không khó khăn lắm. Và đối với ông, vấn đề là ở chỗ từ những tư liệu lịch sử, từ những truyền thuyết từng tồn tại lâu dài trong dân gian, từ ấn tượng về nhân vật đã hình thành khá ổn định trong lịch sử… thì nhà văn phải khắc họa như thế nào. “Thẩm mỹ hóa” các nhân vật lịch sử ấy, một mặt là cách thức giúp Nguyễn Cát Ngạc tô điểm để “đẹp hóa” nhân vật, một mặt làm cho nhân vật đáng yêu hơn dưới con mắt của người đọc, và dễ đem lại rung cảm thẩm mỹ lành mạnh. Quá trình từ nguyên mẫu tới nhân vật văn học có tướng mạo, tính cách, tư duy, hành động… là một quá trình khá phức tạp. Và cũng không dễ dàng khi nhân vật đó lại đem tới xúc cảm thẩm mỹ cho độc giả. Với truyện dã sử của mình, Nguyễn Cát Ngạc đã làm được điều đó. Đó cũng là điều thú vị mà truyện ngắn hiện thực của ông ít “tới” được. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 3.3.4. Nghệ thuật hư cấu tình huống, tạo tiền đề hài hước hoá nhân vật từ góc nhìn châm biếm, giễu nhại Đây cũng là một nét độc đáo của truyện ngắn Nguyễn Cát Ngạc. Tiếp nối bút pháp châm biếm giễu nhại từ hai vở kịch nối tiếng Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc, các truyện ngắn như Nước Trivitri, Một nhà cách mạng, Vẽ mặt văn khôi, Đánh ghen trong mồ, Hội đồng vĩ nhân... thể hiện sự tinh tế, khả năng hài hước trong tạo dựng tình huống, miêu tả ngoại hình và hành vi nhân vật. Như đoạn miêu tả dưới đây về “một nhà cách mạng”: “Ông Văn Giang chừng năm mươi tuổi, béo phục phịch, da ngăm ngăm, trán thấp, mắt híp, lông mày rậm, một tý ria in bóng xuống bộ môi dày. Trời oi bức. Ông sai mở quạt trần vù vù, cởi áo tây tôbican vắt ghế, vén sơmi đến khuỷu tay để lộ hai cánh tay đen sì và to như bắp chuối, giơ bàn tay chổi cùn vuốt mái tóc rễ tre hoặc vẩy mồ hôi đang rỏ giọt quanh cái cổ bạnh to ngang mặt… Văn Giang vẫy một cái. Một tên bồi, quần áo trắng bốp, bưng một cái khay đặt trên bàn. Trên khay, một cốc càphê sữa, một chiếc bánh tây to, một đĩa bơ, một miếng phomát khổng lồ và mấy quả chuối. Sau khi xin phép bạn già, Văn Giang bắt đầu ăn lót dạ. Chỉ năm phút, Văn Giang nhồm nhoàm ăn hết bánh, uống hết càphê và bắt đầu ăn phomát với chuối" (Một nhà cách mạng). Một nhà “cách mạng” hiện lên như một kẻ phàm phu tục tử, từ ngoại hình đến cử chỉ hành vi, một kẻ lấy hưởng thụ làm đầu, nhưng lại lên giọng dạy dỗ người khác về cách mạng! Cách gọi trân trọng “một nhà cách mạng” và lối miêu tả chi tiết về nhân vật để độc giả thấy rõ bản chất của y là cách mạng giả hiệu tạo ra sự tương phản làm tăng thêm tính châm biếm giễu nhại của hình tượng nhân vật. Ở truyện ngắn Nước Trivitri, nhà văn hư cấu những câu chuyện xung quanh chế độ kiểm duyệt ở một nước có tên là Trivitri. Toà kiểm duyệt ở nước này do Bút Văn Soá làm giám đốc. Ông giám đốc dốt nát nhưng cậy quyền thế, hành hạ các báo, gây ra những tình huống dở khóc dở cười: “Báo nào chả có mục tiểu thuyết. Trước khi cho in, ông cho một đội đặc vụ của ông đi điều tra xem truyện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 trong tiểu thuyết đó là thực hay hư. Đã gọi là tiểu thuyết thì thực làm sao được? Bởi thế, mục tiểu thuyết của hết thảy các báo đều bị xoá sổ”. Các báo bị kiểm duyệt nhiều quá, đấu tranh bằng nhiều cách không được, rủ nhau sang nước láng giềng Chung Nhạc Lạc viết báo bằng tiếng Tri vi tri công kích Bút Văn Soá và Thủ tướng. Hai nước mâu thuẫn nhau, dẫn đến hai phe báo chí trên thế giới mâu thuẫn với nhau rồi gây chiến, làm xảy ra… đại chiến thế giới! Rốt cuộc, nguyên nhân “chỉ vì sự khắc nghiệt thái quá của Toà kiểm duyệt nước Trivitri”. Thông qua câu chuyện hư cấu ấy, ông “chiếu” cái nhìn châm biếm sắc sảo vào chế độ kiểm duyệt đương thời. Cũng như vậy, truyện ngắn Nước Tự do tiếp tục “công phá” chế độ kiểm duyệt. Nhà văn dựng lên một nước tên là nước Tự do, “ở dưới gầm trời Đông Nam Á, xuất hiện sau hiệp ước Genève”. Đại sứ của nước này thường khoe với thế giới rằng “nước họ có một chế độ tự do hoàn toàn”, khiến dân tứ xứ tìm đến. Và họ thấy quả là ở nước này được tự do hoàn toàn khi đánh bạc, hành lạc, bắt cóc… Khi biết đọc báo bằng tiếng Tự do, họ phát hiện ra rằng có những chân dung người chỉ có một bên râu mép, có nhiều bài báo chỉ có một nửa. Hỏi ra, mới biết nước này còn có “một quyền tự do thiêng liêng nữa, đó là tự do… kiểm duyệt!”. Trong một truyện ngắn khác tên là Đánh ghen trong mồ, nhà văn cũng dựng lên một cảnh hài hước, nhằm chế giễu những ông chồng đa thê, những bà vợ hay ghen. Gia đình nhà giàu nọ có một ông hai bà, tiến hành xây lăng sẵn cho ba ông bà, phòng khi về bên kia thế giới. Mặc cho bà hai van xin, bà cả nhất định không cho vẽ chân dung bà hai với nhiều đồ trang sức, không cho vẽ tranh Phật ở lăng bà hai, mà chỉ cho vẽ hai cánh cửa đóng kín, để sau này linh hồn bà hai bị… cầm tù trong mồ! Những tình huống hài hước, giễu nhại được tạo dựng một cách hợp lý, với nhiều chi tiết sắc sảo, tinh tế, làm phong phú thêm hệ thống phương tiện thẩm mỹ trong các truyện ngắn, nhất là truyện thế sự của nhà văn, và thể hiện cái nhìn giễu cợt, thái độ bất bình của ông với xã hội, thời cuộc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 3.3.5. Nghệ thuật sử dụng bút pháp hiện thực kết hợp với bút pháp kỳ ảo. Một nét đáng lưu tâm về nghệ thuật nữa là, trong những truyện Nguyễn Cát Ngạc gọi là “kiến văn chí dị” như: Giống Waltrabar, Ma Hàng Giầy, Cái chết của ông lang Doanh, Ma Hàng Cỏ, Cây đèn Khổng Minh, ông đã sử dụng bút pháp hiện thực kết hợp với bút pháp kỳ ảo. Đó cũng là nét lạ ở văn ông, mà nếu chỉ đọc các tác phẩm khác người ta sẽ dễ coi đó không phải “tạng” của ông. Có lẽ, nó xuất phát từ quan niệm văn chương như ông từng viết: “Truyện giải trí cốt làm cho độc giả vui, chỉ có vui thôi, không cần bổ ích cho trí tuệ, không lo bổ dưỡng cho đạo đức chi hết” (Truyện giải trí). Những truyện ngắn, kể lại những câu chuyện về ma, về cái chết kỳ dị của một ông lang, những hình ảnh hư hư thực thực được kể bằng giọng điệu khá nghiêm túc, tạo nên vẻ hấp dẫn và độ tin cậy nhất định cho người đọc. Truyện Ma Hàng Cỏ viết về một căn buồng có ma ở một hàng cơm ở gần ga Hàng Cỏ. Ai vào đó ngủ đêm cũng bị lật giường lật chiếu. Người chủ nhà treo giải: nếu ai vào đó ngủ một đêm sẽ được 100 đồng. Có hai anh nghiện rủ nhau vào. Nửa đêm có người đàn bà ma hiện về quấy nhiễu, khiến hai anh chết ngất. Truyện Ma Hàng Giầy, người kể chuyện đứng ở ngôi thứ nhất để trần thuật về việc đêm ngủ ở nhà mình trên phố Hàng Giầy, người nhà luôn nghe tiếng bước chân đi lại, đèn điện thì mỗi chốc lại tắt rồi lại bật, sợ quá phải ra hè phố ngủ. Bèn lập đàn tràng cúng cháo cho ma, cúng xong thì lấy roi quất tứ tung trong nhà, vừa quất vừa đuổi. Từ đó không thấy tiếng guốc lọc cọc hay đèn tự tắt tự bật nữa. Truyện Cái chết của ông lang Doanh lại ly kỳ hơn. Ông lang Doanh - còn gọi là đồ Doanh - bị ốm nặng, nhân vật “tôi” đến thăm, được người nhà cho biết là ông bị ma làm, chưa chết được. “Tôi” liền ở lại qua đêm bên người bệnh. Đêm đến, thấy ma là một con chó trắng lớn đến bắt mạch cho bệnh nhân. Bèn thuật lại cho gia đình bệnh nhân biết. Ba hôm sau ông lang chết, hỏi ra thì vì gia đình đã giết con chó trắng để ông được siêu thoát. Truyện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 khép lại bằng những câu hỏi: “Linh hồn nào đã nhập vào con chó, khiến nó biết đi, biết đội nón, cầm gạy, biết chẩn mạch? Tại sao nó lại cầm bệnh ông Đồ? Vì oán cừu hay vì muốn giữ ông Đồ sống nữa?” Truyện Cây đèn Khổng Minh khai thác chủ đề là tài năng tiên tri của nhà quân sư tài ba Khổng Minh. Cây đèn do Khổng Minh làm ra sau 7 lần bắt rồi tha Mạnh Hoạch, hàng trăm năm vẫn cháy sáng trên một sườn đồi, bỗng một hôm bị tắt. Dân chúng rất lo lắng vì đèn tắt báo trước điềm xấu. Họ đào được một bia đá khắc 4 câu thơ “Tứ hải nội/ Hữu quần anh/Lộc thì đáo/ Đăng tái minh”. Một hôm có người khách du lịch tên là Lokes đi qua, thấy thế xin chữa hộ. Ông ta chữa được cho cây đèn sáng trở lại. Mọi người mới hiểu ra lời tiên tri của Khổng Minh đã ứng. Điều thú vị là nguyên nhân cháy sáng hàng trăm năm của cây đèn thì nhà văn giải thích ngay được bằng khoa học, còn việc đèn tắt, rồi một người tên Lộc đến làm nó sáng trở lại, thì nhà văn để cho đọc giả tự ngẫm và thấy thích thú. So với những truyện kinh dị của Thế Lữ, truyện ma của TCHYA (Đái Đức Tuấn) thì truyện của Nguyễn Cát Ngạc còn đơn giản cả về kết cấu và dung lượng (mỗi truyện chỉ dưới 1500 từ), bản thân ông cũng thừa nhận viết truyện giải trí không phải là sở trường của mình, nhưng trong sự nghiệp văn học của riêng ông, thì mảng “chí dị” cũng góp phần làm nên sự phong phú về nội dung và nghệ thuật thể hiện. Những nghiên cứu về truyện ngắn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc được trình bày trên đây trong điều kiện những tác phẩm của ông ít được giới nghiên cứu và công chúng biết đến, việc khảo cứu tác phẩm của ông đến nay còn nhiều khó khăn, nên chắc chắn là chưa đầy đủ. Có thể thấy rằng, so với hai vở kịch ông đã đóng góp cho nền văn học và sân khấu nước nhà thì sự đóng góp về truyện ngắn của ông vẫn còn khiêm tốn. Nhưng chúng ta cũng thấy được một số nỗ lực cần ghi nhận của Nam Xương – Nguyễn Cát Ngạc ở thể loại truyện ngắn: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 Một là, về mặt nội dung tư tưởng, các truyện ngắn Nguyễn Cát Ngạc đã đạt được giá trị cao trong việc thể hiện thành công tư tưởng yêu nước, niềm tự hào với truyền thống đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Cùng với đó, là tình yêu quê hương xứ sở, sự cổ vũ cho những giá trị truyền thống và tấm lòng nhân ái giữa người với người; là thái độ phê phán quyết liệt với cái xấu, cái Ác trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là những biểu hiện sâu sắc của tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc trong văn chương Nguyễn Cát Ngạc nói chung, truyện ngắn của ông nói riêng. Hai là, về mặt nghệ thuật, Nam Xương đã đạt được những thành công nhất định trong các thủ pháp nghệ thuật như: nghệ thuật kết cấu truyện theo kiểu truyền thống và xây dựng nhân vật theo lối “tỏ chí”, nghệ thuật “hư cấu lịch sử” để thẩm mỹ hoá hình tượng nhân vật lịch sử‟, nghệ thuật hư cấu tình huống, tạo tiền đề hài hước hoá nhân vật từ góc nhìn châm biếm, giễu nhại khi phơi bày các tình huống lố lăng của xã hội,… Tuy nhiên, về mặt thi pháp truyện ngắn, so với nhiều nhà văn xuất sắc cùng thời như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, Thạch Lam,… thì Nguyễn Cát Ngạc chậm thay đổi, còn chịu ảnh hưởng của lối viết cũ. Mặc dù vậy, như chúng tôi lý giải, Nam Xương là một nhà văn không chuyên nghiệp, lại hướng tới công chúng bình dân. Chủ trương dùng văn học để “tải đạo”, nên truyện ngắn của ông nói riêng, văn chương của ông nói chung thường giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với việc đăng báo để từ đó đến được với đông đảo công chúng rộng rãi. Việc hướng tới người đọc rộng rãi chịu ảnh hưởng trực tiếp của tư tưởng văn học mác xít “nghệ thuật vị nhân sinh”, nằm trong hệ tư tưởng cách mạng mà ông theo đuổi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 KẾT LUẬN Bước đầu nghiên cứu sự nghiệp văn học của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, chúng tôi rút ra được những vấn đề sau: 1. Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã có nhiều cống hiến cho nền văn chương nước nhà thế kỷ XX. Với tư cách và tài năng của một nhà văn chiến sĩ, ông đã góp vào nền văn học Việt Nam hiện đại những tác phẩm, mang đậm tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, tấm lòng nhân ái giữa người với người cùng thái độ không khoan nhượng với những gì đi ngược lại các giá trị tốt đẹp của dân tộc. Đó cũng là tư tưởng nền tảng, quán triệt và chi phối cái nhìn nghệ thuật của ông, gắn liền với sự nghiệp cách mạng mà ông theo đuổi đến hơi thở cuối cùng. Những nội dung ấy là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu nước và tinh thần dân tộc trong văn chương Nam Xương -Nguyễn Cát Ngạc. Qua đó, chúng ta hiểu hơn về tài năng và nhân cách của nhà văn - chiến sĩ, về động lực khiến ông tham gia và cống hiến cuộc đời mình cho cách mạng và dân tộc. 2. Văn chương Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã bước đầu đạt được những thành công về nghệ thuật. Nổi trội nhất là về kịch bản văn học, trong đó việc vận dụng sáng tạo phương pháp sáng tác cổ điển và luật “ba duy nhất” của Châu Âu cùng những thủ pháp nghệ thuật xây dựng tình huống hài hước, nghệ thuật khai thác và biểu hiện diễn biến tâm lý của nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình mà nhân vật “Ông Tây An Nam” là những đặc điểm nổi bật. Về nghệ thuật truyện ngắn, tuy về mặt thi pháp chủ yếu là ảnh hưởng thi pháp cổ điển, nhưng các thủ pháp nghệ thuật cụ thể, như nghệ thuật kết cấu truyện theo kiểu truyền thống và xây dựng nhân vật theo lối “tỏ chí”, nghệ thuật “hư cấu lịch sử” để thẩm mỹ hoá hình tượng nhân vật lịch sử‟…cũng góp phần tạo ra những thành công trong việc biểu đạt một cách sinh động những giá trị tư tưởng của tác phẩm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 3. Nhìn lại sự phát triển của kịch nói Việt Nam từ giai đoạn bắt đầu được du nhập và sau đó là từng bước phát triển (đầu thế kỷ hai mươi đến năm những năm ba mươi), có thể thấy rất rõ các cống hiến của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc trên phương diện văn hóa. Bởi trên cơ sở của sự tiếp biến văn hóa một cách chủ động, ông đã cùng với thế hệ các tác giả kịch bản đầu tiên tiếp thu tinh hoa văn hoá phương Tây và gạn lọc những yếu tố phù hợp của sân khấu truyền thống Việt Nam. Từ đó có thể khẳng định rằng, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc là người thuộc thế hệ đầu tiên đưa kịch nói đến với sân khấu Việt Nam trong tư cách là một thể loại mới, chưa từng có trong lịch sử và từ đó, sân khấu Việt Nam hiện đại trở thành một hệ thống hoàn chỉnh như hôm nay chúng ta thường nói, bao gồm: kịch nói, kịch hát với tuồng, chèo, cải lương (có thể kể thêm thể loại kịch thơ?). Tuy không phải là người đầu tiên có kịch bản được dàn dựng trên sân khấu, nhưng nhắc đến thế hệ đầu tiên đóng vai trò mở đường để lập ra nền kịch nói Việt Nam, thì cùng với những cái Vũ Đình Long, Nguyễn Hữu Kim, Vi Huyền Đắc… người ta không thể không nhắc đến Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc một cách trân trọng vì những sáng tạo thành công của ông ngay khi vừa xuất hiện. Đương thời, sau khi vở kịch đầu tiên của ông - Chàng Ngốc - được công bố đã gây tiếng vang trong đời sống xã hội. Và khi Ông Tây An Nam xuất hiện, thì tên tuổi Nam Xương đã được khẳng định và phải nói rằng tên tuổi đó còn ở lại với lịch sử kịch nói Việt Nam, bởi tính “độc sáng” của hình tượng nhân vật và giá trị nhân văn của tác phẩm. Vở kịch trở thành một dấu ấn quan trọng, là lời cảnh báo, đồng thời phản ánh một phương diện của quá trình tiếp nhận - biến đổi các giá trị văn hóa - nghệ thuật trong giao lưu với văn hóa - văn minh thế giới đã vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của quan hệ khu vực. Từ góc độ văn hóa để xem xét, còn phải khẳng định rằng: với kịch bản Ông Tây An Nam, tác giả Nam Xương là người đã sớm đưa ra lời cảnh báo về sự hoành hành của thói “vong bản”, về khả năng mai một của một số giá trị Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 thuộc về bản sắc và truyền thống văn hóa nếu không được điều chỉnh kịp thời vào thời điểm giao lưu quốc tế đã rộng mở. Điều này càng cho thấy tầm nhìn của ông về thời đại, về những biến chuyển văn hóa - văn minh mới đã và đang diễn ra ở Việt Nam trong hơn một thế kỷ qua; nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà công cuộc đổi mới đất nước đang diễn ra. Quá trình “mở cửa” giao lưu kinh tế, giao lưu văn hóa với thế giới ngày càng rộng mở và sự xâm nhập của các nền văn hoá khác nhau - trong đó một lần nữa lại là sự xâm nhập mạnh mẽ của văn hoá – văn minh phương Tây – làm đảo lộn một số quan niệm và hành vi xã hội - văn hóa của con người; bên cạnh những tác động tích cực, đã và đang có những tác động tiêu cực làm băng hoại nền văn hoá - đạo lý dân tộc. Ngược chiều thời gian để đánh giá sự nghiệp sáng tác kịch bản của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, chúng ta càng thấy tác phẩm của ông - đặc biệt là Ông Tây An Nam - đã có ý nghĩa to lớn không chỉ về phương diện nghệ thuật mà còn cả về văn hóa - xã hội - con người. 4. Ở góc độ văn học sử, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đảm nhận vai trò của một trong những người tiếp nối cho văn học hiện đại trong vùng tạm chiếm. Theo những nghiên cứu của chúng tôi, bộ phận văn học Việt Nam phát triển trong vùng tạm chiếm (1945 – 1954), và văn chương ở miền Nam giai đoạn 1955 – 1960 còn lại đến nay là không nhiều và cũng chưa được nhiều người chú ý nghiên cứu. Trong hoàn cảnh vừa hoạt động bí mật vừa sáng tác văn học, thì những cố gắng của người chiến sĩ - nghệ sĩ Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc là rất đáng trân trọng. Và cũng phải nói thêm rằng, tuy cùng mang danh nghĩa là “trí thức di cư” vào miền Nam để hoạt động bí mật, nhưng nếu các tác phẩm của Vũ Bằng như Thương nhớ mười hai, Miếng ngon Hà Nội luôn là nỗi hoài nhớ xứ Bắc “ngàn năm văn vật” thì tác phẩm của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc lại tiếp tục cái lối đi mà ông đã chọn từ giai đoạn trước, đó là sử dụng chủ nghĩa hiện thực để tố cáo bản chất xấu xa của xã hội đương thời, đồng thời tố cáo và vạch mặt cái xấu, cái ác của xã hội, giúp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107 người đọc căm ghét nó mà có hành động phản kháng. Đó cũng chính là một biểu hiện của tâm thế tinh thần mà Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã có được từ ngày ông tự giác lựa chọn cho mình con đường đi theo lý tưởng cách mạng. Vì vậy, chúng tôi hy vọng việc nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương sẽ góp phần bổ sung vào bộ phận văn học vùng tạm chiếm (1945 – 1954) và văn chương miền Nam 1955 – 1960. Chúng tôi mong muốn sẽ có một sự nghiên cứu đầy đủ hơn về tất cả các tác phẩm thuộc các thể loại mà Nam Xương đã sáng tác để có thể phục dựng một chân dung văn học của một nhà văn - chiến sĩ đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng và nền văn học nước nhà./. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1999. 2. Vũ Bằng, Truyện ngắn chọn lọc, NXB Văn hoá thông tin, H., 2005. 3. Nam Cao, Tuyển tập Nam Cao tập 1, NXB Văn học, H., 1997 4. Nam Cao, Tuyển tập Nam Cao tập 2, NXB Văn học, H., 1997 5. Nguyễn Huệ Chi - Trần Hữu Tá, Từ điển văn học (Bộ mới), NXB Thế giới, H.2005 6. Phan Cự Đệ (chủ biên) Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục, H.,2004. 7. Vi Huyền Đắc, Cô đầu Yến, NXB Thái Dương Văn Khố, 1930. 8. Vi Huyền Đắc, Nghệ sĩ hồn, NXB Thái Dương Văn khố, 1930. 9 Vi Huyền Đắc, Giê – su, đấng cứu thế, NXB Đại La, 1945. 10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, H., 2007. 11. Hoàng Ngọc Hiến, Tập bài giảng nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, 1997. 12. Đỗ Đức Hiểu (Chủ biên), Từ điển văn học, tập 2, NXB Khoa học Xã hội, H.,1984. 13. Phan Kế Hoành - Huỳnh Lý, Bước đầu tìm hiểu Lịch sử kịch nói Việt Nam trước cách mạng tháng Tám - NXB Văn hoá, H.,1978 14. Nguyễn Hòa, Về tác giả vở kịch nói Ông Tây An Nam, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7 - 2001. 15. Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng, Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 – 1930, NXB Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, H., 1988. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109 16. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 23, NXB Khoa học xã hội, H.,1997. 17. Phương Lựu (chủ biên), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, H., 1997. 18. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn – tư tưởng – phong cách, NXB Văn học, H., 1983. 19. Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn , NXB Giáo dục, H., 2002. 20. Nguyễn Cát Ngạc, Bụi phồn hoa, NXB Quê hương, H.,1950. 21. Nguyễn Cát Ngạc, Bách Việt, NXB Quê hương, H., 1950. 22. Nhiều tác giả, Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, NXB Sân khấu, H., 1997. 23.Nhiều tác giả, Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, NXB Sân khấu, H.,1997 24. Nhiều tác giả, Kịch Việt Nam chọn lọc, NXB Sân khấu, H., 2000. 25. Trần Đình Sử, Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Vụ Giáo viên, H., 1993. 26. Trần Thị Việt Trung, Lịch sử phê bình văn học Việt Nam (giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945), NXB Đại học quốc gia Hà Nội, H., 2004. 27. Nguyễn Trúc Thanh, Sử ký Việt Nam, NXB Liên hiệp, Sài Gòn, 1956. 28. Nam Xương, Chàng Ngốc, NXB Nam Định - Trường Phát,1930. 29. Nam Xương, Ông Tây An Nam, NXB Hà Nội - Nam Kỳ, 1931 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110 MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ NHÀ VĂN NAM XƢƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC Nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (1905 – 1958 ) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111 Ông bà Nguyễn Cát Ngạc cùng các con Ông bà Nguyễn Cát Ngạc – Võ Thiện Ngôn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112 Gia đình nhà văn Nam Xương trên chiến khu Việt Bắc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 113 Lễ truy điệu nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc tại Hà Nội, năm 1976 Ông Nguyễn Hải Thoại – con cả nhà văn Nam Xương (đứng giữa), cùng nhạc sĩ Văn Cao (bên trái), nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh (bên phải), tại Lễ truy điệu nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114 Gia đình nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc tại Lễ truy điệu ông . Bức thư cuối cùng của Nam Xương gửi con trai Nguyễn Mạnh Đàm. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9002.pdf
Tài liệu liên quan