LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Là một trong những quốc gia đang phát triển với hàng loạt những ưu tiên cho phát triển kinh tế, Việt Nam không tránh khỏi những mâu thuẫn mà các quốc gia khác thường gặp phải, đó là những vấn đề môi trường nảy sinh khi các chỉ số kinh tế tăng vọt. Cùng với sự phát triển về kinh tế đó là vấn đề sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên không hợp lý gây ô nhiễm môi trường. Hiện nay, ở Việt Nam hầu như tất cả các thành phố có hoạt động công nghiệp phát triển
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1510 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Bước đầu nghiên cứu mô hình quản lý bảo tồn loài Voọc dựa vào cộng đồng ở Vườn quốc gia Cát bà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đều đang trong tình trạng ô nhiễm trầm trọng. Trước tình trạng đáng báo động đó thì việc tìm giải pháp, hướng đi phù hợp và mang lại hiệu quả cho công tác bảo vệ môi trường là thực sự cần thiết.
Một trong những hình thức quản lý môi trường thu được hiệu quả cao là quản lý môi trường dựa vào cộng đồng (Community – Based Environment Manager – CBEM). Mô hình này là một phương tiện cho người dân trong cộng đồng tham gia vào quá trình ra quyết định. Quá trình này đưa ra một giới hạn đầy đủ về các bên tham gia, từ đó phá vỡ những rào cản giữa các bên liên quan và đưa ra những mục tiêu rõ ràng, tạo cơ hội cho cộng đồng tham gia vào quá trình quản lý và xác lập khả năng tự trị. Do đó, đây là một cơ chế quan trọng cho sự tham gia từ đó tạo hiệu quả cao trong việc xây dựng năng lực quản lý của chính quyền địa phương.
Hiện nay, mô hình quản lý này đã và đang được áp dụng ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới. Các mô hình này qua thực tế đã thể hiện nhiều ưu điểm mà công tác quản lý nhà nước không đạt được. Mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng được áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau, như các mô hình quản lý bảo tồn, mô hình thu gom rác tại các phường, xã...
Ở Việt Nam, mô hình người dân tham gia vào hoạt động quản lý môi trường không phải là hiếm thấy nhưng mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng theo đúng nghĩa của nó thì không nhiều. Cần thiết có sự nghiên cứu, tìm hiểu những hình thức mà người dân tham gia vào quản lý môi trường ở nước ta và thực trạng áp dụng hình thức quản lý này.
Mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng nhằm bảo vệ loài Voọc đầu trắng ở Vườn quốc gia Cát Bà là một mô hình tiêu biểu, điển hình cho hình thức quản lý này. Mô hình này đang được áp dụng ở Vườn quốc gia Cát Bà và đang tỏ ra là rất hiệu quả và có nhiều ưu việt, xứng đáng được nghiên cứu xem xét để các vùng khác học tập kinh nghiệm, và quảng bá rộng dãi.
Vì vậy trong khuôn khổ của luận văn em quyết định lựa chọn đề tài “Bước đầu nghiên cứu mô hình quản lý bảo tồn loài Voọc dựa vào cộng đồng ở Vườn quốc gia Cát Bà”
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu đề tài này nhằm hướng tới các mục tiêu sau:
- Đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý dựa vào cộng đồng
- Nghiên cứu và phân tích, mô hình quản lý bảo tồn loài Voọc đầu trắng dựa vào người dân ở Vườn quốc gia Cát Bà.
- Đánh giá những thành tựu, những tồn tại, khó khăn thuận lợi mà mô hình gặp phải và đề xuất một số kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình.
3. ` Phương pháp nghiên cứu.
-Tổng hợp tài liệu, số liệu, phân tích , đánh giá.
- Khảo sát thực địa.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Về không gian địa điểm nghiên cứu: Vườn quốc gia Cát Bà bao gồm cả vùng lõi và vùng đệm, thời điểm nghiên cứu là năm 2006.
5. Nội dung nghiên cứu.
Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý môi trường dựa vào cộng đồng và thực trạng quản lý môi trường dựa vào cộng đồng ở Việt Nam.
Chương II: Nghiên cứu mô hình quản lý dựa vào cộng đồng nhằm bảo tồn loài Voọc đầu trắng ở Vườn quốc gia Cát Bà.
Chương III: Đánh giá hiệu quả hoạt động của mô hình, những thuận lợi, khó khăn và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG VÀ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ
MÔI TRƯỜNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở VIỆT NAM.
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG.
1.1.1 Một số khái niệm.
* Khái niệm về tài nguyên sở hữu chung
Tài nguyên sở hữu chung là tài nguyên được quản lý và sử dụng bởi một nhóm người (không phải một người). Để quản lý tài nguyên này thì nhóm người quản lý phải đặt ra các luật lệ và giám sát thực hiện các luật lệ này.
Đối với tài nguyên sở hữu chung vấn đề luật lệ là rất quan trọng. Bởi vì khi dân số phát triển hay các yếu tố về luật bị phá vỡ thì hệ thống khác sẽ không vận hành hiệu quả nữa và chuyển sang một dạng tài nguyên khác được gọi là tài nguyên tự do tiếp cận. Khi đó việc sử dụng tài nguyên này không bị loại trừ và có tính cạnh tranh là cho việc khai thác tài nguyên không bị ràng buộc, mạnh ai người ấy khai thác, khai thác cho tới khi không thể khai thác được nữa thì thôi.
* Khái niệm cộng đồng.
Có nhiều khái niệm khác nhau về cộng đồng thông thường, cộng đồng được hiểu là tập hợp những người có chung lịch sử hình thành, có chung địa bàn sinh sống, có cùng luật lệ và quy định hay tập hợp những người có cùng những đặc điểm tương tự về kinh tế- xã hội và văn hoá.
Cũng có khái niệm khác, cộng đồng là một nhóm người có chung sở thích và lợi ích, có chung địa bàn sinh sống, có chung ngôn ngữ (hoặc loại ngôn ngữ) và có những đặc điểm tương đồng.
Tuỳ theo lịch sử hình thành hay đặc điểm của cộng đồng, có các loại cộng đồng sau:
- Cộng đồng người địa phương, là những người có quan hệ gần gũi với nhau, thường xuyên gặp mặt ở địa bàn sinh sống.
- Cộng đồng những người có chung quan tâm đặc điểm, tính chất (cộng đồng các nhà nghiên cứu khoa học, cộng đồng doanh nhân...)
- Cộng đồng những người có chung những quan tâm đặc điểm, tính chất, màu da (cộng đồng người dân tộc thiểu số, cộng đồng người da màu...)
- Cộng đồng có quan niệm chung về các vấn đề quan hệ xã hội, có chung mục tiêu, quan điểm chung về giá trị, cùng tham gia vào quá trình ra quyết định (cộng đồng ASEAN, các nước Pháp ngữ...)
* Khái niệm sự tham gia của cộng đồng.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về sự tham gia của cộng đồng. Nhưng theo tổ chức phát triển quốc tế Canada quan niệm :
Tham gia cộng đồng là thu hút các nhóm đối tượng mục tiêu vào các khâu của chu trình dự án từ thiết kế, thực hiện và đánh giá dự án với mục tiêu nhằm xây dựng năng lực của người nghèo để duy trì được cơ sở hạ tầng và kết quả mà dự án đã tạo ra được trong quá trình thực hiện, và tiếp tục phát triển sau khi tổ chức hay cơ quan tài trợ rút khơi dự án . Cách tiếp cận này đựơc sử dụng khá phổ biến trong các lĩnh vực, các dự án trên thế giới.
Trước những năm 80, các hoạt động, chương trình có mục tiêu phục vụ cộng đồng đều được đề xuất, xây dựng và tổ chức thực hiện từ cơ quan trung ương. Thời kì này người ta mới khuyến khích sự tham gia của các ngành vào các chương trình, hành động. Sự hiện diện của cộng đồng là rất ít. Vì thề tính bền vững của chương trình hay hoạt động không được đảm bảo. Cách tiếp cận sự tham gia của cộng đồng được phát triển mạnh mẽ vào những năm 80-90 của thế kỷ 20, đặc biệt là áp dụng cho các chương trình của tổ chức Phi chính phủ, chương trình thí điểm liên quan nhiều đến cộng đồng như phát triển đô thị và nông thôn, xoá đói, giảm nghèo, phát triển nông nghiệp và nông thôn, chương trình bảo vệ môi trường...Cách tiếp cận phát triển định hướng vào cộng đồng hay còn gọi là phát triển dựa trên cộng đồng được áp dụng phổ biến từ năm 2000. Các chương trình, dự án phát triển định hướng cộng đồng có đặc điểm là trao cho cộng đồng quyền kiểm soát quá trình ra quyết định và đóng góp nguồn lực vào việc lập kế hoạch, thiết kế, thực hiện, vận hành, bảo trì những cơ sở hạ tầng.
* Khái niệm về quản lý môi trường dựa vào cộng đồng(CBEM).
Quản lý cộng đồng là phương thức bảo vệ môi trường trên cơ sở một vấn đề môi trường cụ thể ở địa phương, thông qua việc tập hợp các cá nhân và tổ chức cần thiết để giải quyết vấn đề đó. Phương pháp này sử dụng các công cụ sẵn có để tập trung cải tạo hoặc bảo vệ một tài nguyên nào đó hay tạo ra lợi ích về môi trường như dự án tái tạo năng lượng, phục hồi lưu vực... Và đồng quản lý tài nguyên đó thông qua sự hợp tác giữa các đối tác chính quyền, doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng dân cư.
Phương pháp quản lý môi trường dựa vào cộng đồng là lấy cộng đồng làm trọng tâm trong việc quản lý môi trường. Đưa cộng đồng tham gia trực tiếp vào hệ thống quản lý môi trường, họ trực tiếp tham gia trong nhiều công đoạn của quá trình quản lý, từ khâu bàn bạc ban đầu tới việc lên kế hoạch thực hiện, triển khai các hoạt động và nhận xét, đánh giá sau khi thực hiện. Đây là hình thức quản lý đi từ dưới lên, thực hiện theo nguyện vọng, nhu cầu thực tế và ý tưởng của chính cộng đồng trong đó các tổ chức quần chúng đóng vai trò như một công cụ hỗ trợ thúc đẩy cho các hoạt động cộng đồng.
1.1.2 Vai trò của người dân trong quản lý môi trường dựa vào cộng đồng.
Sự tham gia của người dân địa phương làm cho dự án phù hợp hơn với đặc điểm nhu cầu của địa phương. Thông qua việc tham khảo ý kiến của người dân, hay người dân đóng góp ý kiến sẽ cung cấp những thông tin có giá trị cho dự án. Do vậy dự án dễ được chấp nhận và khả năng bền vững cao hơn.
Bởi lẽ, họ có kiến thức về địa bàn sinh sống, chính vì vậy họ nắm rõ các đặc thù điều kiện cũng như vấn đề văn hoá, xã hội ở địa bàn, nắm rõ các nhu cầu cũng như các phương tiện hiện có của quản lý. Các quyết định có sự tham gia của cộng đồng sẽ trở nên có cơ sở thực tiễn và đây là căn cứ đảm bảo cho tính khả thi của các quyết định về quản lý môi trường về mặt kinh tế. Chẳng hạn, việc đề ra phí thu gom chất thải không thể nào áp dụng một mức như nhau cho tất cả các địa phương mà phải phân cấp cho các địa phương quyết định trên cơ sở lấy ý kiến cộng đồng.
Người dân tham gia vào các dự án giúp cho dự án có thể tiếp tục vận hành tốt, và có hiệu quả sau khi dự án kết thúc. Bởi vì hoạt động của dự án đem lại lợi ích cho họ. Và có thể được nhân rộng ra nhằm giải quyết vấn đề trên phạm vi rộng hơn.
Sự tham gia của người dân sẽ góp phần điều tiết trong sử dụng nguồn lực đảm bảo tính bền vững trong quản lý môi trường, tài nguyên thiên nhiên được sử dụng hiệu quả nhất khi biết vận dụng kiến thức của người dân và huy động được các nguồn lực tài chính sẵn có trong cộng đồng vào việc làm kinh tế, từ đó tạo có hội tăng thu nhập cho người dân.
Có sự tham gia của cộng đồng sẽ đảm bảo giám sát và đánh giá các chương trình liên quan đến quản lý tổng hợp, duy trì được các hoạt động thông qua hợp tác trong cộng đồng và thể chế hoá sự tham gia của cộng đồng. Những dự án từ khi bắt đầu đến khi vận hành thì đều phải gắn với môi trường dân cư trong vùng, người dân trong vùng là người hiểu rõ nhất những nảy sinh, những hiện tượng khi dự án hoạt động. Họ sẽ là người đưa ra những đánh giá trung thực nhất, sát sao nhất về dự án qua đó đánh giá được thực chất của dự án
Sự tham gia của cộng đồng vào các dự án sẽ giải quyết được vấn đề nhận thức của người dân thông qua sự tác động lẫn nhau giữa các thành viên trong cộng đồng. Người dân sống trong một cộng đồng nên họ dễ dàng chia sẻ và bảo ban nhau vì vậy khi có người vi phạm hoặc đi ngược lại hoạt động của quản lý thì họ là người tác động đem lại hiệu quả nhất.
1.1.3 Các nguyên tắc trong quản lý môi trường dựa vào cộng đồng.
Nguyên tắc: Xác định danh giới rõ ràng.
Nguyên tắc này cho rằng việc tổ chức quản lý dựa vào cộng đồng phải được phân công rõ dàng cụ thể tới từng đối tượng. Xác định được đối tượng cần quản lý, từ đó tiếp tục chia nhỏ đối tượng quản lý để dễ phân chia công việc. Phải phân công rõ dàng từng công việc tới từng đối tượng. Nếu không dễ dẫn tới tình trạng không biết được mình quản lý cái gì hay đối tượng thuộc ai quản lý. Tránh tình trạng “Cha chung không ai khóc”. Trong quá trình phân công công việc, phân công trách nhiệm phải chú ý là phân công được tất cả công việc tới tất cả các đối tượng tham gia không để sảy ra tình trạng người muốn tham gia không được tham gia hay công việc dồn quá nhiều vào một người như thế dễ sảy ra xung đột trong quản lý.
Nguyên tắc: Cân đối giữa chi phí và lợi ích
Để lôi kéo được người dân tham gia vào việc quản lý môi trường cần có cơ chế tăng thu nhập cho họ. Tức là cần gắn kết giữa mục tiêu quản lý môi trường với tăng thu nhập của người dân. Người dân tham gia vào việc quản lý tích cực khi họ tìm thấy ở đó lợi ích đem lại cho họ mà ngoài lợi ích gián tiếp là các lợi ích trực tiếp thu được hàng ngày. Khi người dân tham gia vào các hoạt động kinh tế mà do dự án tổ chức thì họ phải thu được thu nhập từ hoạt động này để duy trì đời sống của mình và gia đình, vì thế mà các dự án ngoài việc đầu tư cho các hoạt động phục vụ mục đích chính cần hỗ trợ người dân ở đó phát triển kinh tế đảm bảo người dân tham gia là có lợi ích kinh tế ví dụ như: hỗ trợ kĩ thuật, giống cây, tiêu thụ sản phẩm...
Nguyên tắc: Được đưa ra, được tiếp thu ý kiến
Cộng đồng dân cư được phép và được khuyến khích đưa ra ý kiến của mình trong các cuộc thảo luận. Họ được đưa ra những đánh giá về hoạt động của hệ thống quản lý. Người dân địa phương thông qua việc đóng góp ý kiến sẽ cung cấp cho cơ quan quản lý cao hơn những thông tin, những phản hồi từ phía họ. Những vấn đề mà người dân có thể sẽ gặp phải khi hệ thống đi vào vận hành. Những ý kiến từ phía người dân là rất quan trọng vì khi hệ thông hoạt động sẽ ảnh hưởng tới lợi ích, cuộc sống của họ và không ai hơn họ là người cung cấp thông tin đúng đắn, sát thực nhất. Đồng thời, người dân địa phương là người sống lâu ở địa bàn, họ có kinh nghiệm về địa bàn sinh sống vì vậy họ có thể đưa ra những giải pháp đơn giản mà hiệu quả cho những vấn đề đặt ra.
Nguyên tắc: Người dân tham gia giám sát
Mọi hoạt động, muốn thực hiện có hiệu quả cần có sự giám sát, và lẽ tất nhiên khi người dân tham gia vào hệ thống quản lý thì họ cũng có quyền được giám sát. Sự giám sát của người dân là hoạt động giám sát đối với hệ thống quản lý cấp trên giám sát đối với đối tượng quản lý, và giám sát lẫn nhau. Người dân tham gia giám sát giúp cho dự án hoạt động hiệu quả về thời gian, chất lượng. Giám sát của người dân là một nguyên tắc giúp cho dự án vận hành tốt, đi chệch hướng khi dự án kết thúc, không còn sự giám sát từ phía dự án. Sự giám sát của dân giúp phản ánh kịp thời những sai phạm của các khâu khi thực hiện dự án vấp phải, nêu nên mong muốn của dân trong quá trình triển khai dự án.
Nguyên tắc: Thưởng phạt rõ ràng.
Những cá nhân trong cộng đồng chịu sự giám sát của các tổ chức, đặc biệt là sự giám sát của cộng đồng mình về các hoạt động của mình. Nếu có hành vi vi phạm thì sẽ bị phạt, còn nếu lập công thì sẽ được thưởng. Những cá nhân không tham gia vào hoạt động của dự án có thể bị loại trừ khỏi các hoạt động công cộng khác, đây là cơ chế để khuyến khích người dân tham gia vào mô hình quản lý. Đồng thời cuốn hút người dân tham gia nhiệt tình hơn. Nhưng cơ chế thưởng phạt phải thật rõ ràng và đủ khả năng khuyến khích và lôi kéo sự quan tâm của mọi người.
Nguyên tắc: Công nhận quyền tối thiểu đối với các tổ chức.
Người dân được phép đưa ra ý kiến của mình với các cơ quan quản lý nhà nước trong hệ thống quản lý môi trường mà không bị cản trở bởi các tổ chức nhà nước khác. Có nghĩa là khi người dân đưa ra ý kiến của mình họ không phải bận tâm về việc có động chạm vào các tổ chức khác không, và nếu có động chạm vào thì họ có phải chịu trách nhiệm gì không? Điều này có ý nghĩa rất quan trọng vì vấn đề người dân đưa ra nhiều khi có liên quan tới nhiều lĩnh vực liên quan khác chứ không phải chỉ về môi trường, vì thế nguyên tắc này đưa ra nhằm khuyến khích người dân nêu ra ý kiến của mình, và khuyến khích họ đưa ra ý kiến trung thực nhất.
1.1.4 Tiến trình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng (CBEM).
Hình1.1.4.1: Tiến trình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng( CBEM)
Ô nhiễm nước, không khí, đất, cải tạo cơ sở hạ tầng, tái định cư
Xác định các thách thức của cộng đồng
Cán bộ được địa phương bầu cử, lãnh đạo cộng đồng có uy tín khác
Chỉ định người triệu tập
(người đầu tầu)
Chính quyền
Tổ chức NGO
Doanh nghiệp
Xây dựng nhóm làm việc cộng đồng
(nhóm CBEM)
Tổ chức các cuộc họp để xác định các thách thức và mục tiêu, thông tin và các yếu tố cần thiết, đề ra hướng giải quyết có thể
Xây dựng sự nhất trí
kinh tế
Môi trường
Xã hội
Đề ra các mục tiêu
Xây dựng giải pháp
Xây dựng kế hoạch hành động
Ký kết thoả thuận
Các đối tác cam kết:Hành động
Nguồn lực
Lịch trình
Biện pháp thực hiện
Phục hồi lưu vực
Cải thiện việc quản lý chất thải
Sản xuất sạch hơn
Giáo dục, tham gia của cộng đồng
Thưc hiện dự án
* Xác định các thách thức của cộng đồng.
Quá trình xác định các thách thức của cộng đồng là sự tham gia của nhiều bên liên quan, các bên cùng thảo luận để đưa ra vấn đề môi trường cụ thể của khu vực như các vấn đề về ô nhiễm nước, không khí, cải tạo cơ sở hạ tầng... Từ đó xác định các vấn đề ưu tiên, tìm kiếm các giải pháp để xây dựng sự đồng thuận rộng rãi trong cộng đồng. Trong suốt quá trình cộng đồng ra quyết định thì việc thảo luận được tiến hành với nhiều mức độ khác nhau, hình thức và tỷ lệ khác nhau. Điều này có thể đưa ra nhiều vấn đề khác nhau nhưng cuối cùng sẽ tập chung chủ yếu vào ý kiến tổng hợp của một tỷ lệ dân cư rộng lớn.
* Chỉ định người triệu tập.
Việc bổ nhiệm người triệu tập có thể thông qua việc sử dụng bảng câu hỏi như là một hướng dẫn để lựa chọn được người triệu tập cho dự án. Có thể đưa ra một ví dụ khi lựa chọn người triệu tập, bằng việc đưa ra các câu hỏi sau cho nhóm cộng đồng trả lời.
- Ai là người trong cộng đồng có thể tham gia là người triệu tập?
- Ai có được sự hỗ trợ từ địa phương, có mối liên quan tới quản lý nhà nước để bênh vực cho dự án ?
- Ai có thể đóng vai trò lãnh đạo, có kỹ năng điều phối và biểu lộ sự tập chung?
- Ai có thể đủ thời gian tham gia?
- Chính quyền có bằng lòng bổ nhiệm người triệu tập không ?
Trong ví dụ này, với 5 câu hỏi trên, nguời nhận được câu trả lời tốt nhiều nhất sẽ được lựa chọn là người triệu tập của dự án.
* Xây dựng nhóm cộng đồng.
Nhóm cộng đồng bao gồm các thành phần sau:
Nhà tài trợ: Đó là một nhà lãnh đạo hoặc cơ quan, cộng đồng, nhóm dân cư, doanh nghiệp... Trách nhiệm của họ là nhận diện các vấn đề và đưa ra đánh giá.
Người triệu tập, nhà lãnh đạo: Có thể là nhà lập pháp, chủ tịch UBND, đại biểu hội đồng nhân dân, người đứng đầu trong cộng đồng được kính trọng...Với trách nhiệm tập hợp mọi người bàn bạc cùng nhau (quá trình đồng thuận của tất cả các đối tác tham gia) viết văn bản thoả thuận của tất cả các đối tác, đảm bảo sự phát triển bền vững, hiệu quả và quá trình tiến hành lâu dài của dự án
Nhóm trung lập: Đó là các trường đại học, trung tâm đồng thuận, các tổ chức dân sự, chương trình mở rộng....
Các nhóm trên chính là nhóm làm việc cộng đồng, trong quá trình thực hiện dự án cần phải có sự phối hợp đồng bộ và có sự phân chia trách nhiệm rõ ràng cho các nhóm.
* Xây dựng sự nhất trí.
Sự nhất trí được duy trì trên nguyên tắc hoạt động là công bằng, cởi mở và tin tưởng lẫn nhau. Tiến hành bằng cách tổ chức các cuộc họp, hội thảo để xác định các thách thức và mục tiêu, xác định thông tin và các yếu tố cấn thiết, đề ra hướng giải quyết có thể. Sự hình thành sự nhất trí không phải thông qua hình thức biểu quyết trong các cuộc hội thảo mà bằng các hình thức tìm hiểu, giải thích, cùng bàn bạc đi đến quyết định cuối cùng. Tạo không khí thân mật, cởi mở để mọi người đều đưa ra ý kiến của mình.
* Đề ra các mục tiêu.
Việc đề ra các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường nhằm giúp dự án xác định rõ kết quả đạt được về từng lĩnh vực cụ thể là như thế nào, từ đó càng thấy rõ tầm quan trọng của dự án cũng như của cộng đồng trong việc phối hợp giải quyết các vấn đề môi trường. Việc đề ra các mục tiêu chính là cơ sở để xây dựng các mục tiêu nhỏ, cụ thể để từng bước thực hiện các mục tiêu lớn. Có thể đề ra các mục tiêu trên thông qua việc xác định các chỉ tiêu chính. Các chỉ tiêu đưa ra phải được nghiên cứu kĩ lưỡng những điều kiện hiện có để có những chi tiêu phù hợp, nếu chỉ tiêu quá cao hoặc quá thấp đều không có tác dụng thúc đẩy hoạt động. Chỉ tiêu quá thấp sẽ không thực hiện được mục tiêu đề ra, chỉ tiêu quá cao, khó hoàn thành sẽ kìm hãm sự cố gắng hoàn thành.
Hình 1.1.4.2 Sơ đồ xác định các chỉ tiêu, mục tiêu.
chỉ tiêu 1.1
1. Môi trường
Bước 2
Đối với mỗi mục tiêu, trình bày rõ từng loại chỉ tiêu
chỉ tiêu 1.2
Bước1
Liệt kê các mục tiêu cho mỗi loại môi trường ,kinh tế và xã hội
chỉ tiêu 2.1
2. Kinh tế
Chỉ tiêu 2.2
Chỉ tiêu 3.1
3. Xã hội
Chỉ tiêu 3.2
Bước 3: Sử dụng bảng danh sách các mục tiêu và chỉ tiêu để truyền đạt những lợi ích đến cộng đồng và các đối tác
* Xây dựng các giải pháp tích hợp.
Việc xây dựng các giải pháp tích hợp được thực hiện thông qua việc lập kế hoạch. Chúng bao gồm các bước sau:
- Xác hoạt động của dự án.
Là bước quan trọng nhất trong giai đoạn lên kế hoạch dự án, thời gian và nỗ lực đầu tư cho bước này giúp dự án có nhiều khả năng thành công. Việc xác định các hoạt động cần có sự tham gia đầy đủ của các bên liên quan và phải dựa trên các mục tiêu cụ thể của dự án, kể cả những nguồn lực và trở ngại. Dự án được thực hiện một cách có hệ thống khi các hoạt động được vạch ra một cách chi tiết và kĩ lưỡng ở giai đoạn chuẩn bị. Khả năng quyết định một loạt hoạt động theo trình tự với nhau và những đề mục hoạt động là một kĩ năng quan trọng mà nhà lập kế hoạch cần phải có.
- Trình tự các hoạt động.
Khi đã định được các hoạt động thì vấn đề cần thiết là lập được một trình tự đúng đắn cho các hoạt động . Biết trình tự đúng đắn sẽ tránh lãng phí thời gian và nguồn lực. Thông thường một dự án được thực hiện bởi một nhóm cá nhân, do đó khi đã có khởi động thì cần phải có sự giám sát và phối hợp các hoạt động để tiến hành theo một trình tự hợp lý. Vì vậy, sắp xếp các hoạt động phải được làm trong giai đoạn chuẩn bị.
Việc vạch kế hoạch về thời gian cho các hoạt động chính, phụ sẽ giúp dự án dự án được mỗi hoạt động, khởi sự và hoàn tất trong khuôn khổ các nguồn lực sẵn có. Điều này cũng giúp giám sát các hoạt động của dự án trong quá trình thực hiện, kiểm tra xem công việc có tiến triển theo đúng kế hoạch không.
- Phân công trách nhiệm.
Việc phân công trách nhiệm cần tiến hành có phương pháp để đảm bảo sự tham gia đầy đủ của cộng đồng, vì quá trình lên kế hoạch của dự án sẽ không hoàn chỉnh nếu không phân công trách nhiệm cho từng cá nhân hoặc nhóm thực hiện những hoạt động khác nhau. Khi phân công trách nhiệm điều quan trọng là động cơ của những người thực hiện, các cá nhân sẽ có động lực tốt nếu họ được phân công công việc họ muốn đảm nhận và hoàn thành. Do đó, cần phải tìm hiểu những kĩ năng, chuyên môn và sở thích của các thành viên, nhóm cộng đồng để có những phân công hợp lý.
* Ký kết thoả thuận.
Kí kết thoả thuận áp dụng sau hội thảo lập kế hoạch hành động nhằm mục đích dẫn chứng - bằng văn bản - các vai trò và sự giao phó cho mỗi đối tác chủ yếu có liên quan tới quy trình CBEM.
Quy trình thực hiện ký kết thoả thuận có thể bao gồm bước:
- Người triệu tập xác nhận lại các đối tác chủ yếu đã ký tên vào bảng công bố.
- Điều phối viên dự án chuẩn bị bản công bố và thu thập ý kiến tán thành của từng thành viên, nhóm.
- Người triệu tập họp các đối tác để cùng nhau ký thoả thuận chính thức.
Bản ký kết sẽ diễn đạt tất cả các thông tin cần thiết để thuyết phục và dẫn chứng sự thoả thuận mà các đối tác đạt được trong việc thực hiện mô hình CBEM.
* Thực hiện dự án.
Thực hiện dự án là quá trình triển khai các kế hoạch đã lập ra trong các hội thảo trước đó dựa trên sự đóng góp của các bên theo thoả thuận, bao gồm các hoạt động phối hợp của nhiều bên nhằm đảm bảo sự tham gia của các lực lượng vào quá trình triển khai mô hình. Để triển khai mô hình thành công cần chú ý tới các vấn đề sau:
- Cần xác định rõ vấn đề môi trường cần giải quyết.
- Lựa chọn được công cụ phù hợp, dưới cái nhìn toàn diện.
- Trong quá trình thực hiện cần sự điều chỉnh linh hoạt và phối hợp tốt giữa các đối tác.
- Đạt được các cam kết của các bên liên quan, cần thiết trong phối hợp giữa chính quyền và nhân dân.
- Cần xác định rõ vai trò của người đầu tầu trong dự án CBEM, người đầu tầu phải được chỉ định bởi chính quyền và có uy tín trong cộng đồng. Người đầu tầu phải quan tâm đến những tác động tích cực và tiêu cực của dự án, và hoạt động vì lợi ích chung.
1.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở VIỆT NAM.
1.2.1 Cơ sở của việc áp dụng mô hình quản lý môi trường có sự tham gia của cộng đồng ở Việt Nam.
Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường, đặc biệt trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Điều này được thể hiện rõ trong các văn bảo luật, các văn kiện, định hướng phát triển đất nước là phát triển đất nước bền vững, hài hoà giữa ba mục tiêu là kinh tế, môi trường và xã hội. Chính vì vậy, trong các văn bản pháp luật cũng chú ý tới các hình thức quản lý môi trường, đặc biệt nhấn mạnh tới hình thức quản lý dựa vào cộng đồng, người dân địa phương cụ thể như:
Nghị quyết 41/NQ-TW ngày 15/11/2004 của bộ chính trị về chủ trương “đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động bảo vệ môi trường”
Quy định số 256/ 2003/ QĐ-TTg của, ngày 2-12-2003 của thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 cũng nhấn mạnh “Bảo vệ môi trường là nhiện vụ của toàn xã hội, của các cấp các ngành, các tổ chức, cộng đồng và của người dân”
Trong chỉ thị 36/CT-TW, ngày 25-6-1998 “BVMT là sự nghiệp của toàn đảng, toàn quân, toàn dân”.
Những căn cứ pháp lý này có vai trò quan trọng để khuyến khích việc áp dụng hình thức quản lý này ở nước ta. Và nó cũng tác động tới tâm lý người dân, làm họ tự tin và tin tuởng hơn khi tham gia vào các dự án cần sự tham gia của người dân trong việc quản lý môi trường.
1.2.2 Các mô hình quản lý môi trường quản lý môi trường dựa vào cộng đồng hiện có ở Việt Nam.
1.2.2.1 Mô hình cam kết bảo vệ môi trường.
Mô hình này được xây dựng trên cơ sở các hương ước, quy ước. Đây là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các cuộc vận động duy trì an ninh, trật tự vệ sinh môi trường và giải quyết các tranh chấp vi phạm nhỏ trong lĩnh vực BVMT, hương ước, quy ước ra đời trên cơ sở đoàn kết gắn bó, thống nhất của mỗi thành viên trong cộng đồng làng, xã.
Hương ước, quy ước quy định những nội dung hết sức thiết thực gần gũi, hữu ích với cuộc sống hàng ngày. Hương ước quy định được cộng đồng lập ra dựa trên các quy ước truyền thống và hướng dẫn của cơ quan kiểm lâm. Một nội dung không thể thiếu ở bất kì hương ước nào là các quy định về BVMT. Những quy định này góp phần quan trọng trong việc nâng cao ý thức BVMT.
Quy ước là một hình thức của hương ước và ngày càng được sử dụng nhiều, các quy ước thì rất nhiều, đa dạng điều quan trọng là phải phù hợp với đặc điểm của từng địa phương. Quy ước của cộng đồng còn được sử dụng trong việc xây dựng làng văn hoá.
Để phát huy những ưu điểm này Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành thông tư 56/1999/TT-BNNPTNT hướng dẫn xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn, làng, buôn, bản, Tuy nhiên để những hương ước, quy ước BVMT có hiệu qủa cần thiết có sự tham gia, chỉ đạo của chính quyền cơ sở, đặc biệt nên tránh tình trạng biến hương ước, quy ước trở thành những văn bản pháp lý của nhà nước. Bên cạnh đó có các hương ước, quy ước thường không bị cưỡng chế bởi các cơ quan thực thi pháp luật, nên dễ bị xâm phạm đòi hỏi cần có cơ chế giám sát tốt thông qua hình thức giám sát từ dòng họ của các tổ dân phố, cụm dân cư.
1.2.2.2 Mô hình tổ chức tự quản xử lý ô nhiễm môi trường.
Trước thực tế ô nhiễm môi trường (ONMT), nhiều loại hình tự quản xử lý ô nhiễm môi trường với quy mô hoạt động trên địa bàn thôn, xã và quy mô huyện đã xuất hiện. Hiệu quả của các hoạt động này phụ thuộc rất nhiều vào chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư. Ngoài ra việc quy định mức phí đóng góp thích hợp của cộng đồng, các hình thức phân chia trách nhiệm cũng như phân chia lợi nhuận một cách công bằng, bình đẳng trong nhóm là điều kiện đảm bảo nhóm, tổ chức duy trì và phát triển. Mô hình này ra đời đã đạt được các mục tiêu: Xử lý rác làm sạch môi trường với giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo, tạo đà xây dựng tổ phụ nữ tiết kiệm lồng ghép vệ sinh môi trường. Hoạt động trên cơ sở phát huy nguồn lực cộng đồng, tổ chức thu gom rác thải tại nguồn, phát triển tái sử dụng và quay vòng sử dụng chất thải rắn, tự trang trải, và quyền được đổ rác hợp vệ sinh của người dân.
1.2.2.3 Mô hình lồng ghép xoá đói giảm nghèo với BVMT.
Điển hình cho mô hình này là các làng sinh thái ở Vĩnh Trinh- Thành phố Cần Thơ, xã Cổ Đô- Ba Vì- Hà Tây, xã Lộc Trì- Phúc Lộc- Thừa Thiên Huế và các mô hình làm tăng năng xuất cây xanh của trung tâm năng suất Việt Nam. Hiện nay, các mô hình này đang được người dân đón nhận và là mục tiêu hướng tới của các nhà quản lý. Hoạt động của các mô hình này mang lại lợi ích kinh tế rõ rệt đồng thời bảo vệ được môi trường, hướng tới sự phát triển bền vững. Tuy nhiên thực hiện các mô hình này đòi hỏi phải có sự đồng thuận cao của cả cộng đồng, sự hướng dẫn chỉ đạo kĩ thuật chặt chẽ sát sao của nhà khoa học và vốn đầu tư ban đầu tương đối cao. Mô hình lồng ghép xoá đói giảm nghèo với BVMT là một hướng giải quyết toàn vẹn vừa đáp ứng được nhu cầu tăng thu nhập cho người dân vừa giúp đạt được mục tiêu bảo vệ môi trường.
1.2.2.4 Các phong trào tình nguyện .
Xuất phát từ mục tiêu khác nhau nhưng các phong trào tình nguyện đều gặp một điểm chung là cùng nhau giữ gìn phát triển tài nguyên thiên nhiên và BVMT. Từ những hoạt động tình nguyện các phong trào đã lôi cuốn và thu hút nhiều người tham gia và hưởng ứng, góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc của cộng đồng dân cư và mang lại lợi ích thiết thực cho ngưòi dân. Tuy nhiên các phong trào này rất khó duy trì, tính bền vững không cao vì mục đích liên kết và những điều kiện ràng buộc còn lỏng lẻo. Có không ít phong trào kém hiệu quả, lúc phát động thì trống dong cờ mở, lúc làm thật thì chỉ được thời gian đầu, về sau xẹp dần theo mô hình luẩn quẩn” phát - động - xẹp – phát”. Nguyên nhân chính là chưa tuyên truyền vận động sâu rộng và thường xuyên để góp phần nâng cao cao nhận thức thực sự và làm thay đổi hành vi ứng sử, không có tổ chức chủ trì việc đôn đốc, theo dõi phong trào, hoặc có nhưng tổ chức này chưa làm tròn trách nhiệm, sự tham gia của cộng đồng, của công chúng còn ít, thiếu khen chê, thưởng phạt kịp thời, công bằng và thoả đáng. Thực tế cho thấy các phong trào tình nguyện đòi hỏi những người tham gia phải là người tâm huyết, nhiệt tình với chương trình đôi khi hộ phải chịu thiệt thòi
1.2.2.5 Mô hình BVMT trong sản xuất công nghiệp.
Nước ta đang hình thành những mô hình tốt gắn sản xuất với BVMT như mô hình sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, nhiên liệu, BVMT của các công ty. Điển hình như công ty TNHH Chiang shin Việt Nam, công ty._. thuốc sát trùng Việt Nam, công ty phân lân nung chảy Văn điển, công ty xăng dầu Hà tĩnh…
Qua thực tế cho thấy mô hình đem lại lợi ích rõ rệt về kinh tế và môi trường. Một số mô hình đòi hỏi vốn ban đầu tương đối lớn để thành lập hệ thống xử lý chất thải nhưng lại thu đuợc những lợi ích to lớn về môi trường và sức khoẻ người lao động. Tuy nhiên các mô hình này mới bước đầu áp dụng ở Việt Nam, chưa được phổ biến rộng rãi do ý thức bảo vệ môi trường trong các doanh nghiệp ở Việt Nam còn kém, một sỗ khác các doanh nghiệp chưa có đủ tiềm lực để áp dụng hình thức này. Do đó mô hình này cần được nghiên cứu kĩ, hỗ trợ từ nhà nước cũng như hoạt động tuyên truyền thích hợp.
1.2.3 Những thuận lợi trong việc áp dụng mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng ở Việt Nam.
Ở Việt Nam đã có những văn bản pháp lý với những điều khoản điều chỉnh, khuyến khích việc huy động người dân tham gia vào công tác bảo vệ môi trường. Đây là sự thuận lợi về thể chế chính sách, là thuận lợi ban đầu để cho thu hút các dự án hỗ trợ xây dựng các mô hình quản lý có sự tham gia của cộng đồng và là cơ sở để vận động người dân tham gia vào hoạt động quản lý môi trường. Qua việc cộng đồng địa phương có thể đóng góp ý kiến cho các chủ trương chính sách của nhà nước và các dự án đầu tư, nhất là các tác động trực tiếp tới môi trường, tới sản xuất và đời sống của nhân dân tại đó. Vì vậy, thực hiện nguyên tắc ”Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là một trong các biện pháp quan trọng để xã hội hoá cộng tác bảo vệ môi trường.
Các cộng đồng dân tộc Việt Nam, các cộng đồng địa phương đã có truyền thống lâu đời từ nhiều thế kỷ trong việc sống hài hoà với thiên nhiên, bảo vệ môi trường nên việc vận động, thu hút họ vào công tác quản lý môi trường không gặp quá nhiều khó khăn. Đặc biệt là các cộng đồng miền núi luôn luôn gắn bó với rừng. Hầu như tất cả các hoạt động kinh tế của cộng đồng đều dựa vào việc quản lý và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, trong đó tài nguyên rừng (thậm chí có nơi mà 50-60% tổng thu nhập nhân dân địa phương được rừng cung cấp). Từ nhỏ trong sinh hoạt đời sống hàng ngày họ đã gắn bó với cây cỏ, rừng núi nên họ có tình cảm với mọi vật xung quanh họ, chỉ cần giáo dục, phân tích rõ những tác động thiệt hơn tới rừng thì chắc chắn rằng họ sẽ làm theo.
Nước ta là một trong những nước có mức đa dạng sinh học cao, chính vì thế đã thu hút được nhiều dự án đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi trường. Các dự án tác động trực tiếp bằng cách hỗ trợ tài chính cho việc xây dựng mô hình quản lý cộng đồng như các mô hình thu gom rác thải có sự tham gia của người dân ở các phường xã, hay các mô hình bảo tồn ở các vườn quốc gia, các khu bảo tồn... Các dự án tác động gián tiếp bằng cách cho vay vốn phát triển kinh tế, hay dự án đầu tư cho tuyên truyền giáo dục môi trường tới người dân.
- Các ngành ở một mức độ nào đó đã có sự quan tâm tới hoạt động quản lý này, thông qua việc hỗ trợ về thể chế chính sách, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai các dự án về môi trường tại các địa phương.
1.2.4 Những khó khăn trong việc áp dụng mô quản lý môi trường dựa vào cộng đồng ở Việt Nam.
Bên cạnh những thuận lợi trong việc áp dụng mô hình quản lý cộng đồng ở Việt Nam, thì còn không ít khó khăn gặp phải khi xây dựng mô hình, cụ thể:
Điều kiện kinh tế nước ta chưa đủ để người dân quên đi những lo lắng về “cơm áo, gạo tiền” mà quan tâm tới chất lượng cuộc sống, khi số lượng chưa đáp ứng được nhu cầu thì người ta ít quan tâm tới chất lượng. Vì thế mà người dân Việt Nam ít có khả năng, cơ hội tham gia vào công tác quản lý môi trường cho dù là họ có quan tâm đi nữa.
Kiến thức của người dân về môi trường và hoạt động bảo vệ môi trường còn hạn chế. Điều quan trọng là phải nâng cao nhận thức của cộng đồng. Bên cạnh đó, hoạt động nâng cao nhận thức là hoạt động diễn ra trên diện rộng, cần nhiều thời gian với nguồn kinh phí khá lớn. Khi thiếu kiến thức về bảo vệ môi trường sẽ ảnh hưởng tới sự tham gia rộng lớn của cộng đồng dân cư trong mô hình và cũng ảnh hưởng tới quá trình triển khai mô hình. Sự tham gia của cộng đồng vào các khâu của mỗi hoạt động (từ thiết kế, thực hiện, đánh giá) đòi hỏi người dân phải có kiến thức nhất định hoặc có nhận thức rõ ràng về lợi ích trước mắt và lâu dài, nhưng trong thực tế các nhóm cộng động nghèo và có địa vị thấp lại gặp khó khăn về mặt này. Vì vậy đòi hỏi người đưa ra sáng kiến phải kiên trì và có phương pháp cũng như cách làm việc thích hợp.
Trong quá trình chuẩn bị xây dựng kế hoạch, thiết kế và tổ chức thực hiện với cách tiếp cận lấy ý kiến cộng đồng, đòi hỏi nhiều thời gian hơn, nhiều công sức, tài chính hơn vì phải tổ chức các buổi thảo luận, lấy ý kiến. Đây là khó khăn trong việc tiến hành và triển khai mô hình.
Năng lực quản lý của cộng đồng nói chung còn thấp, nhất là các nhóm dân cư nghèo dẫn đến lúng túng trong tham gia và điều hành công việc..
Vai trò của chính quyền chưa được thể hiện rõ, các cấp chính quyền địa phương còn thiếu hiểu biết về cách huy động cộng đồng tham gia, do đó việc tiến hành còn lúng túng và kết quả còn hạn chế.
Sự hỗ trợ của các ngành các cấp, các vườn quốc gia còn hạn chế ví dụ việc ngăn cấm bán các loại sản vật quý hiếm ở các khu vực xung quanh các vườn quốc gia nhiều nơi không được thực hiện.
Giao thông, cơ sở hạ tầng, phương tiện phục vụ trong hoạt động quản lý là một vấn đề bức xúc đối với việc thực hiện hoạt động quản lý.
1.2.5 Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong lĩnh vực quản lý môi trường dựa vào cộng đồng trong thời gian vừa qua.
Tuy rằng việc áp dụng mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, các mô hình còn nhiều bất cập trong triển khai vào hoạt động, nhưng trong cho tới hiện tại Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc huy động, lôi cuốn người dân tham gia vào quản lý môi trường. Nhờ đó mà công tác bảo vệ môi trường đã đem lại những hiệu quả rõ rệt.
Thiết lập được một hệ thống các hương ước, quy ước về môi trường ở nhiều xã, phường trên cả nước, đặc biệt là các quy ước, hương ước này được sử dụng để xây dựng làng văn hoá. Các hương ước bảo vệ môi trường được lập và thực hiện ở nhiều xã, bản như bản Hợp Thành xã Xá Lượng, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An Quy định về việc không được bắn vượn, mang nếu chúng mắc bẫy thì phải thả ra, hay ở làng Beng, xã Bảo Hoà huyện Bảo yên tỉnh Lào Cai quy định về việc bắn nai, số lượng nai được bắn mỗi năm là 3 con nai nếu bắn đủ rồi thì không được bắn nữa, ai vi phạm thì sẽ bị phạt rất nặng.
Nói đến quy ước thì phải đề cập tới quy ước bảo vệ môi trường của làng Chiết Bi - xã Thuỷ Tân - huyện Hương Thuỷ- Tỉnh Thừa Thiên Huế gồm 4 chương: Chương 1 quy định chung gồm 2 điều nói lên trách nhiệm của làng và mỗi người dân trong làng đối với việc chấp hành pháp luật. Chương 2 là quy định về các hành vi gồm 5 điều quy định việc không được phóng uế bừa bãi, xây dựng hố xí, hạn chế dùng bao ni lông, mọi gia đình có trách nhiệm bảo vệ nguồn nước...Chương 3 gồm 2 điều nêu ra các quy định về thưởng, phạt. Chương 4 gồm 3 điều khoản về thi hành. Làng cử ra Ban thường trực để tổ chức thực hiện, giám sát việc thực hiện quy ước. Các trưởng làng, trưởng họ, trưởng xóm và tổ trưởng của các đoàn thể như Hội nông dân, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội người cao tuổi...giúp đõ trong việc giám sát.
Ngoài ra còn các quy ước của làng Vân Cù - xã Hương Toàn - tỉnh Thừa Thiên Huế cũng gồm 4 chương và 12 điều nhưng vận dụng phù hợp với thực tế của địa phương như các điều khoản quy định không vui chơi gây tiếng ồn ảnh hưởng tới người khác đặc biệt sau 22h, không được tắm, giặt tại các bến sông trước 8h để đảm bảo nguồn nước lấy từ sông về làm bún. Quy ước bảo vệ môi trường ở xã Nậm Loòng - huyện Tam Đường - tỉnh Lai Châu có một số điều khoản như không làm chuồng trâu, bò ở gần nhà hoặc gần nguồn nước, không hạ cây tươi để làm củi, không đào rãnh thông lấy nước từ ruộng trên xuống ruộng dưới... Quy ước bảo vệ môi trường ở xã thạch Hoà, huyện Bến Lức, tỉnh Long An có quy định người chết không để quá thời gian quy định, việc kèn trống tế lễ chỉ thực hiện trước 23h, cấm dùng kích điện, chất nổ để đánh bắt ở ao hồ, kênh mương.
Xây dựng được mạng lưới cộng đồng bảo vệ rừng. Mỗi cộng đồng có một mạng lưới chính để chỉ đạo, tập chung toàn bộ lực lượng bảo vệ rừng. Nhiều tổ chức đoàn thể thành lập các mạng lưới của thanh niên chuyên tuần tra, canh gác, mạng lưới của phụ nữ để phát hiện các bất thường trong khai thác rừng, mạng lưới của nông dân đảm bảo chung cho rừng phát triển tốt, mạng lưới của người cao tuổi phát hiện nguy cơ cháy rừng, lâm tặc...Các hoạt động chủ yếu của mạng lưới này là tuyên truyền, giáo dục, phát hiện sự cố, thông tin với các cấp lãnh đạo và các ngành chuyên môn, tham gia giải quyết, sử lý sự cố khi sảy ra.
Phát huy được phong tục, tập quán và truyền thống bảo vệ rừng ở các địa phương có rừng. Người dân nhận thức được rằng rừng có vai trò quan trọng tới cuộc sống của chính họ chính vì thế các cộng đồng gắn bó với rừng và có truyền thống bảo vệ rừng. Tuy nhiên khi mật độ dân số tăng nên gây sức ép nghiêm trọng lên tài nguyên thì các phương thức khai thác truyền thống không còn thích hợp cần phải tìm kế sinh nhai khác nhưng vẫn giữ được phong tục tập quán trong việc bảo vệ rừng. Các dự án đầu tư, nguồn kinh phí của dự án ODA, các chương trình quốc gia, chuơng trình của địa phương tạo điều kiện cho dân cư ở các vùng đệm ổn định và nâng cao đời sống nhờ đó họ mới có thể giữ gìn các truyền thống bảo vệ môi trường.
Cộng đồng tham gia bảo tồn đa dạng sinh học. Các cộng đồng tham gia phục hồi tài nguyên rừng dưới nhiều hình thức. Nhiều cộng đồng đã kết hợp chăm sóc cây rừng, nâng cao độ phì nhiêu của đất rừng để phát triển nông nghiệp. Ví dụ ở Sa Pa đồng bào trong vùng đệm của vườn quốc Gia Hoàng Liên Sơn, đồng bào Mông, Dao đã chăm sóc cây rừng, bón phân cho đất rừng để phục hồi thảo quả dưới tán cây rừng. Đồng bào nhiều nơi cũng tự nhân giống cây rừng để phục vụ đời sống của họ. Nhìn chung, cộng đồng tham gia bảo vệ rừng một cách tự nguyện nhằm thực hiện tố chính sách của Nhà nước và bảo vệ quyền lợi thiết thực của mình.
Hình thành các doanh nghiệp tư nhân, mô hình tổ, đội, hợp tác xã hoạt động thu gom, vận chuyển chất thải. Điển hình là đội chuyên trách vệ sinh môi trường xã Thạch Kim - huyện Thạch Hà - tỉnh Hà Tĩnh do UBND xã Kim Thành khởi xướng và ra quyết định thành lập đội chuyên trách vệ sinh môi trường hoạt động từ năm 1998 trên cơ sở lấy thu bù chi, nguồn là do các hộ dân đống góp hàng tháng, tổ tự quản môi trường phường Hồng Hải - thành phố Hạ Long - tỉnh Quảng Ninh có chức năng thu gom rác sinh hoạt từ các hộ dân, phương tiện do nhân dân đóng góp. Hoạt động trên nguyên tắc công khai, các mức thu phí có sự đồng ý của UBND phường. Ỏ Hà Nội có tổ thu gom rác dân lập phường Nhân Chính - quận Thanh Xuân. Tổ thu gom này do UBND phường thành lập với nhiệm vụ là thu gom rác trên địa bàn phường và tập kết đến nơi quy định, khơi thông cống rãnh, phương thức hoạt động lấy thu bù chi và có lợi nhuận.
Ngoài sự tham gia của các tổ đội còn là sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực thu gom và vận chuyển rác thải mà điển hình là công ty TNHH Huy Hoàng - Lạng Sơn, công ty này đảm nhiệm việc thu gom, vận chuyển rác trên địa bản tỉnh Lạng Sơn ngoài ra công ty còn cung cấp các dịch vụ liên quan đến môi trường như nhận trở thuê rác, thông bể phốt. Công ty không những góp phần vào việc bảo bệ môi trường mà còn tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Phong trào tình nguyện ngày càng được mở rộng. Nhận thức của người dân về môi trường ngày càng tăng lên nên những phong trào, hình thức vận động rộng lớn cho công tác BVMT đã lôi cuốn nhiều người tham gia thuộc mọi tầng lớp và mọi lứa tuổi. Những việc làm tình nguyện này xuất phát từ lợi ích trực tiếp hàng ngày của cộng đồng tại cơ sở. Các hoạt động tình nguyện phát triển dưới nhiều hình thức, quy mô và mức độ khác nhau từ dọn dẹp vệ sinh đường làng ngõ xóm đến việc tổ chức có tính thường xuyên và dài ngày trong phạm vi cả nước hoặc một địa phương. Đặc biệt phong trào thanh niên, sinh viên tình nguyện do trung ương đoàn khởi xướng, sinh viên tham gia “mùa hè tình nguyện” toả về các vùng nông thôn giúp đỡ người dân khó khăn phát triển kinh tế - xã hội, phát triển văn hoá và cải thiện môi trường sống. Riêng hai tháng hè 2003 hàng ngàn đội thanh niên, sinh viên tình nguyện cả nước đã tổ chức 15000 lớp học xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở cho hàng chục nghìn người ở vùng sâu vùng xa, bác sỹ trẻ tình nguyện đã khám bệnh, tư vấn các phương pháp bảo vệ sức khoẻ và phát thuốc miễn phí cho 100000 người...
Ngoài ra còn có các đội tình nguyện xanh tham gia vào các nội dung như giáo dục nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, tham gia các hoạt động lồng ghép với các chương trình, dự án ở địa phương, giúp đỡ các địa phương xây dựng nề nếp hoạt động vệ sinh môi trường.
1.2.6 Những tồn tại trong hoạt động quản lý môi trường dựa vào cộng đồng ở Việt Nam.
Cộng đồng còn bị hạn chế trong việc tham gia vào các khâu lập kế hoạch và giám sát trong các dự án, nhiều khi có lấy ý kiến người dân nhưng đó chỉ là hình thức, còn những tham gia đóng góp, tiếng nói của người dân vẫn chưa được chú ý đúng mức.
Tính bền vững của sự tham gia cộng đồng chưa cao, các dự án sau khi hoàn thành các nhà tài trợ sau khi rút khỏi dự án thì hiệu quả hoạt động của dự án bị giảm xuống rõ rệt, thậm chi nhiều nơi dự án còn bị phá sản do không có sự giám sát thường xuyên của các cơ quan chính quyền và không được hỗ trợ kịp thời.
Đa phần dân chúng trong các cộng đồng ở địa phương không có khả năng tiếp cận với các ngồn vốn đầu tư của chính quyền địa phương, và điểm này đã ảnh hưởng tới khả năng tham gia rộng rãi của họ vào các hoạt động quản lý môi trường. mặt khác, sự phân cấp tài chính chưa diễn ra mạnh ở địa phương, vì thế chính quyền địa phương lại càng khó trong việc hỗ trợ hoạt động của cộng đồng.
Sự phối hợp của chính quyền địa phương với các tổ chức cộng đồng chưa được thể chế hoá, nếp nghĩ, nếp làm cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sự tham gia của cộng đồng.
Các doanh nghiệp chưa tham gia một cách có hiệu quả, thái độ còn thờ ơ do hoạt động không mang lại cho doanh nghiệp những lợi ích về kinh tế. Do đó, thiếu đi nguồn hỗ trợ chủ yếu về kinh phí, các phương tiện, vật dụng cho quá trình triển khai.
CHƯƠNG II
NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH QUẢN LÝ BẢO TỒN LOÀI VOỌC ĐẦU TRẮNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở
VƯỜN QUÔC GIA CÁT BÀ.
2.1 GIỚI THIỆU VỀ VƯỜN QUỐC GIA CÁT BÀ.
2.1.1 Lịch sử hình thành vườn.
Quần đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng Gồm 366 hòn đảo nhỏ. Trong đó đảo Cát Bà là đảo lớn nhất trong số 1969 đảo của quần thể vịnh Hạ Long. Đảo chính Cát Bà với quần thể các đảo nhỏ và hang động tạo nên một khung cảnh vô cùng hùng vĩ.
Vườn quốc gia Cát Bà với rừng nguyên sinh và nhiệt đới và hệ thống thảm thực vật phong phú, đặc trưng là các loài động thực vật quý hiếm đã được ghi vào sách đỏ của thế giới cũng như của Việt Nam.
Vườn quốc gia Cát Bà được thành lập dựa trên quyết định số 79/CT ngày 31/03/1986 của chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng (Bộ NN &PTNT ).
Vườn quốc gia Cát Bà có diện tích 15200 ha bao gồm 9800 ha diện tích của đảo Cát Bà và một số hòn đảo nhỏ và 5400 ha diện tích vùng biển xung quanh. Đây được coi là khu bảo vệ đầu tiên của Việt Nam có phân khu bảo tồn biển.Trung tâm Vườn quốc gia là đảo Cát Bà, nằm cách thành phố Hải Phòng 30 km về phía đông và sát ngay phía tây vịnh Hạ Long. Vườn quốc gia Cát Bà nằm trên phần diện tích hành chính của các xã Trân Châu, Hiền Hào, Gia luận, Việt Hải, và thị trấn Cát Bà, Vườn gồm vùng lõi, vùng đệm và vùng chuyển tiếp:
Vùng lõi là vùng không có tác động của con người, trừ các hoạt động nghiên cứu và giám sát, có thể duy trì một số hoạt động truyền thống của người dân địa phương cho phù hợp. Vùng lõi gồm: vùng lõi phía Đông Nam, và vùng lõi phía tây Bắc có diện bao gồm cả phần đảo và biển.
Vùng đệm là vùng tiếp giáp vùng lõi, có thể tiến hành các hoạt động kinh tế, nghiên cứu, giáo dục và giải trí nhưng không làm ảnh hưởng đến mục đích bảo tồn trong vùng lõi. Ở Cát Bà gồm hai vùng đệm là vùng đệm trung tâm nằm giữa vùng lõi Đông Nam (vùng đệm Việt Hải) có diện tích 141 ha và vùng đệm tiếp giáp. Đây là vùng có chức năng phát triển điều hoà, tôn trọng hiện trạng, phù hợp với tiêu chí bảo tồn của vùng lõi, vì vậy phải đảm bảo sự phát triển hạn định trong vùng này.
Vùng chuyển tiếp là vùng ngoài cùng, các hoạt động kinh tế ở đây vẫn duy trì bình thường, trong đó nhân dân địa phương cùng với các nhà khoa học, bảo tồn, công ty tư nhân, các tổ chức xã hội thoả thuận để cùng quản lý và phát triển bền vững nguồn lợi tài nguyên thiên nhiên mà Vườn quốc gia đem lại, gồm vùng chuyển tiếp phía Nam và vùng chuyển tiếp phía Bắc (xã Gia Luận). Vùng này tập trung đông dân cư nên chú trọng khuyến khích phát triển cộng đồng, vùng nông thôn như: Nuôi trồng thuỷ sản, dịch vụ du lịch, đào tạo lao động có tay nghề kỹ thuật cao để phát triển nghề cá khơi và du lịch, dịch vụ.
2.1.2 Điều kiện tự nhiên.
2.1.2.1 Vị trí địa lí.
Huyện đảo Cát Hải của Hải Phòng có toạ độ địa lý là 106050’-107005’ kinh độ đông, 20042’-20053’ vĩ độ bắc. Cát Hải có diện tích 322,3 km2 bao gồm hai đảo là đảo Cát Hải có diện tích 30km2 và đảo Cát Bà có diện tích gần 300 km2.
Đảo Cát Bà có toạ độ địa lý 20047’46” bắc và 106045’00” đông, phần đảo nổi Cát Bà có diện tích 144 km2 gồm 18 thôn xóm thuộc 6 xã và 1 thị trấn.
Vườn quốc gia Cát Bà nằm trong khu vực địa lý của đảo Cát Bà. Có toạ độ địa lý :
20043’50” đến 20051’29” vĩ độ bắc.
106058’20” đến 107010’05” kinh độ đông.
Theo ranh giới phía nam, tây nam và tây bắc, từ phía nam của đảo Bầu Dê theo hướng tây đến cửa Hòn Cát Dứa vòng đến cửa Áng Ven, qua Đồng tép nối với đỉnh khoăn Đà Lát theo đường phân thuỷ của dãy núi chạy dọc theo ranh giới các xã Trân Châu, Xuân Đán, Hiền Hào tới điểm dốc eo Bùa .
2.1.2.2 Địa hình.
Nằm trên Đảo Cát Bà nên địa hình vườn quốc gia Cát Bà mang đặc điểm địa hình của đảo Cát Bà. Địa hình của vườn mang đặc trưng của địa hình đá vôi cacsto và địa hình bài bốc.
- Địa hình Cacsto.
Với chiều dài khoảng 25 km chạy theo hướng tây bắc- đông nam chiều rộng khoảng 10 km, bề mặt địa hình khá hiểm trở xen kẹp những đỉnh núi cao từ 50-200m, có các thành dốc dựng đứng 300-400m là các thung ang và cánh đồng cacsto. Cánh đồng cacsto lớn nhất là áng Trung Trang (lâm trường Cát Bà) có diện tích 300 ha khá bằng phẳng hình thành giải đồng bằng trùng với hướng phát triển hệ thống đứt gẫy kiến tạo tây bắc – đông nam chạy giữa đảo.
- Địa hình bài bốc .
Ngoài địa hình cacsto phổ biến trên đảo còn có địa hình bài bốc như Cái vừng, Phù Long. Đặc biệt bài bốc Phù Long được hình thành chủ yếu do bùn cát phù sa vận chuyển từ phía đất liền ra, được lắng lại do tác động của động lực biển. Đặc trưng vật chất bài bốc ở đây chủ yếu là bùn cát phù sa có màu xám nên lẫn vật liệu hữu cơ rất phù hợp cho sự phát triển của các loại thực vật ngập mặn. Về phía tây bắc, đông nam của đảo cũng hình thành một số bài bốc nhỏ quanh chân núi, song ở xa dòng sông nên vật liệu trầm tích ở đây chủ yếu là sản phẩm phá huỷ do phong hoá từ đá vôi, đá silic.
2.1.2.3 Khí hậu thuỷ văn.
- Khí hậu.
Nằm ở vùng đông bắc nên khí hậu của Hải Phòng, Cát Bà nói chung và của Vườn quốc gia Cát Bà nói riêng mang những đặc điểm chung của khí hậu miền bắc nước ta, đồng thời nằm trên đảo nên Vườn cũng mang đặc điểm của khí hậu của các vùng ven biển. Đặc biệt huyện Cát Hải là một đảo nhỏ riêng biệt với đất liền nên bị chi phối nhiều của khí hậu đại dương.
Nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới nội chí tuyến, khí hậu miền bắc nước ta nói riêng mang tính chất nhiệt đới nóng ẩm. Tổng nhiệt độ cả năm dao động từ 80000C-85000C. Nhiệt độ trung bình tháng khu vực Cát Bà dao động từ 160C đến 29,20C, trung bình năm dao động từ 21,50C đến 24,50C. Trung bình nhiều năm là 230C. Tương ứng với nhiệt độ trung bình năm là tổng nhiệt trên khu vực Cát Bà dao động trong khoảng 80000C đến 85000C.
Về mùa hè nhiệt độ khá cao vào tháng 6, trung tâm của mùa nóng nhiệt độ trung bình nhiều năm 280C. Nhiệt độ cao tuyệt đối lên đến 38,50C .
Về mùa đông nền nhiệt độ thấp nhất vào tháng 1, tháng trung tâm của mùa lạnh nhiệt độ trung bình tháng xuống 160C. Nhiệt độ thấp tuyệt đối xuống 70C.
Biến đổi nhiệt độ trong ngày, đêm thường thấp nhất vào buổi sáng rồi tăng dần đến trưa đạt giá trị cực đại sau đó là giảm cho đến sáng.
- Độ ẩm.
Độ ẩm không khí trung bình tháng tại khu vực Cát Bà dao động trong khoảng từ 80-92%. Biến trình năm của độ ẩm tương đối đạt lớn nhất vào tháng 3 (>90%) vào tháng 8 (>86%) và đạt cực tiểu vào tháng 11, tháng 12 (76,78%). Độ ẩm tương đối khu vực Cát Bà trung bình năm đạt 85,9%. Về mùa đông độ ẩm phân bố tương đối phù hợp với lượng mưa, nơi mưa nhiều độ ẩm lớn, nơi mưa ít độ ẩm nhỏ. Độ ẩm cao thường xuất hiện vào ban đêm, độ ẩm cao nhất thường vào khoảng 4-6 giờ, ban ngày độ ẩm thấp nhất vào khoảng 12- 13 giờ.
- Mưa.
Lượng mưa hàng năm ở Cát Bà dao động trong khoảng từ 1500mm-1800mm (số liệu từ 1992-1998). Bình quân nhiều năm đạt 1661mm, mưa tập trung vào mùa hè. Lượng mưa từ tháng 5 đến tháng 10 chiếm khoảng 70% -90% lượng mưa cả năm. Lượng mưa 6 tháng còn lại chỉ chiếm từ 10-30%. Tháng 12, tháng 1, tháng 2 có lượng mưa nhỏ nhất, dao động từ 10mm-20mm. Lượng mưa bình quân trong 6 tháng mùa mưa dao động từ 200mm-300 mm, lượng mưa tháng 7, tháng 8 lớn nhất đạt trên 300mm. Số ngày mưa trung bình hàng năm tại Cát Bà là 95 ngày. Tháng 7, tháng 8 có số ngày mưa lớn nhất trong năm.
2.1.3 Điều kiện kinh tế-xã hội.
Đảo Cát Bà có diện tích trên 29000 ha chủ yếu là đồi núi xen kẽ với các thung sâu. Do điều kiện thiếu nước ngọt khu vực này chỉ trồng được một vụ lúa năng suất thấp và một số lọai cây màu, cây ăn quả và cây công nghiệp. Men theo bờ biển là hệ thống eo, vụng, vịnh, bãi triều rất thuận tiện cho việc nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản, có nhiều bãi tắm đẹp như Cát cò 1,2,3… tạo điều kiện cho phát triển du lịch.
2.1.3.1 Hiện trạng dân cư.
Khu vực Đảo Cát Bà cơ bản có thị trấn Cát Bà và 6 xã như: Xã Phù Long, Gia Luận, Hiền Hào, Xuân Đán, Việt Hải, Trân Châu. Trong đó có một xã nằm chọn trong phạm vi vườn quốc gia là xã Việt Hải. Dân số đảo vào năm 1999 là 10631 người trong đó dân số thị trấn Cát Bà là 7510 người. Mật độ dân cư trung bình thị trấn Cát Bà là 88 người/ km2, xã Việt Hải là xã có diện tích tự nhiên lớn thứ nhì trong huyện nhưng dân cư thưa thớt với mật độ chỉ 3 người/ km2.
2.1.3.2 Hiện trạng cơ sở hạ tầng .
Trong những năm gần đây tình hình cơ sở hạ tầng của đảo được cải thiện đáng kể. Trong những năm qua cùng với sự phát triển chung của cả nước nói chung và của Hải Phòng nói riêng, đảo Cát Bà cũng được đầu tư các dự án về điện, đường, nước sạch….Những năm qua các dự án hoàn thành và đưa vào sử dụng kể từ năm 1990 đến nay đã phát huy tốt hiệu quả đầu tư như các dự án: Dự án xây dựng đường điện 35KW ra đảo (11/2002), dự án đường xuyên ra đảo Hải Phòng - Cát Hải - Cát Bà (hoàn thành 4/2002), dự án cấp nước thị trấn Cát Bà (lấy từ khe Sâu, xã trân Châu), dự án đường hồ, trạm xử lý nước thải Tùng Dinh - thị trấn Cát Bà.
2.1.3.3 Hiện trạng phát triển kinh tế- xã hội.
Với đặc điểm là một huyện đảo ở Cát Bà cũng phát triển các ngành nghề đặc trưng như nuôi trồng thuỷ sản, khai thác thuỷ sản, chế biến thuỷ sản. Bên cạnh đó được thiên nhiên ban tặng phong cảnh hùng vĩ, nên thơ, đồng thời có các bãi tắm đẹp như cát cò 1, 2, 3.. đặc biệt là có vườn quốc gia Cát Bà với đa dạng sinh học phong phú và nhiều loài động vật quý hiếm là điều kiện phát triển ngành du lịch.
- Ngành du lịch.
Cát Bà đã tận dụng được ưu thế về vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên cho việc phát triển ngành du lịch. Ngày càng có nhiều khách sạn và nhà hàng được xây dựng để phục vụ du khách đến thăm đảo, đồng thời chất lượng các dịch vụ cũng ngày càng được nâng lên rõ rệt để thu hút du khách.
Thực tế chứng minh, trong những năm gần đây lượng khách du lịch đến thăm đảo ngày càng nhiều, Cát Bà cơ bản trở thành một trung tâm du lịch có sức hấp dẫn của thành phố và khu vực. Lượng khách du lịch đến Cát Bà tăng từ 25000 lượt năm 1996 lên 75000 lượt năm 1998 và năm 2003 là 220500 lượt. Riêng với khách du lịch nước ngoài tăng từ 600 vào năm1998 lên 15000 vào năm 2003, đến hết năm 2005 số lượng khách du lịch đến với Cát Bà đạt 435000 lượt trong đó người nước ngoài là 122000 lượt.
Qua con số thống kê về lượng khách du lịch đến thăm đảo chúng ta có thể thấy sự phát triển nhanh chóng trong ngành du lịch trên đảo, đặc biệt là khi đường giao thông xuyên ra đảo hoàn thành. Đồng thời cũng thấy được sức phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch trong những năm sắp tới.
- Ngành dịch vụ hậu cần nghề cá.
Trên đảo Cát Bà có cảng cá Cát Bà (khu Tùng Vụng) đã hoàn thành phần cầu cảng với tổng chiều dài 155m có khả năng tiếp nhận tầu đánh cá 400-500cv, phần cầu cảng cá Cát Bà có số lượng tàu thuyền đánh cá cập bến lớn nhất trong số các cảng cá Hải Phòng và vịnh bắc bộ. Hầu như tất cả các tầu thuyền lớn đều nhận dầu tại vịnh Cát Bà.
Trong vịnh luôn thường trực 4-5 xà lan có sức chứa 100-150 tấn dầu. Trên đảo không có kho dầu dự trữ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vịnh cát Bà là một trong những vị trí neo đậu tránh trú gió bão lớn với sức chứa 800 chiếc /600cv.
- Khai thác thuỷ sản.
Thị trấn Cát Bà và xã Trân Châu nghề nghiệp chủ yếu là rê 3 lớp, nghề câu, nghề đăng đáy và một số tàu chụp mực nhỏ, các tàu đánh cá lớn của thành phố đều lấy vịnh Cát Bà làm căn cứ để ra khơi đánh cá và bán sản phẩm, nhận dầu.
Nhìn chung Cát Bà có tiềm năng khai thác thuỷ sản nhưng chưa được đầu tư phù hợp về phương tiện đánh bắt nên quy mô khai thác cũng như hiệu quả hai thác còn hạn chế, đây là cơ hội để Cát Bà phát triển trong tương lai.
- Ngành chế biến thuỷ sản.
Cùng với ngành khai thác thuỷ sản thì trên đảo phát triển ngành chế biến thuỷ sản. Cũng như ngành khai thác, ngành chế biến chỉ mới phát tiển ở mức độ nhỏ, chỉ là các công ty TNHH, chế biến các mặt hàng đơn giải từ thuỷ sản và số lượng và quy mô còn hạn chế.
Bảng2.1.3.3: Danh sách các cơ sở chế biến thuỷ sản tại Cát Bà.
STT
Tên cơ sở
Địa điểm
Sản phẩm
1
CT TNHH Nam Hải
Cảng cá- TT Cát Bà
Sản xuất bột cá và đá lạnh
2
CTTNHH Minh Châu
Cảng cá – TT Cát bà
Chế biến thuỷ sản
3
CT TNHH Tiên Tiến
Thôn Bền- xã Trân Châu
Sx bột cá
4
HTX Lập Lễ
Cảng cá- TT Cát Bà
Chế biến thuỷ sản
5
CTTNHHNguyễnHoàng
Thôn phú cường- xã
Trân Châu
Sx nước mắm và bột cá
(Nguồn, UBND huyện Cát Bà, năm 2005)
- Nông nghiệp.
Do địa hình của đảo chủ yếu là cacsto, đá vôi nên ở Cát Bà không có điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành nông nghiệp. Tổng diện tích lúa cả năm tập trung chủ yếu tại các xã Xuân Đán (48 ha), Trân Châu(15 ha), Việt Hải (15 ha), Hiền Hào (8 ha). Bên cạnh trồng một vụ lúa năng suất không cao, ở Cát Bà còn trồng một số loại hoa màu, cây công nghiệp nhưng nói chung thì sản lượng không cao, chưa đáp ứng được nhu cầu trên đảo.
- Y tế .
Trên đảo Cát Bà hiện có một trung tâm y tế huyện đóng tại thị trấn Cát Bà và 7 trạm y tế đóng tại 6 xã, riêng xã Trân Châu có 2 trạm y tế xã.
2.1.4 Các giá trị và vai trò của Vườn quốc gia Cát Bà.
2.1.4.1 Các giá trị của vườn quốc gia Cát Bà.
Vườn quốc gia Cát Bà với đặc trưng bao gồm hai phần là Đảo Cát Bà và một phần biển xung quanh nên ở vườn quốc gia Cát Bà có nhiều loại hệ sinh thái tiêu biểu của Việt Nam như rừng ngập mặn, rừng mưa nhiệt đới thường xanh quanh năm, rạn san hô, thảm rong…. Do vậy mà đa dạng sinh học ở đảo Cát Bà nói chung và Vườn quốc Gia Cát Bà nói riêng là rất phong phú. Theo thống kê cho đến nay riêng khu vực Cát Bà có tới 2320 loài động vật và thực vật đang sinh sống bao gồm:
Bảng 2.1.4.1: Danh sách các loài động, thực vật ở Cát Bà.
STT
Tên loài
Số lượng
1
Thực vật trên cạn
741
2
Động vật sống trong khu vực rừng
282
3
Rong biển
75
4
Thực vật ngập mặn
23
5
Thực vật phù du
199
6
Động vật phù du
89
7
Động vật đáy
538
8
Cá biển
196
9
San hô
177
(Nguồn:Theo ghi chép của nhóm nghiên cứu thực địa tại Cát Bà, năm 2005)
Đặc biệt trong số trên 2000 loài động thực vật tại đảo cơ bản có tới 60 loài được coi là đặc hữu và quý hiếm được đưa vào sách đỏ của Việt Nam và thế giới.
Trong đó động vật trên cạn có khoảng 30 loài như: đồi mồi, quản đồng, ác là, quạ khoang, Voọc đầu trắng, Voọc quần đùi trắng, trăn đất, kì đà nước, rắn hổ chúa, khỉ mặt đỏ, khỉ đuôi lợn, sơn dương, hươu sao.
Thực vật trên cạn là 27 loài như: Chi đài, kim giao, lát hoa, re hương, thổ phục linh, trúc đũa, sến mật, và có thêm 8 loài rong biển cần được bảo vệ như: Rong mơ mền, rong đá cong, rong thun thút, rong thuốc giun, các loài vật đáy có 7 loài như: ốc đục cái, trai ngọc, bàn mai, con sút, vẹm xanh, mực nang vân hổ.
2.1.4.2 Vai trò của Vườn quốc gia Cát Bà.
Là vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam vừa có đảo vừa có biển, đặc trưng này quy dịnh nên vai trò hết sức quan trọng của Vườn quốc gia Cát Bà. Sự phong phú, đa dạng của các loài động thực vật thêm vào đó là sự tồn tại của nhiều loài động thực vật quý hiếm được ghi vào sách đỏ đã tạo nên lợi thế cho Vườn so với các khu vực bảo tồn khác của Việt Nam.
Vườn quốc gia Cát Bà không chỉ có vai trò quan trọng với Việt Nam và đối với cả thế giới. Tầm quan trọng của vườn quốc gia Cát Bà còn được nâng lên khi ở đây là nơi duy nhất trên thế giới còn tồn tại loài Voọc đầu trắng tuy là với số lượng không lớn lắm, được coi là một trong hai loài linh trưởng quý hiếm nhất thế giới.
Vai trò quan trọng của Vườn quốc gia Cát Bà đã được thể hiện rõ trong chiến lược bảo tồn của chính phủ Việt Nam khi chính phủ quyết định coi Vườn là khu vực bảo tồn đa dạng sinh học được ưu tiên nhất của Việt Nam. Tầm quan trọng của vườn quốc gia Cát Bà nói riêng và đảo Cát Bà nói chung càng được khẳng định rõ khi tháng 11 năm 2004 Quần đảo Cát Bà được UNESCO công nhận là khu vực bảo tồn sinh quyển trên thế giới.
Với vị trí quan trọng của mình đối với Việt Nam và thế giới là một lợi thế để thu hút sự quan tâm của các tổ chức, quốc gia.. nhưng đồng thời cũng đặt ra những khó khăn, sức ép trong việc bảo tồn .
2.1.5 Giới thiệu về loài voọc đầu trắng tại vườn quốc gia Cát Bà.
Voọc Cát Bà hay còn gọi là Voọc đầu trắng có tên khoa học là (tr._.ng đồng
Những kĩ năng này góp phần nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường, sẽ trau rồi kiến thức, kĩ năng và năng lực của đội ngũ cán bộ địa phườn và giúp họ có thể duy trì các hoạt động và hỗ trợ cộng đồng địa phương sau khi dự án kết thúc. Đồng thời những kiến thức này sẽ được nhân rộng ra các khu vực nằm ngoài dự án.
* Đối với sinh kế người dân.
Các hoạt động hỗ trợ của dự án nhằm mục đích chuyển đổi hình thức sản xuất cũ, nâng cao thu nhập cho người dân cũng đem lại hiệu quả cao.
Năm doanh nghiệp được thành lập ở 5 xã nhờ sự hỗ trợ, tư vấn từ dự án, chuyên kinh doanh các mặt hàng bền vững từ rừng, hay các sản phẩm nông sản cho thích hợp cho các hộ gia đình được giao đất như: mật ong, đồ thủ công.
Số hộ nuôi ong, cơ sở sản xuất các sản phẩm lâm sản ngoài gỗ tăng lên từ chỗ chỉ có 12 hộ trong các xã lên tới 37 hộ. Trong tương lai các hộ nuôi ong còn tiếp tục tăng lên.
Từ khi ban quản lý thị trường đi vào hoạt động, thị trường các sản phẩm đi vào ổn định, hệ thống giấy chứng nhận lâm sản được phép khai thác đựơc thiết lập, đi vào hoạt động đem lại hiệu quả cao, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm của người dân tiêu thụ trên thị trường.
Các hộ gia đình hợp tác với các đại lý du lịch để cung cấp các dịch vụ sinh thái bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu của các tour du lịch. Người dân tham gia vào các dịch vụ ăn, uống, nghỉ trọ, hướng dẫn khách du lịch. Thu nhập của các hộ từ hoạt động du lịch này trung bình đạt từ 8- 10 triệu một năm.
Nhìn chung từ khi mô hình đi vào hoạt động nhập của người dân tăng lên rõ rệt. Cơ bản không còn hộ đói nghèo, chỉ có Xã Việt Hải nằm sâu trong Vườn thì đời sống còn khó khăn hơn.
* Ý thức của người dân.
Tổ chức 6 điễn đàn giáo dục môi trường được tổ chức với sự tham gia của đại diện các hộ gia đình, 3 diễn đàn tổ chức toàn bộ thành viên của dự án .
Kết thúc mỗi diễn đàn đều có phỏng vấn, qua phỏng vấn cho thấy có tới 85% đã thay đổi suy nghĩ của mình về việc bảo tồn theo hướng tích cực, họ cho biết là đã thấy được lợi ích của việc bảo tồn và cần thiết phải bảo tồn, và họ sẽ tham gia tích cực vào mô hình. Số còn lại họ không quan tâm tới vấn đề này vì họ có thu nhập cao từ các hoạt động không liên quan đến rừng vì thế đối tượng này cũng không lo ngại về vấn đề ý thức của họ
Qua đó ta thấy rằng người dân rất quan tâm tới việc BVMT. Sau các diễn đàn giáo dục thì ý thức của người dân hoạt động bảo tồn đã tăng lên rõ rệt.
Cụ thể số vụ vi phạm vào rừng đặt bẫy, săn bán giảm xuống rõ rệt, cụ thể vào năm 2003 xử lý 93 vụ vi phạm thu 3 khẩu súng săn, tthu và phá > 1000 bẫy các loại, năm 2004 xử lý 18 vụ vi phạm thu một khẩu súng săn, thu và phá >700 bẫy các loại đến năm 2006 sỗ vụ vi phạm được phát hiện chỉ còn là 9 vụ và thu được 89 bẫy. Người dân ngày càng ít vào rừng, nếu có vào chỉ để tìm lá thuốc, củi khô...họ không tự ý vi phạm như trước.
Các em học sinh ở 8 trường trung học của huyện đã được tham gia vào các chương trình ngoại khoá, đóng kịch, tiểu phẩm về môi trường phần lớn các em đều tham gia rất hứng thú, hào hứng.
Qua các buổi học này các kiến thức về BVMT được truyền tải tới các em rất sâu sắc, dễ hiểu, và sinh động. Trong các chương trình có xen kẽ các câu hỏi về môi trường nhằm kiểm tra nhận thức của các em, các câu hỏi đưa ra đều được các em hào hứng trả lời, và rất đúng.
Những buổi học như vậy đã nâng cao được ý thức bảo vệ môi trường cho các em, đối với các em BVMT cũng như là một môn học và cần phải học, ý thức BVMT đã gắn liền với các hoạt động hàng ngày của các em
3.1.2 Hiệu quả gián tiếp của mô hình.
* Đối với quốc gia.
Khi dự án thực hiện, mô hình quản lý đi vào hoạt động sẽ giúp Việt Nam thực hiện được các mục tiêu bảo vệ môi trường đã đề ra như: Tác động tích cực đến việc thực hiện kế hoạch hành động bảo vệ môi trường của Việt Nam giai đoạn 2001-2005, hỗ trợ thực hiện chương trình 5 triệu ha rừng với mục tiêu nâng độ che phủ rừng của Việt Nam vào năm 2010 như tỷ lệ của năm 1945, giúp bảo tồn nguồn gen và đa dạng sinh học.
Mô hình sẽ giúp hỗ trợ chính thực hiện các điều khoản 8,10,11,12,18 của công ước quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học mà Việt Nam tham gia, bao gồm các vấn đề về: Bảo tồn tại chỗ, sử dụng bền vững đa dạng sinh học, các giải pháp khuyến khích bảo tồn, nghiên cứu, tập huấn và hợp tác khoa học kĩ thuật. Mô hình cũng giúp hỗ trợ thực hiện điều khoản 2 của công ước về khả năng tạo thêm thu nhập cho người dân đảo Cát Bà, đồng thời giảm những tác động của con người đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Góp phần hài hoà các chính sách quản lý quốc gia và của địa phương về rừng và tài nguyên rừng, xây dựng hệ thống giám sát bảo vệ rừng nhằm cung cấp những dữ liệu quan trọng về những khu vực có rừng cho việc lập quy hoạch chiến lược cấp quốc gia và xác định những khu vực ưu tiên cho đầu tư, đóng góp của những khu vực bảo tồn, sự đa dạng sinh học và của ngành lâm nghiệp đối với nền kinh tế quốc gia.
* Đối với thành phố Hải phòng.
Mô hình này tạo ra mối liên kết để khuyến khích các đối tác trong khu vực áp dụng những hệ thống quản lý tập thể nhằm bảo tồn và sử dung bền vững những khu vực rừng đựơc ưu tiên bảo vệ đặc biệt. Khuyến khích phân cấp quản lý và ra quyết định từ trung ương xuống địa phương, bảo vệ và tái đề cử Vịnh hạ Long là một khu vực di sản thế giới và đề cử đảo Cát Bà là một khu vực “Bảo tồn sinh quyển và con người”.
3.1.3 Những tồn tại từ mô hình cần giải quyết.
Để mô hình vận hành tốt cần có sự rõ ràng về các ranh giới như gianh giới về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia, gianh giới về đối tượng quản lý... Trong mô hình quản lý ở Vườn quốc gia Cát Bà đã có sự phân công, phân cấp rõ ràng tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập trong việc xác định các ranh giới như:
+ Ranh giới giữa rừng bảo tồn nghiêm ngặt và rừng ở vùng đệm nên vẫn có sự dịch chuyển về ranh giới ở một số nơi.
+ Ranh giới giữa sản phẩm sinh thái và sản phẩm không phải là sinh thái vẫn chưa thực sự minh bạch rõ ràng. Do việc quản lý về nguồn gốc các sản phẩm đưa ra thị trường không phải việc đơn giản, đòi hỏi có một mạng lưới quản lý thị trường đủ mạnh và có sự đầu tư thích đáng. Chưa có một tiêu chuẩn cụ thể nào về việc xác định một sản phẩm là sản phẩm sinh thái mà chủ yếu được xác định qua sự quan sát, kinh nghiệm là chủ yếu.
+ Ranh giới về quyền hạn của ban quản lý thị trường cũng chưa rõ ràng, chưa có một chính sách cụ thể nào cho hoạt động của đối tượng này nên hiệu quả hoạt động chưa cao. Hoạt động cấp giấy chứng nhận chưa có cơ chế điều chỉnh hợp lý nên vẫn còn sảy ra tình trạng tư nhân thông đồng với nơi cung cấp giấy chứng nhận để đưa các sản phẩm không phải sản phẩm sinh thái cũng được cấp giấy chứng nhận.
Để cho người dân yên tâm tham gia vào mô hình thì họ phải có thu nhập ổn định đáp ứng được nhu cầu của cuộc sống, vì thế khi tham gia vào mô hình phải cân đối dược chi phí người dân bỏ ra với lợi ích họ thu về, đặc biệt đối với người dân được giao rừng. Nhưng việc thu nhập của người dân được giao rừng ở vườn quốc gia Cát Bà còn nhiều điều cần giải quyết:
Về cơ chế hưởng lợi trong giao và khoán rừng, chính phủ đã ban hành quyết định 178/2001/QĐ-TTG. Quyết định này áp dụng cho cá nhân, hộ gia đình được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp, chưa đề cập đến quyền lợi của chủ thể quản lý rừng là cộng đồng dân cư thôn bản. Tuy nhiên ngay đối với quyền lợi cho cá nhân, hộ gia đình thì việc thực hiện quyết định 178 còn bất cập, trong thực tế sau 5 năm hầu như chưa nơi nào người nhận rừng được hưởng lợi theo quyết định này. Lý do căn bản là đa số các khu rừng được giao chưa đạt tiêu chuẩn rừng khai thác theo các quy định hiện hành và như vậy người quản lý rừng phải chờ đợi. Nhưng họ lại không rõ khi nào thì rừng của họ đạt tiêu chuẩn khai thác, tiêu chuẩn đó là gì và có nhận biết được hay không? Điều này đã hạn chế mối quan tâm quản lý rừng tự nhiên của người dân, và khi khai thác thì bao nhiêu, như vậy hưởng lợi được bao nhiêu? Đồng thời tỷ lệ hưởng lợi theo quyết định 178 căn cứ và trạng thái rừng khi giao, điều này cũng gây khó khăn cho cộng đồng khi nhận biết trạng thái. Trong khi đó thì cộng đồng có nhu cầu thường xuyên gỗ, củi cho gia dụng, nếu theo tiêu chuẩn rừng khai thác thì chưa được phép tác động, nhưng thực tế thì vì nhu cầu cuộc sống họ vẫn chặt cây để sử dụng, điều này đã làm cho rừng không được quản lý, giám sát. Cụ thể:
+ Đối với rừng trung bình (IIIA2): Giả sử chủ rừng nuôi dưỡng rừng 5 năm, khi khai thác nộp thuế tài nguyên khoảng 15%; phần còn lại được phân chia như sau: Chủ rừng được hưởng lợi là 2% sản phẩm gỗ khai thác cho một năm quản lý rừng như vậy được 10% sản phẩm gỗ, 90% nộp về ngân sách xã. Trạng thái rừng này không còn nhiều khi giao rừng, tuy nhiên ngay cả trạng thái rừng còn tương đối tốt như vậy thì sau 5 năm quản lý rừng, chủ rừng chỉ nhận được 10% sản phẩm, trong đó phải chi phí toàn bộ kinh phí cho chặt hạ, vận xuất gỗ của toàn bộ khối lượng khai thác. Thực tế cho thấy với tỷ lệ như vậy thì chủ rừng có thu nhập rất thấp, thậm chí âm.
+ Đối với trạng thái rừng non, nghèo (IIAB, IIIA1): Các trạng thái này nếu theo tiêu chuẩn rừng khai thác thì phải 20 - 30 năm mới đạt được. Trong trường hợp này sau khi nộp thuế tài nguyên 15%, chủ rừng được hưởng 80% sản phẩm gỗ còn lại (và phải chi trả toàn bộ chi phí khai thác), giao nộp cho xã 20%. Đây là các trạng thái phổ biến được giao cho hộ, nhóm hộ, như vậy thời gian được hưởng lợi quá lâu nếu căn cứ theo tiêu chuẩn rừng khai thác hiện hành.
Thực trạng này chưa được dự án đưa ra hướng giải quyết triệt để, hay đưa ra một cơ chế hưởng lợi khác cho người dân. Mặc dù dự án đã đưa ra các kế hoạch sử dụng đất rừng, người dân có thể trồng các loại cây công nghiệp khác dưới tán rừng để thu thêm thu nhập tuy nhiên để người dân gắn bó hơn với rừng thì cần giải quyết được cơ chế hưởng lợi tư rừng một cách hợp lý.
Những người tham gia vào tổ bảo vệ rừng tuy được hỗ trợ công tác phí từ ban quản lý vườn nhưng số lượng còn ít, với số tiền 300-400 nghìn đồng một tháng họ chưa thể lo cho cuộc sống của mình và gia đình. Họ chưa có một chế độ gì nhất là khi nghỉ công tác. Đây là một khó khăn để khuyến khích người dân tham gia, gắn bó với công tác bảo vệ rừng.
Chưa có một cơ chế thưởng phạt đem lại hiệu quả. Khi thực hiện dư án cũng có nhiều khuyến khích, hỗ trợ từ dự án như: tư vấn kĩ thuật, cung cấp giống cây, hỗ trợ bán sản phẩm...Nhưng nó không có có tác dụng thu hút đối với những hộ gia đình đang có một cộng việc có thu nhập cao, họ sẽ không quan tâm tới dự án nếu như dự án không đưa ra được những ràng buộc với họ như: nếu không tham gia thì họ sẽ bị loại trừ khỏi những hoạt động công cộng nào, hoặc nếu các hộ đã tham gia khi vi phạm cam kết thì sẽ bị xử lý ra sao?
Dự án đã tổ chức các buổi thảo luận lấy ý kiến của người dân nhưng không thể thu thập được toàn bộ ý kiến của dân cư trong vùng qua một sô buổi thảo luận. Mà ý kiến của dân phải được lắng nghe, tiếp thu thường xuyên. Muốn vậy thì người dân phải có cơ hội tiếp cận dễ dàng với các cơ quan đoàn thể để phản hồi ý kiến của mình. Đồng thời các tổ chức, cơ quan này cũng cần gần gũi nhân để lắng nghe, thu thập ý kiến của dân, mà điều này thì dự án ở Cát Bà còn thiếu.
Hoạt động giám sát của người dân phải được gắn với việc được tham gia ý kiến của dân vào các chương trình, kế hoạch, tổ chức...Người dân có được tham gia ý kiến thì họ mời tích cực giám sát. Nhìn chung ở vườn quốc gia Cát Bà đã huy động được người dân tham gia giám sát, các vụ xâm phạm rừng cấm để săn bắn được người dân phát hiện giúp kiểm lâm ngăn chặn kịp thời không để xảy ra hậu quả đáng tiếc. Tuy nhiên có phải tất cả các phản hồi của người dân đều được giải quyết không, nhất là những phản hồi về các tổ chức, hệ thống quản lý nhà nước, nhạy cảm. Cũng là một vấn đề mà nhiều hệ thống quản lý cộng đồng gặp phải trong đó có vườn quốc gia Cát Bà.
3.2 NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN MÀ MÔ HÌNH GẶP PHẢI.
3.2.1 Thuận lợi.
Định hướng chính trị phù hợp với việc xây dựng mô hình. Việc phân cấp quản lý từ trung ương đến địa phương phù hợp với yêu cầu là quy định rõ quản lý tài nguyên thhiên nhiên, bảo vệ loài Voọc bảo vệ rừng quốc gia, bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững cho vùng lân cận, khu vực vùng đệm.
Trong khi thực hiện xây dựng và đưa mô hình vào vận hành nhận được sự hỗ trợ chính trị to lớn của ban điều phối viện trợ cấp tỉnh và quốc gia giúp cho mô hình nhanh chóng phát huy vai trò của nó.
Dự án nhận được sự ủng hộ to lớn của Vườn quốc gia và UBND huyện Cát Hải cũng như của UBND thành phố Hải phòng, cụ thể là vào năm 2003 UBND huyện Cát Hải và FFI đã kí kết một văn bản ghi nhớ để thực hiện dự án hỗ trợ bảo tồn đa dạng sinh học ven biển. Sau đó UBND thành phố Hải Phòng đã ra chỉ thị số1822 ngày 21/4/2002 chấp nhận văn bản ghi nhớ đó và kế hoạch thực hiện dự án.
Tiếp tục giải quyết các vấn đề do người dân kiến nghị trong quá trình giám sát và đánh giá thực hiện dự án nhằm đảm bảo tính làm chủ của người dân.
Cán bộ địa phương rất năng động nhiệt tình hỗ trợ trong việc tham vấn địa phương, tập huấn đội ngũ cán bộ. Khi dự án tiến hành cán bộ địa phương tỏ ra rất hợp tác, vì thế dự án không gặp bất kì khó khăn nào từ phía đối tượng này.
Sự tham gia tư vấn của hai tổ chức FFI và ZSCSP là lợi thế làm tăng tính khả thi của mô hình khi đưa vào vận hành. Hai tổ chức này có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực bảo tồn, mặt khác hai tổ chức này đã có thời gian nghiên cứu tại Cát Bà trước khi dự án thực hiện.
Qua một số dự án đã được tiến hành ở Cát Bà (dự án tập huấn cho cán bộ kiểm lâm và xây dựng hệ thống thông tin liên lạc tại vườn, dự xây dựng và thử nghiệm một mô hình nuôi ong) đã giúp cho người dân những hiểu biết phần nào nên khi dự án này tiến hành họ không còn bỡ ngỡ. Người dân nhanh chóng tham gia và tiếp cận được với dự án, không gặp nhiều khó khăn trong việc vận động người dân.
Về cơ bản thì việc phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá từ đảo vào đất liền cũng như thu hút khách du lịch có nhiều thuận lợi do đã có đường giao thông ra đảo. Vì vậy việc nâng cao thu nhập cho người dân tham gia vào mô hình gặp nhiều thuận lợi.
Trong quá trình thực hiện dự án, xây dựng mô hình có các cuộc điều tra, hỏi ý kiến của người dân nên đã phát huy được tính tự chủ của người dân khi tham gia vào mô hình. Có sự giải thích rõ ràng về quyền lợi và nghĩa vụ cho người dân khi tham gia vào dự án vì thế khi mô hình đi vào hoạt động không xảy ra những xung đột về lợi ích giữa các bên.
3.2.2 Khó khăn.
Các nhóm đối tượng có thể thay đổi hành vi của mình bất cứ lúc nào nhất là khi không còn sự hỗ trợ của dự án. Đây là thách thức lớn đặt ra cho những người thực hiện dự án để làm sao cho mô hình vận hành bền vững.Việc một vài thành viên chấm dứt hoạt động quản lý đất bền vững, vi phạm các biện pháp bảo vệ nguồn tài nguyên đều có thể làm mô hình phá sản. Vì vậy đòi hỏi phải có giám sát liên tục và hỗ trợ tiếp theo.
Chất lượng của các sản phẩm sinh thái do người dân tham gia mô hình ban đầu còn chưa cao, chưa thoả mãn được nhu cầu của khách hàng trên thị trường. Đòi hỏi phải có sự hỗ trợ ban đầu của địa phương và dự án để người dân có thể tiêu thụ được sản phẩm.
Việc tìm ra được thị trường ổn định tiêu thụ sản phẩm cho người dân là không dễ. Nên ban đầu sẽ rất khó khăn cho người dân, đòi hỏi phải có sự động viên hỗ trợ từ phía chính quyền. Nếu không có hướng giải quyết lâu dài, bền vững sẽ ảnh hưởng đến tâm lý người sản xuất từ đó ảnh hưởng tới việc thực hiện các cam kết bảo vệ môi trường.
Hiện nay, nhu cầu của người dân đối với dịch vụ du lịch sinh thái là cung lớn hơn cầu. Hiện tượng này rất dễ dẫn tới tình trạng chạy theo lợi nhuận mà bỏ qua những cam kết bảo vệ môi trường.
Mặc dù vài năm gần đây cơ sở hạ tầng trên đảo đã được cải thiện đáng kể nhưng vấn đề thiếu đường giao thông, thiếu nước, thiếu điện vẫn là một thách thức tất cả các đối tác tham gia dự án.
Thiếu phương tiện liên lạc, phương tiện đi lại nhất là cho những đội tuần tra cũng là một vấn đề cần giải quyết. Mặc dù đã có phương án là sử dụng hệ thống VHF chạy bằng năng lượng mặt trời và hệ thống Call-in để khắc phục về địa điểm xa xôi, nhưng về lâu dài thì vẫn cần có phương án giải quyết bền vững hơn.
Xã Việt Hải là xã nằm trong vùng lõi của vườn, ở đây đời sống kinh tế, xã hội còn rất nghèo, trình độ dân trí rất thấp. Từ trước tới nay họ chỉ sống nhờ rừng gần như tự cung tự cấp rất ít giao lưu với bên ngoài, bây giờ họ phải làm các công việc buôn bán, làm du lịch, là một việc khó khăn, và cần nhiều thời gian làm quen .
Thực tế khi mô hình đi vào hoạt động rất nhiều hộ gia đình muốn mở rộng sản xuất, nhưng xuất hiện hiện tượng thiếu vốn phục vụ sản xuất.
3.3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA MÔ HÌNH.
3.3.1 Một số giải pháp.
* Giải pháp về quản lý.
Cần từng bước cải tạo mở rộng, nâng cấp về cơ sở hạ tầng, điện, nước, đường giao thông bằng cách thu hút các dự án hay sự hỗ trợ của thành phố và trung ương.
Có hình thức quảng bá rộng dãi về hình thực du lịch sinh thái trên các phương tiện như trên mạng, trên báo chí để thu hút ngày càng nhiều du khách đến thăm vườn theo các tour du lịch sinh thái, sống cùng người dân góp phần tăng thêm thu nhập cho họ.Về lâu dài cần có chính sách thích hợp để di dân ra khỏi vùng lõi, và ổn định cuộc sống cho họ.
Các cấp chính quyền cần có chính sách để mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm do nhân dân trong vùng sản xuất ra, đảm bảo nguồn đầu ra cho người dân.
Tổ chức tập huấn cho cán bộ vườn, cán bộ kiểm lâm, thành viên tổ bảo vệ rừng cách thức giải quyết các xung đột giữa các bên có thể xảy ra. Điều này rất cần thiết nhất là khi dự án kết thúc để họ có thể đối phó với các tình huống xảy ra một cách hợp lý và hiệu quả.
Cần có chính sách về lương, chế độ thích hợp cho các thành viên tham gia vào các tổ bảo vệ rừng để họ yên tâm gắn bó, nhiệt tình với công việc của mình. Hiện nay các đối tượng này mới chỉ nhận được sự hỗ trợ tài chính của vườn, đây chỉ là giải pháp tạm thời còn về lâu dài cần có chính sách cụ thể cho đối tượng này.
Thực hiện giám sát thường xuyên sau khi dự án kết thúc. Các cơ quan liên quan phải quan tâm và có sự giám sát để kịp thời phát hiện những chỗ sai sót điều chỉnh kịp thời không gây hậu quả nghiêm trọng.
Nên tổ chức các cuộc họp cho các hộ gia đình trong các thôn, xã mỗi tháng để kịp thời tuyên dương các gia đình thực hiện tốt các điều khoản trong cam kết đồng thời kịp thời phê phán các hộ vi phạm kịp thời trấn chỉnh.
Đẩy mạnh sự phân công trách nhiệm rõ ràng giữa chính quyền địa phương, cộng đồng và sự phối hợp chính quyền địa phương và cộng đồng với các nhà khoa học trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trong đó cộng đồng phải được tham gia từ khâu lập kế hoạch, thực thi , giám sát, và chia sẻ quyền lợi.
Nâng cao năng lực quản lý của chính quyền các cấp. Bảm bảo cho các cộng đồng được quyền có tài nguyên và chia sẻ tài nguyên công bằng quyền quản lý tài nguyên đó. Mỗi cộng đồng, mỗi cá nhân đều có quyền sử dụng đất lâu dài và các tài nguyên khác cần thiết cho cuộc sống của mình. Nếu không như vậy họ sẽ không tích cực trong việc sử dụng một cách bền vững các nguồn tài nguyên vì vậy các nhà làm luật cần chú ý tới các vấn đề ưu tiên sau:
+ Đảm bảo quyền sử dụng đất của các nhóm thổ dân nông thôn và đô thị
+ Luật pháp công nhận quyển sử dụng của cộng đồng và truyền thống quản lý tài nguyên của cộng đồng
+ Can thiệp nếu cần thiết để đảm bảo việc hợp tác quản lý các nguồn tài nguyên chung trên cơ sở quyền lợi của toàn bộ cộng đồng.
+ Đảm bảo quyền có ruộng bằng cách xác định quyền sở hữu, hợp pháp hoá quyền mượn đất, cải thiện hệ thống tổ chức chuyển nhượng và đăng ký, lưu giữ những hồ sơ hiện hành
Có cơ chế thưởng phạt rõ ràng và có tính thúc đẩy, từ trước tới nay thưởng và phạt không chỉ mang lại giá trị hữu hình mà còn mang lại những giá trị nhất định khác đó là giá trị vô hình như lòng tự tôn của bản thân, niềm tụ hào của gia đình... Đó là nhân tố góp phần không nhỏ thúc đẩy các hoạt động của cộng đồng. Điển hình như có quy chế thưởng phạt cụ thể cho những hộ gia đìnhthực hiện tốt hay những tổ chức trong cộng đồng có những đống góp hiệu quả với hoạt động. Cấp giấy công nhận, tương tự như công nhận gia đình văn hoá, chứng nhận sự hoạt động của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường ở địa phương.
Các tổ chức quần chúng như Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh, Hội cán bộ hưu trí và các tổ chức khác của địa phương là các tổ chức hoạt động thường xuyên trong cộng đồng, chi phối, ảnh hưởng tới các thành viên khác trong cộng đồng. Do đó, cần có những cơ chế khuyến khích, tạo điều kiện tốt hơn để các tổ chức quần chúng tham gia. Thêm vào đó, những thành viên trong cộng đồng với tư cách là hội trưởng hoạt động khá hiệu quả, cần có sự khuyến khích kịp thời.
Chính quyền địa phương cần hỗ trợ nhất là cấp cộng đồng thôn, xã , phường để đưa ra quy định, thể chế trong thôn xã, phường về quản lý môi trường, hỗ trợ phương tiện truyền thông
* Giải pháp về phía cộng đồng.
Tăng cường sự tham gia của các cộng đồng địa phương vào việc quản lý thông qua việc cho họ tham gia đầy đủ với chính quyền trung ương trong việc làm quyết định về chính sách, chương trình và dự án có ảnh hưởng trực tiếp đến họ và môi trường địa phương họ. Nơi nào có khả năng thì tự quyết định lấy, không cần sự tham gia của chính quyền trung ương đặc biệt là với các dự án không ảnh hưởng đến quyền lợi quốc gia. Đảm bảo cho tất cả mọi thành phần trong cộng đồng đều có cơ hội để biểu thị mối quan tâm và tham gia bảo vệ lợi ích của họ.
Tất cả các cộng đồng đều phải tự hành động để chăm sóc lấy môi trường của mình, chính quyền các cấp nên khuyến khích họ thảo luận về những vấn đề môi trường cần ưu tiên giải quyết trước và xác định chiến lược về sự sống bền vững cho địa phương mình thông qua mục tiêu:
+Giảm bớt tiêu thụ tài nguyên năng lượng lãng phí và những tác động có hại đến môi trường.
+ Khôi phục vùng sinh sống và tính đa dạng sinh học cho các loài ở địa phương bằng các cách khác nhau như dọn dẹp khu dân cư mình ở...
* Giải pháp về tuyên truyền giáo dục năng cao nhận thức.
Tiếp tục, thường xuyên tổ chức các chiến lược truyền thông tạo ra được nhận thức rộng rãi về các vấn đề về bảo vệ môi trường trong cộng đồng và trách nhiệm các bên liên quan. Việc tuyên truyền nâng cao nhận thức về môi trường cho người dân được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các diễn đàn giao dục, phong trào bảo vệ môi trường. Đặc biệt cần đưa việc giáo dục môi trường vào trong các nhà trường.
Thực hiện giáo dục về bảo vệ môi trường trong nhà trường coi đây cũng là một môn học như môn học khác.Qua đó giáo dục các em ý thức được nghĩa vụ phải bảo vệ môi trường và tự hào về tài nguyên thiên nhiên của quê hương mình, nhận thức được sự quý giá của các tài nguyên mình đang có. Những thế hệ trẻ của đảo khi đã được trang bị những kiến thức về môi trường đầy đủ khi lớn lên chúng sẽ có hành động tích cực đối với tài nguyên của mình.
Trong các trường học ở trên đảo cần xây dựng các câu lạc bộ môi trường, câu lạc bộ xanh, tổ chức các cuộc thi vẽ, tìm hiểu về môi trường, thu thập tìm hiểu các cây bản địa, khuyến khích các em tham gia chiến dịch vệ sinh môi trường.
Trong các buổi hội thảo, ý kiến của cá nhân, các nhóm cần được khuyến khích. Để đạt được điều đó, người điều khiển của hội thảo phải biết lựa chọ các phương pháp thích hợp (biết chủ động gợi mở, hướng dân cách thức làm việc nhóm) kích thích các cá nhân tham gia đóng góp ý kiến một cách chủ động, tích cực nhằm đảm bảo tính khách quan.
* Giải pháp về hỗ trợ tài chính, kỹ thuật.
Xây dựng các quỹ bảo vệ môi trường qua đó huy động sự đóng góp tài chính từ cộng đồng cho việc bảo vệ môi trường. Có thể sử dụng quỹ này để hỗ trợ các hộ kinh doanh thân thiện với môi trường. Hình thức quỹ môi trường đã được áp dụng ở nhiều nước tiên tiến qua quỹ này có thể góp phần hỗ trợ việc người dân tham gia vào bảo vệ môi trường, quỹ này dưới nhiều hình thức để huy động vốn như:
+ Huy động từ các chương trình, các dự án quốc tế như Quỹ Sida của Thuỵ Điển, SNV của Hà Lan, ODA
+ Huy động từ ngân sách của quốc gia, thu được từ nguồn phí, lệ phí môi trường.
+ Huy động từ ngân sách của địa phương.
+ Huy động từ các ngành như than, dầu khí.
+ Huy động từ cộng đồng dân cư, hộ kinh doanh sản xuất, các doanh nghiệp.
+ Huy động từ các ngân hàng như ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
+ Ngân hàng phục vụ người nghèo.
Tổ chức các lớp tập huấn kĩ thuật sản xuất, chuyển giao công nghệ mới cho người dân, giúp họ có kiến thức tiến hành sản xuất đạt hiệu quả, tăng cường những biện pháp miễn giảm thuế hoặc trợ cấp để cải thiện môi trường.
Kết hợp giữa hoạt động của mô hình và các chương trình cho vay vốn theo hướng phát triển kinh tế trang trại, trồng rừng, cải tạo đất đồi, đất trống để trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi, trồng cây lâu năm. Giúp người dân có điều kiện phát triển sản xuất, tạo sự bền vững trong sản xuất của người dân khi họ tham gia vào mô hình.
3.3.2. Một số kiến nghị
- Đối với cơ quan quản lý cấp trung ương: Cần ban hành các chính sách, chiến lược quản lý lâu dài về quản lý cộng đồng nhằm phát huy tối đa hiệu quả tham gia của người dân, đồng thời có sự khuyến khích về cơ chế để thu hút các dự án đầu tư cho lĩnh vực này.
- Đối với các cơ quan cấp tỉnh cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý cấp trung ương để thực hiện tốt chiến lược quản lý bền vững môi trường. Triển khai hiệu quả các văn bản pháp luật có liên quan đến quản lý cộng đồng ở địa phương mình. Đồng thời cần chủ động đưa ra cơ chế chính sách hợp lý để thu hút vốn đầu tư, các dự án về quản lý môi trường vào tỉnh mình.
- Đối với người dân tham gia tích cực hơn vào các hoạt động, chương trình bảo vệ môi trường tại địa phương mình. Sống hoà thuận với thiên nhên và không ngừng học hỏi nâng cao nhận thức của mình về môi trường.
KẾT LUẬN
Qua luận văn cung cấp cho chúng ta một mô hình lý thuyết quản lý môi trường dựa vào cộng đồng, cụ thể là về tiến trình xây dựng mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng, cũng như các nguyên tắc phải tuân theo. Một bức tranh thu nhỏ về thực trạng áp dụng quản lý môi trường dựa vào cộng đồng ở Việt Nam đã được đưa ra, cho ta những đánh giá đúng mức những điều làm được, những điều chưa làm được.
Thông qua việc phân tích mô hình mẫu “Mô hình quản lý bảo tồn loài Voọc đầu trắng dựa vào cộng đồng ở vườn quốc gia Cát Bà” cho chúng ta thấy được cách thức, trình tự tiến hành được áp dụng trong thực tế như thế nào, đồng thời cũng nêu bật được những thuận lợi khó khăn gặp phải cần vượt qua. Và quan trọng là đưa ra những qiải pháp để vượt qua được khó khăn đó.
Mô hình đã chỉ ra rằng hoàn toàn có thể chuyển đổi những hoạt động tàn phá rừng vì nghèo đối sang các hoạt động phát triển bền vững vừa tạo thu nhập cho cộng đồng vừa bảo vệ được nguồn tài nguyên thiên nhiên. Thông qua các hoạt động giảm thiểu những thói quen sử dụng tài nguyên không bền vững, cùng với sự nỗ lực nâng cao năng lực của cán bộ cơ sở và nâng cao công tác bảo vệ rừng. Mô hình quản lý này xứng đáng là một mô hình kiểu mẫu cho các vườn quốc gia khác học tập.
Bên cạnh những kết quả mà đã làm được luận văn của em không tránh khởi những thiếu sót và chưa đầy đủ do thiếu thông tin và tài liệu liên quan. Em rất mong các thầy, các cô thông cảm và tham gia đóng góp ý kiến của để bài làm của em được hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Thị Kim Chi, Quản lý môi trường dựa vào cộng đồng- một cách tiếp cận hướng tới phát triển bền vững,, bài giảng.
2. Mai Loan, Bảo vệ môi trường có sự tham gia của cộng đồng, mô hình điển hình và khả năng nhân rộng, Tạp chí tài nguyên và môi trường số 12(38) - 12/2006.
3. GS- TS Đặng như Toàn(2001), Giáo trình quản lý môi trường.
4. Viện chiến lược, Báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam (2005)- Đa dạng sinh học.
5. Bộ tài nguyên môi trường, Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia, phần tổng quan năm 2005,.
6. Bộ KH, CN và MT, Cục MT, Tài liệu tập huấn về quản lý và kiến thức môi trường.
7. Hội bảo vệ tài nguyên và môi trường Việt Nam “ Việt Nam_ Môi trường và cuộc sống, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004.
8. Trung tâm tài nguyên và môi trường, Đại học quốc gia Hà Nội biên dịch, Cứu lấy trái đất- chiến lược cho sự cuộc sống bền vững, Nhà xuất bản khoa học- Kĩ thuật, Hà Nội 1996.
9. Quy định số 256/2003/QĐ-TTg, ngày 2-12-2003 của thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
10. Dự án kinh tế chất thải, Kinh tế chất thải, tài liệu cho các khoá đào tạo về quản lý tổng hợp chất thải, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2005.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ACAP : Dự án khu vực bảo tồn Annapuma
AFAP : Quỹ Australia vì nhân dân Châu Á và Thái Bình Dương
BVMT : Bảo vệ môi trường
EVN : Tổ chức giáo dục thiên nhiên Việt Nam
FFI : Tổ chức động vật thế giới
UBND : Uỷ Ban nhân dân
UNESCO : Tổ chức di sản văn hoá thế giới
IUCN : Hiệp hội quốc tế về bảo vệ môi trường
ZSCSP : Tổ chức sinh học bảo vệ các loài
DANH MỤC BẢNG, HÌNH
Hình 1.1.4.1 : Tiến trình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng
Hình 1.1.4.2 : Sơ đồ xác định các mục tiêu
Hình: 2.3.2.3 : Sơ đồ mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng
Bảng 2.1.4.1 : Danh sách các cơ sở chế biến thuỷ sản tại Cát Bà
Bảng 2.1.3.3 : Danh sách các loài động, thực vật ở Cát Bà
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung trong chuyên đề là do bản thân thực hiện không sao chép, cắt dán chuyên đề, báo cáo, luận văn của người khác, nếu sai phạm tôi xin chịu kỷ luật của nhà trường.
Hà Nội, ngày …. tháng…. năm 2007
Sinh viên
Bùi Thị Huệ
LỜI CẢM ƠN
Qua luận văn tốt nghiệp em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn là thầy giáo, ThS. Đinh Đức Trường, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em thực hiện luận văn này. Đồng thời, em cũng gửi lời cảm ơn tới cán bộ hướng dẫn ThS.Lê Sơn - Trưởng phòng tài nguyên môi trường, cùng toàn thể các thầy, cô giáo trong khoa KT _ QL Tài nguyên, Môi trường và Đô thị và các cán bộ trong phòng Quản lý môi trường đã nhiệt tình, giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập này.
Em xin chân thành cảm ơn!
M ỤC L ỤC
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36617.doc