Đặt vấn đề
Thành phố Hà Nội là thủ đô, là trung tâm kinh tế chính trị văn hoá của cả nước, là một trong ba đỉnh tam giác kinh tế quan trọng của Bắc Bộ: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, diện tích thành phố là 921 km2, với dân số trên 2700 nghìn người. Hiện nay, vấn đề cấp bách của Thủ đô là hiện tượng ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nước thải. Hệ thống thoát nước Hà Nội là hệ thống cống chung với tổng chiều dài 170km trên 220km đường. Như vậy có tới hơn 50km đường không có hệ thống thoát n
37 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1471 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Bước đầu nghiên cứu những lợi ích của việc cải tạo hệ thống môi trường sông Tô Lịch và xác định mức phí huy động trong dân.., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước. Hơn nữa, do hệ thống thoát nước nhiều nơi đã quá cũ nên về mùa mưa hiện tượng ngập úng thường xuyên xảy ra , gây nên những vấn đề nghiêm trọng không chỉ với tài sản mà còn ảnh hưởng tới sức khỏe của nhân dân, là điều kiện thuận lợi cho các ổ bệnh truyền nhiễm nguy hiểm phát sinh. Do Hà Nội chưa có trạm xử lý nước thải, nếu có thì cũng hoạt động chưa hiệu quả, nên nước thải của các nhà máy, bệnh viện, xí nghiệp đổ trực tiếp vào hệ thống cống chung và hệ thống sông hồ. Như vậy, hệ thống thoát nước Hà Nội vừa thiếu lại vừa không đồng bộ. Đây chính là vấn đề môi trường lớn nhất gây nguy hiểm cho sức khỏe cho người dân.
Sông Tô Lịch với chiều dài 14,4km, là 1 trong 4 con sông thoát nước chính ở Hà Nội , là sông chính tiếp nhận nước thải sinh hoạt, công nghiệp, bệnh viện trong địa bàn Thủ đô. Nhưng hiện nay con sông này đang bị ô nhiễm nặng. Sự quá tải rác thải là nguyên nhân chính gây ra ngăn cản dòng chảy, làm lòng sông bị thu hẹp đáng kể, sinh thái dưới nước nghèo đi, số lượng và chất lượng các loài thuỷ sinh vật giảm rõ rệt. Do đó, việc đánh giá thực trạng ô nhiễm sông Tô Lịch do các hoạt động công nghiệp, sinh hoạt gây ra đã trở thành vấn đề cấp bách, đặc biệt khi Hà Nội đang phát triển thành một thủ đô văn minh, hiện đạị. Nguồn nước sông Tô Lịch bị ô nhiễm trầm trọng dẫn đến tình trạng ảnh hưởng tới đời sống của dân cư hai bên bờ. Cải thiện được vấn đề này cần có nguồn vốn rất lớn. Nếu nguồn vốn đó được đầu tư từ chính phủ là chủ yếu thì sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hiệu quả trong quá trình quản lí và sử dụng do sự xuất hiện của một số người ăn theo, chủ yếu là bộ phận dân cư ở hai bên bờ. Vì vậy, sự kết hợp giữa vốn của Nhà nước và nguồn vốn huy động từ dân để cải tạo sông Tô Lịch là phương án có tính khả thi và bền vững.
Những thực tiễn được trình bày ở trên đã thôi thúc chúng tôi chọn đề tài: “Bước đầu nghiên cứu những lợi ích của việc cải tạo hệ thhống môi trường sông Tô Lịch và xác định mức phí huy động trong dân cho việc cải tạo đó”.
Mục tiêu nghiên cứu
Phương pháp Đánh giá ngẫu nhiên CVM là một phương pháp còn rất mới mẻ nên việc tiếp cận và sử dụng phương pháp này trong các dự án chưa nhiều. Một trong những mục tiêu chính của đề tài của chúng tôi khi lựa chọn đề tài này là muốn vận dụng những lý thuyết đã được học vào thực tế nhằm tăng khả năng nắm bắt một phương pháp hiệu quả, đưa ra một mô hình về mặt lý thuyết của phương pháp này ở một khía cạnh khác.
Mục tiêu thực tế của đề tài cải tạo sông Tô Lịch là mang lại lợi ích trực tiếp cho những người dân sống hai bên bờ sông nói riêng và thành phố Hà Nội nói chung.Bên cạnh đó đề tài cũng nhằm một mục đích xa hơn là mang lại một nguồn thu đáng kể cho Nhà nước đóng góp vào công cuộc hiện đại hoá, công nghiệp hoá của đất nước.
Phạm vi nghiên cứu
Sự ô nhiễm của sông Tô Lịch có ảnh hưởng rất lớn đến sinh đời sống và sản xuất của toàn thành phố Hà Nội, đặc biệt là các khu dân cư sống sát hai bên bờ sông.Đề tài nghiên cứu của nhóm chúng tôi chỉ đề cập đến việc thu phí của những khu dân cư này để cải tạo môi trường sông Tô Lịch mang lại lợi ích thiết thực cho họ. Lý do khiến chúng tôi chọn phạm vi này bởi những hộ gia đình sống sát hai bên sông là những người chịu tác động trực tiếp của ô nhiễm môi trường đồng thời họ cũng là những người đầu tiên được hưởng lợi khi môi trường được cải tạo.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên CVM theo phương cách phỏng vấn và phát phiếu điều tra các gia đình tại địa điểm môi trường cần nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích chi phí lợi ích mở rộng.
Chương I: Phương pháp luận
1. Khái niệm
1.1. Phí
Theo Pháp lệnh về phí và lệ phí của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội khoá 10 (số 38/2001 PL - UBTVQH10 ngày 28/8/2001), Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ được quy định trong Danh mục phí ban hành theo Pháp lệnh phí và lệ phí.
Danh mục phí về lĩnh vực Khoa học, công nghệ và môi trường gồm 11 khoản trong đó các loại phí liên quan tới môi trường như sau:Phí bảo vệ môi trường, Phí thẩm định báo cáo Đánh giá tác động môi trường, Phí vệ sinh, Phí kiểm định phương tiện đo lường chất lượng.
- Các loại phí và lệ phí : thực hiện “trả tiền tiêu dùng“, nhiều nước qui định thu phí tuỳ theo mục đích sử dụng và hoàn cảnh : phí vệ sinh thành phố, phí về cung cấp nước sinh hoạt và tưới tiêu trên đồng ruộng.
- Thuế tài nguyên : mục đích của thuế tài nguyên là nhằm hạn chế những nhu cầu không quan trọng và xác lập mức tối đa về sử dụng tài nguyên thiên nhiên, khuyến khích những hành vi bảo đảm cuộc sống bền vững.
- Thuế môi trường dùng để khuyến khích bảo vệ và nâng cao hiệu suất sử dụng các yếu tố môi trường gây ra ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn quy định, trực tiếp làm giảm lợi nhuận của họ. Nguyên tắc tính thuế phải lớn hơn chi phí để giải quyết chất phế thải và khắc phục ô nhiễm. Biện pháp đánh thuế sẽ gây sức ép, buộc nhà sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu suất sử dụng nhiên liệu hoặc thay thế nhiên liệu ít ô nhiễm hơn, áp dụng kỹ thuật chống ô nhiễm. Các sắc thuế môi trường chủ yếu bao gồm :
+ Thuế ô nhiễm bầu không khí
+ Thuế ô nhiễm tiếng ồn
+ Thuế ô nhiễm các nguồn nước
1.2. Tổng giá trị kinh tế (TEV)
Trong thực tiễn khi chúng ta đánh giá một hàng hoá môi trường như một khu rừng miền núi, rừng ngập mặn, hồ nước, bãi biển, loài thực vật nào đó có ý nghĩa trước mắt mà có những giá trị khó lượng hoá thậm chí không lượng hoá được. Do đó các nhà kinh tế học môi trường phải nhìn nhận đánh giá tài nguyên đó trên góc độ giá trịkinh tế.
Tổng giá trị kinh tế của nguồn tài nguyên là giá trị sử dụng hay giá trị không sử dụng
TEV = UV + NUV
Hay TEV = DUV + IUV + OV + BV + EV
Trong đó
TEV: tổng giá trị kinh tế
UV: giá trị sử dụng
NUV: giá trị không sử dụng
DUV: giá trị sử dụng trực tiếp
IUV: giá trị sử dụng gián tiếp
OV: giá trị lựa chọn
BV: giá trị để lại
EV: giá trị tồn tại
Giá trị sử dụng trực tiếp thực chất liên quan đến giá trị đầu ra của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ môi trường, cụ thể đó là những nguồn tài nguyên thiên nhiên có giá trị trên thị trường
Giá trị sử dụng gián tiếp: thông thường những giá trị sử dụng gián tiếp liên quan đến những chức năng của môi trường trong việc hậu thuẫn các hoạt động kinh tế xã hội và tạo ra ngăn chặn những thiệt hại môi trường, ví dụ như khă năng chống xói mòn, kiểm soát lũ lụt.
Giá trị không sử dụng bao gồm cơ bản là những giá trị tồn tại và những giá trị tuỳ thuộc. Đây là một giá trị rất phức tạp cả về tính toán và nhận thức, nó thể hiện giá trị phi phương tiện nằm trong bản chất của sinh vật nhưng không liên quan đến việc sử dụng thực tế, thậm chí không liên quan đến việc lựa chọn sinh vật này. Thay vào đó, giá trị này được coi như những yếu tố phản ánh sự lựa chọn của con người, nghĩa là những giá trị này nằm trong nhận thức của con người nhiều hơn.
2. Nguyên tắc
2.1. Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP)
Nguyên tắc này bắt nguồn từ các sáng kiến do tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triẻn (OECD) đề ra vào các năm 1972 và 1974 . PPP “ Tiêu chuẩn” những tác nhân gây ô nhiẽm phải trả mọi chi phí cho hoạt động kiểm soát và phòng chống ô nhiễm. PPP “ Mở rộng” năm 1974 chủ trương rằng, các tác nhân gây ô nhiễm thì ngoài việc tuân theo các chỉ tiêu đối với viềc gây ô nhiễm thì còn phải bồi thường thiệt hại cho những người bị thiệt hại do ô mhiễm này gây ra. Nói tóm lại, theo nguyên tắc PPP thì người gây ô nhiễm phải chịu mọi khoản chi phí để thực hiện các biện pháp làm giảm ô nhiễm do chính quyền tổ chức thực hiện, nhằm đảm bảo cho môI trường ở trong trạng thái chấp nhận được.
2.2. Nguyên tắc người hưởng lợi phải trả tiền (BPP)
- Nguyên tắc BPP chủ trương rằng việc phòng ngừa ô nhiễm và cải thiện môi trường cần được bảo trợ bởi những người muốn thay đổi hoặc những người không phải trả giá cho việc gây ô nhiễm. Nguyên tắc BPP cũng tạo ra một khoản thu nhập, mức phí tính theo đầu người càng cao, càng nhiều người nộp thì số tiền thu được càng nhiều. Số tiền thu được theo nguyên tắc BPP có thể do các cá nhân muốn bảo vệ môi trường hay do những cá nhân không phải trả cho việc thải ra các chất gây ô nhiễm trong giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, số tiền này không trực tiếp do các công ty trả nên nguyên tắc BPP không tạo ra bất kỳ sự khuyến khích nào đối với việc bảo vệ môi trường trực tiếp.
3. Phương pháp
3.1. Phân tích chi phí-lợi ích (CBA)
- CBA là một quá trình xác định và so sánh lợi ích của việc thực hiện một dự án với những chi phí bỏ ra để thực hiện dự án chương trình đó. Phân tích lợi ích chi phi có nhiều loại khác nhau, trong đó có một số loại chủ yếu như sau
- Phân tích tài chính: là quá trình xác định và so sánh lợi ích chi phí của dự án dưới giác độ của các tổ chức và cá nhân tham gia đầu tư thực hiện dự án, thực chất của phân tích tài chính là phân tích các nguồn tiền tệ: khoản thu, khoản chi để xem dự án đó có sinh lời hay không.
- Phân tích kinh tế : là quá trình xác định và so sánh lợi ích chi phí của dự án nhưng dưới giác độ của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong phân tích kinh tế thì lợi ích kinh tế được phân tích toàn diện hơn, bao gồm cả chi phí cơ hội của việc sử dụng các nguồn lực và các lợi ích do đóng góp cho các mục tiêu phát triển như tạo việc làm, tích kiệm ngoại tệ, công bằng xã hội.
- Phân tích chi phí lợi ích mở rộng có tính đến yếu tố môi trường là quá trình CBA mà trong đó các chi phí và lợi ích môi trường thể hiện thông qua các tác động ngoại ứng tích cực và tiêu cực của môi trường sẽ được định giá bằng tiền.
- Trình tự tiến hành phân tích chi phí lợi ích
Bước 1: Xác định rõ quyền sở hữu vốn đầu tư
Bước 2: Xác định rõ ràng hợp lý thời gian, không gian của dự án, đưa ra danh mục các dự án thay thế.
Bước 3: Liệt kê những ảnh hưởng vật chất tiềm năng
Bước 4: Dự đoán những ảnh hưởng có thể xảy ra trong suốt đời của dự án
Bước 5: Lượng hoá bằng tiền mọi tác động
Bước 6: Đưa tất cả các chi phí và lợi ích về cùng mốc thời gian
Bước 7: Tính các chỉ tiêu phân tích tài chính như NPV, IRR, B/C của các phương án thay thế
Bước 8: Phân tích ý nghĩa kinh tế của các chỉ tiêu trên
Bước 9: Từ kết quả phân tích, đưa ra quyết định đầu tư hay không đầu tư hay đề xuất phương án lựa chọn từ danh mục các phương án thay thế
3.2. Phương pháp định giá ngẫu nhiên (CVM)
Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM) bỏ qua nhu cầu tham khảo giá thị trường bằng cách hỏi thẳng từng cá nhân một cách rõ ràng để đánh giá tài sản môi trường. Mặc dù có rất nhiều biến tố của kỹ thuật này, phương cách thường được áp dụng nhất là phỏng vấn các gia đình hoặc tại nhà họ và hỏi cái giá sẵn lòng trả (WTP) của họ cho việc bảo vệ môi trường. Sau đó các nhà phân tích có thể tính toán giá trị WTP trung bình của những người trả lời phỏng vấn và nhân nó với tổng số người thụ hưởng địa điểm hay tài sản môi trường đang xem xét, để có được tổng giá trị ước tính của tài sản đó.
Một ưu điểm của phương pháp CVM là trên lý thuyết nó có thể được sử dụng để đánh giá các nguồn tài nguyên mà sự tồn tại tiếp tục của nó được người đánh giá cao, nhưng bản thân họ không bao giờ đến tham quan cả.
So với các phương pháp khác, phương pháp CVM có vẻ tương đối rõ ràng. Tuy nhiên, có một trở ngại tiềm ẩn đối với nhà phân tích thiếu thận trọng mà chúng ta sẽ thảo luận ở một số vấn đề sau:
- Nói ít đi WTP. Giả thiết chính của kỹ thuật CVM là tổng số WTP được những người trả lời phát biểu tương ứng với sự đánh giá của họ về tài sản đang xem xét. Các nhà phê bình đang nghi ngờ tính hiệu lực của một giả thiết như vậy, cho rằng bản chất giả thiết của phương án CVM làm cho câu trả lời của các cá nhân không đúng với giá trị thực. Tuy nhiên, do phần nói bớt di nầy tương đối nhỏ nên đây có thể không phải là vấn đề quá nghiêm trọng.
- WTP với WTA có sự chênh lệch khá lớn giữa giá trị WTP và WTA
Trên lý thuyết câu hỏi về việc trả tiền có thể được đặt ra như thường lệ “ Bạn sẵn lòng trả bao nhiêu (WTP) để có được” hoặc dưới dạng ít gặp hơn “ Bạn sẵn lòng nhận bao nhiêu (WTA) để bồi thường cho việc tài sản môi trường này?”. Khi đem so sánh hai câu hỏi trên, các nhà phân tích để ý rằng WTA cao hơn WTP rất nhiều, một kết quả mà các nhà phê bình cho là mất hiệu quả của phương pháp CVM và cho thấy rằng khi trả lời các câu hỏi như thế các cá nhân muốn nói lên điều mà họ muốn nó xảy ra hơn là những đánh giá.
c. Thiên lệch một phần-toàn phần: Các nhà phê bình phương pháp CVM đã lưu ý rằng nếu người ta lần đầu tiên được hỏi WTP của họ cho một phần tài sản môi trường (như một con sông trong hệ thống các con sông) và sau đó được hỏi đánh giá cho toàn bộ tà sản (nghĩa là toàn bộ hệ thống các con sông) thì số tiền được phát biểu là như nhau vì trong cách phân bố thông thường việc chi tiêu của họ: đầu tiên chia thu nhập khả dụng của họ thành nhiều khoản ngân sách (nhà ở, thực phẩm, xe hơi, giải trí) sau đó chia tiếp vào các khoản mục thực sự phải mua. Vì thế, đối với giải trí bước đầu xác định tổng ngân sách mà mỗi cá nhân dành cho giải trí và sauđó chia tiếp thành số tiền họ sẵn lòng chi tiêu cho mỗi nơi họ muốn viếng thăm.
Một phương pháp giải quyết vấn đề này là lần đầu tiên hỏi họ để biết tổng ngân sách dành cho giải trí và kế đó là WTP của họ đối với tài sản môi trường đang xem xét, nhắc nhở họ về ngân sách giải trí có hạn của họ và cho rằng số tiền mà họ dành cho tài sản này không thể chi tiêu cho việc khác.
Một phương pháp thứ hai là giới hạn việc sử dụng CVM trong việc đánh giá một nhóm lớn của hàng hoá môi trường, việc giới hạn này nếu cần, sẽ làm hạn chế đáng kể việc áp dụng CVM ở quy mô rộng lớn và chính nó có thể tạo ra những trở ngại nhiều hơn đối với khă năng của người trả lời để hiểu nhóm lớn hàng hoá như vậy
d. Thiên lệch theo phương tiện: khi hỏi một câu về WTP các nhà phân tích phải xác định việc đóng góp theo con đường nào (phương tiện đóng góp). Những người được hỏi có thể thay đổi WTP của họ tuỳ theo phương tiện đóng góp họ chọn.
e. Thiên lệch điểm khởi đầu: nếu nghiên cứu ban đầu đã thử gợi ý cho những người trả lời bằng cách đề nghị một số tiền khởi đầu sau đó tăng lên hay giảm đi số tiền này dựa theo người trả lời đồng ý hay từ chối số tiền đó. Tuy nhiên, người ta thấy rằng sự lựa chọn mức tiền ban đầu ảnh hưởng đến số tiền WTP sau cùng của người trả lời.
4. Các thông số cơ bản
4. 1. Các thông số cơ bản
- Chọn biến thời gian thích hợp về mặt lý thuyết, phân tích kinh tế dự án đầu tư phải được kéo dài trong thời gian vừa đủ để có thể bao hàm hết mọi lợi ích và chi phí của dự án. Trong việc lựa chọn biến thời gian thích hợp cần lưu ý hai nhân tố sau:
+ Thời gian tồn tại hữu ích dự kiến của dự án để tạo ra các sản phẩm đầu ra, các lợi ích kinh tế mà dựa vào đó dự án được thiết kế. Khi lợi ích thu được của dự án trở nên rất nhỏ thì thời gian sống hữu ích của dự án có thể xem như kết thúc.
+ Hệ số chiết khấu được sử dụng trong phân tích kinh tế của dự án. Hệ số chiết khấu càng lớn thì thời gian chiết khấu của dự án sẽ càng giảm bởi nó làm giảm giá trị hiện tại ròng của dự án theo thời gian.
- Chiết khấu là một cơ chế mà nhờ đó ta có thể so sánh chi phí và lợi ích ở các thời điểm khác nhau trên trục thời gian. Trong sử dụng chiết khấu cần đảm bảo hai đIều kiện sau:
+ Một số biến số đưa vào tính chiết khấu( chi phí lợi ích) phải được đưa về cùng một đơn vị giá trị.
+ Giá trị một dơn vị chi phí hoặc lợi ích hiện tại lớn hơn mọt đơn vị lợi ích hoặc chi phí trong tương lai.
4.2. Các chỉ tiêu tính toán
- Giá trị hiện tại ròng (NPV): Đối với đa số các dự án, việc phân tích, kiểm tra được thực hiện bằng cách so sánh lợi ích và chi phí theo thời gian.
NPV là đại lượng dùng để xác định giá trị lợi nhuận ròng khi chiết khấu dạng lợi ích và chi phí về năm thứ nhất. Nó được xác định theo công thức sau:
giá trị hiện tại ròng (NPV)
n Bt n Ct
NPV= ồ ----- - ( C0 + ồ ------- )
t=1 (1+r)t t=1 (1+r)t
Trong đó
Bt : lợi ích năm t
Ct : chi phí năm t
C0 : chi phí năm đầu
r : hệ số chiết khấu
t : thời gian tương ứng (t=1,2,..,n)
ồ: tổng trong khoảng thời gian từ năm thứ nhất đến năm thứ n
Dự án có lãi khi NPV>0, hoà vốn khi NPV=0, lỗ khi NPV<0 NPV là chỉ tiêu hữu ích nhất vì nó có ít hạn chế và được sử dụng phổ biến trong phân tích dự án. Thông qua chỉ tiêu này để đo lường khả năng sinh lời bằng tiền của dự án.
ý nghĩa của NPV: NPV là một chỉ tiêu kinh tế trợ giúp cho chủ đầu tư khi đưa ra quyết định đầu tư hay lựa chọn phương án tối ưu trong danh mục các phương án thay thế.
- Giá trị tương lai ròng (NFV)
n
NFV= ồ (Bt - Ct)*(1+r)t
t=1
Ngoài chỉ tiêu NPV, trong phân tích dự án có thể sử dụng NFV thay cho NPV. ý nghĩa của việc sử dụng NFV cũng tương tự như NPV. Chỉ khác NPV chiết khấu các dòng chi phí và lợi ích về năm thứ nhất, trong khi NFV tính gộp chí phí và lợi ích về thời điểm trong tương lai (thường cuối dự án) NFV được xác định như sau:
Các thông số có ý nghĩa tương tự như trong công thức tính NPV đã nêu trên. Quyết định lựa chọn dự án dựa trên chỉ tiêu NFV cũng tương tự như NPV. Thông thường đối với dự án đầu tư, chủ dự án sẽ quyết định bỏ vốn đầu tư khi NPV (NFV) >0. Đối với các dự án đầu tư cho môi trường có thể quyết định đầu tư ngay cả khi NPV (NFV)=0. Do đặc trưng của dự án môi trường là bên cạnh những lợi ích kinh tế còn có những lợi ích xã hội chưa được lượng hoá hết. Chẳng hạn: cải thiện sức khoẻ cộng đồng, môi trường sinh thái.
- Hệ số hoà vốn nội bộ (IRR): hệ số hoà vốn nội bộ là hệ số K mà qua đó giá trị hiện tại ròng bằng không.
n Bt n Ct
ồ ----- - ( C0 + ồ ------- ) = 0
t=1 (1+r)t t=1 (1+r)t
IRR được sử dụng khá phổ biến. Giá trị IRR sau khi tính toán được so sánh với lãi suất hoặc hệ số chiết khấu. Đây là chỉ tiêu dùng để lựa chọn dự án. Nếu IRR lớn hơn lãi suất hoặc hệ số chiết khấu thì dự án có lãi, hoà vốn khi IRR bằng lãi suất hoặc hệ số chiết khấu, lỗ khi IRR nhỏ lãi suất. Có thể lựa chọn dự án ngay cả khi IRR bằng hệ số chiết khấu đối với các dự án đầu tư phát triển nhằm tạo công ăn việc làm cho xã hội hoặc cải thiện chất lượng môi trường.
-Tỷ suất lợi nhuận (B/C): tỷ suất lợi nhuận so sánh lợi ích và chi phí đã được chiết khấu. Nó được xác định qua công thức sau:
n Bt n Ct
B/C = ( ồ -------- ) / ( C0 + ồ -------- )
t=1 (1+r)t t=1 (1+r)t
Tóm lại, cả ba chỉ tiêu đã trình bày ở trên đều căn cứ vào giá trị hiện tại của dòng lợi ích và chi phí. Giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, đIều này được thể hiện qua bảng sau:
NPV
B/C
IRR
Quyết định
Nếu
>0
Thì >1
Và >r
Đầu tư
<0
<1
<r
Không đầu tư
=0
=1
=r
Có thể đầu tư hoặc không đầu tư.
- Thời gian hoàn vốn: chỉ tiêu này phản ánh khoảng thời gian thu hồi vốn của dự án. Nếu thời gian hoàn vốn < đời dự án thì dự án đó có hiệu quả. Thời gian hoàn vốn tuỳ thuộc vào đặc trưng của từng loại dự án. Đối với dự án môi trường thường có thời gian hoàn vốn dài, và lợi ích môi trường thường không thể thấy ngay khi mới thực hiện dự án.
Thời gian hoàn vốn không đo lường trực tiếp khả năng có lãi hoặc lỗ của dự án mà nó cho biết thời hạn sẽ thu hồi đủ vốn của dự án.
Chương II: Thực trạng môi trường khu vực
1. Vị trí địa lý và tình trạng ô nhiễm nước của thành phố Hà Nội:
1.1. Vị trí địa lý
Thành phố Hà Nội nằm trong vùng châu thổ sông Hồng, cách biển Đông khoảng 100 km. Địa hình thành phố Hà Nội tương đối bằng phẳng, độ dốc tự nhiên nhỏ ( 0,003%) và dốc theo hướng Đông Bắc - Tây Nam. Khu vực phía Bắc và Tây Bắc có độ cao trên 7m. Khu vực trung tâm thành phố có độ cao trung bình từ 6m đến 7m, khu vực phía Nam thành phố là vùng trũng có độ cao từ 4,5m đến 5m và đây là khu vực thường xuyên xảy ra ngập úng khi có mưa lớn kéo dài, vùng cao nhất có cốt là +10m. Do địa hình tương đối bằng phẳng nên gây khó khăn cho việc thoát nước.
1.2. Tình trạng ô nhiễm môi trường nước :
Hà Nội có 4 sông thoát nước chính là : sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét, sông Kim Ngưu với chiều dài là 38,9 km và các mương đất có tổng chiều dài là 38 km, 18 hồ với tổng diện tích là 660 ha, lớn nhất là Hồ Tây có diện tích là 516 ha.
Hệ thống thoát nước Hà Nội là hệ thống cống chung với tổng chiều dài đường cống thoát nước là 170km trên tổng số 220 km đường và như vậy là có tới hơn 50 km đường không có hệ thống thoát nước.
Do hệ thống thoát nước nhiều nơi đã cũ cho nên về mùa mưa các trận ngập lụt thường xuyên xảy ra, ngập lụt thường kèm theo những vấn đề nghiêm trọng không chỉ với tài sản của nhân dân mà còn ảnh hưởng tới sức khoẻ do trong khi ngập lụt có thể có dịch bệnh do nước thải gây nên. Nước mưa có thể mang hàm lượng cao các chất lơ lửng phốt pho, amoniac, cũng như sắt, oxit, các loại muối và các vi khuẩn ngấm vào các giếng và các đường ống bị rò rỉ làm ô nhiễm nguồn nước ngầm.
Do Hà Nội chưa có các trạm xử lý nước thải nên nước thải từ các nhà máy, xí nghiệp, bệnh viện đổ trực tiếp xuống hệ thống cống chung và ao hồ. Điều này đã gây hiện tượng ô nhiễm các sông, hồ, ao từ các mức độ nhẹ đến nặng. Nhìn chung các ao, hồ đều có khả năng tự làm sạch khá lớn nhưng mức độ ô nhiễm ngày càng tăng, việc xử lý thực tế diễn ra trong hệ sinh thái dưỡi nước đang bị quá tải và có thể bị huỷ hoại hoàn toàn do các chất hữu cơ và chất thải công nghiệp. Như vậy hệ thống thoát nước vừa thiếu vừa không đồng bộ chính là vấn đề môi trường lớn nhất, gây nguy hiểm cho sức khoẻ của người dân.Qua hai bảng số liệu về tình trạng ô nhiễm của 4 con sông Kim Ngưu, Tô Lịch, Sét, Lừ và 4 hồ Giảng Võ, Đống Đa, Thanh Nhàn 1, Thanh Nhàn 2 cho thấy mức độ ô nhiễm hệ thống thoát nước ở Hà Nội.
Bảng 1
Các chỉ tiêu
Sông Kim Ngưu
Sông Tô Lịch
Sông Sét
Sông Lừ
NH4( mg/l)
12,25
16,14
22,53
22,61
SS (mg/l)
40,8
37
35,8
35,67
BOD5(mg/l)
27,2
26,2
39,4
36,7
COD (mg/l)
54,3
52,14
67,7
64,9
Coliform (PC/100 ml)
130,657
262,085
207,342
175,557
Steptococss (PC/100mg)
109,383
10,757
24,812
11,457
Bảng 2
Các chỉ tiêu
Hồ Giảng Võ
Hồ Đống Đa
Hồ Thanh Nhàn 1
Hồ Thanh Nhàn 2
Độ pH
7,4
7,9
86
8,3
Độ dẫn điện
432
470
412
456
DO (mg/l)
1,3
2,9
15,3
10,8
NH3-N (mg/l)
13,7
6,5
4,3
5,5
NO3-N (mg/l)
2,1
1,5
1,5
0,9
Độ đục
24
46
60
53
SS (mg/l)
16
38
49
52
Độ màu
Chưa lọc
320
288
Đã lọc
169
119
Từ bảng 1 ta nhận thấy sông Sét là sông bị ô nhiễm nhất trong 4 con sông tiếp đến là sông Lừ, Kim Ngưu và cuối cùng là sông Tô Lịch.
Từ bảng 2 ta nhận thấy các hồ bị ô nhiễm từ nhẹ đến nặng do các loại nước thải sinh hoạt, nhà máy, bệnh viện... đổ vào.
Tình trạng ô nhiễm của môi trường nước do một số nguyên nhân chính sau:
- Hệ thống thoát nước bị quá tải do mức độ tăng trưởng nhanh của đô thị, hơn nữa hệ thống này đã quá cũ mà không được cải tạo, bảo dưỡng thường xuyên do điều kiện kinh phí hạn hẹp.
- Dòng chảy ở các sông, mương ở một vài nơi bị thu hẹp do sự lấn chiếm trái phép của dân cư xung quanh đó.
- Các nguồn nước bị ô nhiễm nặng do nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp, bệnh viện đổ trực tiếp vào mà chưa qua xử lý sơ bộ.
- Ngoài ra ý thức của người dân chưa cao nên các sông, mương, hồ, ao bị dân sống quanh vùng đổ đầy rác và các loại phế thải.
2. Vị trí địa lý khu vực nghiên cứu
Thực tế, nhiều đoạn sông hồ ở Hà Nội đang được cải tạo, sông Tô Lịch đầu tư cải tạo trên nhiều đoạn. Nhìn tổng thể hệ thống sông Tô Lịch tương đối bằng phẳng có cốt cao nhất 10-11m và thấp nhất từ 4-5m, độ dốc tự nhiên trung bình theo hướng Bắc-Nam là 0,004% theo hướng Đông Nam là phẳng .
Sông Tô Lịch chảy theo hướng Bắc- Nam với tổng chiều dài 14,4 km từ cống Đô trên mương Thụy Khê tới điểm hợp dòng với sông Nhuệ và được chia làm 6 đoạn( theo địa hình dòng sông ). Tương ứng với các điểm chia đoạn các nguồn xả chính vào sông Tô Lịch từ lớn đến nhỏ như sau:
- Cầu Sơn 2 : Nằm ở hạ lưu sông Kim Ngưu trước khi đổ ra sông Tô lịch, lưu lượng xả vào sông Tô Lịch của sông Kim Ngưu :
Qtb = 3,034 m3/s
- Điểm cầu Dâu : Đây là mặt cắt phía hạ lưu của hợp lưu sông Tô Lịch với sông Lừ, lưu lượng xả của sông Lừ vào sông Tô Lịch :
Qtb = 2,322 m3/s
- Điểm Cống vị : Mương xả ra sông ( mương Ngọc Hà - Đội Cấn – Cống Vị )
lưu lượng xả vào sông Tô Lịch :
Qtb = 0,884 m3/s
- Điểm Cống Mọc : Mương xả ra sông (Mương Hào Nam – Yên Lãng ), lưu lượng xả vào sông Tô Lịch :
Qtb = 0,644 m3/s
- Điểm Nghĩa Đô : Mương xả ra sông ( Mương Nghĩa Đô ), lưu lượng xả ra sông Tô Lịch :
Qtb = 0,398 m3/s
- Điểm Cống Bưởi : Mặt cắt phía thượng nguồn sông Tô Lịch ( Mương Thụy Khê ), lưu lượng xả vào sông Tô Lịch :
Qtb = 0,248 m3/s
Khi tiến hành đo lưu lượng của sông Tô Lịch, các chuyên gia Nhật Bản đã sở dụng công thức hồi quy để tính toán dòng chảy tự nhiên bắng cách sử dụng nhiều ví dụ để tìm ra dòng chảy tự nhiên đã đưa ra công thức :
Q = 0,0069A
Trong đó:
- Q : Dòng chảy tự nhiên (m3/s).
- A : Diện tích lưu vực (km2).
Theo cách tính này thì dòng chảy tự nhiên của sông Tô Lịch được tính xấp xỉ là 0,5 m3/s.
Cùng tiến hành tính dòng chảy tự nhiên ở sông Tô Lịch các chuyên gia của tổng cục khí tượng thuỷ văn đưa ra công thức
Q = A*Xmp
Trong đó :
- Xp là lượng mưa trung bình hàng năm.
- A, m được tính theo khu vực.
Cách tính này cũng cho ra kết quả là xấp xỉ 0,5 m3/s.
Tuy nhiên khi đo dòng chảy chậm của sông Tô Lịch, khi dòng chảy trên sông phải thật sự là dòng chảy kiệt, thì các chuyên gia ước tính rằng vào khoảng từ 4 đến 5 m3/s. Điều này kết hợp với dòng chảy tự nhiên tính toán được ở trên cho thấy lượng dòng chảy chậm trên sông phần lớn là dòng chảy của nước thải. Qua đây ta thấy được rằng dòng chảy của sông Tô Lịch được sinh ra từ chính nước thải sinh hoạt của dân cư, các bệnh viện, nhà máy...v.v trong thành phố.
3. Thực trạng ô nhiễm của sông Tô lịch
Sông Tô Lịch là con sông chính tiếp nhận nước thải của của thành phố Hà Nội, mật độ nước thải đổ ra sông là rất lớn, một số nguồn nước thải chính mà ta có thể thống kê được là :
- Bệnh viện Lao.
- Bệnh viên nhi Thụy Điển.
- Bệnh viện phụ sản.
- Bệnh viện Giao thông.
- Nhà máy giầy Thượng Đình.
- Nhà máy cao su Sao Vàng.
- Nhà máy Lever Haso.
- Nhà máy bóng đèn.
- Nhà máy bia Hà Nội.
- Nhà máy Trung Kinh.
- Nhà máy nhựa Đại Kim.
- Nhà máy Sơn tổng hợp.
Ngoài những nhà máy bệnh viện đã thống kê được ở trên thì nguồn nước thải sinh hoạt của dân cư cùng với của những cơ sở sản xuất nhỏ cũng chiếm tỷ lệ rất cao và không kém phần độc hại.Để thấy rõ hơn tình trạng ô nhiễm ta chọn ra 4 điểm khống chế trên sông là :
- Cống Bưởi (thượng lưu).
- Cầu mới (điểm giữa thượng lưu và hạ lưu).
- Cầu Dậu và cầu Bươu (hạ lưu).
Ta đánh giá chất lượng nước sông tại 4 điểm trên theo mùa khô và mùa mưa qua bảng tổng hợp sau :
Các chỉ tiêu
Cống Bưởi
Cầu Mới
Cầu Dậu
Cầu Bươu
Mùa Mùa
mưa khô
Mùa Mùa
mưa khô
Mùa Mùa
mưa khô
Mùa Mùa
mưa khô
Độ pH
8,5 8,8
7,8 8,1
7,7 8,09
8,14 8,6
BOD5
15,05 18,88
23,7 33,6
26,8 45,1
21 29,8
COD
31,25 34
44,7 57,6
57,9 87,3
41,5 51
DO
1,32 2,6
0,67 1,5
0,708 1,2
1,1 1,7
SS
28 37
29 35
38 39
26 66
Pb
0,15 0,15
0,125 0,15
0,22 0,29
0,155 0,21
CN-
0,25 0,27
0,275 0,34
0,3 0,31
0,245 0,25
Cr+3
0,0185 0,052
0,017 0,02
0,0225 0,023
0,0145 0,017
Cr+6
0,16 0,2
0,13 0,15
0,13 0,16
0,16 0,18
Zn
0,76 1,01
1,14 1,21
1,08 1,25
1,4 1,4
Mn
0,055 0,064
0,137 0,183
0,08 0,14
0,118 0,19
Fe
0,2 0,5
0,39 0,61
0,7 1,5
0,425 0,6
Sn
0,13 0,17
0,155 0,21
0,38 0,7
0,26 0,42
NH3-N
2,33 6,7
12,7 25,4
13,3 25,3
8,9 17,6
Cl-
32,52 66,49
32,87 78,69
30,78 65,88
29,3 63,5
NO3(N)
0,25 0,45
0,42 0,9
1,26 3,5
0,47 1,3
NO2(N)
0,075 0,1
0,08 0,15
0,4 0,4
0,185 0,35
Dầu
3,55 3,9
4,37 4,5
4,8 5,7
4,7 5,2
VS Fe
13850 8000
7366 16000
4766 9000
6416 14300
Fs
3759 11300
2586 11800
2448 8300
2320 7800
COND
487 810
493 628
593 710
618 725
TURB
34 36
37 42
36 46
27 37,2
Qua số liệu ở bảng trên ta nhận thấy :
Về mùa khô nước sông liên kết là nước thải.
- Hàm lượng BOD, COD trên toàn bộ sông đều vượt quá chỉ tiêu cho phép, BOD đo được khoảng 25 mg/l đến 30mg/l cá biệt có điểm cầu Bươu có lúc lên đến 45 mg/l, COD từ 30 đến 50 mg/l cá biệt có điểm lên tới 80 mg/l ở cầu Dậu.
- Sông thường trong tình trạng yếm khí, lượng ô xy hoà tan trung bình trên toàn sông khoảng nhỏ hơn 1 mg/l.
- Hàm lượng các chất hữu cơ NO3 đều vượt quá tiêu chuẩn, sông ở tình trạng phì dinh dưỡng.
- Hàm lượng các kim loại nặng, độc hại lên rất cao Pb ( 0,12 – 0,15 mg/l ) Cr6+ ( 0,1 – 0,15 mg/l ) hợp chất có chứa Xianua ( CN- ) từ 0,2 – 0,25 mg/l cá biệt tại cầu Dậu là 0,3 mg//l.
- Các kim loại khác như : Fe, Zn, Mn, Sn ... đã xuất hiện trong nước sông.
- Lượng dầu mỡ trong sông rất cao từ : 3,9 – 5,2 mg/l, tại cầu Dậu lên tới
5,7 mg/l, váng dầu có thể tìm thấy dọc sông.
- Lượng Coliform Fe, Fs lên rất cao
Tổng lượng Coliform từ 10.000 – 20.000 MPN/100 ml .
- Nước sông có màu xanh đen, mùi hơi đặc biệtvào những ngày nắng nóng, rau bèo hai bên bờ sông ngăn cản dòng chảy.
Về mùa mưa nước sông chảy mạnh hơn, lưu tốc dòng chẩy tăng do ảnh hưởng của nước mưa đã pha loãng nước thải nên chất lượng nước sông Tô Lịch được cải thiện nhiều. Tuy nhiên kết quả phân tích cho thấy dù thậm chí đã được pha loãng hơn nhưng nước sông vẫn ở tình trạng xấp xỉ hoặc cao hơn chút ít so với tiêu chuẩn cho phép và một số chỉ tiêu vẫn cao hơn nhiều như :
- Các chất dầu mỡ : 4,5 – 5 mg/l
- Hàm lượng COD : 30 – 45 mg/l
BOD : 20 – 25 mg/l
- Chất lơ lửng SS : 120 mg/l.
Để thấy rõ hơn ta đi vào xem xét đánh giá mức độ ô nhiễm cụ thể một nguồn thải và điển hình là khu công nghiệp Thượng Đình, khu này nằm xen kẽ trong khu dân cư đông đúc, khâu xử lý chất thải gần như không có.
Bảng sau được đưa ra có nội dung là thành phần tính chất nước thải ở cống xả của khu vực Thượng Đình chảy ra sông Tô Lịch:
TT
Các chỉ tiêu
Cao xà lá
Đình Vòng
Bóng đèn phích nước
Nhà máy nước
1
Lưu lượng
( m3/ngd )
9000
4700
500
7000
2
Nhiệt độ nước thải
( 0C )
22 - 27
22 - 26
25 - 30
22 - 27
3
Độ pH
7,4 – 7,6
7,4 – 7,8
6,8 – 7,2
7 – 7,8
4
Cặn lơ lửng (mg/l)
60 – 450
60 – 125
120 – 180
120 – 300
5
ôxy hoà tan (mg/l)
2,2 – 3,3
1,5 – 3,5
4 – 7,5
1,5 - 5
6
Độ ôxy hoá KmnO4 (mg/l)
65 – 750
8 – 1,5
7 – 12
7
COD (mg/l)
800 – 2080
80 – 290
150 – 180
175 – 290
8
BOD5 (mg/l)
30 – 155
15 – 60
50 – 100
15 – 72
9
NH4+ (mg/l)
2._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35368.doc